Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh Hà Tây trong thu hút vốn đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.02 KB, 75 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
Hà Tây là tỉnh có tiềm năng để tạo nên sức hút đầu tư tự nhiên do có vị
trí địa lý liền kề với thủ đô Hà Nội, trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có
điều kiện về địa hình, địa chất thuận lợi, hệ thống giao thông các loại phát
triển nhanh, lao động dồi dào… Tuy thế kinh tế của địa phương phát triển
chưa xứng tầm với tiềm năng vốn có của tỉnh, phải chăng lý do bắt nguồn từ
công tác thu hút và quản lý vốn đầu tư chưa được quan tâm đúng mức?
Để có thể khai thác triệt để mọi tiềm năng sẵn có nhằm tạo ra một động
lực phát triển cho tỉnh trong giai đoạn mới, giai đoạn hội nhập và hợp tác kinh
tế quốc tế như hiện nay thì công tác thu hút và sử dụng hiệu quả mọi nguồn
vốn đầu tư là đặc biệt quan trọng. Do vậy sở Kế Hoạch và Đầu Tư tỉnh Hà
Tây được thành lập có nhiệm vụ chính là kêu gọi thu hút và quản lý mọi hoạt
động đầu tư của tỉnh Hà Tây.
Trong quá trình thực tập tại Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Hà Tây em đã
thực hiện đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh Hà Tây trong thu
hút vốn đầu tư” cho chuyên đề thực tập của mình, qua đề tài này em hy vọng
mình sẽ có cơ hội hiểu sâu hơn và áp dụng được các kiến thức mình đã tiếp
thu trên lớp vào thực tế làm cơ sở cho quá trình công tác sau này.
Chuyên đề này được trình bày theo hai chương:
Chương I: Thực trạng năng lực cạnh tranh của tỉnh Hà Tây trong thu
hút vốn đầu tư trong giai đoạn 2000 – 2006
Chương II: Các giải pháp và kiến nghị
Lần đầu thực hiện một chuyên đề mang tính khái quát và đòi hỏi trình
độ lý luận cao nên em không tránh khỏi những sai sót trong trình bày và nội
dung, em mong sẽ được sự chỉ dẫn và góp ý của các thầy cô.
1

CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG THU HÚT
VỐN ĐẦU TƯ CỦA TỈNH HÀ TÂY GIAI ĐOẠN 2000 - 2006


I. Tiềm năng của tỉnh Hà Tây trong thu hút vốn đầu tư
Tỉnh Hà Tây được thành lập tháng 6 năm 1965 trên cơ sở sáp nhập hai
tỉnh Sơn Tây và Hà Đông.
Ngày 27 tháng 12 năm 1975 Hà Tây hợp nhất với tỉnh Hoà Bình thành
tỉnh Hà Sơn Bình. Năm 1978 hai thị xã Sơn Tây và Hà Đông, 5 huyện Ba Vì,
Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức của tỉnh Hà Sơn Bình cùng một
số xã của huyện Chương Mỹ, Thanh Oai, Thường Tín được chuyển về Hà Nội.
Tuy nhiên thị xã Hà Đông vẫn tạm thời là tỉnh lỵ tỉnh Hà Sơn Bình. Tháng 12
năm 1991 tỉnh Hà Tây được tái lập và 5 huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất,
Đan Phượng, Hoài Đức cùng 2 thị xã Sơn Tây và Hà Đông được trả về cho tỉnh
Hà Tây. Tháng 12 năm 2006 Thủ tướng chính phủ ký nghị định thành lập thành
phố Hà Đông thuộc tỉnh Hà Tây với diện tích tự nhiên là 4.791,7 ha, 228.715
nhân khẩu, có 15 đơn vị hành chính gồm 7 phường và 8 xã.
Hà Tây bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 12 huyện:
Thành phố Hà Đông
Thị xã Sơn Tây
Huyện Ba Vì
Huyện Chương Mỹ
Huyện Đan Phượng
Huyện Hoài Đức
Địa lý
Tỉnh lỵ Thành phố Hà
Đông
Miền Đồng bằng sông
Hồng
Diện tích 2.192,1 km
2
Các thị xã, huyện 1 thị xã và 12
huyện
2


Huyện Mỹ Đức
Huyện Phú Xuyên
Huyện Phúc Thọ
Huyện Quốc Oai
Huyện Thạch Thất
Huyện Thanh Oai
Huyện Thường Tín
Huyện Ứng Hoà
1. Tiềm năng về địa lý tự nhiên
Hà Tây là một tỉnh đồng bằng sông Hồng - miền Bắc Việt Nam, có toạ
độ địa lý: 20
0
31’ – 21
0
17’ vĩ độ bắc, 105
0
17’ -106
0
00’kinh đông, nằm liền kề
với Hà Nội, phía bắc giáp tỉnh Vĩnh phúc, Phú Thọ, phía đông giáp tỉnh Hưng
Yên, phía tây giáp tỉnh Hoà Bình, Phía Nam giáp tỉnh Hà Nam. Thực tế, tỉnh
Hà Tây bao bọc thành phố Hà Nội từ phía tây xuống phía nam, mặt khác lại
nằm liền kề với vùng tam giác kinh tế trọng điểm (Hà Nội - Hải Phòng -
Quảng Ninh), Hà Tây còn là một vùng đất nối liền giữa vùng Tây Bắc và
vùng Trung du Bắc Bộ và các tỉnh đồng bằng sông Hồng, với vị trí địa lý
thuận lợi đó tỉnh Hà Tây đang được cân nhắc là địa bàn xây dựng mới, là nơi
di chuyển các xí nghiệp công nghiệp của Hà Nội, tỉnh có thể tiêu thụ các sản
phẩm nông, lâm, thuỷ sản, vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng, hàng thủ công -
mỹ nghệ… vào Hà Nội và khu tam giác trọng điểm của các tỉnh phía bắc Hà

Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Hà Tây có địa hình đa dạng, vùng đồi núi phía tây và đồng bằng phía
đông, độ cao giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Vùng núi có độ cao
tuyệt đối 300m trở lên, diện tích 17.000 ha, địa hình dốc trên 25
0
, các núi đá
vôi tập trung ở phía Tây Nam tỉnh, địa hình bị chia cắt rất phức tạp, có nhiều
hang động lớn. Địa hình vùng đồng bằng tương đối bằng phẳng, mang đặc
trưng vùng đồng bằng Bắc Bộ, ô trũng đê viền.
3

Do đặc điểm của điạ hình, Hà Tây chia thành 3 vùng có khí hậu khác
nhau: vùng đồng bằng có khí hậu của đồng bằng sông Hồng, chịu ảnh hưởng
của gió biển, nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,8
0
C, lượng mưa trung bình
1.700 mm – 1.800 mm; vùng đồi gò có khí hậu lục địa chịu ảnh hưởng của
gió Lào, nhiệt độ trung bình 24,5
0
C, lượng mưa trung bình 2.300 mm – 2.400
mm; vùng núi cao chủ yếu khu vực Ba Vì có khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung
bình là 18
0
C.
Với một hệ khí hậu vô cùng phong phú như vậy đã tạo điều kiện cho hệ
động thực vật ở đây phát triển mạnh mẽ, Hà Tây có 2 khu rừng tự nhiên:
rừng Quốc Gia Ba Vì có diện tích 7.400 ha với chủng loại thực vật phong phú
và quý hiếm, 872 loài thực vật bậc cao thuộc 427 chi, trong 60 họ đã được xác
định. Khu rừng chùa Hương (huyện Mỹ Đức) cũng có nhiều loài thực vất quý
hiếm, được nhà nước công nhận là khu văn hoá lịch sử, được phân loại là

rừng đặc dụng.
Hà Tây có tiềm năng về quỹ đất và khả năng phát triển các loại cây
trồng, vật nuôi. Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 219.299,92 ha. Trong
đó đất nông nghiệp là 122.179,31 ha (chiếm 55,7%), đất lâm nghiệp là
15.099,04 ha (6,88%), đất chuyên dùng 39.744,07 ha (18,14%), đất ở đô thị
645.0,6 ha (0,29%), đất ở nông thôn 12.255,27 ha (5,59%), đất chưa sử dụng
29.343.17 ha (13,38%).
Theo kết quả điều tra, Hà Tây có một số khoáng sản chính: đá vôi ở Mỹ
Đức, Chương Mỹ trữ lượng 7,2 triệu tấn; sét ở phía Đông Nam thị xã Sơn Tây
có trữ lượng 4.129 tấn, và ở Tiền Phương (Chương Mỹ) có trữ lượng 15 triệu
m
3
, Puzơlan ở Thái Hoà (Ba Vì) trữ lượng 124.662 tấn; vàng ở Phú Mãn,
Xuân Mai (Chương Mỹ), đôlômit ở Phượng Cách (Quốc Oai), Atbe ở Đông
Chay, Yên Bái (Ba vì) mới phát hiện; Latenít ở Phượng Cách, Đông Yên
(Quốc Oai) lớp đá ong >2,7m.
2. Tiềm năng về nguồn nhân lực
4

Dân số của tỉnh Hà Tây
năm 2003 có khoảng 2,47 triệu
người với mật độ dân số 1.126
người/km
2
Thành phần dân số dân nông thôn chiếm 91%, còn 9% là dân thành thị.
Thành phần dân tộc: Kinh, Mường
3. Tiềm năng về kinh tế xã hội
Hà Tây có 2.000 di tích lịch sử và gần 400 di tích được Nhà nước xếp
hạng, trong đó 12 di tích đặc biệt quan trọng, cùng với đình, chùa, đền, miếu
và lễ hội được tổ chức hàng năm làm phong phú thêm đời sống văn hoá tinh

thần của nhân dân. Gắn liền với các di tích lịch sử phát triển của dân tộc qua
đấu tranh dựng nước và giữ nước như vùng núi cao Ba Vì với huyền thoại
Sơn Tinh - Thuỷ Tinh nay là rừng Quốc Gia Ba Vì, dưới chân núi có nhiều
cảnh đẹp, xây dựng các điểm du lịch: Ao Vua, Khoang Xanh, Suối Tiên, Thác
Mơ, Suối Hai, Đồng Mô… Dãy núi đá vôi trùng điệp phía Tây Nam tỉnh
(Quốc Oai, Chương Mỹ, Mỹ Đức) có nnhiều hang động độc đáo, kỳ thú, tiêu
biểu là động Hương Tích tạo nên tthắng cảnh Hương Sơn nổi tiếng trong
nước và thế giới, hàng năm thu hút hàng vạn khách thập phương đến du lịch
và trẩy hội.
Hà Tây còn có nhiều đình chùa có giá trị cao về kiến trúc, điêu khắc,
nghệ thuật và tôn giáo: chùa Đậu (Thường Tín) có tên “Thành Đạo Tử”, chùa
Tây Phương (Thạch Thất) có kiến trúc độc đáo nổi tiếng với 80 vị La Hán,
chùa Thầy (Quốc Oai) có tên “Thiên Phúc Tự” nơi tu hành cho cao tăng Từ
Đạo Hạnh được xây dựng từ đời Lý, chùa Bối Khê, chùa Trăm Gian, chùa
Trầm, Đền Và, chùa Mía có 278 pho tượng, lăng Ngô Quyền, đền Nguyễn
Trãi, thành cổ Sơn Tây… đều là di tích lịch sử nổi tiếng.
Tỉnh có 3 cụm du lịch: cụm Sơn Tây – Ba Vì là du lịch văn hoá sinh
thái, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí, tham quan di tích lịch sử và văn hoá dân
số dân
• mật độ
• Nông thôn
• Thành thị
2.500.000 người
1.140,5 người/km
2
91%
9%
Dân tộc Việt, Mường, Dao,
Tày
5


gian, nghỉ cuối tuần. Cụm chùa Hưong là du lịch tín ngưỡng, tham quan di
tích lịch sử, cảnh quan thiên nhiên, du lịch hang động. Cụm Hà Đông và phụ
cận là du lịch xanh, du lịch văn hoá trong các làng nghề và làng nông nghiệp
truyền thống, du lịch thương mại.
Bên cạnh đó, 120 làng nghề với những sản phẩm đặc sắc và được nhiều
người ưa chuộng như lụa Vạn Phúc, nón Chuông, quạt Vác, khảm Trai
Chuyên Mỹ, hàng mây tre Phú Vinh, đồ mộc Chàng Sơn, tượng gỗ Sơn Đồng
v.v. đã không chỉ cung cấp công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động mà còn
là một tiềm năng du lịch quan trọng góp phần vào phát triển kinh tế của vùng.
Hiện nay, Hà Tây đang gọi vốn đầu tư liên doanh trong nước và nước
ngoài để xây dựng cơ sở khách sạn, nhà hàng theo quy hoạch; đào tạo đội ngũ
quản lý, công nhân viên phục vụ trong ngành du lịch về nghề nghiệp và ngoại
ngữ; tập trung đầu tư vốn nâng cấp hệ thống giao thông trong tuyến du lịch
khép kín, đảm bảo điện lưới, thông tin liên lạc hiện đại và vệ sinh môi trường
ở các cụm du lịch.
Hà Tây liền kề với thủ đô Hà Nội, có điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý
thuận lợi, đất đai phong phú, cảnh quan đẹp, rất có điều kiện phát triển để trở
thành một khu vực vệ tinh phát triển trên cả 3 lĩnh vực: Nông nghiệp, công
nghiệp và du lịch dịch vụ. Trong những năm tới, tỉnh Hà Tây phấn đấu kết
hợp hài hoà các nguồn lực bên trong và bên ngoài, nhất là vốn đầu tư, kỹ
thuật, công nghệ và nguyên liệu, phát triển mạnh và đồng bộ hệ thống kết cấu
hạ tầng, tạo điều kiện cho quá trình trao đổi hàng hoá và phát triển các loại
hình dịch vụ.
Với tiềm năng về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và nguồn nhân lực như
vậy là một lợi thế to lớn cho Hà Tây trong thu hút vốn đầu tư tuy nhiên trên
thực tế lượng vốn đầu tư mà tỉnh thu hút được trong thời gian qua chưa hoàn
toàn tương xứng với những tiềm năng đó.
Đánh giá về khả năng thu hút vốn đầu tư của một địa phương chúng ta
có thể nhìn vào chỉ số năng lực cạnh tranh của địa phương đó bởi vì chỉ số

6

năng lực cạnh tranh của một địa phương thể hiện mức độ thuận lợi của môi
trường đầu tư của địa phương đó, địa phương nào có chỉ số năng lực cạnh
tranh cao có nghĩa môi trường đầu tư của tỉnh đó rất thuận lợi, và các doanh
nghiệp , các nhà đầu tư dĩ nhiên không thể bỏ qua mà không đầu tư vào địa
phương này, có thể nói khả năng thu hút vốn đầu tư của một địa phương tỉ lệ
thuận với chỉ số năng lực cạnh tranh của địa phương đó.
II. Chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh Hà Tây trong 2 năm 2005 và
2006.
1. Năng lực cạnh tranh là gì?
1.1.Cạnh tranh
Theo từ điển Tiếng Việt thì cạnh tranh là giành giật nhau để chiếm
phần thắng.
Đó là một cách hiểu chung nhất còn khi xét trên từng phương diện cụ
thể thì chúng ta có nhiều cách hiểu khác nhau vể cạnh tranh. Cạnh tranh theo
quan điểm của Mark khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, là sự ganh đua, sự
đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận
lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận siêu nghạch. Quan
niệm này coi cạnh tranh có nguồn gốc từ chế độ tư hữu, xem xét cạnh tranh là
sự lấn át, chèn ép nhau để tồn tại.
Cạnh tranh theo quan niệm của thế giới hiện đại được hiểu đơn giản là
quá trình mà doanh nghiệp khẳng định sự có mặt của mình trên thương
trường, nơi có vô số các doanh nghiệp khác cũng đang tồn tại và thông qua
các chiến lược kinh doanh để mở rộng thị phần, tìm kiếm thậm chí giành giật
từng khách hàng nhằm không ngừng nâng cao uy tín của mình. Nói một cách
khác, cạnh tranh đối với các doanh nghiệp có nghĩa là đảm bảo, duy trì và
phát triển vị trí trên thương trường trong nước và quốc tế. Đó là khả năng của
một doanh nghiệp có thể bán được nhiều sản phẩm hơn, tăng thị phần, tăng
lợi nhuận và tăng mức sống của người lao động.

7

Cạnh tranh gắn liền với cơ chế thị trường và trở thành quy luật kinh tế
đặc thù của nền kinh tế đa thành phần và đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
Thông qua cạnh tranh toàn xã hội có thể thu được những lợi ích cao nhất từ
những nguồn lực hạn chế của mình.
Theo một số khái niệm trên đây thì cạnh tranh còn được hiểu một cách
bó hẹp trong phạm vi là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với mục đích cũng
rất hạn hẹp là để tăng lợi nhuận hoặc tăng, giữ vững thị phần. Tuy nhiên ngày
nay thuật ngữ “cạnh tranh” được sử dụng một cách vô cùng rộng rãi và linh
hoạt, do vậy mà trong trường hợp này thì định nghĩa của từ điển Tiếng Việt
nên được vận dụng: Cạnh tranh tức là giành giật nhau để chiếm phần thắng.
Như vậy thuật ngữ cạnh tranh được sử dụng trong chuyên đề này là sự
cạnh tranh giữa cách tỉnh để nhằm tranh giành các nhà đầu tư với nhau. Để
hiểu rõ được thuật ngữ cạnh tranh theo cách sử dụng này chúng ta có thể hình
dung 64 tỉnh, thành trong cả nước là các nhà cung cấp cùng một loại hàng hoá
như nhau và các nhà đầu tư trong và ngoài nước là các khách hàng. Loại hàng
hoá mà các “nhà cung cấp” ở đây cung cấp cho các nhà đầu tư chính là môi
trường đầu tư của mình.
Mặc dù môi trường đầu tư được định nghĩa là bao gồm cả ba yếu tố:
các yếu tố về môi trường cứng (như cơ sở hạ tầng,…), môi trường mềm; các
chi phí các doanh nghiệp phải bỏ ra để gia nhập thị trường; Nhưng trong
chuyên đề này để dế dàng trong phân tích về vấn đề năng lực cạnh tranh của
địa phương xin hiểu theo một cách khác, trong đó môi trường đầu tư chính là
hàng hoá và chỉ bao gồm các yếu tố về môi trường cứng, môi trường mềm,
còn chi phí gia nhập thị trường chính là giá mà nhà đầu tư – khách hàng phải
trả khi sử dụng sản phẩm hàng hoá đó.
Theo đó, tỉnh hoặc địa phương nào có môi trường đầu tư tốt nhất (theo
các tiêu chí đánh giá của dự án nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh do
phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam cùng dự án nâng cao năng lực

cạnh tranh Việt Nam hợp tác xây dựng năm 2005) với chi phí thấp nhất mà
8

các nhà đầu tư phái trả để được sử dụng môi trường đầu tư đó thì tỉnh hoặc
địa phương đó sẽ hấp dẫn được nhà đầu tư nhất. Tuy mục đích cạnh tranh của
các địa phương không phải là lợi nhuận hoặc thị phần nhưng cũng như các
doanh nghiệp mục đích cuối cùng của cạnh tranh cũng chính là sự tồn tại và
phát triển của địa phương, là sự cải thiện và nâng cao đời sống cho người dân
địa phương.
1.2 Năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp có thể hiểu theo nhiều cách
khác nhau:
Theo Fafchams: khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp chính là
khả năng doanh nghiệp đó có thể sản xuất ra sản phẩm với chi phí trung bình
thấp hơn giá của sản phẩm đó trên thị trường. Theo cách hiểu này, doanh
nghiệp nào sản xuất ra các sản phẩm tương tự như của các doanh nghiệp khác
nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có năng lực cạnh tranh.
Randall lại cho rằng: khả năng cạnh tranh là khả năng giành được và
duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định.
Theo Dunning: khả năng cạnh tranh là khả năng cung ứng sản phẩm
của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác nhau mà không phân biệt nơi
bố trí sản xuất của doanh nghiệp.
Một quan niệm khác cho rằng: năng lực cạnh tranh là trình độ công
nghệ sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường đồng thời duy trì
được thu nhập của mình.
Như vậy năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp được hiểu là năng
lực của các doanh nghiệp có thể khắc phục được khó khăn và nắm bắt lấy các
cơ hội nhằm tồn tại và ngày càng phát triển so với các doanh nghiệp khác.
Năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp có thể được đánh giá qua
một số chỉ tiêu sau:

- Thị phần của doanh nghiệp
- Doanh thu/doanh thu của các đối thủ cạnh tranh mạnh nhất.
9

- Tỷ lệ chi phí marketing/tổng doanh thu
- Tỷ suất lợi nhuận.
Xét trên phương diện một tỉnh, năng lực cạnh tranh của một tỉnh hoặc
một thành phố là khả năng tỉnh hoặc thành phố đó có thể khắc phục các khó
khăn thách thức và nắm bắt các cơ hội nhằm thu hút được các nhà đầu tư tiềm
năng về đầu tư tại địa phương mình chứ không phải là địa phương khác.
Trở lại với khái niệm cạnh tranh xét trên phạm vi một doanh nghiệp.
Khi các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau thì ba vũ khí chính được sử
dụng, đây cũng chính là một trong những thước đo chính xác thể hiện năng
lực cạnh tranh của một doanh nghiệp.
Ba vũ khí đó là: sản phẩm, giá cả và dịch vụ chăm sóc khách hàng.
Xét trên phương diện một tỉnh hoặc thành phố thì khái niệm năng lực
cạnh tranh của tỉnh (thành phố) còn gắn liền với khái niệm môi trường đầu tư,
bởi như chúng ta đã đề cập ở trên, khi xem một tỉnh (thành phố) là một nhà
cung cấp hàng hoá thì môi trường đầu tư chính là sản phẩm hàng hoá mà một
nhà cung cấp cung cấp cho khách hàng của mình là các nhà đầu tư hay các
doanh nghiệp. Như vậy nâng cao năng lực cạnh tranh của các tỉnh (thành phố)
chính là cải thiện nâng cao môi trường kinh doanh của tỉnh (thành phố) mình,
điều này tương đương với việc nâng cao chất lượng sản phẩm ở các doanh
nghiệp, làm cho sản phẩm của mình trở nên khác biệt hơn hẳn so với các đối
thủ cạnh tranh, tức môi trường đầu tư ở tỉnh đó phái thông thoáng; các quy
định về đầu tư, ưu đãi đầu tư phải rõ ràng, cụ thể, đơn giản, dể hiểu, dế thực
hiện; cơ hạ tầng hiện đại, đáp ứng được các nhu cầu cho hoạt động đầu tư, sản
xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp; … điều này nếu hiểu theo ngôn ngữ
marketing đó chính là chíên lược cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm.
Cùng với chất lượng sản phẩm thì giá thành sản phẩm chính là yếu tố

quan trọng thứ hai mà khách hàng cân nhắc khi lựa chọn một sản phẩm. Một
nhà đầu tư sau khi đã xem xét xong các yếu tố của môi trường đầu tư rồi thì
điều tiếp theo họ làm là xem xét chi phí mà họ phải bỏ ra để có thể đầu tư tại
10

địa bàn tỉnh, đó là chi phí giải phóng mặt bằng, chi phí xin mua, hay thuê đất;
chi phí điện nước sản xuất,… nếu có hai hoặc ba địa phương có các yếu tố
của môi trường đầu tư tương đương nhau thì địa phương nào có chi phí đầu tư
thấp hơn tất nhiên nhà đầu tư sẽ chọn đầu tư ở điạ phương đó
Bên cạnh chất lượng sản phẩm và giá cả, dịch vụ chăm sóc khách hàng
trong thời gian gần đây đã đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc chi
phối đến các quyết định của khách hàng.
Như vậy theo cách hiểu môi trường đầu tư của một địa phương là một
sản phẩm hàng hoá mà các địa phương rao bán cho các nhà đầu tư, chi phí gia
nhập thị trường tại địa phương là giá cả của sản phẩm môi trường đầu tư đó
thì dịch vụ chăm sóc khách hàng chính là sự quan tâm, chăm sóc các nhà đầu
tư của chính quyền địa phương cả trước khi, trong và sau khi nhà đầu tư thực
hiện đầu tư kinh doanh trên địa bàn tỉnh. Cụ thể đó là sự quan tâm, đồng cảm
của chính quyền với các khó khăn vướng mắc của nhà đầu tư, sự nhanh chóng
nhiệt tình của cơ quan có chức năng trong giải quyết các vướng mắc của các
nhà đầu tư hay việc tạo điều kiện tiếp xúc gặp gỡ thường xuyên với các nhà
đầu tư để họ có cơ hội chia sẻ các vướng mắc gặp phải…
Nếu mỗi điạ phương tạo được một môi trường đầu tư lành mạnh với chi
phí gia nhập thị trường cạnh tranh và một thái độ thân thiện, niềm nở với các
nhà đầu tư thì trong một tương lai không xa các nhà đầu tư sẽ tìm đến và vun
xới cho mảnh đất xanh tươi đó ngày càng đơm nhiều hoa thơm trái ngọt.
2. Tóm tắt về phương pháp điều tra và đánh gía chỉ số năng lực cạnh tranh
(PCI)
2.1 Phương pháp điều tra và đánh giá chỉ số năng lực cạnh tranh
Dự án nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (sau đây gọi tắt là dự án

PCI) do phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) và dự án nâng
cao năng lực cạnh tranh Việt Nam hợp tác xây dựng từ năm 2005, được cơ
quan phát triển quốc tế Hoa kỳ (USAID) tài trợ, mục tiêu của dự án là đánh
giá, xếp hạng môi trường kinh doanh và chính sách phát triển khu vực kinh tế
11

tư nhân của các tỉnh và thành phố trong cả nước thông qua việc xem xét chỉ
của các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ đăng ký tại các địa phương.
Để có được kết quả đánh giá, nhóm nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu thu
thập được từ một điều tra hơn 2.000 doanh nghiệp tại 42 tỉnh khác nhau trong
cả nước. Ban nghiên cứu Dự án tiến hành lập phiếu điều tra đề nghị các doanh
nghiệp đánh giá về các chỉ số thành phần cấu thành năng lực cạnh tranh. Chỉ
số cấu thành để xếp hạng PCI là : chi phí gia nhập thị trường, tính năng động
và tiên phong, tính minh bạch và trách nhiệm; ưu đãi doanh nghiệp Nhà nước,
chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân; đất đai và mặt bằng kinh
doanh; chi phí thời gian/thanh kiểm tra; chi phí không chính thức; thực hiện
chính sách của trung ương, ấn định cho mỗi chỉ số thành phần một trọng số
nhất định phụ thuộc vào tầm quan trọng của chỉ số đó; phát phiếu điều tra
theo đường bưu điện cho các doanh nghiệp theo địa chỉ đề trong đăng ký kinh
doanh; thu thập phiếu điều tra; tập hợp kết quả đánh giá của các doanh
nghiệp; tổng hợp số điểm của các chỉ số để xác đỉnh tổng số đạt được (tổng số
điểm này đã được chuẩn hoá về thang điểm 100) từ đó xác định chỉ số năng
lực cạnh tranh cấp tỉnh. Kết quả xếp hạng được chia thành 5 nhóm tỉnh theo
thứ tự : Tốt, khá, trung bình, tương đối thấp và thấp. Khoảng các giữa các
nhóm là từ 2/3 điểm trở lên.
Theo kết quả điều tra của năm 2005, nhóm tốt nhất bao gồm các tỉnh:
Bình Dương, Đà Nẵng, Vĩnh Long, Bến Tre, Vĩnh phúc, Đồng Nai với các
điểm số lần lượt là 76.82; 70.67; 68.56; 65.24; 65.09; 64.14; 62.93. Đây là
những tỉnh có kết quả tốt đối với hầu hết các chỉ số cấu thành, thực hiện tốt
đối với những chỉ số quan trọng nhất.

So với năm 2005, trong phiếu điều tra PCI 2006 có thêm hai chỉ số
thành phần là chỉ số về đào tạo lao động và thiết chế pháp lý, ngoài ra
Chỉ số PCI là một cơ sỏ để lãnh đạo tỉnh, thành phố có thế nhận diện rõ
hơn điểm mạnh, điểm yếu của tỉnh, thành phố mình. Các tỉnh có thế nâng cao
12

kết quả hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân thông qua việc cải thiện điểm
số ở những chỉ số thành phần thấp nhất.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của địa phương.
2.2.1 Chi phí gia nhập thị trường
Chi phí gia nhập thị trường là chỉ tiêu chỉ tổng các chi phí (cả chi phí
về thời gian và tiền bạc) mà mỗi doanh nghiệp phải chi trả để thành lập doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh. Chi phí này càng cao thì điểm số của địa phương
càng thấp, địa phương bị đánh giá là có lực cản gia nhập thị trường đối với
các nhà đầu tư là lớn.
Chi phí gia nhập thị trường được xác định dựa trên các thông số:
• phần trăm doanh nghệp phải mất hơn 1 tháng để khởi sự kinh doanh
• phần trăm doanh nghiệp phải mất hơn 3 tháng để khởi sự kinh
doanh
• thời gian chờ đợi thật sự để được cấp đất (căn cứ vào nỗ lực của
chính quyền, không phải các điều kiện cung cầu)
• thời gian đăng kí kinh doanh (số ngày)
• Thời gian đăng kí lại (số ngày)
• Số lượng giấy đăng kí, giấy phép kinh doanh và quyết định chấp
thuận mà doanh nghiệp hiện có
• Phần trăm doanh nghiệp gặp khó khăn mới có đủ các loại giấy phép
cần thiết
2.2.2 Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất:
Chỉ số này cho biết mức độ khó khăn mà các doanh nghiệp phải đối
mặt khi tiến hành xin cấp đất phục vụ cho hoạt động đầu tư. Việc tiếp cận đất

đai các doanh nghiệp càng khó khăn và sự ổn định trong sử dụng đất càng
thấp thì điểm số này của địa phương càng thấp.
2.2.2.1 Tiếp cận đất đai
13

• Phần trăm doanh nghiệp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc
đang trong quá trình chờ nhận
• Khả năng mở rộng kinh doanh nếu dễ có mặt bằng kinh doanh hơn
• Phần trăm doanh nghiệp thuê lại đất từ DNNN
• Đánh giá của doanh nghiệp về nỗ lực của chính quyền tỉnh trong việc
chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp
• Phần trăm diện tích đất có giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất
2.2.2.2 Sự ổn định trong sử dụng đất
• Rủi ro mặt bằng kinh doanh do bị chính quyền thu hồi cho mục đích
khác
• Đánh giá về mức thoả đáng của số tiền bồi thường
• Rủi ro về thay đổi các điều kiện cho thuê
• Đánh giá về tính công bằng trong cách thức giải quyết tranh chấp về
hợp đồng cho thuê
• Thời hạn thuê
2.2.3 Tính minh bạch và tiếp cận thông tin:
Chỉ tiêu này giúp đánh giá sự thoáng của môi trường đầu tư ở mỗi địa
phương thông qua đánh giá khả năng tiếp cận những thông tin liên quan đến
hoạt động đầu tư và kinh doanh của địa phương. Hệ thống thông tin càng
minh bạch và doanh nghiệp càng dế dàng tiếp cận thông tin thì điểm số này
của địa phương càng cao.
2.2.3.1 Tính minh bạch khác
• Tính minh bạch của các tài liệu kế hoạch
• Tính minh bạch của các quyết định, nghị định
2.2.3.2 Tính công bằng và sự ổn định trong việc áp dụng các quy định

• Vai trò của các “mối quan hệ” để có được các tài liệu kế hoạch của
tỉnh
• Vai trò của gia đình bạn bè khi thương lượng với cán bộ nhà nước
14

• Thương lượng với cán bộ thuế là phần thiết yếu trong hoạt động
kinh doanh
2.2.3.3 Khả năng có thể dự đoán và tính ổn định của các quy định, chính sách
• Khả năng có thể dự đoán của việc thực thi pháp luật của tỉnh
• Tỉnh có trao đổi ý kiến với doanh nghiệp về những thay đổi trong
các quy định pháp luật
• Chất lượng dịch vụ tư vấn do cơ quan của tỉnh cung cấp
2.2.3.4 Tính cởi mở: đánh giá trang web của tỉnh. Lưu ý:chỉ tiêu này có hệ số
là 40% khi tính điểm chỉ số thành phần này
2.2.4 Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước:
Chỉ số này cho biết mức độ nhiệt tình và năng nổ của cán bộ tỉnh trong
việc giúp các doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định của nhà nước, đồng
thời nó cũng phản thông ánh mức độ thông thoáng, đơn giản gọn nhẹ của hệ
thống hành chính của địa phương.
• Số ngày làm việc với chính quyền địa phương giảm đi sau khi có
Luật Doanh Nghiệp
• Phần trăm doanh nghiệp sử dụng hơn 10% quỹ thời gian để làm việc
với chính quyền
• Số cuộc thanh tra và số giờ làm việc với thanh tra thuế
• Tỉ lệ giảm số cuộc thanh tra sau khi có luật Doanh Nghiệp
2.2.5 Chi phí không chính thức:
• Chỉ số này được xác định dựa trên các tiêu thức
• Các chi phí không chính thức là cản trở chính đối với hoạt động kinh
doanh
• Các doanh nghiệp cùng nghành đều phải trả chi phí không chính

thức
• Phần trăm doanh nghiệp tốn hơn 10% doanh thu cho các chi phí
không chính thức
15

• Cán bộ tỉnh sử dụng quỹ riêng của địa phương với mục đích trục lợi
• Công việc được giải quyết sau khi chi trả chi phí không chính thức
2.2.6 Ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước (môi trường cạnh tranh)
2.2.6.1 Đánh giá của doanh nghiệp
• Tỉnh ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước
• Tỉnh ưu đãi doanh nghiệp cổ phần hoá
• Thái độ của tỉnh đối với doanh nghiệp tư nhân
• Thái độ đối với doanh nghiệp tư nhân đang được cải thiện
• Những đóng góp về tài chính ảnh hưởng đến thái độ đối với doanh
nghiệp tư nhân
• Đánh giá của doanh nghiệp trong nỗ lực thực hiện cổ phần hoá của
tỉnh
2.2.6.2 Điểm số liệu cứng về ưu đãi đối với DNNN
• Tương quan về tỉ trọng nợ của DNNN do địa phương quản lý trong
tổng số nợ của các doanh nghiệp của tỉnh so với tỉ trọng doanh thu của các
DNNN do địa phương quản lý trong tổng doanh thu của các doanh nghiệp của
tỉnh
• Phần trăm thay đổi về số lượng DNNN do địa phương quản lý (2000
– 2004)
• Tỷ trọng dư nợ cho vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh
cho các DNNN
2.2.7 Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá về một khía cạnh của năng lực cạnh
tranh của tỉnh thông qua việc đánh giá về sự năng nổ nhiệt tình, sự sáng tạo
của lãnh đạo tỉnh trong việc giúp các doanh nghiệp giải quyết các khó khăn.

Chỉ số này được xây dựng dựa trên các tiêu thức sau:
• Tỉnh triển khai tốt các quy định của Trung ương
16

• Tỉnh sáng tạo và sáng suốt trong việc giải quyết các khó khăn, trở
ngại đối với cộng đồng doanh nghiệp
• Tỉnh có nhiều sáng kiến tốt nhưng còn nhiều cản trở ở Trung ương
• Không có sáng kiến nào cấp tỉnh
• Tỉnh tham khảo ý kiến của doanh nghiệp khi xây dựng các quy định
2.2.8 Chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân:
Chỉ tiêu này cho thấy phương hướng phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh
và những nỗ lực cũng như các biện pháp mà tỉnh đã thực hiện để khuyến
khích sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Chỉ tiêu này được xác định dựa trên những tiêu thức sau:
2.2.8.1 Đánh giá chất lượng dịch vụ công
• Thông tin thị trường và xúc tiến thương mại
• Công nghệ và các dịch vụ liên quan đến công nghệ
• Thông tin tìm kiếm đối tác kinh doanh, đầu tư cho các nhà sản xuất
địa phương
• Xúc tiến xuất khẩu và hội chợ thương mại
• Khu công nghiệp
2.2.8.2 Các chỉ tiêu từ dữ liệu cứng
• Số lượng hội chợ thương mại do tỉnh tổ chức (2004 – 2005)
So với năm 2005, trong phiếu điều tra PCI 2006 có thêm hai chỉ số
thành phần là chỉ số về đào tạo lao động và thiết chế pháp lý.
2.2.9 Chỉ số về đào tạo lao động
Nhằm đánh giá những nỗ lực của chính quyền tỉnh trong việc giải quyết
sự thiếu hụt về lao động có kỹ năng tại địa phương.
Chỉ tiêu này được xác định dựa trên các tiêu thức sau:
• Chất lượng dịch vụ giáo dục do các cơ quan của tỉnh cung cấp

• Chất lượng dịch vụ đào tạo nghề cho người lao động do các cơ quan
của tỉnh thực hiện
17

• Số lượng trường dạy nghề, có điều chỉnh theo số dân của từng tỉnh
2.2.10 Chỉ số về thiết chế pháp lý đánh giá mức độ tin tưởng của doanh
nghiệp đối với các thiết chế pháp lý tại địa phương.
Chỉ số này được xác định dựa trên các tiêu thức sau:
• Hệ thống pháp lý tạo ra cơ chế để doanh nghiệp có thể khởi kiện
hành vi tham nhũng của cán bộ công quyền
• Lòng tin của doanh nghiệp vào thiết chế pháp lý
• Chủ yếu sử dụng thiết chế pháp lý để giải quyết tranh chấp
• Số vụ tranh chấp (mà bên nguyên không phải là DNNN hay DN có
vốn đầu tư nước ngoài) quân trên 100 doanh nghiệp đang hoạt động
Lưu ý: ba chỉ tiêu mềm đầu tiên có hệ số 60%, một chỉ tiêu cứng cuối
cùng có hệ số 40% khi tính điểm chỉ số thành phần này.
Bảng 1: Trọng số của các chỉ số thành phần
Chỉ số
Trọng số
trung bình
(%)
Trọng số
làm tròn
(%)
Loại
trọng số
Chính sách phát triển kinh tế tư nhân
Tính minh bạch
Đào tạo lao động
Tính năng động và tiên phong của

lãnh đạo tỉnh
Chi phí thời gian để thực hiện các
quy định của Nhà nước
Thiết chế pháp lý
Ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà
nước
Chi phí không chính thức
Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong
17,2
16,2
15,3
13,2
11,8
7,7
6,0
5,7
3,6
15
15
15
15
10
10
5
5
5
Cao
Cao
Cao
Cao

Trung bình
Trung bình
Thấp
Thấp
Thấp
18

sử dụng đất
Chi phí gia nhập thị trường 3,3
100%
5 Thấp
Ngoài ra, PCI 2006 còn cải tiến và hoàn thiện những chỉ số thành phần
hiện có để có một đánh giá tổng quan và chính xác hơn.
Theo tiến sĩ David Ray, Phó giám đốc Dự án VNCI, PCI 2006 có ba
nét mới quan trọng. Thứ nhất, phiếu điều tra được gứi tới hơn 31.000 doanh
nghiệp trên phạm vi 64 tỉnh, thành – tăng gấp đôi so với năm trước, số phiếu
trả lời tăng gấp ba, tỉ lệ phản hồi trên 20%, đạt hơn 6.300 phiếu.
Đáng chú ý là hầu hết các tỉnh đều có trên 50 phiếu trả lời và không có
tỉnh nào có số phiếu phản hồi dưới 35. Điều này giúp cho việc phân tích và xử
lý số liệu có độ tin cậy cao.
Thứ hai, PCI 2006 có thêm hai chỉ số thành phần là chỉ số về đào tạo
lao động và chỉ số về thể chế pháp lý.
Và thứ ba là cải cách những chỉ số thành phần hiện có.
2.3 Với chỉ số bằng bao nhiêu thì đảm bảo thu hút được vốn đầu tư?
Xem xét chỉ số năng lực cạnh tranh của một số tỉnh và thành phố qua
bảng sau:
Bảng 2: Chỉ số năng lực cạnh tranh của một số tỉnh và thành phố
Stt Tĩnh, thành phố Chỉ số PCI 2006 Xếp hạng
1. Bình Dương
76,23

Rất Tốt
2. Đà Nẵng
75,39
3. Bình Định
66,49
Tốt
4. Vĩnh Long
64,67
5. Đồng Nai
64,64
19

6. Lào Cai
64,11
7. TP Hồ Chí Minh
63,39
8. Vĩnh Phúc
61,27
9. An Giang
60,45
10. Cần Thơ
58,30
Khá
11. Đồng Tháp
58,13
12. Yên Bái
56,85
13. Trà Vinh
56,83
14. Quảng Nam

56,42
15. Bắc Giang
55,99
16. Hưng Yên
55,97
17. Bà Rịa Vũng Tàu
55,95
18. Ninh Bình
55,82
19. Sóc Trăng
55,34
20. Khánh Hoà
55,33
21. Phú Yên
54,93
22. Bắc Ninh
54,79
20

23. Nghệ An
54,43
24. Phú Thọ
54,42
25. Quảng Ninh
53,25
Trung Bình
26. Bến Tre
53,11
27. Gia Lai
53,06

28. Thái Nguyên
52,71
29. Hải Dương
52,70
30. Bình Thuận
52,66
31. Hậu Giang
52,61
32. Lâm Đồng
52,25
33. Tiền Giang
52,18
34. Quảng Trị
52,18
35. Đắc Lắc
51,65
36. Kiên Giang
51,27
37. Thái Bình
50,54
38. TT- Huế
50,53
39. Long An
50,40
21

40. Hà Nội
50,34
41. Hoà Bình
50,17

42. Hải Phòng
49,98
43. Lạng Sơn
49,64
44. Nam Định
48,89
Tương
ĐốiThấp
45. Bắc Cạn
48,73
46. Hà Giang
48,49
47. Tây Ninh
48,35
48. Quảng Bình
47,90
49. Hà Nam
47,27
50. Tuyên Quang
47,21
51. Cao Bằng
46,63
52. Bình Phước
46,29
53. Ninh Thuận
45,82
54. Thanh Hoá
45,30
55. Sơn La
45,22

56. Quảng Ngãi
44,20
22

57. Cà Mau
43,99
58. Bạc Liêu
42,89
Thấp
59. Hà Tĩnh
42,35
60. Điện Biên
42,28
61. Kon Tum
41,38
62. Hà Tây
40,73
63. Đăk Nông
38,91
64. Lai Châu
36,76
Có thể biểu diễn bảng chỉ số trên thông qua biểu đồ:
23

24

Như vậy chỉ số cạnh tranh PCI được tính toán nhằm so sánh năng lực cạnh
tranh giữa các địa phương. Chỉ số cạnh tranh giữa các địa phương sau khi được
tính toán xong dựa vào mối tương quan tương đối giữa chỉ số của các tỉnh mà
người ta sắp xếp chúng vào 5 nhóm sau: rất tốt, tốt, khá, trung bình, tương đối

thấp và thấp, do vậy nó không phản ánh cụ thể mức độ hấp dẫn, thu hút các nhà
đầu tư của các địa phương. Tuy nhiên nhìn vào cách xếp hạng chúng ta có thể
thấy rằng chỉ những địa phương có chỉ số năng lực cạnh tranh từ 50 điểm trở lên
mới được xếp vào nhóm trung bình, khá, tốt và rất tốt.
Trong 64 tỉnh và thành phố được xem xét, xếp hạng chỉ có 2 tỉnh được xếp
hạng rất tốt là Bình Dương và Đà Nẵng.
Số tỉnh được xếp hạng rất tốt chỉ chiếm tỉ lệ 3.125%.
Số tỉnh được xếp hạng tốt là 7 tỉnh, chiếm tỉ lệ là 10.94%
Số tỉnh được xếp hạng khá là 15 tỉnh, chiếm tỉ lệ là 23.44%
Số tỉnh được xếp hạng trung bình là 19 tỉnh, chiếm tỉ lệ 29.69%
Số tỉnh xếp hạng tương đối thấp là 14 tỉnh, chiếm tỉ lệ 21.88%
Số tỉnh xếp hạng thấp là 7 tỉnh, chiếm tỉ lệ 10.94%
25

×