Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

304 Kiểm toán viên và Đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.83 KB, 53 trang )

1
Lời nói đầu
Tuy mới chỉ chính thức xuất hiện vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX với sự ra
đời của các Công ty kiểm toán độc lập song kiểm toán đã nhanh chóng chứng tỏ đợc
vai trò đặc biệt quan trọng của mình trong việc tăng cờng và nâng cao hiệu quả của
quản lý. Với chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động của đơn vị
đợc kiểm toán, kiểm toán tạo niềm tin cho các nhà đầu t, các nhà quản trị doanh
nghiệp, khách hàng và những ngời quan tâm. Nó góp phần hớng dẫn nghiệp vụ và củng
cố nền nếp hoạt động tài chính, kế toán nói riêng và hoạt động quản lý nói chung. Hơn
hết, nó góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý.
Việt Nam đã ra nhập AFTA, đã chính thức trở thành thành viên thứ 21 của Diễn
đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dơng (APEC) và đang tích cực đàm phán để
sớm ra nhập Tổ chức thơng mại thế giới (WTO). Trong bối cảnh chung đó, kiểm toán
chính là một trong những ngành, những lĩnh vực thơng mại dịch vụ đợc quan tâm trong
đàm phán. Việc công khai hóa tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh đợc chứng
nhận sự trung thực và hợp lý bởi một bên độc lập đã khiến cho kiểm toán ngày càng trở
thành một hoạt động phổ biến và bắt buộc đối với các doanh nghiệp và các tổ chức
kinh tế.
Trong bối cảnh đó, việc có một đội ngũ kiểm toán viên giỏi có trình độ cao, đủ
sức giải quyết các công việc thuộc ngành nghề chuyên môn phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, chủ động hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế
thế giới và tạo tiền đề, nền tảng cơ bản cho đào tạo CPA của Việt Nam theo tiêu chuẩn
và chất lợng quốc tế trở thành một yêu cầu tất yếu.
Đã có rất nhiều những ý kiến đóng góp để xây dựng nên một mô hình toàn diện
trong đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam song hiện nay vẫn cha có một mô hình chung,
thống nhất. Với mong muốn đợc đóng góp một phần nhỏ bé vào việc xây dựng một mô
hình hoàn thiện trong đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam, chúng em đã quyết định chọn
đề tài: "Kiểm toán viên và Đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam" cho công trình nghiên
cứu khoa học của mình.
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
2


Công trình này gồm 3 chơng:
Ch ơng I : cơ sở lý luận về kiểm toán viên và đào tạo kiểm
toán viên
Ch ơng II : Thực trạng về kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán
viên tại việt nam
Ch ơng III : Một số đánh giá và kiến nghị nhằm nâng cao chất
lợng đào tạo kiểm toán viên tại việt nam
Hi vọng rằng thông qua Công trình nghiên cứu khoa học của mình, chúng em có
thể góp một phần nhỏ trong việc đa ra một số giải pháp có tính khả thi để góp phần xây
dựng một mô hình đào tạo kiểm toán viên thống nhất tại Việt Nam.
Do còn nhiều bỡ ngỡ, Công trình nghiên cứu khoa học của chúng em không thể
tránh khỏi những thiếu sót cần phải sửa đổi, bổ sung, rất mong bạn đọc thông cảm và
đóng góp xây dựng.
Chúng em xin chân thành cảm ơn.
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
3
Chơng I:
Cơ sở lý luận về Kiểm toán viên và
đào tạo kiểm toán viên
I. Cơ sở lý luận về kiểm toán viên
1. Khái niệm kiểm toán viên
Trên thế giới, thuật ngữ kiểm toán đã có từ lâu từ khi xuất hiện nhu cầu xác định
tính trung thực, độ tin cậy của thông tin trên Báo cáo tài chính và thực trạng tài sản của
một chủ thể trong quan hệ kinh tế. Nhng hoạt động kiểm toán chuyên nghiệp chỉ mới xuất
hiện cách đây khoảng 300 năm, khởi đầu do cuộc Đại Cách mạng Công nghiệp. Do cuộc
Cách mạng này đã có sự tách biệt giữa chức năng sở hữu và chức năng quản lý, đồng thời
làm xuất hiện khái niệm chủ nhân và ngời quản lý. Vì vậy đã làm nảy sinh nhu cầu kiểm
tra để phát hiện các gian lận của ngời quản lý và ngời làm thuê. Đến năm 1844, nớc Anh
ban hành Luật Công ty cổ phần - là luật Công ty cổ phần đầu tiên trên thế giới, cùng với
đó là sự xuất hiện khái niệm kiểm toán viên. Từ đây, hình thức sơ khai về nghề nghiệp

kiểm toán bắt đầu xuất hiện và các hiệp hội kiểm toán chính thức ra đời vào đầu thế kỷ
XIX.
Kiểm toán viên là khái niệm chung chỉ những ngời làm công tác kiểm toán cụ thể,
có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tơng xứng với công việc đó.
Trong ý nghĩa hẹp, từ kiểm toán viên (Auditor) thờng gắn với chức danh kế toán viên
công chứng (Certified Public Accountant - CPA). Tuy nhiên, trong cả lý luận và thực tế,
khái niệm kiểm toán viên cũng bao hàm cả kiểm toán viên nhà nớc (Government Auditor)
và cả kiểm toán viên nội bộ (Internal Auditor).
Kiểm toán viên độc lập là những ngời hành nghề kiểm toán. Tại Việt Nam, theo
Nghị định 105/NĐ-CP, kiểm toán viên phải có các tiêu chuẩn sau đây:
- Có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, trung thực, liêm khiết, có ý thức chấp hành
pháp luật; không thuộc đối tợng cấm đăng ký hành nghề kiểm toán.
- Có bằng cử nhân chuyên ngành Kinh tế - Tài chính - Ngân hàng hoặc chuyên
ngành Kế toán - Kiểm toán và thời gian công tác thực tế về tài chính, kế toán từ 5 năm trở
lên hoặc thời gian thực tế làm trợ lý kiểm toán ở doanh nghiệp kiểm toán từ 4 năm trở lên.
- Có khả năng sử dụng tiếng nớc ngoài thông dụng và sử dụng thành thạo máy vi
tính.
- Có chứng chỉ kiểm toán viên do Bộ trởng Bộ Tài chính cấp.
Kiểm toán viên độc lập thờng có hai chức danh:
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
4
Một là, Kiểm toán viên. Theo quy định, kiểm toán viên là ngời đã tốt nghiệp đại học
và sau 2 năm làm th ký hoặc trợ lý kiểm toán, tốt nghiệp kỳ thi tuyển kiểm toán viên (quốc
gia hoặc quốc tế) để lấy bằng (chứng chỉ) kiểm toán viên (CPA). Trên thực tế, kiểm toán
viên phải có khả năng độc lập thực hiện công việc kiểm toán cụ thể.
Hai là, Kiểm toán viên chính. Kiểm toán viên chính là ngời đã từng qua kiểm toán
viên (thờng từ 3-5 năm) và qua kỳ thi nâng bậc. Về chuyên môn họ phải có khả năng tổ
chức một nhóm kiểm toán viên tiến hành những công việc kiểm toán có quy mô lớn.
Những kiểm toán viên độc lập đợc hành nghề trong một tổ chức (Công ty) hoặc với
văn phòng t tùy điều kiện cụ thể do pháp luật quy định.

Kiểm toán viên nội bộ thờng là những ngời hành nghề kiểm toán không chuyên
nghiệp. Họ có thể là những kế toán viên giỏi, những nhà quản lý có kinh nghiệm, những
kỹ thuật viên có hiểu biết về các lĩnh vực có liên quan đến kiểm toán, đặc biệt là các loại
hình công nghệ, các quy trình kỹ thuật, các định mức Tuy nhiên, những ng ời này cũng
cần có trình độ nghiệp vụ tơng xứng, có thể đợc đào tạo qua trờng ví dụ nh Trờng Đào tạo
Kiểm toán viên nội bộ Hoa Kỳ IIA Hơn nữa, trong nhiều tr ờng hợp, kiểm toán viên nội
bộ cũng có thể là các kiểm toán viên chuyên nghiệp nh những giám định viên trong hệ
thống kiểm toán ở Tây Âu, các kiểm soát viên chuyên nghiệp trong những doanh nghiệp
nhà nớc và các đơn vị công cộng (có quy mô lớn) hoặc các chuyên gia đợc các Hội đồng
quản trị sử dụng trong ủy ban kiểm toán.
Kiểm toán viên nhà nớc là những công chức (viên chức nhà nớc) làm nghề kiểm
toán. Do đó, họ đợc tuyển chọn và hoạt động do tổ chức kiểm toán nhà nớc phân công.
Đồng thời, họ đợc xếp vào các ngạch bậc chung của công chức (theo tiêu chuẩn cụ thể của
từng nớc, trong cùng thời kỳ):
- Kiểm toán viên
- Kiểm toán viên chính
- Kiểm toán viên cao cấp
Chức năng và quyền hạn cụ thể của từng ngạch bậc đợc quy định cụ thể tùy theo
từng nớc song nói chung cũng có sự gần gũi giữa các quốc gia và có các mối quan hệ tơng
ứng với các chức danh của kiểm toán viên độc lập. Riêng kiểm toán viên cao cấp thờng
giữ cơng vị lãnh đạo cơ quan kiểm toán nhà nớc hoặc là những chuyên gia cao cấp có chức
năng và quyền hạn trong kiểm toán, trong t vấn (kể cả soạn thảo luật pháp) thậm chí trong
phán xử (nh một quan tòa) tùy quy định cụ thể của từng n ớc.
2. Vai trò của kiểm toán viên
Trong xã hội nói chung và trong nền kinh tế nói riêng, hàng ngày, hàng giờ chúng ta
luôn đứng trớc việc phải đa ra các quyết định. Một quyết định đúng đắn, kịp thời sẽ mang
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
5
đến những thành công; ngợc lại, một quyết định sai lầm sẽ dẫn tới những hậu quả xấu,
những thất bại. Để ra đợc những quyết định sáng suốt thì một nguồn thông tin bảo đảm,

đáng tin cậy và kịp thời là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên khi xã hội ngày càng trở nên phức
tạp thì khả năng thông tin kém tin cậy đợc cung cấp cho những ngời ra quyết định ngày
càng tăng thêm. Có nhiều nguyên nhân gây ra những rủi ro thông tin này nh: sự cách trở
của thông tin, thành kiến và động cơ của ngời cung cấp, do dữ kiện quá nhiều, do nghiệp
vụ kinh tế phức tạp
Để giảm thiểu rủi ro thông tin này, ngời sử dụng thông tin có thể kiểm tra thông tin
bằng cách đến trực tiếp doanh nghiệp để xem xét sổ sách và thu thập thông tin về độ tin
cậy của các báo cáo. Thông thờng, điều này không thực tế vì tốn kém. Ngoài ra, sẽ không
có hiệu quả kinh tế nếu mọi ngời sử dụng đều tự mình kiểm tra thông tin.
Một cách khác nữa mà ngời sử dụng thông tin có thể sử dụng là chia sẻ rủi ro thông
tin cùng với Ban quản trị doanh nghiệp. Ban quản trị có trách nhiệm cung cấp thông tin
đáng tin cậy cho ngời sử dụng. Nếu ngời sử dụng dựa trên các Báo cáo tài chính không
chính xác và điều này dẫn tới những thiệt hại về mặt tài chính thì ngời sử dụng có căn cứ
để kiện Ban quản trị.
Điều trở ngại trong việc ngời sử dụng chia xẻ rủi ro thông tin với Ban quản trị là họ
có khả năng không thu hồi đợc khoản lỗ. Nếu một công ty không có khả năng thanh toán
nợ vì bị phá sản thì không chắc rằng Ban quản trị sẽ có đủ tiền để thanh toán cho ngời sử
dụng.
Cách hiệu quả nhất trong trờng hợp này để hạn chế rủi ro thông tin là sử dụng các
Báo cáo tài chính đã đợc kiểm toán. Các kiểm toán viên sẽ tiến hành các cuộc kiểm toán
để thu thập và đánh giá các bằng chứng nhằm đảm bảo rằng các thông tin trên Báo cáo tài
chính là trung thực và hợp lý xét trên các khía cạnh trọng yếu. Thông tin đã kiểm toán sau
đó sẽ đợc sử dụng trong quá trình ra quyết định với giả định là thông tin tơng đối đầy đủ,
chính xác và vô t. Không những thế, nếu có các kiểm toán viên tiến hành kiểm tra thông
tin sẽ tiết kiệm hơn việc những ngời cá biệt sử dụng thông tin tự mình kiểm tra.
Xã hội ngày càng phức tạp thì sự tin cậy vào kiểm toán viên để làm giảm rủi ro thông
tin càng tăng. Trong nền kinh tế thị trờng hiện nay, vai trò đó của kiểm toán viên ngày
càng quan trọng. Nó góp phần làm lành mạnh hoá nền tài chính, nâng cao tính minh bạch
của các thông tin tài chính, từ đó nâng cao hiệu lực của quản lý nói riêng và góp phần vào
sự phát triển chung của nền kinh tế.

3. Yêu cầu đối với kiểm toán viên
Kiểm toán viên làm công việc là kiểm tra độc lập, bày tỏ ý kiến về các thông tin
trình bày trên Báo cáo tài chính. Đây là một lĩnh vực khoa học chuyên môn có phạm vi
rộng, đòi hỏi ngời làm kiểm toán có một trình độ chuyên môn nhất định. Có nh vậy,
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
6
kiểm toán viên mới có thể đa ra đuợc những ý kiến kiểm toán đúng đắn hữu ích trong
việc ra quyết định của ngời sử dụng Báo cáo tài chính. Bên cạnh đó, có thể thấy kiểm
toán là một lĩnh vực hoạt động mang tính chủ quan, bởi căn cứ vào các bằng chứng thu
thập đợc, kiểm toán viên dựa trên các kinh nghiệm và óc xét đoán nghề nghiệp của
mình để đa ra ý kiến về các thông tin trình bày trên Báo cáo tài chính. Chất lợng của
một cuộc kiểm toán sẽ có ảnh hởng lớn đến những ngời sử dụng kết quả kiểm toán
(Báo cáo tài chính đã kiểm toán) trong việc ra quyết định tài chính, trong khi những
ngời sử dụng Báo cáo tài chính thông thờng không thể đánh giá đợc công việc kiểm
toán (do tính chất phức tạp của chuyên môn); cũng nh một bệnh nhân không thể đánh
giá liệu cuộc giải phẫu có đợc tiến hành đúng đắn không, liệu bác sĩ đã có chuyên môn
tốt hay không, liệu bác sĩ đã cố gắng hết mức có thể cha. Những ngời sử dụng Báo cáo
tài chính đã kiểm toán không thể đánh giá đợc trình độ của kiểm toán viên, thái độ làm
việc cũng nh ý thức của kiểm toán viên khi thực hiện cuộc kiểm toán, họ không thể
đánh giá chính xác liệu ý kiến của kiểm toán viên về Báo cáo tài chính nh vậy có
khách quan hay không... Nếu những ngời sử dụng dịch vụ kiểm toán không tin tởng
vào kiểm toán viên thì khả năng phục vụ khách hàng và công chúng một cách hiệu quả
của các công ty kiểm toán sẽ bị giảm bớt. Bởi vậy ở mỗi quốc gia đều có những yêu
cầu đối với những ngời làm nghề kiểm toán cả về trình độ chuyên môn và đạo đức
nghề nghiệp.
3.1. Yêu cầu về trình độ chuyên môn đối với kiểm toán viên
Năng lực chuyên môn là nhân tố quan trọng đối với kiểm toán viên. Năng lực
chuyên môn cao hay thấp sẽ ảnh hởng rất lớn đến chất lợng của cuộc kiểm toán, bởi nó
ảnh hởng đến khả năng của kiểm toán viên trong việc đánh giá tính trung thực hợp lý
của các thông tin trên Báo cáo tài chính, phát hiện ra các sai phạm và đa ra ý kiến kiểm

toán hợp lý.
Năng lực chuyên môn đòi hỏi kiểm toán viên phải đạt đợc trình độ chuyên môn
nhất định. Cụ thể, kiểm toán viên phải có kiến thức kinh tế, tài chính, kế toán và kiểm
toán tơng đối rộng. Cùng với đó, kiểm toán viên cũng cần có kiến thức pháp luật nói
chung, đặc biệt pháp luật về tài chính, kế toán, kiểm toán. Để đạt đợc điều đó, kiểm
toán viên phải có bằng cấp xác nhận trình độ đợc đào tạo nh: trung cấp, cao đẳng, đại
học, thạc sỹ, tiến sỹ về kinh tế, tài chính, ngân hàng hoặc kế toán, kiểm toán...
Trình độ chuyên môn có thể còn yêu cầu về kinh nghiệm làm việc (thời gian
thực tế hành nghề). Khi đã đạt đợc trình độ chuyên môn, kiểm toán viên phải giữ vững
đợc trình độ chuyên môn bằng cách liên tục cập nhật những thay đổi trong lĩnh vực kế
toán, kiểm toán, tài chính... kể cả những công bố quốc gia và quốc tế, các quy định phù
hợp và các yêu cầu khác của luật pháp. Kiểm toán viên phải tuân thủ ít nhất là chơng
trình cập nhật kiến thức hàng năm theo luật định để đảm bảo kiểm soát chất lợng trong
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
7
hoạt động cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp, nhất quán với công bố quốc gia và quốc tế
phù hợp.
Trong điều kiện nền kinh tế tài chính thế giới ngày càng quốc tế hóa sâu rộng,
kiểm toán viên cần phải thông thạo ngoại ngữ để có thể trao đổi với khách hàng để
công việc kiểm toán có thể diễn ra thuận lợi và các báo cáo kiểm toán có giá trị quốc
tế. Không những thế, có ngoại ngữ thành thạo cũng là điều kiện thuận lợi để các kiểm
toán viên có thể học tập, nâng cao trình độ thông qua việc nghiên cứu các tài liệu của
nớc ngoài cũng nh tham gia các khóa học trong và ngoài nớc.
Các kiểm toán viên cũng cần biết sử dụng các công cụ tin học trong kiểm toán.
Hiện nay, trong thời đại mà công nghệ thông tin đang đợc ứng dụng một cách rộng rãi,
việc sử dụng kế toán máy đã trở nên phổ biến, do vậy các kiểm toán viên cần phải có
kiến thức về tin học để hỗ trợ cho công việc của mình. Cùng với đó, ở một số các công
ty kiểm toán đã có các phần mềm kiểm toán nh phần mềm AS/2 của Công ty kiểm toán Việt
Nam (VACO) hỗ trợ đắc lực cho các kiểm toán viên trong việc chọn mẫu kiểm toán, thực hiện
các phân tích Vì vậy kiến thức tin học là một điều rất cần thiết đối với các kiểm toán

viên.
Năng lực chuyên môn ở đây còn bao gồm cả khả năng giao tiếp. Trong cuộc sống
hàng ngày, dù ở bất cứ nghề nghiệp nào, con ngời luôn cần phải giao tiếp với nhau.
Giao tiếp tốt sẽ giúp cho chúng ta tránh đợc hiểu lầm với ngời đối thoại và để lại những
ấn tợng tốt đẹp. Với một nghề nghiệp cần tiếp xúc nhiều với các khách hàng nh kiểm
toán thì một khả năng giao tiếp tốt càng quan trọng, không những thế nó còn cần phải
đợc nâng lên thành một nghệ thuật. Có đợc một nghệ thuật giao tiếp tốt, kiểm toán viên
sẽ tránh đợc những hiểu lầm, tạo thuận lợi trong việc thu thập các số liệu làm bằng
chứng kiểm toán và nhất là có thể duy trì một mối quan hệ tốt đẹp và lâu dài giữa công
ty kiểm toán và khách hàng kiểm toán.
Cũng chính từ tầm quan trọng của năng lực chuyên môn đối với kiểm toán viên
nh vậy, hầu hết các công ty kiểm toán đều có những chính sách cụ thể cho việc tuyển
nhân viên, đào tạo chuyên môn và các tiêu chuẩn về cơ hội thăng tiến đối với các kiểm
toán viên cũng nh các nhân viên khác trong công ty nhằm không ngừng nâng cao trình
độ chuyên môn, kinh nghiệm hành nghề của kiểm toán viên, nâng cao chất lợng và uy
tín của công ty kiểm toán.
3.2. Yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm toán viên
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là một yêu cầu không thể thiếu đối với các kiểm
toán viên trong việc đa ra các ý kiến kiểm toán hợp lý tạo niềm tin cho những ngời sử
dụng Báo cáo tài chính. Song kiểm toán là một lĩnh vực hoạt động mang tính chủ quan,
bởi căn cứ vào các bằng chứng thu thập đợc, kiểm toán viên dựa trên các kinh nghiệm
và óc xét đoán nghề nghiệp của mình để đa ra ý kiến về các thông tin trình bày trên
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
8
Báo cáo tài chính, bởi vậy chỉ có một trình độ chuyên môn nghiệp vụ thôi là cha đủ,
ngời làm kiểm toán còn cần có một cái tâm trong sáng. Chúng ta hẳn vẫn cha quên
chuyện một số cá nhân kiểm toán viên thông đồng với tập đoàn viễn thông Worldcom
ở Mỹ cha lâu và ở nớc ta, mới đây thôi là việc gian lận trong báo cáo tài chính của
Công ty Tiếp thị và Đầu t của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Đó chính là
những ví dụ rõ ràng nhất về sự cần thiết của phẩm chất đạo đức nghề nghiệp trong hành

nghề kiểm toán. Để nền kinh tế của chúng ta tăng trởng bền vững, đa đất nớc ta thành
công trên con đờng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hơn thế nữa là để các nhà đầu t n-
ớc ngoài tin tởng khi đầu t vào Việt Nam, chúng ta phải xây dựng đợc một nền tài
chính minh bạch, lành mạnh. Điều đó không chỉ cần tài năng mà rất cần cái tâm của
những ngời hành nghề. Rõ ràng, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm toán
viên là một vấn đề bức thiết cần đợc xem xét.
Chuẩn mực kiểm toán số 200 về Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm
toán Báo cáo tài chính có quy định: Kiểm toán viên phải tuân thủ các nguyên tắc đạo
đức nghề nghiệp kiểm toán nh sau: Độc lập, chính trực, khách quan, năng lực chuyên
môn và tính thận trọng, tính bí mật, t cách nghề nghiệp, tuân thủ chuẩn mực chuyên
môn.
Theo dự thảo chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán của Bộ Tài
chính, các nguyên tắc cơ bản về đạo đức nghề nghiệp với các kiểm toán viên gồm có:
3.2.1. Tính độc lập:
Độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán viên. Không có tính độc
lập thì chức năng kiểm toán không còn có giá trị trong xã hội. Chuẩn mực Đạo đức
nghề nghiệp kế toán, kiểm toán yêu cầu mọi kiểm toán viên và thành viên nhóm kiểm
toán cung cấp dịch vụ kiểm toán (dịch vụ đảm bảo), công ty kiểm toán phải độc lập với
các khách hàng sử dụng dịch vụ kiểm toán.
Tính độc lập có nghĩa là kiểm toán viên phải hoàn toàn vô t trong việc khảo sát,
đánh giá và đa ra kết luận của mình về Báo cáo tài chính dựa trên cơ sở các bằng chứng
kiểm toán đã thu thập đợc. Một kiểm toán viên không thể xem là độc lập nếu kiểm
toán viên đó là luật s của khách hàng hoặc là chủ một ngân hàng có liên quan đến khách
hàng.
Tính độc lập phải đợc xem nh là một trong những phẩm chất chủ yếu nhất của
kiểm toán viên. Bởi tất cả những ngời sử dụng các báo cáo của kiểm toán viên coi nó
nh một căn cứ về tính trung thực và hợp lý của các Báo cáo tài chính của doanh nghiệp
để đa ra các quyết định tài chính, họ đều tin tởng vào tính độc lập, vào sự vô t của kiểm
toán viên trong việc đánh giá và đa ra ý kiến về thông tin đợc trình bày trên Báo cáo tài
chính.

Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
9
Tính độc lập bao gồm: độc lập về t tởng và độc lập về hình thức. Độc lập về t tởng
là trạng thái suy nghĩ cho phép đa ra ý kiến mà không chịu ảnh hởng của những tác
động trái với những đánh giá nghề nghiệp, cho phép một cá nhân hành động một cách
chính trực, khách quan và có sự thận trọng nghề nghiệp. Độc lập về hình thức là không
có các quan hệ thực tế và hoàn cảnh có ảnh hởng đáng kể làm cho bên thứ ba hiểu là
không độc lập, hoặc hiểu là tính chính trực, khách quan và thận trọng nghề nghiệp của
nhân viên công ty hay thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo không đợc duy
trì.
Sự độc lập về t tởng yêu cầu kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán, phải thực
sự không bị chi phối hoặc tác động bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm
ảnh hởng đến sự trung thực, khách quan trong việc đa ra ý kiến về Báo cáo tài chính.
Kiểm toán viên không đợc nhận làm kiểm toán cho các đơn vị mà mình có quan hệ
kinh tế hoặc quyền lợi kinh tế nh góp vốn cổ phần, cho vay hoặc vay vốn từ khách
hàng, hoặc là cổ đông chi phối của khách hàng, hoặc có ký kết hợp đồng gia công, dịch
vụ, đại lý tiêu thụ hàng hoá... Kiểm toán viên không đợc nhận làm kiểm toán ở những
đơn vị mà bản thân có quan hệ họ hàng thân thuộc (nh bố, mẹ, vợ, chồng, con cái, anh
chị em ruột) với những ngời trong bộ máy quản lý (Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc,
các trởng, phó phòng và những ngời tơng đơng) trong đơn vị đợc kiểm toán. Kiểm toán
viên không đợc vừa làm dịch vụ kế toán (nh trực tiếp ghi chép, giữ sổ kế toán và lập
Báo cáo tài chính) vừa làm dịch vụ kiểm toán cho cùng một khách hàng.
Tuy nhiên, không chỉ kiểm toán viên giữ thái độ độc lập khi thực thi trách nhiệm
của mình mà còn cả những ngời sử dụng các Báo cáo tài chính phải có niềm tin vào
tính độc lập đó (đó chính là tính độc lập về hình thức trong kiểm toán). Nếu kiểm toán
viên thực sự độc lập nhng ngời sử dụng Báo cáo tài chính lại tin rằng họ là những ngời
bao che, biện hộ cho khách hàng thì phần lớn giá trị của cuộc kiểm toán sẽ không còn
nữa.
Trong quá trình kiểm toán, nếu có sự hạn chế về tính độc lập thì kiểm toán viên
phải tìm mọi cách loại bỏ sự hạn chế này. Nếu không loại bỏ đợc thì kiểm toán viên

phải nêu rõ điều này trong báo cáo kiểm toán.
3.2.2. Tính chính trực và khách quan
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định chính trực là kiểm toán viên phải thẳng
thắn, trung thực trong t tởng, có chính kiến rõ ràng, đồng thời phải công bằng, tín
nhiệm, không có xung đột về lợi ích. Khách quan là kiểm toán viên phải công bằng,
tôn trọng sự thật và không đợc thành kiến thiên vị.
Ví dụ: Giả sử kiểm toán viên tin rằng tài khoản phải thu có thể không thu hồi đợc
nhng vì một lý do cá nhân nào đó, kiểm toán viên chấp nhận giải trình của Ban Giám
đốc mà không xem xét lại một cách kỹ lỡng, không có sự cân nhắc đánh giá độc lập về
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
10
khả năng thu hồi. Trong trờng hợp này, xét đoán của kiểm toán viên đã bị lệ thuộc, vì
vậy mất khách quan.
Kiểm toán viên không đợc chủ tâm phản ánh sai sự việc, và khi thực hiện hợp
đồng kiểm toán độc lập (kể cả cung cấp dịch vụ kê khai thuế và dịch vụ t vấn cho Ban
quản trị) kiểm toán viên không đợc để sự phán xét của mình bị lệ thuộc vào ngời khác.
Khi thực hiện dịch vụ thuế, kiểm toán viên có thể giải quyết điều nghi ngờ theo hớng
có lợi cho khách hàng khi có sự chứng minh hợp lý đối với quan điểm của kiểm toán
viên.
Trong quá trình tiến hành cuộc kiểm toán, việc lựa chọn và áp dụng các tiêu
chuẩn về đạo đức để đảm bảo nguyên tắc khách quan là rất quan trọng đối với kiểm
toán viên. Một số trờng hợp có thể dẫn đến vi phạm tính khách quan nh: kiểm toán
viên phải chịu áp lực mạnh từ phía cơ quan quản lý, đơn vị cấp trên, Giám đốc, ngời
lãnh đạo đơn vị; hoặc khi có các quan hệ gia đình hay cá nhân. Các mối quan hệ hay
lợi ích có thể có ảnh hởng trái ngợc, làm vi phạm hay đe dọa đến tính chính trực, khách
quan của ngời kiểm toán viên thì cần đợc loại bỏ. Kiểm toán viên cần tránh các mối
quan hệ dẫn đến sự thành kiến, thiên vị hoặc ảnh hởng tới những ngời khác (trong
nhóm kiểm toán) có thể dẫn tới vi phạm tính khách quan. Kiểm toán viên không nên
nhận hoặc tặng quà, chiêu đãi, có thể làm ảnh hởng đáng kể tới các đánh giá nghề
nghiệp hoặc tới những ngời cùng làm việc trong nhóm kiểm toán. Vẫn biết rằng quà

tặng và chiêu đãi là quan hệ tình cảm cần thiết nhng kiểm toán viên nên tránh các trờng
hợp có thể ảnh hởng đến tính chính trực, khách quan, hoặc dẫn đến tai tiếng nghề
nghiệp.
Hành vi cho mợn danh kiểm toán viên hành nghề cũng đợc coi là vi phạm t cách
nghề nghiệp và tính chính trực đợc quy định trong Chuẩn mực Đạo đức nghề nghiệp.
Các kiểm toán viên cũng ý thức rằng, việc cho mợn danh để hành nghề sẽ đem đến
nhiều rủi ro cho kiểm toán viên cho m ợn danh nh: sẽ làm giảm sự tín nhiệm của
kiểm toán viên đối với xã hội nói chung, đối với khách hàng, đồng nghiệp nói riêng.
Ngoài ra, khi sự cố xảy ra, không chỉ riêng công ty kiểm toán, mà cả kiểm toán viên
cho mợn danh cũng phải chịu trách nhiệm trớc pháp luật về các ý kiến của ng ời
mang danh kiểm toán viên trên các báo cáo kiểm toán có vấn đề.
3.2.3. Tính thận trọng
Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán với đầy đủ năng lực chuyên
môn cần thiết, với sự thận trọng cao nhất và tinh thần làm việc chuyên cần. Kiểm toán
viên có nhiệm vụ duy trì, cập nhật và nâng cao kiến thức trong hoạt động thực tiễn,
trong môi trờng pháp lý và các tiến bộ kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu công việc.
Kiểm toán viên không đợc thể hiện là có những kinh nghiệm và khả năng mà bản
thân không có. Theo đó, tuy Chuẩn mực cha quy định cụ thể, nhng nhìn chung, kiểm
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
11
toán viên chỉ nên nhận thực hiện những hợp đồng mà anh ta hoặc công ty anh ta dự
kiến có đủ năng lực, nghiệp vụ để hoàn thành.
Sự thận trọng thể hiện trong việc lập kế hoạch và giám sát một cách đầy đủ hợp
đồng; thu thập số liệu thích hợp để đủ làm căn cứ hợp lý cho các kết luận hoặc kiến
nghị liên quan tới hợp đồng; và đặc biệt là trờng hợp kiểm toán viên không nên sử
dụng tên của mình gắn cho các nghiệp vụ kinh tế tơng lai phát sinh theo cách mà có
thể dẫn đến sự tin tởng là kiểm toán viên đó cam đoan khả năng có thể đạt đợc của dự
án. Để giảm rủi ro kiểm toán, giảm bớt trách nhiệm của kiểm toán viên thì thận trọng
là một nguyên tắc không thể thiếu trong khi hành sự kiểm toán.
3.2.4. Tính bảo mật

Trong quá trình tiến hành cuộc kiểm toán, kiểm toán viên thu đợc một số lợng
đáng kể thông tin bảo mật, gồm cả lơng của các viên chức, quá trình định giá sản
phẩm, các kế hoạch quảng cáo, và số liệu chi phí sản phẩm... Nếu kiểm toán viên tiết
lộ những thông tin này cho những ngời ở bên ngoài hoặc cho các nhân viên của công ty
khách hàng (là những ngời không đợc quyền tiếp cận với các thông tin đó), thì mối
quan hệ giữa kiểm toán viên, công ty kiểm toán với ban giám đốc công ty khách hàng
sẽ bị căng thẳng nghiêm trọng, và trong trờng hợp cực đoan có thể sẽ làm phơng hại
đến công ty khách hàng. Vì những lý do trên, việc cẩn trọng để bảo vệ các bản t liệu
mật của công ty khách hàng là rất quan trọng.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định kiểm toán viên có nghĩa vụ tôn trọng
nguyên tắc bảo mật các thông tin về khách hàng thu đợc trong quá trình kiểm toán, kể
cả sau khi kết thúc hợp đồng kiểm toán. Trừ khi thông tin cần đợc cung cấp cho cơ
quan chức năng có liên quan hoặc trách nhiệm nghề nghiệp hoặc luật pháp yêu cầu
phải báo cáo, kiểm toán viên không đợc tiết lộ thông tin, không đợc sử dụng các thông
tin này để thu lợi cá nhân hoặc thu lợi cho bên thứ ba. Kiểm toán viên không đợc công
bố thông tin bảo mật về khách hàng kể cả thông tin khác nếu không đợc sự đồng ý của
công ty khách hàng. Nh vậy, kiểm toán viên có thể cung cấp thông tin cho ngời khác
chỉ khi đợc sự cho phép của công ty khách hàng. Đây là một điều kiện bắt buộc, kể cả
trong trờng hợp kiểm toán viên bán kết quả làm việc của mình cho một công ty kiểm
toán khác hoặc muốn cho phép ngời kiểm toán viên kế tục xem xét t liệu lập cho công
ty khách hàng trớc đây.
3.2.5. T cách nghề nghiệp
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định kiểm toán viên phải trau dồi và bảo
vệ uy tín nghề nghiệp, không đợc gây ra những hành vi làm giảm uy tín nghề nghiệp.
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
12
Hành vi làm mất tín nhiệm không đợc định nghĩa rõ ràng trong các nguyên tắc
của chuẩn mực, một vài hành vi sau của kiểm toán viên có thể đợc xem là ví dụ (theo
văn bản hớng dẫn thi hành chuẩn mực đạo đức của Viện kiểm toán độc lập Hoa Kỳ):
Kiểm toán viên giữ lại sổ sách của khách hàng sau khi một đòi hỏi không đợc

đáp ứng là một hành vi làm mất tín nhiệm. Ví dụ, giả sử Ban quản trị công ty
khách hàng không trả thù lao cho công ty kiểm toán và do đó các kiểm toán
viên từ chối trả lại sổ sách của khách hàng.
Một công ty kiểm toán phân biệt đối xử giữa các chủng tộc, màu da, tôn giáo,
giới tính, tuổi tác, hoặc quốc tịch cũng đợc xem là một hành vi làm mất tín
nhiệm.
Nếu một kiểm toán viên đồng ý thực hiện kiểm toán ở một cơ quan Nhà nớc, mà
cơ quan này qui định các thể thức kiểm toán khác với các chuẩn mực kiểm toán
đã đợc thừa nhận, thì trách nhiệm đối với uy tín nghề nghiệp thể hiện ở chỗ
kiểm toán viên phải tuân thủ cả các thể thức của cơ quan Nhà nớc đó và các
chuẩn mực kiểm toán đã đợc chấp nhận, trừ khi báo cáo kiểm toán đợc diễn đạt
bằng một cách khác.
Uống rợu quá say, hành động gây mất trật tự, hoặc những hành vi khác mà
nhiều ngời xem là trái với tiêu chuẩn nghề nghiệp không hề cấu thành một hành vi làm
mất tín nhiệm. Những gì cấu thành t cách đạo đức nghề nghiệp tiếp tục là trách nhiệm
của mỗi ngời hành nghề chuyên nghiệp.
3.2.6. Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn
Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán theo những kỹ thuật và
chuẩn mực chuyên môn đã quy định trong chuẩn mực kiểm toánViệt Nam (hoặc chuẩn
mực quốc tế đợc Việt Nam chấp nhận) và các quy định pháp luật hiện hành.
II. Cơ sở lý luận về đào tạo kiểm toán viên
1. Mục tiêu đào tạo kiểm toán viên
Đổi mới cơ chế kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trờng định hớng Xã hội chủ nghĩa
và công cuộc cải cách hành chính vào đầu những năm 1990 đã tạo nên những tiền đề kinh
tế xã hội và những yêu cầu cấp thiết của sự ra đời các tổ chức kiểm toán ở Việt Nam. Sau
hơn 10 năm kể từ khi ra đời, hệ thống kiểm toán bao gồm: Kiểm toán nhà nớc, các Công
ty kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ đã có những bớc phát triển nhất định, dần khẳng
định đợc vai trò của mình phục vụ cho quản lý tài chính vĩ mô và vi mô. Cùng với đó, đội
ngũ kiểm toán viên cũng ngày càng đợc nâng cao cả về số lợng và chất lợng.
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam

13
Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ và việc Việt Nam sắp ra nhập
WTO, đội ngũ kiểm toán viên Việt Nam đang đối diện với nhiều cơ hội, cùng với nó cũng
là rất nhiều thách thức. Các kiểm toán viên Việt Nam sẽ có cơ hội tốt để làm việc và có
thu nhập cao ở nớc ngoài song đồng thời cũng gặp phải những thách thức về cạnh tranh:
Khả năng mất thị phần và bị loại khỏi cuộc chơi nếu không tự đổi mới. Đào tạo kiểm toán
viên cũng đứng trớc thách thức, đó là nguy cơ đào tạo kế toán bậc đại học không đáp ứng
yêu cầu hội nhập và nguy cơ tụt hậu nếu không thừa nhận chức danh CPA và có chiến lợc
tổng thể và đúng đắn về đào tạo CPA ở Việt Nam
Với thực trạng trên, việc nâng cao chất lợng đội ngũ kiểm toán viên phải hớng tới
một số mục tiêu chủ yếu sau:
1.1. Về mặt số lợng
Trong 5 năm tới, số kiểm toán viên sẽ tăng gấp 2 - 2,5 lần so với hiện tại, chủ yếu là
kiểm toán viên nhà nớc và kiểm toán viên độc lập. Cùng với số kiểm toán viên hiện có đợc
đào tạo và đào tạo lại đặt ra nhu cầu đào tạo tơng đối lớn với những cấp độ đào tạo khác
nhau.
1.2. Về cơ cấu
Đội ngũ kiểm toán viên, một mặt cơ cấu kiểm toán viên đợc phân theo chủ thể kiểm
toán (Kiểm toán viên nhà nớc, kiểm toán viên độc lập, kiểm toán viên nội bộ) cần đợc đào
tạo theo những chơng trình có sự phân hóa nhất định. Mặt khác, cùng với sự phát triển của
hoạt động quản lý kinh tế tài chính, chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán viên cũng cần đợc
nâng cao theo hớng chuyên môn hóa theo chuyên ngành kiểm toán (ví dụ kiểm toán doanh
nghiệp sản xuất, doanh nghiệp thơng mại dịch vụ, kiểm toán đầu t xây dựng cơ bản )
Đồng thời, cần hớng tới đào tạo, bồi dỡng theo từng ngạch bậc kiểm toán viên để đáp
ứng yêu cầu sử dụng của các tổ chức kiểm toán.
1.3. Về mục tiêu đào tạo, bồi dỡng
Cần có sự thay đổi về nhận thức, coi kiểm toán là một nghề nghiệp độc lập tơng đối
trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy, kiểm toán viên cần có tiêu chuẩn riêng về nghề
nghiệp (về đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ), trên cơ sở đó xây dựng mục tiêu và chơng
trình đào tạo phù hợp. Về chuyên môn nghiệp vụ, kiểm toán viên cần đợc đào tạo toàn

diện về kiến thức, kỹ năng kiểm toán và các kỹ năng khác trong quá trình hoạt động kiểm
toán một cách toàn diện, đặc biệt là năng lực về công nghệ thông tin và ngoại ngữ.
2. Yêu cầu đào tạo đối với kiểm toán viên
Mục tiêu tổng quát của đào tạo chuyên ngành chuyên ngành Kế toán - Kểm toán ở
bậc đại học trong quá trình hội nhập là đào tạo một đội ngũ cử nhân kế toán - kiểm toán có
chất lợng cao, đủ sức giải quyết các công việc thuộc ngành nghề chuyên môn phục vụ cho
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
14
sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nớc, chủ động và tích cực hội nhập có hiệu
quả vào nền kinh tế thế giới và tạo tiền đề, nền tảng cơ bản cho đào tạo CPA của Việt Nam
theo tiêu chuẩn và chất lợng quốc tế.
Cụ thể, mục tiêu đào tạo kiểm toán bậc đại học là phải tạo ra một đội ngũ cán bộ đạt
đợc các mức độ chất lợng cao của sản phẩm đào tạo, xét trên các khía cạnh và tiêu thức
sau đây:
2.1. Về nội dung kiến thức và trình độ hiểu biết:
Chơng trình đào tạo phải cung cấp cho ngời học các kiến thức tổng hợp, bao gồm:
- Khoa học xã hội
- Khoa học nhân văn
- Về tổ chức và kinh doanh
- Toán và máy tính
- Cơ sở ngành
- Ngoại ngữ (Tiếng Anh)
- Chuyên ngành kế toán và kiểm toán
Nh trên đã phân tích, ngoài kiến thức chuyên môn, các cử nhân kiểm toán còn phải
rất giỏi máy tính và thông thạo tiếng Anh, am hiểu kinh tế cũng nh quản lý các ngành
nghề. Đối với các lĩnh vực chuyên môn, họ phải đợc trang bị các kiến thức hiện đại về các
chuẩn mực kế toán và kiểm toán quốc tế, các vấn đề lý luận cơ bản về kế toán và kiểm
toán nói chung chứ không đơn thuần là các quy định về chính sách và chế độ nh hiện nay.
2.2. Về kỹ năng nghề nghiệp
Mục tiêu đào tạo phải đảm bảo để ngời học có đợc kỹ năng nghiệp vụ kế toán và

kiểm toán thành thạo ở thứ bậc cao của nội hàm chất lợng đào tạo. Về nguyên tắc, sản
phẩm đào tạo đại học không chỉ có kỹ năng bắt chớc thuần túy hay thao tác một kỹ năng
nào đó theo chỉ dẫn mà còn phải có khả năng chuẩn hóa, phối hợp và cao hơn nữa là kỹ
năng tự động hóa (hoàn thành một hay nhiều kỹ năng một cách dễ dàng và tự nhiên mà
không đòi hỏi một sự gắng sức về thể lực và trí lực)
Cần chú ý là các kỹ năng nói trên phải đặt trong điều kiện ứng dụng rộng rãi các
thành tựu của tin học và công nghệ thông tin.
2.3. Về năng lực nhận thức
Ngời học không chỉ biết, hiểu, vận dụng đơn thuần mà còn có năng lực phân tích
(tách từ tổng thể thành bộ phận và biết rõ sự liên hệ giữa các thành phần đó với nhau theo
cấu trúc của chúng), tổng hợp (biết kết hợp các bộ phận thành một tổng thể mới từ tổng
thể ban đầu), đánh giá (biết so sánh, phê phán, chọn lọc, quyết định và đánh giá trên cơ sở
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
15
các tiêu chí xác định), chuyển giao ( có khả năng diễn giải, thuyết phục và truyền thụ kiến
thức đã tiếp thu đợc cho đối tợng khác) và cao hơn nữa là năng lực sáng tạo, nghĩa là có
thể sáng tạo ra những giá trị mới trên cơ sở các kiến thức đã tiếp thu đợc.
2.4. Về năng lực t duy
Các cử nhân kiểm toán không chỉ biết t duy cụ thể (chỉ có thể t duy trên cơ sở những
thông tin cụ thể này đến các t duy cụ thể khác có sẵn), t duy logic (suy luận theo một
chuỗi có tuần tự, có khoa học và có phê phán, nhận xét), mà còn phải đạt đến cấp độ rất
cao của sản phẩm đào tạo là phải có năng lực t duy hệ thống (suy luận, tiếp cận một cách
có hệ thống các thông tin hoặc các vấn đề, nhờ đó có cách nhìn bao quát toàn bộ hệ thống)
và khả năng t duy trừu tợng (suy luận các vấn đề một cách sáng tạo và ngoài các khuôn
khổ định sẵn).
2.5. Về phẩm chất nhân văn
Các phẩm chất nhân văn nh khả năng hợp tác, khả năng thuyết phục và cao hơn nh
khả năng quản lý đều rất cần thiết với mọi cán bộ có trình độ đại học. Đặc biệt, do đặc thù
của nghề kế toán, kiểm toán mà các phẩm chất nhân văn và bồi dỡng văn hóa nghề ngay
trong quá trình đào tạo có một ý nghĩa rất quan trọng.

- Khả năng hợp tác: Sẵn sàng cùng đồng nghiệp chia sẻ và thực hiện các nhiệm vụ
đợc giao.
- Khả năng thuyết phục: Thuyết phục đồng nghiệp chấp nhận các ý tởng, các kế
hoạch, các dự kiến để cùng thực hiện. Các chuyên gia kế toán, kiểm toán còn phải có
khả năng giải quyết một cách có hiệu quả và thuyết phục những bất đồng nghề nghiệp
luôn có thể xảy ra giữa các đồng nghiệp cũng nh với khách hàng và những đối tác khác.
- Khả năng quản lý: Khả năng tổ chức, điều phối và vận hành một tổ chức (bộ phận
kế toán, Công ty, văn phòng hay chi nhánh kiểm toán) để thực hiện các mục tiêu xác định.
Một vấn đề cần đợc quan tâm đặc biệt là gieo trồng và nuôi dỡng đạo đức nghề
nghiệp ngay khi ngồi trên ghế nhà trờng. Ngời cán bộ kế toán, kiểm toán cần phải trau dồi
và thờng xuyên rèn luyện tính công minh, chính trực, khách quan, độc lập, vô t và công
bằng, cẩn thận và siêng năng về nghề nghiệp cao hơn mức độ tối thiểu cần thiết để có thể
hoàn thành đợc nhiệm vụ và có thể tránh đợc sự trừng phạt của luật pháp. Đồng thời, hơn
ai hết, ngời cán bộ kế toán, kiểm toán phải nhìn thanửg vào trách nhiệm của mình trớc tiền
đồ và tơng lai của đất nớc.
3. Kinh nghiệm đào tạo kiểm toán viên ở một số nớc
Kiểm toán với nghĩa kiểm tra độc lập và bày tỏ ý kiến đã du nhập vào các nớc phát
triển từ giữa thế kỷ XX cụ thể: Vào Bắc Mỹ từ những năm 30, vào Tây Âu từ những năm
60. Tại Việt Nam, kiểm toán Việt Nam đợc chính thức xuất hiện từ tháng 5/1991 với các
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
16
Công ty kiểm toán độc lập, tháng 11/1994 với kiểm toán nhà nớc và tháng 11/1997 với
kiểm toán nội bộ. Với quãng đờng gần 15 năm qua, so với các nớc phát triển mà kiểm
toán đã phát triển từ lâu, kiểm toán còn khá non trẻ và có thể học tập đợc nhiều kinh
nghiệm quý báu từ các nớc đi trớc nhất là trong lĩnh vực đào tạo kiểm toán viên.
Là một trong những tổ chức nghề nghiệp lớn nhất và có uy tín nhất, liên đoàn kế toán
quốc tế (IFAC) đã ban hành chuẩn mực về giáo dục quốc tế cho các kiểm toán viên và kế
toán viên chuyên nghiệp vào tháng 10 năm 2003. Chuẩn mực về đào tạo quốc tế cho các
kiểm toán viên và kế toán viên chuyên nghiệp xây dựng nên những yêu cầu quan trọng mà
các chơng trình đào tạo kiểm toán viên cần phải có. Chuẩn mực về đào tạo quốc tế cho các

kiểm toán viên chuyên nghiệp bao gồm:
IES 1: Yêu cầu về đầu vào đối với một chơng trình đào tạo kiểm toán viên
chuyên nghiệp
Với một ngời đang tìm kiếm một chơng trình đào tạo kiểm toán viên chuyên nghiệp
để trở thành thành viên trong một tổ chức thuộc IFAC, yêu cầu đàu vào tối thiểu là tơng đ-
ơng với yêu cầu đầu vào của một chơng trình đại học đợc công nhận.
Một ngời cần có trình độ thích hợp để tạo ra nền móng cần thiết cho việc học hỏi
kiến thức chuyên môn , nhận thức, thái độ và đạo đức nghề nghiệp cần thiết để trở thành
một kiểm toán viên chuyên nghiệp.
IES 2: Nội dung chơng trình đào tạo kiểm toán viên chuyên nghiệp
Việc nghiên cứu để trở thnàh một kế toán viên nên là một phần của chơng trình đào
tạo kiểm toán viên chuyên nghiệp. Việc nghiên cứu phải đủ dài và chuyên sâu để cho phép
các thí sinh có đợc những hiểu biết chuyên ngành yêu cầu với trình độ năng lực chuyên
môn.
Trình độ kế toán chuyên nghiệp trong chơng trình đào tạo nên bao gồm ít nhất 2 năm
học.
Sinh viên có thể có đợc chứng chỉ về kế toán hay chứng chỉ chuyên môn để có đợc
những kiến thức này.
Nội dung của chơng trình đào tạo kiểm toán viên chuyên nghiệp bao gồm:
a. Kế toán, tài chính và các kiến thức liên quan
b. Kiến thức về kinh doanh và tổ chức
c. Kiến thức và năng lực về công nghệ thông tin
IES 3: Các kỹ năng nghề nghiệp bao gồm:
Kỹ năng trí tuệ
Kỹ năng chức năng kỹ thuật
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
17
Kỹ năng nhân văn
Kỹ năng giao tiếp
Kỹ năng quản trị kinh doanh và tổ chức

IES 4: Nhận thức, thái độ và đạo đức nghề nghiệp
Chơng trình đào tạo cung cấp cho những kiểm toán viên tiềm năng một khuôn khổ
về nhận thức, thái độ và đạo đức nghề nghiệp để đa ra những xét đoán chuyên môn và c xử
một cách có đạo đức vì lợi ích của xã hội và lợi ích nghề nghiệp.
IES 5: Yêu cầu về kinh nghiệm thực tế
Kinh nghiệm thực tế để trở thành một kiểm toán viên chuyên nghiệp tối thiểu là 3
năm trong một môi trờng đợc giám sát thích hợp.
IES 6: Đánh giá năng lực nghề nghiệp
Kiểm tra để đánh giá năng lực và trình độ chuyên môn của các kiểm toán viên
chuyên nghiệp là một yêu cầu cần thiết để đảm bảo cho xã hội và các bên sử dụng về chất
lợng công việc của các kiểm toán viên chuyên nghiệp.
Một kỳ thi kiểm tra cuối kỳ phải đảm bảo những yêu cầu sau:
- Một tỷ lệ đáng kể bài làm phải dới dạng đợc ghi chép lại
- Đáng tin cậy và hợp lệ
- Bao trùm một lợng thích hợp những kiến thức, kỹ năng, thái độ, nhận thức và đạo
đức nghề nghiệp của một kiểm toán viên chuyên nghiệp để việc đánh giá là đáng tin cậy
- Phải gần nhất với thực tế tại thời điểm kết thúc đào tạo
IES 7: Đào tạo liên tục
Đào tạo liên tục là quá trình bổ sung và cập nhật kiến thức của các kiểm toán viên
chuyên nghiệp sau khi đã nhận đợc chức danh nghề nghiệp. Đào tạo liên tục là một yêu
cầu quan trọng đối với các kiểm toán viên chuyên nghiệp để đảm bảo rằng họ luôn có khả
năng đáp ứng các yêu cầu của công việc trong những điều kiện kinh tế xã hội thờng xuyên
thay đổi.
Một kiểm toán viên chuyên nghiệp phải có quá trình đào tạo liên tục tối thiểu là 120
giờ (hoặc tơng đơng) cho mỗi 3 năm và 20 giờ (hoặc tơng đơng) cho mỗi năm.
Theo tổ công tác liên chính phủ của các chuyên gia trong lĩnh vực chuẩn mực quốc
tế về kế toán và Báo cáo tài chính - ISAR - thuộc diễn đàn Liên hiệp quốc về thơng mại và
phát triển đã xây dựng và công bố:
- Khung chơng trình đào tạo nghề nghiệp kiểm toán viên và kế toán viên chuyên
nghiệp bao gồm các kiến thức và kỹ năng cần thiết của các kiểm toán viên và kế

toán viên chuyên nghiệp
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
18
- Hớng dẫn về Khung chơng trình đào tạo và các yêu cầu khác, bao gồm những
yêu cầu với việc cấp chứng chỉ cho các kiểm toán viên và kế toán viên chuyên
nghiệp cũng nh hớng dẫn các tổ chức cấp chứng chỉ tại các nớc
Các tiêu chuẩn và hớng dẫn của ISAR đợc thiết lập hớng tới việc chuẩn hóa các hệ
thống cấp chứng chỉ hành nghề tại các quốc gia nhằm đi đến một tiêu chuẩn chất lợng
toàn cầu về kiểm toán viên và kế toán viên chuyên nghiệp, thu hẹp khoảng cách về đào tạo
và cấp chứng chỉ giữa các nớc, cắt giảm các chi phí để công nhận lẫn nhau và hỗ trợ cho
việc cung cấp dịch vụ xuyên biên giới.
Trong vòng 5 năm tới, mục tiêu tổng quát của đào tạo chuyên ngành kế toán - kiểm
toán bậc đại học trong quá trình hội nhập là đào tạo một đội ngũ cử nhân kế toán - kiểm
toán có chất lợng cao, đủ sức giải quyết các công việc thuộc ngành nghề chuyên môn phục
vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc, chủ động hội nhập có hiệu quả
vào nền kinh tế thế giới và tạo tiền đề, nền tảng cơ bản cho đào tạo CPA của Việt Nam
theo tiêu chuẩn và chất lợng quốc tế.
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
19
Chơng II
Thực trạng kiểm toán viên và
đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
I. Thực trạng kiểm toán viên tại Việt Nam
1. Thực trạng kiểm toán viên Nhà nớc
Ngày 11-7-1994 Kiểm toán Nhà nớc Việt Nam đợc thành lập theo Nghị định số
70/CP của Chính phủ. Theo đó, Kiểm toán Nhà nớc là cơ quan thuộc Chính phủ và là
cơ quan kiểm tra nền tài chính công của nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện các việc kiểm toán đối với các cơ quan Nhà nớc các cấp, các đơn vị có nhiệm
vụ thu chi Ngân sách Nhà nớc và các tổ chức đơn vị có quản lý, sử dụng công quỹ, tài
sản quốc gia. Nh vậy, ngay từ khi mới ra đời và cho đến trớc khi Quốc hội biểu quyết

thông qua Luật Kiểm toán Nhà nớc tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá IX ngày 20-5-
2005 thì Kiểm toán Nhà nớc vẫn là một cơ quan thuộc hệ thống các cơ quan hành
pháp.
Tuy nhiên, ngày 14-6-2005, Quốc hội đã ban hành Luật kiểm toán Nhà nớc nhằm
xác định rõ địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nớc. Theo đó tại Điều 13 ghi rõ: Kiểm
toán Nhà nớc là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nớc do Quốc
hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Việc xác định rõ địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nớc là một cơ sở quan trọng
nhằm tạo điều kiện cho KTNN hoạt động có hiệu quả hơn, đồng thời cũng đòi hỏi
KTV Nhà nớc không ngừng nâng cao kiến thức và đạo đức nghề nghiệp của bản thân
mình.
Hơn 10 vừa học vừa làm, vừa xây dựng phát triên, vừa tìm tòi vừa cống hiến, từng
bớc vơng lên ngang tầm với cuộc sống là không hề đơn giản. Tuy nhiên, các nhà lãnh
đạo KTNN và đội ngũ của họ đã khẳng định đợc mình thông qua những thành tích đợc
đổi bằng mồ hôi, trí tuệ và công sức mang lại lợi ích tiền của cho đất nớc bằng kết quả
của những cuộc kiểm toán. Những thành tích ấy nh những viên đá tảng xây đắp cho
nền móng cho KTNN tiến lên.
Tuy nhiên, nhìn một cách khách quan thì đó mới chỉ là bớc đầu. Yêu cầu của đất
nớc đối với đội ngũ KTV hiện nay cha thể đáp ứng đợc.
Qua hơn 10 năm xây dựng và phát triển, đội ngũ KTV của KTNN đã thể hiện
những thế mạnh sau đây:
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
20
- Đội ngũ KTV đã thể hiện là những ngời trung thành với Tổ quốc, với nhân dân,
với Hiến pháp và Pháp luật.
- Đội ngũ KTV là những ngời có bản lĩnh chính trị, vợt qua đợc thử thách, đã đợc
tôi luyện trong đấu tranh.
- Đội ngũ KTV có trình độ ngày càng đợc nâng cao và hoàn thiện không ngừng.
Song đội ngũ KTV cũng có những hạn chế nhất định, đó là:
- Phạm vi và đối tợng phải đợc kiểm toán rất rộng, nhng số lợng KTV quá ít ỏi ch-

a thể đáp ứng đủ yêu cầu.
- Nghề kiểm toán là một nghề mới mẻ, phức tạp, đội ngũ hiện có đợc tập hợp từ
nhiều nguồn, nhiều ngành khác nhau, cha thật sự thành thạo với nghề mới và còn nhiều
lúng túng.
- Trình độ và năng lực hiện có cha đáp ứng đợc yêu cầu ngày càng cao về chất l-
ợng của các cuộc kiểm toán và yêu cầu về hội nhập khu vực và quốc tế. Rõ ràng là
chúng ta đang thiếu những KTV có tầm cỡ quốc gia chứ cha nói đến tầm cỡ quốc tế.
Sau 12 năm thành lập và phát triển, việc tổ chức cán bộ máy, phát triển đội ngũ
cán bộ, công chức đợc coi là nhiệm vụ quan tâm hàng đầu của KTNN. Đợc sự quan
tâm chỉ đạo của Chính phủ, sự phối hợp, hợp tác giúp đỡ của các Bộ, ngành liên quan,
đến nay, sau khi Nghị định 93/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của Chính Phủ có hiệu lực,
KTNN đã xây dựng đợc hệ thống tổ chức bộ máy tơng đối hoàn chỉnh từ Trung ơng
đến các KTNN khu vực và hiện đang từng bớc củng cố hoàn thiện để đáp ứng chức
năng, nhiệm vụ đợc giao. Từ chỗ ban đầu chỉ có 4 kiểm toán chuyên ngành và Văn
phòng KTNN, đến nay đã có 19 đơn vị thuộc và trực thuộc KTNN bao gồm 7 KTNN
chuyên ngành, 5 KTNN khu vực, 3 đơn vị sự nghiệp và 4 cơ quan chức năng giúp việc.
Việc hình thành và phát triển hệ thống tổ chức KTNN không chỉ đơn thuần là sự tăng
trởng về số lợng đầu mối các đơn vị mà qua đó phản ánh sự lớn mạnh trởng thành của
KTNN để đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi khách quan trong công cuộc đổi mới đất nớc.
Là cơ quan không có tổ chức tiền thân, đội ngũ cán bộ, công chức phải xây dựng
từ đầu. KTNN luôn đứng trớc đòi hỏi phải sớm có một đội ngũ cán bộ đủ về số lợng,
đảm bảo về chất lợng để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra trong từng thời kỳ. Đến nay,
KTNN đã tuyển dụng trên 600 cán bộ công chức, trong đó KTV chiếm trên 70%, tất cả
KTV đều có trình độ Đại học trở lên. Đội ngũ cán bộ đợc tuyển dụng nhìn chung đảm
bảo về chuyên môn, nghiệp vụ, đảm bảo về phẩm chất, đạo đức.
Trong những năm qua, KTNN đã tổ chức đánh giá và phân loại đội ngũ cán bộ,
công chức. Trên cơ sở đó tiến hành bồi dỡng, đào tạo lại thích ứng với yêu cầu nhiệm
vụ chuyên môn của ngành. KTNN đã đề nghị Thủ tớng Chính phủ bổ nhiệm đợc 2 cán
bộ giữ chức Phó Tổng KTNN; Tổng KTNN bổ nhiệm 56 cán bộ lãnh đạo cấp vụ và
211 cán bộ lãnh đạo cấp phòng; đồng thời, đã xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ,

Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
21
sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành và tiến trình
cải cách hành chính.
Song song với quá trình tuyển dụng đội ngũ, KTNN đã chú trọng đào tạo, bồi d-
ỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, quản lý hành chính Nhà nớc và thờng xuyên
cập nhật các chế độ, chính sách mới cho cán bộ, KTV... Với sự trợ giúp của một số cơ
quan và tổ chức quôc tế, nhiều cán bộ, KTV của KTNN đợc tham dự các lớp bồi dỡng
nghiệp vụ nâng cao ở nớc ngoài, có điều kiện tiếp cận với những kiến thức kinh nghiệm
phong phú và công nghệ kiểm toán hiện đại của các nớc phát triển, tạo tiền đề để cho
sự phát triển của KTNN phù hợp với sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tê. Trên cơ
sở đó và qua công tác đánh giá, phân loại đội ngũ cán bộ, công chức, KTNN đã tổ chức
cho 3219 lợt cán bộ, KTV tham gia các lớp đào tạo, bồi dỡng chuyên môn nghiệp vụ
kiểm toán và cập nhật chế độ chính sách của Nhà nớc; 466 cán bộ, công chức theo học
các lớp quản lý hành chính Nhà nớc ngạch chuyên viên, chuyên viên chính và chuyên
viên cao cấp... Ngoài ra, KTNN còn phối hợp với các dự án ADB, GTZ mở các lớp bồi
dỡng cán bộ, KTV tiếp cận với kiến thức chuyên môn quốc tế, chuẩn bị cho quá trình
hội nhập hoàn toàn và chủ động vào năm 2020.
Nh vậy, có thể thấy rằng đội ngũ KTV của KTNN hiện nay là cha tơng xứng với
nhiệm vụ và mục tiêu đề ra. Do vậy, theo định hớng phát triển đến năm 2020, KTNN
phải tiếp tục khẳng định là một mô hình tập trung, thống nhất trực tuyến của Cơ quan
KTNN bao gồm các bộ phận giúp việc cho Tổng KTNN, các KTNN chuyên ngành ở
Trung ơng và các KTNN khu vực ở các địa phơng. Kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy
KTNN Trung ơng theo Nghị định 93/2003/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của Chính phủ và
Luật KTNN. Phát triển dần mạng lới KTNN khu vực đủ để thực hiện nhiệm vụ kiểm
toán NSNN trên địa bàn các địa phơng theo phân vùng; xây dựng cơ cấu tổ chức
KTNN khu vực phù hợp với yêu cầu kiểm toán NSNN trên địa bàn theo hớng tinh giản
bộ máy hành chính gián tiếp để tăng cờng cho bộ phận trực tiếp thực hiện nhiệm vụ
kiểm toán. Đến năm 2010, hình thành đủ 9 KTNN khu vực để đáp ứng yêu cầu kiểm
toán NSNN theo quy định của Luật NSNN sửa đổi; nghiên cứu để có thể thành lập một

số văn phòng đại diện của KTNN tại một số Bộ, ngành có số thu, chi NSNN lớn.
Theo hớng đó, trong thời gian sắp tới, KTNN phải xây dựng đội ngũ KTV đảm
bảo đủ về số lợng, hợp lý về cơ cấu, có kiến thức, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp tơng
xứng với yêu cầu nghề nghiệp kiểm toán, đáp ứng yêu cầu của công cuộc hội nhập nền
kinh tế. Cụ thể nh sau:
Thứ nhất, đội ngũ KTV phải hợp lý về cơ cấu với số KTV cấp cao chiếm 5% trên
tổng số KTV; KTV chính từ 30 35% và KTV chiếm 60 -65%; số trợ lý kiểm toán
không vợt quá 20% tổng số KTV; số công chức, viên chức làm công tác tham mu, quản
lý không quá 20% tổng số KTV. Để đảm bảo cơ cấu thực hiện các mục tiêu nh trên,
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
22
đến năm 2010 biên chế toán ngành là 1200 ngời, trong đó có khoảng 850 KTV, 150 trợ
lý KTV và 200 ngời làm công tác tham mu, quản lý và sự nghiệp. Trong đó, mỗi vụ có
từ 15 20 ngời; mỗi KTNN chuyên ngành có 50 -60 ngời; Học viện kiểm toán có 40
50 ngời; Trung tâm tin học, Trung tâm thông tin, lu trữ có 15 20 ngời.
Thứ hai, chuẩn hoá tiêu chuẩn ngạch bậc KTV; định kỳ kiểm tra, sát hạch, đánh
giá đội ngũ cán bộ, công chức, KTV để có kế hoạch đào tạo, bồi dỡng và sử dụng phù
hợp. Khuyến khích các KTV của KTNN tham dự kỳ thi Quốc gia để đợc cấp chứng chỉ
KTV chuyên nghiệp (CPA) của Việt Nam. Có kế hoạch tuyển chọn và tập trung kinh
phí để đạo tạo trong và ngoài nớc một số KTV có đủ bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo
đức nghề nghiệp trong sáng, tinh thông về nghiệp vụ chuyên môn, thành thạo về tin
học và ngoại ngữ, trong đó có một số chuyên gia đạt trình độ khá của khu vực và có
khả năng hội nhập với KTNN các nớc trên thế giới.
Thứ ba, tăng cờng năng lực cho Trung tâm khoa học và bồi dỡng cán bộ, phấn
đấu đến giai đoạn 2006 -2010 nâng cấp Trung tâm khoa học và bồi dỡng cán bộ thành
Học viện Kiểm toán, vừa thực hiện chức năng đào tạo, bồi dỡng cán bộ, công chức,
KTV cho ngành KTNN, vừa thực hiện chức năng nghiên cứu khoa học. Hoàn thiện các
quy chế quản lý đào tạo, bồi dỡng; phát triển đội ngũ giảng viên cơ hữu và giảng viên
kiêm chức trong và ngoài ngành; đổi mới phơng pháp giảng dạy và phơng pháp đánh
giá chất lợng học viên; đến năm 2010 phải biên soạn và phát hành đồng bộ hệ thống

giáo trình, tài liệu giảng dạy.
2. Thực trạng kiểm toán viên độc lập
Hệ thống kiểm toán độc lập ở nớc ta ra đời từ những năm đầu của thập kỷ 90, thế
kỷ trớc với việc Bộ Tài chính thành lập Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO). Cơ sở
pháp lý cho hoạt động kiểm toán ở nớc ta là Nghị định 07/CP ngày 29/1/1994 của
Chính phủ về việc ban hành Quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân
đợc thay thế bằng Nghị định số 105/NĐ-CP ngày 30/3/2004 về Quy chế tổ chức kiểm
toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở Nghị định của Chính phủ, Bộ Tài
chính đã ban hành các Quyết định và Thông t về Quy chế thi tuyển và cấp chứng chỉ
kiểm toán viên, hớng dẫn đăng ký hành nghề kiểm toán, ban hành và công bố Hệ
thống Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Cho đến nay đã có 33 Chuẩn mực kiểm toán đã
đợc ban hành và công bố áp dụng cho kiểm toán độc lập. Hệ thống Chuẩn mực kiểm
toán Việt Nam đã đa ra những quy định về các nguyên tắc, thủ tục cơ bản và thể thức
áp dụng chúng trong tất cả các giai đoạn và từng bớc công việc của cuộc kiểm toán
giúp cho KTV thực hiện các cuộc kiểm toán một cách khoa học hợp lý, trên cơ sở đó
đảm bảo cho việc nâng cao chất lợng dịch vụ kiểm toán.
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
23
Có thể nói các văn bản pháp quy về kiểm toán độc lập, trong đó đặc biệt là hệ
thống Chuẩn mực kiểm toán đã là những cơ sở, căn cứ quan trọng cho việc hình thành
và phát triển hệ thống kiểm toán độc lập ở nớc ta, trong đó có đội ngũ KTV độc lập.
Cho đến nay, hệ thống kiểm toán độc lập ở nớc ta đã không ngừng phát triển cả
về số lợng các công ty kiểm toán, số lợng các KTV độc lập cũng nh quy mô hoạt động
của các công ty. Đến tháng 1/2005, ngoài 6 công ty kiểm toán của nớc ngoài hoạt động
ở Việt Nam còn có hơn 70 công ty kiểm toán của Việt Nam đợc thành lập trong đó có
44 công ty đợc phép hành nghề kiểm toán BCTC. Trong 44 công ty đợc phép hành
nghề kiểm toán có 3 công ty nớc ngoài, 1 công ty hợp danh mới đợc thành lập, còn lại
là các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
So với đội ngũ KTV Nhà nớc vốn xuất phát từ nhiều lĩnh vực khác nhau, đội ngũ
KTV độc lập đợc đánh giá là chuyên nghiệp hơn và ngày càng hoàn thiện về mặt

chuyên môn để đáp ứng yêu cầu hội nhập. Có thể thấy việc ban hành Quy chế thi
tuyển và cấp chứng chỉ KTV hành nghề cho KTV độc lập là một động thái tích cực
của Bộ Tài chính nhằm nâng cao chất lợng của KTV độc lập. Việc thành lập và phát
triển nhiều công ty kiểm toán độc lập hiện nay đòi hỏi các công ty phải quan tâm đến
chất lợng kiểm toán của mình ngay từ khầu đầu tiên là lựa chọn KTV nếu muốn tồn tại
và đứng vững trên thị trờng kiểm toán. Hầu hết các công ty kiểm toán độc lập sẽ dựa
vào các tiêu chuẩn sau để tuyển chọn đội ngũ KTV của mình:
Thứ nhất, tiêu chuẩn đầu tiên để lựa chọn một KTV độc lập là phải có khả năng
thực hiện công việc đúng đắn, nhất là khả năng đa ra một báo cáo kiểm toán mà ngời
sử dụng báo cáo BCTC có thể tin tởng.
Thứ hai, tiêu chuẩn cũng rất quan trọng nữa là KTV có năng lực và hiểu biết về
kinh doanh, có thể thực hiện đợc các công việc theo dự toán đã thoả thuận về thời gian
và phí kiểm toán, thu thập đợc thông tin cần thiết cho cuộc kiểm toán mà không gây
gián đoạn không cần thiết tới việc kinh doanh cũng nh tới công việc của nhân viên phía
công ty đợc kiểm toán.
Thứ ba, KTV độc lập phải tạo cho doanh nghiệp đợc kiểm toán một cảm giác hài
lòng và dễ chịu khi làm việc. Điều này đòi hỏi KTV phải có kỹ năng tiếp cận và giao
tiếp phù hợp để tạo đợc sự hợp tác từ phía công ty khách hàng.
Với những tiêu chuẩn đó đợc đặt ra cho KTV độc lập khi đợc tuyển chọn vào
công ty kiểm toán, có thể đánh giá rằng chất lợng đội ngũ KTV độc lập ở Việt Nam
đang dần đáp ứng đợc xu thế hội nhập và yêu cầu của thực tiễn. Hiện nay, Việt Nam có
khoảng hơn 1000 KTV chuyên nghiệp đợc Bộ Tài chính cấp chứng chỉ hành nghề,
trong đó đứng đầu là công ty kiểm toán Việt Nam (VACO) chiếm khoảng 20% số CPA
của cả nớc. Tuy nhiên, yêu cầu của Việt Nam hiện nay cần khoảng 3000 KTV chuyên
nghiệp để có thể kiểm toán hết các doanh nghiệp bắt buộc phải kiểm toán và các doanh
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
24
nghiệp có nhu cầu kiểm toán. Chính sự thiếu hụt về số lợng KTV độc lập đã buộc các
KTV phải làm thêm giờ trong mùa kiểm toán. Điều này đôi khi tạo ra sức ép công việc
lớn, làm cho chất lợng kiểm toán không đạt nh mong muốn và đặc biệt tần suất di

chuyển lao động trong ngành kiểm toán rất cao. Theo ớc tính tại Việt Nam, số ngời gia
nhập vào thị trờng lao động kiểm toán luôn cân bằng với số ngời ra khỏi thị trờng kiểm
toán. Vì vậy đặc điểm nổi bật của lao động trong ngành kiểm toán độc lập là tuổi đời
còn rất trẻ, khả năng tiếp thu công nghệ mới cao, khả năng thích ứng nhanh và phù hợp
với tính chất của công việc.
Chất lợng KTV độc lập ở Việt Nam đợc đánh giá là đang trong giai đoạn hội nhập
với thế giới. Bằng chứng cho nhận định này là số lợng KTV đợc cấp chứng chỉ hành
nghề của các hiệp hội trên thế giới nh ACCA ngày càng tăng và đó trở thành chiến lợc
quốc tế hoá đội ngũ nhân viên ở các công ty. Theo thống kê cho thấy trong các kỳ thi
ACCA vừa qua, 2 KTV có số điểm cao nhất thế giới đều là ngời Việt Nam đang làm
việc cho các công ty kiểm toán nớc ngoài. Điều này chứng tỏ tiềm năng của KTV độc
lập ở Việt Nam là rất lớn song vấn đề mà chúng ta cần quan tâm là chế độ đãi ngộ để
các KTV này phục vụ chính nền kiểm toán trong nớc.
Song song với việc chú ý đến chất lợng KTV độc lập thì vấn đề thiếu hụt trầm
trọng về KTV độc lập chuyên nghiệp đang gây sức ép cho chính các KTV độc lập đang
hoạt động trong ngành kiểm toán. Theo ớc tính sơ bộ, hiện nay các KTV độc lập
chuyên nghiệp phải đảm nhận khối lợng công việc đáng lẽ ra do 2 ngời tiến hành. Có
thể thấy điều này là hoàn toàn chính xác vì theo Nghị định 105/NĐ-CP Nhà nớc đã mở
rộng đối tợng buộc phải kiểm toán độc lập nhng tốc độ tăng trởng của các KTV chuyên
nghiệp không bắt kịp với tốc độ tăng của các loại hình doanh nghiệp thuộc đối tợng
kiểm toán này. Vì vậy vấn đề đặt ra cho kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay là phải
phát triển nhanh, mạnh đảm bảo về cả chất lợng và số lợng để trớc hết là đáp ứng nhu
cầu trong nớc đồng thời thực hiện hội nhập chủ động với thế giới theo lộ trình đã đợc
cam kết.
3. Thực trạng kiểm toán viên nội bộ
Cho đến nay, kiểm toán nội bộ vẫn còn là một khái niệm không rộng rãi tại Việt
Nam. Có thể nhận thấy rằng số lợng các công ty, doanh nghiệp có Uỷ ban kiểm toán
nội bộ và do đó có KTV nội bộ là rất hạn chế. Hầu hết chúng ta chỉ thấy khái niệm
KTV nội bộ tại Việt Nam trong các Ngân hàng lớn, trong đó Ngân hàng Ngoại thơng
Việt Nam là một điển hình. Bên cạnh đó, việc Nhà nớc quy định các Tổng công ty 90,

91 phải có hệ thống kiểm soát nội bộ đã tạo ra cơ chế buộc các doanh nghiệp này phải
có KTV nội bộ dù là không chuyên nghiệp. Nhìn chung đội ngũ KTV nội bộ tại Việt
Nam có thể phân thành hai bộ phận nh sau:
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam
25
Thứ nhất, một bộ phận không chuyên nghiệp đợc chuyển từ các bộ phận khác
trong công ty. Những ngời này hầu hết đều có kiến thức về kế toán, kiểm toán nhng
không chuyên sâu. Công việc của họ thiên về kiểm tra giám sát việc thực hiện các quy
chế tài chính hơn là đa ra các kiến nghị kịp thời cho Hội đồng quản trị và Ban Giám
đốc. Do đó ảnh hởng từ các nhận xét của họ đối với bộ phận kế toán tài chính tại công
ty là không đáng kể.
Thứ hai, bộ phận kiểm toán nội bộ chuyên nghiệp đợc tuyển dụng theo các yêu
cầu khắt khe theo các tiêu chuẩn đặt ra của bản thân công ty và các quy định hiện
hành. Thậm chí họ còn là các KTV độc lập chuyên nghiệp chuyển sang làm KTV nội
bộ. Chúng ta có thể lấy trờng hợp KTV nội bộ tại Ngân hàng Ngoại thơng Việt Nam là
một ví dụ điển hình cho đội ngũ KTV nội bộ chuyên nghiệp. Vì vậy công việc của họ
không chỉ dừng ở chỗ kiểm tra, giám sát mà chủ yếu là đa ra các kiến nghị hợp lý, kịp
thời cho Hội đồng quản trị hoặc Ban Giám đốc trong việc tổ chức một hệ thống kiểm
soát nội bộ tốt. Và ảnh hởng của các nhận xét của KTV nội bộ đối với bộ phận tài
chính kế toán là rất lớn. Nếu nhận thấy làm việc không hiệu quả, KTV nội bộ hoàn
toàn có thể đề nghị thay đổi toàn bộ hệ thống kế toán, kể cả kế toán trởng.
Theo xu thế hiện nay, việc các công ty phải tự nâng cao chất lợng hoạt động của
mình là một vấn đề tất yếu. Do vậy việc tổ chức hệ thống kiểm soát trong doanh nghiệp
ngày càng trở nên rộng rãi. KTV nội bộ tại Việt Nam vì thế mà ngày càng có cơ hội
phát triển. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là phải phát triển một đội ngũ KTV nội bộ chuyên
nghiệp đảm bảo cho việc hội nhập một cách chủ động.
4. Cơ hội và thách thức đặt ra cho kiểm toán viên Việt Nam hiện nay
Ngày nay, kiểm toán đã và đang có sự thay đổi đáng kể nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển của nền kinh tế - xã hội. Các nhân tố mới xuất hiện có ảnh hởng không nhỏ
tới sự phát triển của kiểm toán, chẳng hạn nh sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự ra

đời và phát triển của thơng mại điện tử trên nhu cầu của xã hội ngày càng đặt lên vai
KTV những trọng trách trong việc kiểm tra, rà soát và báo cáo về các vấn đề phi tài
chính nh sự tuân thủ đối với Luật bảo vệ môi trờng, tuân thủ các chuẩn mực quản trị
chất lợng quốc tế (ISO) Chính vì những nhân tố này cùng với sự thay đổi trong bản
thân những chức năng truyền thồng của kiểm toán đã đặt ra cho KTV những thách thức
mới. Tất nhiên, nó cũng tạo ra những cơ hội mới cho những ai biết chớp thời cơ của sự
thay đổi này. Trong đó có những vấn đề nảy sinh mà cơ hội và thách thức luôn gắn liền
với nhau, không thể tách rời nhau.
4.1. Cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập
Khi các ngành phát triển thông qua trao đổi công nghệ và toàn cầu hoá thì bản
chất và phạm vi các giao dịch quốc tế kéo theo sự mở rộng các dịch vụ kế toán, kiểm
Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam

×