Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh hòa bình trong thu hút vốn đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 97 trang )

LỜI CẢM ƠN
Luận văn “Nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh Hòa Bình trong thu
hút vốn đầu tư” được hoàn thành là kết quả và quá trình học tập 2 năm của cao học
viên và sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo tại trường Đại học Nông nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong và ngoài trường đã tạo
điều kiện giúp đỡ em đặc biệt là TS. Nguyễn Phúc Thọ, người đã trực tiếp hướng
dẫn, cung cấp tài liệu rất có giá trị, động viên tinh thần để em hoàn thành tốt luận
văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các bạn cao học viên lớp KTNN - K18B,
Các phòng ban của trường Đại học Nông nghiệp, Các cơ quan ban ngành của Tỉnh
Hòa Bình đã nhiệt tình giúp đỡ, hỗ trợ về công sức cũng như tư liệu để em thu thập
làm cơ sở cho luận văn.
Cuối cùng, em xin cảm ơn những người thân trong gia đình đã tạo điều kiện cho em
về mọi mặt trong thời gian em học tập và hoàn thành luận văn này.
Hà nội, ngày 15 tháng 8 năm 2011
Tác giả
Bùi Thị Đức Anh
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Phần I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hòa Bình là tỉnh có tiềm năng để tạo nên sức hút đầu tư tự nhiên do có vị trí địa
lý liền kề với thủ đô Hà Nội, trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Hòa Bình có
nguồn tài nguyên khoáng sản tương đối phong phú, đa dạng với trữ lượng và chất
lượng cao là điều kiện để phát triển các ngành công nghiệp khai thác, luyện kim.
Các khu công nghiệp của tỉnh được quy hoạch theo các trục Quốc lộ 6 và đường Hồ
Chí Minh sẽ tạo điều kiện để vận chuyển hành hóa và giao lưu kinh tế giữa Hòa
Bình và các tỉnh khác.
Trên địa bàn tỉnh có 8 khu công nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ chấp
thuận bổ sung vào các Khu công nghiệp Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến


năm 2020 với tổng diện tích 1.616 ha. Như vậy, tính trung bình mỗi khu công
nghiệp có diện tích 200 ha. Đầu tư tại các khu công nghiệp của tỉnh, các doanh
nghiệp sẽ khai thác hiệu quả lợi thế so sánh, giảm chi phí và có nguồn nhân lực tốt.
Tuy thế kinh tế của địa phương phát triển chưa xứng tầm với tiềm năng vốn có
của tỉnh, phải chăng lý do bắt nguồn từ công tác thu hút và quản lý vốn đầu tư chưa
được quan tâm đúng mức. Để có thể khai thác triệt để mọi tiềm năng sẵn có nhằm tạo
ra một động lực phát triển cho tỉnh trong giai đoạn mới, giai đoạn hội nhập và hợp
tác kinh tế quốc tế như hiện nay thì công tác thu hút và sử dụng hiệu quả mọi nguồn
vốn đầu tư là đặc biệt quan trọng.
Mặt khác, hiện nay các tỉnh, thành trong cả nước đã ban hành các chính sách
ưu đãi, khuyến khích đầu tư riêng, đồng thời rất tích cực thực hiện cải cách hành
chính, giảm bớt thủ tục giấy tờ, cải thiện mối quan hệ giữa cơ quan quản lý và
doanh nghiệp; điều đó thể hiện sự quan tâm đến việc thu hút đầu tư của các tỉnh sẽ
dẫn đến sự cạnh tranh mạnh mẽ trong việc thu hút đầu tư phát triển kinh tế-xã hội.
Như vậy “Nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh Hòa Bình trong thu hút
vốn đầu tư” là một vấn đề vô cùng cấp thiết và tôi đã chọn đề tài này làm đề tài luận
văn Thạc sĩ của mình.
1
2. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá chung về năng lực cạnh tranh, tình hình thu hút vốn đầu tư của tỉnh Hòa
Bình trong giai đoạn hiện nay để đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của tỉnh để thu hút vốn đầu tư phục vụ cho việc phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh trong giai đoạn tới.
2.2 Mục tiêu cụ thể
Xuất phát từ mục tiêu trên đề tài có 3 mục tiêu cụ thể như sau:
- Hệ thống hóa các lý luận về cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh
Sự phát triển của kinh tế thị trường hiện đại đã làm cho cạnh tranh và năng
lực cạnh tranh là một vấn đề nổi bật có giá trị lớn. Có rất nhiều quan niệm về cạnh
tranh và năng lực cạnh tranh và cùng với chúng là những định nghĩa về cạnh tranh

và những lý thuyết về năng lực cạnh tranh. Không có một định nghĩa nào có sức
bao quát được toàn cảnh cạnh tranh, mà thường chúng nhấn mạnh vào những yếu
tố khác nhau của cạnh tranh và năng lực cạnh tranh. Vì thế không tránh khỏi có
những mâu thuẫn trong những định nghĩa về cạnh tranh.
Hơn thế nữa, bản thân định nghĩa cạnh tranh và năng lực cạnh tranh có
những tiến triển, biến thái theo thời gian. Vì thế các lý thuyết dựa trên những định
nghĩa đó cũng không dễ gì bao quát những thực tiễn mới phát sinh, do đó chưa giải
quyết được những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn, hay những vấn đề mang
bản sắc cục bộ, địa phương, hay những lĩnh vực cụ thể.
Vì thế có cái nhìn toàn cục và có hệ thống những lý thuyết về cạnh tranh và
năng lực cạnh tranh là điều cần thiết.
Năng lực cạnh tranh của một tỉnh là một khái niệm rất mới ở nước ta. Trong nền
kinh tế thị trường, yếu tố này cũng phải chịu tác động, ảnh hưởng và trở thành một
tác nhân để thu hút vốn đầu tư của một tỉnh. Vì thế, vấn đề nâng cao năng lực cạnh
tranh của một tỉnh trở nên cần thiết và ngày càng thu hút sự quan tâm của đất nước
ta. Việc làm rõ thiết chế này là cần thiết, trên cơ sở đó phát triển những quan niệm,
2
những định nghĩa về năng lực cạnh tranh của một tỉnh, và vạch ra những gì cần phải
làm của một tỉnh để nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm thu hút vốn đầu tư
- Phân tích tính thực trạng về năng lực cạnh tranh và tình hình thu hút vốn
đầu tư của tỉnh Hòa Bình trong những năm gần đây
Trước tiên cần phải có được sự đánh giá thực trạng về năng lực cạnh tranh
của tỉnh Hòa Bình theo những tiêu chí nhất định, và tình hình thu hút vốn đầu tư của
tỉnh trong những năm qua, trong đó vạch ra những gì mang tính thực chất, những gì
chính phụ, những gì đã đạt được, những gì chưa đạt được và những gì sẽ đến trong
tương lai, đặc biệt là những thách thức, những cơ hội, và tiến trình hoạt động thực
tiễn cần phải có.
- Đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
để thu hút vốn đầu tư phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hòa Bình
trong thời gian tới

Đề tài muốn đạt được là đưa ra một số giải pháp mang tính thực tiễn và hệ
thống nhằm tận dụng những nguồn lực nội tại có thể phát huy, những nguồn ngoại
lực có thể nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm thu hút vốn đầu tư để đáp ứng được
nhu cầu phát triển của xã hội và đạt được mục tiêu chiến lược của Tỉnh.
3. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
• Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh nói chung và năng
lực cạnh tranh của một tỉnh.
- Địa bàn nghiên cứu: tỉnh Hòa Bình
- Thời gian nghiên cứu từ năm 2009 đến nay và những năm tiếp theo.
• Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề thực tiễn về năng lực cạnh tranh, những nhân tố tác động đến việc cải thiện
năng lực cạnh tranh của một tỉnh để thu hút vốn đầu tư.
4. Những câu hỏi đặt ra trong nghiên cứu
Đề tài đặt ra một số câu hỏi và sẽ lần lượt giải quyết từng câu hỏi đó
3
− Cạnh tranh là gì và năng lực cạnh tranh là gì?
− Các tiêu chí để đánh giá năng lực cạnh tranh của một tỉnh?
− Các yếu tố để thu hút vốn đầu tư của một tỉnh?
− Trong quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư thì
tỉnh Hòa Binh đã làm được những gì và còn những vấn đề gì tồn tại?
− Giải pháp nào đề khắc phục những tồn tại đó và nâng cao năng lực cạnh
tranh của tỉnh nhằm thu hút vốn đầu tư trong giai đoạn tới?
5. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
Tác giả hy vọng sẽ đưa ra được đóng góp nhất định về vấn đề nâng cao năng lực
cạnh tranh của một tỉnh đang còn rất mới hiện nay ở Việt Nam ở những điểm sau:
- Về mặt lý luận: Đề tài nghiên cứu toàn diện về cạnh tranh và các tiêu chí
đánh giá năng lực cạnh tranh lựa chọn áp dụng vào việc đánh giá năng lực cạnh
tranh của một tỉnh. Các nguồn vốn đầu tư và các yếu tố để thu hút vốn đầu tư của
một tỉnh trong liên quan đến năng lực cạnh tranh của tỉnh đó.

- Về mặt thực tiễn: Phân tích, đánh giá thực trạng về những việc đã và đang làm
của tỉnh Hòa Bình trong thời gian qua để nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút vốn đầu
tư. Phát hiện những tồn tại và những khuyết thiếu trong quá trình thực hiện đó để đưa
ra một số đề xuất và kiến nghị giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của tỉnh
nhằm thu hút vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ hội nhập.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm:
Phần I. Phần Mở Đầu
Phần II. Cơ sở lý luận
Phần III. Phương pháp nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu
Phần IV. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Phần V. Kết luận và kiến nghị
4
Phần II. Cơ sở lý luận
2.1 Khái quát chung năng lực cạnh tranh
2.1.1 Các khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
2.1.1.1 Các khái niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh là một thuật ngữ đã được sử dụng từ khá lâu song trong những
năm gần đây được nhắc đến nhiều hơn, nhất là ở Việt Nam. Bởi trong nền kinh tế
mở hiện nay, khi xu hướng tự do hóa thương mại ngày càng phổ biến thì cạnh tranh
là phương thức để đứng vững và phát triển. Nhưng “cạnh tranh là gì” thì vẫn đang
là một khái niệm chưa thống nhất, các nhà nghiên cứu đưa ra các khái niệm cạnh
tranh dưới nhiều góc độ khác nhau.
Theo diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và
Phát triển Kinh tế OECD: “Cạnh tranh là khả năng các doanh nghiệp, ngành, quốc
gia và vùng tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc
tế”. Định nghĩa trên đã cố gắng kết hợp cả hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp,
của ngành và quốc gia.
Như vậy, xét trên góc độ vĩ mô các khái niệm về cạnh tranh đều cho thấy
mục tiêu chung của hoạt động cạnh tranh là thỏa mãn tối đa nhu cầu thị trường

trong nước và quốc tế, tạo việc làm và thu nhập cao cho nền kinh tế.
Các nhà kinh tế của trường phái tư sản cổ điển quan niệm: “Cạnh tranh là
một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành
viên thị trường một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một
phần xứng đáng so với khả năng của mình”. Theo quan niệm này cạnh tranh chủ
yếu là cạnh tranh về giá, vì thế lý thuyết giá cả gắn chặt với lý thuyết cạnh tranh.
Khi nghiên cứu về cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Mác cũng đã đưa ra khái
niệm về cạnh tranh: “Cạnh tranh tư bản là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ
hàng hóa nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch” [21]. Như vậy cạnh tranh là hoạt động của
các đối tượng trong nền sản xuất hàng hóa với mục đích ganh đua, giành giật những
điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận cao.
5
1.1.1.2 Các khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của tỉnh
Năng lực cạnh tranh là một khái niệm phức tạp, hiện nay năng lực cạnh
tranh được chia theo các cấp khác nhau, ít nhất bao gồm 3 cấp độ là:
- Năng lực cạnh tranh quốc gia xét trong quan hệ giữa các quốc gia
trên phạm vi toàn cầu.
- Năng lực cạnh tranh công ty (hay doanh nghiệp) xét trong quan hệ
giữa các tập đoàn công ty, giữa các ngành hàng.
- Năng lực cạnh tranh sản phẩm xét trong quan hệ với các sản phẩm
cùng loại hoặc có khả năng gây tranh chấp trên thị trường trong và
ngoài nước.
Theo diễn đàn kinh tế thế giới (WEF): “Năng lực cạnh tranh của một quốc
gia là khả năng đạt được và duy trì mức tăng trưởng cao trên cơ sở có các chính
sách, thể chế tương đối bền vững và các đặc trưng kinh tế khác”.
Xét trên phương diện một tỉnh, năng lực cạnh tranh của một tỉnh hoặc một
thành phố là khả năng tỉnh hoặc thành phố đó có thể khắc phục các khó khăn thách
thức và nắm bắt các cơ hội nhằm thu hút được các nhà đầu tư tiềm năng về đầu tư
tại địa phương mình chứ không phải là địa phương khác.

Xét trên phương diện một tỉnh hoặc thành phố thì khái niệm năng lực cạnh
tranh của tỉnh (thành phố) còn gắn liền với khái niệm môi trường đầu tư, bởi như
chúng ta đã đề cập ở trên, khi xem một tỉnh (thành phố) là một nhà cung cấp hàng
hoá thì môi trường đầu tư chính là sản phẩm hàng hoá mà một nhà cung cấp cung
cấp cho khách hàng của mình là các nhà đầu tư hay các doanh nghiệp. Như vậy
nâng cao năng lực cạnh tranh của các tỉnh (thành phố) chính là cải thiện nâng cao
môi trường kinh doanh của tỉnh (thành phố) mình, điều này tương đương với việc
nâng cao chất lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp, làm cho sản phẩm của mình trở
nên khác biệt hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh, tức môi trường đầu tư ở tỉnh đó
phái thông thoáng; các quy định về đầu tư, ưu đãi đầu tư phải rõ ràng, cụ thể, đơn
giản, dể hiểu, dế thực hiện; cơ hạ tầng hiện đại, đáp ứng được các nhu cầu cho hoạt
động đầu tư, sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp; … điều này nếu hiểu
6
theo ngôn ngữ marketing đó chính là chíên lược cạnh tranh bằng chất lượng sản
phẩm.
Cùng với chất lượng sản phẩm thì giá thành sản phẩm chính là yếu tố quan
trọng thứ hai mà khách hàng cân nhắc khi lựa chọn một sản phẩm. Một nhà đầu tư
sau khi đã xem xét xong các yếu tố của môi trường đầu tư rồi thì điều tiếp theo họ
làm là xem xét chi phí mà họ phải bỏ ra để có thể đầu tư tại địa bàn tỉnh, đó là chi
phí giải phóng mặt bằng, chi phí xin mua, hay thuê đất; chi phí điện nước sản xuất,
… nếu có hai hoặc ba địa phương có các yếu tố của môi trường đầu tư tương đương
nhau thì địa phương nào có chi phí đầu tư thấp hơn tất nhiên nhà đầu tư sẽ chọn đầu
tư ở điạ phương đó
Bên cạnh chất lượng sản phẩm và giá cả, dịch vụ chăm sóc khách hàng trong
thời gian gần đây đã đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc chi phối đến các
quyết định của khách hàng.
Như vậy theo cách hiểu môi trường đầu tư của một địa phương là một sản
phẩm hàng hoá mà các địa phương rao bán cho các nhà đầu tư, chi phí gia nhập thị
trường tại địa phương là giá cả của sản phẩm môi trường đầu tư đó thì dịch vụ chăm
sóc khách hàng chính là sự quan tâm, chăm sóc các nhà đầu tư của chính quyền địa

phương cả trước khi, trong và sau khi nhà đầu tư thực hiện đầu tư kinh doanh trên
địa bàn tỉnh. Cụ thể đó là sự quan tâm, đồng cảm của chính quyền với các khó khăn
vướng mắc của nhà đầu tư, sự nhanh chóng nhiệt tình của cơ quan có chức năng
trong giải quyết các vướng mắc của các nhà đầu tư hay việc tạo điều kiện tiếp xúc
gặp gỡ thường xuyên với các nhà đầu tư để họ có cơ hội chia sẻ các vướng mắc gặp
phải…
Nếu mỗi điạ phương tạo được một môi trường đầu tư lành mạnh với chi phí
gia nhập thị trường cạnh tranh và một thái độ thân thiện, niềm nở với các nhà đầu tư
thì trong một tương lai không xa các nhà đầu tư sẽ tìm đến và vun xới cho mảnh đất
xanh tươi đó.
2.1.2 Vai trò của cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh
2.1.2.1 Vai trò của cạnh tranh
7
Từ thế kỷ 18, Adam Smith, nhà kinh tế học cổ điển vĩ đại của Anh đã chỉ
ra vai trò quan trọng của cạnh tranh tự do trong tác phẩm “Của cải của các dân
tộc” (1776). Ông cho rằng sức ép cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm
công việc của mình một cách chính xác và do đó nó tạo ra sự cố gắng lớn nhất.
Kết quả của sự cố gắng đó là lòng hăng say lao động, sự phân phối các yếu tố
sản xuất một cách hợp lý và tăng của cải cho xã hội. Cho tới nay, cạnh tranh
được coi là phương thức hoạt động để tồn tại và phát triển của mỗi doanh
nghiệp, không có cạnh tranh thì không thể có sự tăng trưởng kinh tế.
- Đối với nền kinh tế: Cạnh tranh làm sống động nền kinh tế, thúc đẩy
quá trình lưu thông các yếu tố sản xuất. Thông qua cạnh tranh, các nguồn tài
nguyên được phân phối hợp lý hơn dẫn đến sự điều chỉnh kết cấu ngành, cơ cấu
lao động được thực hiện mau chóng và tối ưu.
- Đối với chủ thể kinh doanh: Do động lực tối đa hoá lợi nhuận và áp lực
phá sản nếu dừng lại, cạnh tranh buộc các chủ thể kinh tế phải không ngừng tăng
cường thực lực của mình. Qua đó cạnh tranh nâng cao trình độ mọi mặt của người
lao động, nhất là đội ngũ quản trị kinh doanh, đồng thời sàng lọc và đào thải
những chủ thể kinh tế không thích nghi được với sự khắc nghiệt của thị trường.

- Đối với người tiêu dùng: Cạnh tranh cho thấy những hàng hoá nào phù
hợp nhất với yêu cầu và khả năng thanh toán của người tiêu dùng bởi cạnh tranh
làm cho giá cả có xu hướng ngày càng giảm, lượng hàng hoá trên thị trường ngày
càng tăng, chất lượng tốt, hàng hoá đa dạng, phong phú.
Như vậy, cùng với tác động của các quy luật kinh tế khách quan khác, cạnh
tranh đã giúp các doanh nghiệp trả lời các câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai
và sản xuất như thế nào một cách thoả đáng nhất.
Đối với một tỉnh thì cạnh tranh giúp tỉnh đó tự hoàn thiện mình, chuẩn hóa
các quy định, quy chế, phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.
2.2.2.2 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang thúc đẩy mạnh mẽ, sâu sắc quá
trình chuyên môn hoá và hợp tác quốc tế, lực lượng sản xuất lớn mạnh đang được
8
quốc tế hoá. Công nghệ thông tin làm cho nền kinh tế thế giới gắn bó, ràng buộc lẫn
nhau dẫn tới không một quốc gia nào, một nền kinh tế dân tộc nào muốn phát triển
mà có thể tách rời khỏi hệ thống kinh tế thế giới, không hoà nhập vào sự vận động
chung của nền kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế
của nước mình với kinh tế khu vực và thế giới, tham gia vào phân công lao động
quốc tế, gia nhập các tổ chức kinh tế song phương và đa phương, chấp nhận tuân
thủ những quy định chung được hình thành trong quá trình hợp tác và đấu tranh
giữa các thành viên của tổ chức. Trong quá trình hội nhập, các nước tham gia đều
phải tuân theo những luật chơi chung khá phức tạp được thể hiện trong nhiều điều
ước quốc tế:
Một là: Khái niệm thương mại đã được mở rộng, không chỉ gồm thương mại
các hàng hoá và dịch vụ thông thường mà còn bao gồm cả các lĩnh vực đầu tư bản
quyền, tư vấn, sở hữu trí tuệ Nói cách khác các hàng hoá được buôn bán hiện nay
không chỉ bao gồm phần cứng mà còn cả phần mềm, trong đó phần mềm ngày càng
quan trọng hơn.
Hai là: Khi gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế, các quốc gia đều phải giảm
thiểu, thậm chí xoá bỏ hàng rào thuế quan. Ví dụ trong khuôn khổ AFTA, các nước

thành viên cam kết cắt giảm thuế quan xuống mức từ 0 đến 5% theo một lộ trình
nhất định [18]. Trong khuôn khổ WTO các nước công nghiệp phát triển phải giảm
thuế xuất nhập khẩu hàng công nghiệp xuống 3 đến 4%, hàng nông sản chỉ còn 6%.
Các nước đang phát triển được duy trì mức thuế suất cao hơn, khoảng 10 đến 12%.
Ba là: Giảm dần tiến tới xoá bỏ hàng rào phi thuế quan. Chỉ được áp dụng
một số biện pháp hạn chế để bảo vệ môi trường, vệ sinh, bản sắc văn hoá, an ninh.
Ngày nay, khi chất xám chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong sản phẩm, việc bảo hộ
bản quyền sở hữu trí tuệ, nhãn mác sản phẩm được quy định rất chặt chẽ.
Bốn là: Nhà Nước không được bao cấp cho doanh nghiệp, chỉ đối với nông
sản thì được phép bao cấp ở một số khâu hỗ trợ sản xuất.
Năm là: Mở cửa thị trường cho các doanh nghiệp nước ngoài vào kinh
doanh, tạo sân chơi bình đẳng cho doanh nghiệp trong và ngoài nước. Hệ thống luật
pháp về kinh tế - thương mại phải rõ ràng công khai.
9
Sáu là: Các nước đang phát triển, các nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế
hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường được hưởng một số ưu đãi về cam kết và
thời gian thực hiện.
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và sự phát triển của doanh
nghiệp có sự tác động qua lại hỗ trợ lẫn nhau:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh giúp doanh nghiệp phát triển và hội nhập. Nó
sẽ thúc đẩy tiến trình phát triển của doanh nghiệp bởi năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp tỷ lệ thuận với tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Nó còn giúp doanh
nghiệp hội nhập kinh tế thuận lợi cả về chiều rộng và chiều sâu một cách chủ động.
- Khi doanh nghiệp đứng vững và phát triển sẽ tạo điều kiện ngược lại để
doanh nghiệp nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của mình. Bởi những thành tựu
của sự phát triển sẽ giúp doanh nghiệp có thêm nhiều cơ hội kinh doanh, có đủ khả
năng về nguồn lực để tiếp cận những tiến bộ về kỹ thuật, công nghệ mới, về tổ chức
quản lý sản xuất kinh doanh.
Trong giai đoạn hiện nay vấn đề có tính chất quyết định là mỗi doanh nghiệp
phải luôn phấn đấu nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để sẵn sàng nắm lấy cơ

hội và đủ khả năng đối mặt với các thách thức trong quá trình hội nhập để tồn tại và
phát triển bền vững.
Đánh giá về khả năng thu hút vốn đầu tư của một địa phương chúng ta có thể
nhìn vào chỉ số năng lực cạnh tranh của địa phương đó bởi vì chỉ số năng lực cạnh
tranh của một địa phương thể hiện mức độ thuận lợi của môi trường đầu tư của địa
phương đó, địa phương nào có chỉ số năng lực cạnh tranh cao có nghĩa môi trường
đầu tư của tỉnh đó rất thuận lợi, và các doanh nghiệp , các nhà đầu tư dĩ nhiên
không thể bỏ qua mà không đầu tư vào địa phương này, có thể nói khả năng thu hút
vốn đầu tư của một địa phương tỉ lệ thuận với chỉ số năng lực cạnh tranh của địa
phương đó.Vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của một tỉnh sẽ giúp tỉnh đó tạo ra
lợi thế cạnh tranh trong thu hút vốn đầu tư phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội của tỉnh đó.
10
2.1 .3 Các chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh
2.1.3.1 Phương pháp xây dựng chỉ số PCI
Dự án nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh do phòng thương mại và công
nghiệp Việt Nam (VCCI) và dự án nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam hợp tác
xây dựng từ năm 2005, được cơ quan phát triển quốc tế Hoa kỳ (USAID) tài trợ,
mục tiêu của dự án là đánh giá, xếp hạng môi trường kinh doanh và chính sách phát
triển khu vực kinh tế tư nhân của các tỉnh và thành phố trong cả nước thông qua
việc xem xét các yếu tố về chiến lược, trình độ kinh doanh sẽ dành cho những
nghiên cứu sau này. Đặc biệt nhóm nghiên cứu đã xây dựng chin chỉ số thành phần
dựa theo các yếu tố đã được nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn ở Việt
nam nhấn mạnh từ trước tới nay.
Có 2 loại dữ liệu được sử dụng để xây dựng các chỉ số đánh giá, đó là dữ liệu
“mềm” phản ánh đánh giá của doanh nghiệp thu thập từ hình thức gửi phiếu điều
tra đến 15.400 doanh nghiệp ở 42 tỉnh thành và nhận được 2.020 phiếu trả lời. Dữ
liệu “cứng” là dữ liệu được công bố trong Niêm giám Thống kê, ghi nhận từ các
cuộc phỏng vấn của bên thứ 3. Mỗi chỉ tiêu được chuẩn hóa theo thang điểm từ 1-
10, sau đó lấy điểm trung bình của tất cả các chỉ tiêu để tính điểm chín chỉ số thành

phần.
Chỉ số PCI (chỉ số năng lực cạnh tranh) là một cơ sở để lãnh đạo tỉnh, thành
phố có thế nhận diện rõ hơn điểm mạnh, điểm yếu của tỉnh, thành phố mình. Các
tỉnh có thế nâng cao kết quả hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân thông qua việc
cải thiện điểm số ở những chỉ số thành phần thấp nhất.
Ban đầu nhóm nghiên cứu đưa ra 9 chỉ số, sau này thêm một chỉ số nữa và
các chỉ số khác cũng thay đổi tên gọi khác đi.
2.1.3.2 Mô tả chi tiết các chỉ số thành phần và cách tính trọng số
Chỉ số 1. Chi phí gia nhập thị trường
Chi phí gia nhập thị trường là chỉ tiêu chỉ tổng các chi phí (cả chi phí về thời
gian và tiền bạc) mà mỗi doanh nghiệp phải chi trả để thành lập doanh nghiệp trên
11
địa bàn tỉnh. Chi phí này càng cao thì điểm số của địa phương càng thấp, địa
phương bị đánh giá là có lực cản gia nhập thị trường đối với các nhà đầu tư là lớn.
Chi phí gia nhập thị trường được xác định dựa trên các thông số:
• phần trăm doanh nghệp phải mất hơn 1 tháng để khởi sự kinh doanh
• phần trăm doanh nghiệp phải mất hơn 3 tháng để khởi sự kinh doanh
• thời gian chờ đợi thật sự để được cấp đất (căn cứ vào nỗ lực của chính
quyền, không phải các điều kiện cung cầu)
• thời gian đăng kí kinh doanh (số ngày)
• Thời gian đăng kí lại (số ngày)
• Số lượng giấy đăng kí, giấy phép kinh doanh và quyết định chấp thuận
mà doanh nghiệp hiện có
• Phần trăm doanh nghiệp gặp khó khăn mới có đủ các loại giấy phép cần
thiết
Chỉ số thứ 2. Tiếp cận đất đai
Chỉ số này được tính toán căn cứ vào tình trạng doanh nghiệp có giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hay không, có đủ mặt bằng để đáp ứng nhu cầu mở rộng kinh
doanh hay không, mức giá đất thực chất tại địa Phương trong mối tương quan giữa
nhu cầu và quỹ đất của địa Phương và chất lượng các chính sách về khu công

nghiệp. Cụ thể:
• Phần trăm doanh nghiệp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đang
trong quá trình chờ nhận
• Khả năng mở rộng kinh doanh nếu dễ có mặt bằng kinh doanh hơn
• Phần trăm doanh nghiệp thuê lại đất từ DNNN
• Đánh giá của doanh nghiệp về nỗ lực của chính quyền tỉnh trong việc
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
• Phần trăm diện tích đất có giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất
12
• Rủi ro mặt bằng kinh doanh do bị chính quyền thu hồi cho mục đích khác
• Đánh giá về mức thoả đáng của số tiền bồi thường
• Rủi ro về thay đổi các điều kiện cho thuê
• Đánh giá về tính công bằng trong cách thức giải quyết tranh chấp về hợp
đồng cho thuê
• Thời hạn thuê
Chỉ số thứ 3. Tính minh bạch và tiếp cận thông tin:
Chỉ tiêu này giúp đánh giá sự thoáng của môi trường đầu tư ở mỗi địa
phương thông qua đánh giá khả năng tiếp cận những thông tin liên quan đến hoạt
động đầu tư và kinh doanh của địa phương. Hệ thống thông tin càng minh bạch và
doanh nghiệp càng dế dàng tiếp cận thông tin thì điểm số này của địa phương càng
cao.
• Tính minh bạch của các tài liệu kế hoạch
• Tính minh bạch của các quyết định, nghị định
• Vai trò của các “mối quan hệ” để có được các tài liệu kế hoạch của tỉnh
• Vai trò của gia đình bạn bè khi thương lượng với cán bộ nhà nước
• Thương lượng với cán bộ thuế là phần thiết yếu trong hoạt động kinh
doanh
• Khả năng có thể dự đoán của việc thực thi pháp luật của tỉnh
• Tỉnh có trao đổi ý kiến với doanh nghiệp về những thay đổi trong các quy
định pháp luật

• Chất lượng dịch vụ tư vấn do cơ quan của tỉnh cung cấp
Tính cởi mở: đánh giá trang web của tỉnh.
Chỉ số thứ 4. Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước:
Chỉ số này cho biết mức độ nhiệt tình và năng nổ của cán bộ tỉnh trong việc
giúp các doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định của nhà nước, đồng thời nó cũng
13
phản thông ánh mức độ thông thoáng, đơn giản gọn nhẹ của hệ thống hành chính
của địa phương.
• Số ngày làm việc với chính quyền địa phương giảm đi sau khi có Luật
Doanh Nghiệp
• Phần trăm doanh nghiệp sử dụng hơn 10% quỹ thời gian để làm việc với
chính quyền
• Số cuộc thanh tra và số giờ làm việc với thanh tra thuế
• Tỉ lệ giảm số cuộc thanh tra sau khi có luật Doanh Nghiệp
Chỉ số thứ 5. Chi phí không chính thức:
Chỉ số này đo lường mức chi phí không chính thức doanh nghiệp phải trả và những
trở ngại do những chi phí này gây nên cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
• Chỉ số này được xác định dựa trên các tiêu thức
• Các chi phí không chính thức là cản trở chính đối với hoạt động kinh
doanh
• Các doanh nghiệp cùng nghành đều phải trả chi phí không chính thức
• Phần trăm doanh nghiệp tốn hơn 10% doanh thu cho các chi phí không
chính thức
• Cán bộ tỉnh sử dụng quỹ riêng của địa phương với mục đích trục lợi
• Công việc được giải quyết sau khi chi trả chi phí không chính thức
Chỉ số thứ 6. Ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước
• Tỉnh ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước
• Tỉnh ưu đãi doanh nghiệp cổ phần hoá
• Thái độ của tỉnh đối với doanh nghiệp tư nhân
• Thái độ đối với doanh nghiệp tư nhân đang được cải thiện

14
• Những đóng góp về tài chính ảnh hưởng đến thái độ đối với doanh
nghiệp tư nhân
• Đánh giá của doanh nghiệp trong nỗ lực thực hiện cổ phần hoá của tỉnh
• Tương quan về tỉ trọng nợ của DNNN do địa phương quản lý trong tổng
số nợ của các doanh nghiệp của tỉnh so với tỉ trọng doanh thu của các DNNN do địa
phương quản lý trong tổng doanh thu của các doanh nghiệp của tỉnh
• Phần trăm thay đổi về số lượng DNNN do địa phương quản lý (2000 –
2004)
• Tỷ trọng dư nợ cho vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh cho
các DNNN
Chỉ số thứ 7. Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá về một khía cạnh của năng lực cạnh tranh của
tỉnh thông qua việc đánh giá về sự năng nổ nhiệt tình, sự sáng tạo của lãnh đạo tỉnh
trong việc giúp các doanh nghiệp giải quyết các khó khăn.
Chỉ số này được xây dựng dựa trên các tiêu thức sau:
• Tỉnh triển khai tốt các quy định của Trung ương
• Tỉnh sáng tạo và sáng suốt trong việc giải quyết các khó khăn, trở ngại
đối với cộng đồng doanh nghiệp
• Tỉnh có nhiều sáng kiến tốt nhưng còn nhiều cản trở ở Trung ương
• Không có sáng kiến nào cấp tỉnh
• Tỉnh tham khảo ý kiến của doanh nghiệp khi xây dựng các quy định
Chỉ số thứ 8. Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh
Chỉ tiêu này cho thấy phương hướng phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh và
những nỗ lực cũng như các biện pháp mà tỉnh đã thực hiện để khuyến khích sự phát
triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Chỉ tiêu này được xác định dựa trên những tiêu thức sau:
15
• Thông tin thị trường và xúc tiến thương mại
• Công nghệ và các dịch vụ liên quan đến công nghệ

• Thông tin tìm kiếm đối tác kinh doanh, đầu tư cho các nhà sản xuất địa
phương
• Xúc tiến xuất khẩu và hội chợ thương mại
• Khu công nghiệp
• Số lượng hội chợ thương mại do tỉnh tổ chức (2004 – 2005)
So với năm 2005, trong phiếu điều tra PCI 2006 có thêm hai chỉ số thành
phần là chỉ số về đào tạo lao động và thiết chế pháp lý.Chi
Chỉ số thứ 9. Chỉ số về đào tạo lao động
Nhằm đánh giá những nỗ lực của chính quyền tỉnh trong việc giải quyết sự
thiếu hụt về lao động có kỹ năng tại địa phương.
Chỉ tiêu này được xác định dựa trên các tiêu thức sau:
• Chất lượng dịch vụ giáo dục do các cơ quan của tỉnh cung cấp
• Chất lượng dịch vụ đào tạo nghề cho người lao động do các cơ quan của
tỉnh thực hiện
• Số lượng trường dạy nghề, có điều chỉnh theo số dân của từng tỉnh
Chỉ số thứ 10. Chỉ số về thiết chế pháp lý đánh giá mức độ tin tưởng của doanh
nghiệp đối với các thiết chế pháp lý tại địa phương.
Chỉ số này được xác định dựa trên các tiêu thức sau:
• Hệ thống pháp lý tạo ra cơ chế để doanh nghiệp có thể khởi kiện hành vi
tham nhũng của cán bộ công quyền
• Lòng tin của doanh nghiệp vào thiết chế pháp lý
• Chủ yếu sử dụng thiết chế pháp lý để giải quyết tranh chấp
16
• Số vụ tranh chấp (mà bên nguyên không phải là DNNN hay DN có vốn
đầu tư nước ngoài) quân trên 100 doanh nghiệp đang hoạt động
Lưu ý: ba chỉ tiêu mềm đầu tiên có hệ số 60%, một chỉ tiêu cứng cuối cùng
có hệ số 40% khi tính điểm chỉ số thành phần này.
Bảng 1. 1 Trọng số của các chỉ số thành phần
Chỉ số
Trọng số

trung bình
(%)
Trọng số
làm tròn
(%)
Loại
trọng số
Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp
Tính minh bạch
Đào tạo lao động
Tính năng động và tiên phong của lãnh
đạo tỉnh
Chi phí thời gian để thực hiện các quy
định của Nhà nước
Thiết chế pháp lý
Cơ sở hạ tầng
Chi phí không chính thức
Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử
dụng đất
Chi phí gia nhập thị trường
Cơ sở hạ tầng
Tổng số
17,2
16,2
15,3
13,2
11,8
7,7
6,0
5,7

3,6
3,3
100%
15
15
15
15
10
10
5
5
5
5
Cao
Cao
Cao
Cao
Trung bình
Trung bình
Thấp
Thấp
Thấp
Thấp
2.2 Khái quát về vốn đầu tư và thu hút vốn đầu tư.
2.2.1 Vốn đầu tư:
17
Vốn đầu tư là một khối lượng tiền hoặc tài sản mà một quốc gia hoặc một
doanh nghịêp dùng để phục vụ cho hoạt động đầu tư phát triển của quốc gia hay
doanh nghiệp.
Xét về bản chất vốn đầu tư được hình thành từ phần tiết kiệm hay tích luỹ

của đất nước hay của doanh nghiệp mà có thể huy động vào quá trình tái sản xuất.
Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc”, Adam Smith, một đại diện điển
hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã cho rằng: “tiết kiệm là nguyên nhân
trực tiếp làm gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết
kiệm, nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa nhưng không có tiết kiệm thì vốn
không bao giờ tăng thêm.
Đối với mỗi quốc gia hay một nền kinh tế thì hoạt động đầu tư phát triển
luôn đóng một vai trò quyết định trong sự đi lên phát triển hay hưng thịnh của chính
quốc gia đó.
- Phân loại đầu tư: Dựa trên các tiêu chí khác nhau, có thể phân chia đầu tư
thành các loại khác nhau.
Có thể phân loại đầu tư theo những tiêu chí cơ bản sau:
* Căn cứ vào mục đích đầu tư
- Theo mục đích kinh tế với lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng, các nhà đầu tư
hiểu rằng chính người tiêu dùng đã thực hiện lợi nhuận cho họ và nhà đầu tư phải
làm gì, làm như thế nào, tạo ra mặt hàng gì, bán cho ai ? Quá trình đầu tư này có
mối quan hệ xã hội sâu sắc.
- Theo mục tiêu xã hội: Là các hoạt động đầu tư sử dụng các nguồn lực để
mang lại các lợi ích về mặt xã hội. Nhà nước thông qua doanh nghiệp, tổ chức xã
hội để triển khai thực hiện các dự án đầu tư qua đó cải thiện đời sống nhân dân hay
gián tiếp tạo môi trường pháp lý, các dịch vụ công cộng, các công trình kiến trúc
đảm bảo lợi ích xã hội (mọi người được hưởng) và sử dụng vào mục đích kinh
doanh, sinh hoạt.
Như vậy với chủ thể đầu tư là nhà nước hay doanh nghiệp thì đều xuất phát
từ quan niệm là đầu tư bỏ vốn và phải tính đến hiệu quả. Đơn vị đo hiệu quả của
18
doanh nghiệp là lợi nhuận, còn Nhà nước quan tâm đến hiệu quả tổng hợp, trong đó
có hàm chứa mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên do tác động gián tiếp (xã
hội) và trực tiếp (kinh tế) hiệu quả các dự án của Nhà nước. Ví dụ, việc tăng đầu tư
cho giáo dục và đào tạo, y tế, phát thanh và truyền hình, sân bay, bến cảng, đường

sá gúp doanh nghiệp trực tiếp giảm các chi phí. Chất lượng các hoạt động đầu tư
gián tiếp tác động đến doanh nghiệp thường được cho điểm đánh giá môi trường
đầu tư. Mối quan hệ này càng lượng hóa được càng giúp cho Chính Phủ và doanh
nghiệp lựa chọn dự án, phối hợp đầu tư, quyết định sử dụng nguồn vốn hiệu quả
hơn.
* Căn cứ vào nguồn vốn đầu tư
- Đầu tư trong nước: Là hoạt động đầu tư mà nguồn lực đầu tư được huy
động từ ngân sách Nhà nước và tổ chức, cá nhân trong nước.
- Đầu tư nước ngoài: Là hoạt động đầu tư mà các nguồn lực đầu tư được huy
động từ các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc người của nước nhận đầu tư định cư
ở nước ngoài đầu tư về nước. Thực tiễn điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động đầu
tư nước ngoài còn có sự phân biệt giữa đầu tư từ nước ngoài và đầu tư ra nước
ngoài.
* Căn cứ vào tính chất quản lý của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư
- Đầu tư trực tiếp là hoạt động đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham
gia quản lý, điều hành quá trình sử dụng các nguồn lực (vốn) đầu tư. Trong hoạt
động đầu tư trực tiếp không có sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản lý
của nhà đầu tư đối với vốn đầu tư.
Đầu tư trực tiếp có thể phân chia là đầu tư trực tiếp trong nước và đầu tư trực
tiếp nước ngoài:
+ Đầu tư trực tiếp trong nước có nội dung là việc bỏ vốn của tổ chức cá nhân
trong nước để kinh doanh theo các hình thức do pháp luật quy định.
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại quan hệ kinh tế có nhân tố
nước ngoài, được đặc trưng bởi sự di chuyển nguồn lực đầu tư (tư bản) trên phạm vi
quốc tế với mục đích kinh doanh thu lợi.
19
- Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà ở đó nhà đầu tư không trực tiếp
tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Như vậy, khác với đầu tư trực tiếp, trong hoạt
động đầu tư gián tiếp, người đầu tư vốn và người quản lý, sử dụng vốn là hai chủ
thể khác nhau và có thẩm quyền chi phối khác nhau đối với nguồn lực đầu tư.

Những hoạt động đầu tư mà nhà đầu tư không trực tiếp nắm quyền quản lý, kiểm
soát và điều hành hoạt động kinh doanh đều có tính chất là đầu tư gián tiếp.
* Căn cứ vào tính chất đầu tư
Đầu tư theo chiều rộng: Là đầu tư cơ sở sản xuất mới hay đầu tư mở rộng sản
xuất. Trong trường hợp này, với số vốn đầu tư như nhau hình thức đầu tư này sẽ tạo
ra nhiều chỗ làm việc hơn hình thức đầu tư chiều sâu nhưng trình độ công nghệ
không tiên tiến, hiện đại hơn công nghệ hiện có.
Đầu tư theo chiều sâu: Là đầu tư được thực hiện trên cơ sở cải tạo, mở
rộng, nâng cấp, đồng bộ hóa hiện đại hóa cơ sở sản xuất hiện đã có hoặc có thể là
đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, xây dựng một nhà máy mới. Trong trường hợp
này, cùng với khối lượng vốn lớn, thì thiết bị công nghệ được đầu tư phải hiện đại
hơn, tiên tiến hơn.
2.2.2 Đặc điểm của đầu tư
- Quy mô vốn đầu tư lớn đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy động vốn
hợp lý, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn
đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm trọng điểm. Nguồn
vốn huy động cho các dự án đầu tư có thể từ ngân sách Nhà nước, góp cổ phần, liên
danh, tự có, tài trợ hoặc huy động từ nguồn khác. Để đảm bảo tiến độ thực hiện đầu
tư của dự án, vừa để tránh tồn đọng vốn nên các nguồn tài trợ không chỉ xem xét về
mặt lượng mà cả về thời điểm nhận nguồn tài trợ. Các nguồn vốn dự kiến này phải
được đảm bảo chắc chắn, thể hiện ở cơ sở pháp lý và thực tế của nguồn huy động.
- Thời gian cần thiết cho việc tiến hành hoạt động đầu tư phát triển thường
kéo dài: Thời kỳ đầu tư được tính từ khởi công thực hiện dự án cho đến khi dự án
hoàn thành và đưa vào hoạt động. Do quy mô dự án thường lớn nên tốn nhiều thời
gian để hoàn thành, có khi tới hàng chục năm như các dự án giao thông, thủy điện
20
Thời gian thực hiện dự án kéo dài sẽ kéo theo sự ảnh hưởng đến tiến độ nghiệm thu
công trình và hoạt động của dự án, dẫn đến thời gian thu hồi vốn chậm và tăng khả
năng rủi ro; chi phí đầu tư càng lớn dẫn đến mất cân đối trong phân bổ nguồn lực và
ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như sản phẩm của dự án

trên thị trường.
- Thời gian thu hồi vốn đầu tư dài do vòng đời của dự án quyết định, thời
gian vận hành các kết quả đầu tư được tính từ khi đưa vào hoạt động cho đến khi
hết niên hạn và đào thải công trình. Trong quá trình vận hành dự án, các kết quả
đầu tư chịu tác động của cả hai mặt tích cực và tiêu cực của yếu tố tự nhiên, chính
trị, kinh tế, xã hội đây là đặc điểm có ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý hoạt
động đầu tư. Do vậy, công tác quản lý hoạt động đầu tư cần chú ý một số nội dung
sau:
+ Cần xây dựng cơ chế và phương pháp dự báo khoa học ở cả cấp vĩ mô và
vi mô về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư tương lai, dự kiến khả năng
cung từng năm và toàn bộ vòng đời của dự án.
+ Quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh chóng đưa các thành quả đầu tư vào
sử dụng, hoạt động tối đa công suất, sớm thu hồi vốn đầu tư tránh hao mòn vô hình.
Để vận hành tốt, cần chú ý bảo dưỡng, nâng cấp thành phần của công trình để đem
lại hiệu quả đầu tư, thu hồi vốn nhanh nhất, kéo thời gian thu lợi nhuận sau đó.
+ Chú ý đúng mức đến yếu tố độ trễ thời gian trong đầu tư, đầu tư trong năm
nhưng thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong năm đó mà từ
những năm sau và kéo dài trong nhiều năm, đây là đặc điểm rất riêng của đầu tư.
- Quá trình thực hiện đầu tư và thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh
hưởng lớn của các nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng: Các điều kiện tự nhiên
của vùng như khí hậu, thời tiết, đất đai có ảnh hướng tác động rất lớn trong quá
trình đầu tư, tình hình phát triển kinh tế xã hội tác động trực tiếp tới việc ra quyết
định và quy mô vốn đầu tư. Ngoài ra môi trường xã hội cũng ảnh hưởng rất lớn đến
việc thực hiện các dự án đầu tư như phong tục, tập quán, trình độ văn hóa địa
điểm đầu tư là nhân tố quan trọng quyết định quá trình thực hiện dự án và quá trình
vận hành kết quả thuận lợi và đạt hiệu quả hay không ? Do đó người lập dự án đầu
21

×