SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG CỦA THỂ LOẠI KỊCH
VÀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY VĂN BẢN KỊCH
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN THCS
A. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Những năm gần đây, đổi mới phương pháp dạy học được các cấp quản lý
giáo dục quan tâm nhiều, coi đó như một nỗ lực của ngành cần được khai thác
triệt để, nhằm tạo ra “bước nhảy” về chất lượng giáo dục. Nghị quyết TW2 khoá
VIII của Đảng đã chỉ rõ “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học. Từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại
vào quá trình dạy học”. Quan điểm của Đảng ta từng coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, vì vậy yêu cầu đổi
mới phương pháp dạy học được đặt ra là một vấn đề quan trọng và cấp bách.
Luật giáo dục của điều 24.2 đã ghi rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện
kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui, hứng thú học tập cho học sinh.
Để đáp ứng yêu cầu đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành thay sách
giáo khoa các bộ môn lớp 6, 7, 8, 9 tạo điều kiện cho giáo viên thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học. Một trong những nét mới khá nổi bật của chương trình
Ngữ văn THCS đó là đã giới thiệu một số trích đoạn kịch bản văn học tiêu biểu.
Ở lớp 7 là thể loại chèo của sân khấu dân gian Việt Nam: Trích “Nỗi oan hại
chồng”, chèo “Quan âm Thị Kính”; Ở lớp 8 trích: “Ông Giuốc đanh mặc lễ
phục”-trong vở hài kịch của Môlie “Trưởng giả học làm sang”; Ở lớp 9 là 2 đoạn
trích của hai vở kịch nói hiện đại “Bắc Sơn” của Nguyễn Huy Tưởng, “Tôi và
chúng ta” của Lưu Quang Vũ. Vì vậy buộc người giáo viên phải nắm được đặc
trưng của thể loại kịch và đổi mới phương pháp dạy văn bản kịch.
1
Thực tế ở trường THCS An Khánh cũng gặp nhiều khó khăn trong quá
trình đổi mới phương pháp dạy Ngữ văn, đặc biệt là dạy văn bản kịch. Để có một
giờ dạy tốt cần có sự đầu tư thích đáng về thời gian, trong khi đời sống giáo viên
còn nhiều khó khăn, cơ sở vạt chất và các phương tiện dạy học như tài liệu tham
khảo, băng đĩa, tranh ảnh còn ít, chủ yếu là dạy chay. Một số đoạn trích kịch ở
lớp 9 được sắp xếp ở cuối chương trình nên việc đầu tư cho bài dạy chưa nhiều.
Chính vì những lý do trên mà tôi đã lựa chọn đề tài này nhằm góp phần nâng cao
chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn. Hạn chế số lượng học sinh yếu kém, tăng số
lượng học sinh giỏi, khắc phục một phần tình trạng chán học văn đang gia tăng
hiện nay.
B-CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Đặc trưng bộ môn.
Văn học là một loại hình nghệ thuật phản ánh cuộc sống bằng hình tượng
văn học thông qua một chất liệu đặc biệt là ngôn từ (một thứ ngôn ngữ đã được
chọn lọc, gọt rũa tinh tế). Nhà văn lấy ngôn từ làm chất liệu để xây dựng nên tác
phẩm của mình, tái hiện lại bức tranh sinh động về cuộc sống và con người. Qua
đó nhà văn gửi gắm những tình cảm, tư tưởng và thái độ của mình trước cuộc
sống.
Văn học giúp chúng ta nhận thức cuộc sống, đưa đến những suy tưởng
sâu lắng trong tâm hồn tình cảm để cuộc sống đẹp hơn, có ý nghĩa hơn. Sự nhận
thức và suy tưởng đó phụ thuộc rất nhiều vào bề dày vốn sống và những tri thức,
kinh nghiệm của mỗi cá nhân. Do vậy, dạy Ngữ văn về một phương diện nào đó
là dạy cách tiếp nhận văn học có vai trò tích cực sáng tạo của học sinh.
Việc đưa những tác phẩm kịch vào chương trình, chủ yếu nhằm tạo điều
kiện cho học sinh tiếp xúc với đủ 3 loại hình (tự sự, trữ tình, kịch) và một số thể
kịch quen thuộc: Dân gian, cổ điển, hiện đại. Bên cạnh đó cũng cần có sự phân
biệt: kịch là một loại hình nghệ thuật tổng hợp (Văn học, hội hoạ, kiến trúc, điêu
khắc, âm nhạc, nhảy múa ) trong khi đó văn học là loại hình nghệ thuật ngôn từ.
Xem biểu diễn kịch trên sân khấu không giống với việc đọc một bài văn, một bài
thơ. Tuy nhiên kịch được dạy học trong nhà trường là kịch bản văn học có bảng
phân vai, hướng dẫn nội dung về cách thức diễn vở kịch.
2
Là một thể loại văn học nằm trong loại hình nghệ thuật kịch, tác phẩm
kịch nói cũng chỉ thực sự khai thác trọn vẹn khi được diễn trên sân khấu. Sau lao
động của nhà viết kịch là chặng đường sáng tạo thứ 2 của đội ngũ nghệ sĩ sân
khấu gồm đạo diễn, diễn viên, nhạc sĩ, hoạ sĩ. Nhưng không phải bất cứ một kịch
bản văn học nào cũng có điều kiện để dàn dựng trên sân khấu. Là một thể loại
văn học có đặc trưng riêng trong cấu trúc hình tượng, phương thức biểu hiện
trong ngôn ngữ nghệ thuật chúng ta vẫn có thể thưởng thức tác phẩm kịch bằng
cách đọc kịch bản văn học.
Dạy kịch bản văn học không đơn thuần là phân tích văn học, giảng văn,
thưởng thức vẻ đẹp của một lời văn hoặc biện pháp tu từ, cũng không phải để mô
phỏng diễn theo cử chỉ, điệu bộ của nhân vật kịch. Kịch bản văn học vừa thể hiện
đặc trưng của một văn bản văn học, vừa thể hiện đặc trưng của thể loại kịch. Sự
kết hợp giữa hai phương diện này vừa tạo nên sức hấp dẫn riêng của một loại văn
bản, lại vừa là thử thách không dễ vượt qua cho người dạy và người tiếp nhận.
Đổi mới phương pháp dạy văn bản kịch yêu cầu giáo viên phải nắm chắc
đặc trưng của thể loại kịch. Vận dụng linh hoạt các nguyên tắc, các thao tác
giảng dạy, các phương pháp khác nhau phải phù hợp với đặc trưng bộ môn.
Nhằm phát huy tối đa tinh thần chủ động, tích cực sáng tạo của học sinh, giúp
các em tự tìm tòi, tự khám phá ra chân lý, thay vì cách học một chiều trước đó.
2. Đặc điểm về tâm sinh lý của học sinh THCS
Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh THCS có nhiều điểm khác với học
sinh Tiểu học, nó biểu hiện bước phát triển mới về đời sống tâm lý. Đó là nhu
cầu được chiếm lĩnh tri thức, khả năng trí nhớ và liên tưởng, hoạt động tâm lý
dần vượt lên bản năng để có ý thức và năng lực tư duy trội lên, năng lực súc cảm
trực tiếp mau lẹ. Trẻ em hôm nay vượt trội về năng lực cảm xúc và trí tuệ. LX
Vư Gôtxki đã chỉ ra sự kiện căn bản của lứa tuổi thiếu niên là tuổi dậy thì, do
những thay đổi căn bản về cấu trúc sinh lý mà “Cả một thế giới mới của những
rung động nội tâm, những kích thích được mở, đời sống nội tâm phức tạp lên
không ngừng so với tuổi nhi đồng trước đó. Khả năng rung cảm cao, thời kỳ đó
đặc trưng bằng sự mạnh mẽ và dễ xúc động của tình cảm” (Trí tưởng tượng sáng
tạo ở lứa tuổi thiếu nhi – Nhà xuất bản Phụ nữ H1985).
3
Học sinh THCS so với học sinh Tiểu học nhanh nhạy trong cảm thụ và
nhận thức văn học. Khả năng liên tưởng, tưởng tượng linh hoạt hơn, logic hơn.
Khả năng ghi nhớ tái hiện hình tượng văn học, khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ
đã lưu loát và vững bền hơn. Các em dễ hứng thú, tích cực nhưng cũng dễ chán
nản trong tìm tòi khám phá các tác phẩm ( tò mò muốn biết tình tiết cốt truyện số
phận nhân vật). Định hướng học tác phẩm chưa tốt ( Thích truyện tranh, truyện
phiêu lưu, truyện cổ tích thần thoại ). Một số tác phẩm trong chương trình nhất là
thể loại kịch chỉ tự học, đọc khi có nhiệm vụ được giao. Nhìn chung học sinh
THCS đã có khả năng độc lập, tích cực trong học tập nhưng năng lực và hứng
thú cá nhân chưa bền vững. Nhất là học sinh ở vùng nông thôn việc tiếp xúc với
sân khấu kịch còn hạn chế, chủ yếu qua Tivi, sách giáo khoa. Vì vậy giáo viên
cần nắm được tâm sinh lý của học sinh để giúp học sinh tiếp cận tri thức hiệu quả
nhất.
3. Thực tế giảng dạy và học tập ở nhà trường
Những năm gần đây nhà trường luôn có thành tích cao trong các kỳ thi
giáo viên giỏi và học sinh giỏi bộ môn Ngữ văn. Song quan niệm của một số phụ
huynh về vấn đề dạy văn học còn lệch lạc, thiên về đầu tư cho các môn khoa học
tự nhiên. Mặt khác trình độ giáo viên trong nhóm ngữ văn chưa đồng đều, việc
đổi mới phương pháp dạy học còn hạn chế. Đối với thể loại kịch nhiều giáo viên
vẫn xác định là khó dạy. Kinh nghiệm thưởng thức kịch còn hạn chế, tài liệu viét
về kịch ít và càng ít phổ biến. Đó là những khó khăn khi dạy học kịch. Nhóm ngữ
văn đã tiến hành một số chuyên đề về dạy văn bản kịch,song chưa được kết quả
như mong muốn. Đó là cơ sở mà tôi nhận thấy cần phải đầu tư vào tìm hiểu đặc
trưng của kịch và đổi mới phương pháp dạy văn bản kịch trong trường THCS.
C. NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
I. Đặc trưng của kịch
1. Về khái niệm kịch
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” Nhà xuất bản giáo dục 2004 ( T167–
168) thuật ngữ kịch được dùng theo hai cấp độ.
* Ở cấp độ loại hình:
4
Kịch là một trong 3 phương thức cơ bản của văn học (kịch, tự sự, trữ
tình). Kịch vừa thuộc sân khấu, vừa thuộc văn học. Nó vừa để diễn là chủ yếu lại
vừa để đọc vì kịch bản chính là phương diện văn học của kịch. Song nói đến kịch
là phải đến sự biểu diễn trên sân khấu của các diễn viên bằng hành động, cử chỉ,
điệu bộ, lời nói ( Riêng kịch câm thì không diễn tả bằng lời).
Kịch được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc
những xung đột muôn thưở mang tính nhân loại ( như giữa thiện và ác, cao cả và
thấp hèn, ước mơ và hiện thực ) Những xung đột ấy được thể hiện bằng một cốt
truyện có cấu trúc chặt chẽ qua hành động của các nhân vật và theo những quy
tắc nhất định của nghệ thuật kịch. Trong kịch thường chứa đựng nhiều kịch tính,
tức là những sự căng thẳng do tình huống tạo ra đối với nhân vật.
Phần lớn kịch đươc xây dựng trên hành đồng bên ngoài với những diễn
biến của chúng và theo những nguyên tắc có sự đấu tranh chống lại của các nhân
vật. Tuy nhiên, cũng có hành động bên trong, qua đó nhân vật chủ yếu là suy
ngẫm và chịu đựng một tình huống xung đột bên trong hết sức căng thẳng.
Trong kịch, những lời phát biều của các nhân vật ( Trong đối thoại hoặc
độc thoại) nói lên hành động, ý chí và sự tự khám phá tích cực của họ có một ý
nghĩa quyết định. Còn những lời trần thuật ( Câu chuyện kể của nhân vật về
những điều đã qua, sự thông báo của người dẫn truyện, những lời chỉ dẫn của tác
giả trong kịch bản) chỉ đóng vai thứ yếu và nhiều khi không cần đến.
* Về mặt kết cấu:
Vở kịch thường chia thành nhiều hồi, cảnh, nhằm tạo ra sự trùng khớp
giữa thời gian, địa điểm và hành động kịch đồng thời làm cho cái được trình diễn
mang màu sắc xác thực của đời sống. Qua các thế kỷ khác nhau, mối quan hệ
giữa ba yếu tố: Thời gian, địa điểm, hành động trong kết cấu của kịch không
ngừng thay đổi tuỳ theo quan niệm của người sáng tạo và quy mô, tầm vóc của
những sự kiện biến cố được phản ánh.
Trên cấp độ loại hình, kịch bao gồm nhiều thể loại: Bi kịch, hài kịch,
chính kịch, cùng nhiều tiểu loại và biến thể khác nhau.
* Ở cấp độ thể loại:
5
Là một khái niệm kịch được dùng để chỉ một thể loại văn học-sân khấu
có vị trí tương đương với bi kịch và hài kịch. Với ý nghĩa này, kịch cũng gọi là
chính kịch (hoặc kịch dram). Cũng giống như hài kịch, kịch tái hiện cuộc sống
riêng của con người bình thường nhưng mục đích chính không phải là cười nhạo,
chế diễu các thói hư tật xấu mà là mô tả cá nhân trong các mối quan hệ chứa
đựng kịch tính đối với xã hội. Và cũng giống với bi kịch, kịch chú trọng tái hiện
những mâu thuẫn gay gắt, song những xung đột của nó cũng không căng thẳng
đến tột độ, không mang tính chất vĩnh hằng và về nguyên tắc có thể giải quyết
được ổn thoả. Còn các tính cách của kịch thì không có gì đặc biệt, phi thường.
Kịch hình thành như một thể loại vào nửa sau thế kỷ XVIII qua sáng tác
của các nhà khai sáng ở Pháp và Đức như Đi-đơ-rô (1713-1784), Bô-méc–se
(1732-1799), G.E. Let xing (1729-1781). Nó hướng về những lợi ích tinh thần
đạo đức, về lý tưởng của các lực lượng dân chủ tiến bộ đương thời. Trong quá
trình phát triển của kịch, tính kịch bên trong của nó ngày càng cô đọng, dồn nén
hơn. Nó cũng tiếp nhận những thủ pháp nghệ thuật, những phương tiện biểu đạt
của các thể loại văn học sân khấu khác như bi hài kịch, kịch hề để tăng thêm
sức hấp dẫn và tác động nghệ thuật của nó đối với công chúng.
Ở Việt Nam kịch ra đời vào những năm 20 của thế kỷ XX với những
sáng tác như “Chén thuốc độc” của Vũ Đình Long, “Kim Tiền” của Vi Huyền
Đắc Từ sau Cách mạng tháng Tám, kịch ngày càng chiếm vị trí quan trọng
trong đời sống văn học-sân khấu và xã hội ở nước ta.
2. Đặc trưng của kịch
2.1. Xung đột kịch
Do tính chất loại biệt của sự phản ánh, kịch lấy xung đột làm nội dung
phản ánh. Nghệ thuật kịch bao giờ cũng phản ánh cuộc sống trong một quá trình
nhất định, ở trạng thái khách quan, dưới dạng trực tiếp, cụ thể sinh động như
đang diễn ra trước mắt người xem. Nó hoàn toàn khác hẳn với hội hoạ, điêu
khắc, chỉ phản ánh cuộc sống tập trung trong mộ khoảnh khắc nhất định; nó cũng
không giống với âm nhạc và thơ trữ tình lấy việc phản ánh tâm trạng, tình cảm
của con người trước một sự kiện nào đó làm nội dung chủ yếu. Chính tính chất
đặc biệt ấy buộc nghệ thuật kịch phải chọn những chất liệu có tính chất động làm
6
cơ sở cho nội dung kịch, nghĩa là nó phải phản ánh cuộc sống trong sự vận động
của nó. Mà đã nói tới vận động là không thể không nói tới xung đột.
Lấy xung đột trong đời sống làm cơ sở cho sự sáng tạo nghệ thuật, nhà
viết kịch đến với hiện thực bằng con đường ngắn nhất. Pha-đê-ép đã từng khẳng
định: “Xung đột là cơ sở của kịch”. Thực tế trong sự vận động của hình tượng
thơ cũng có bộc lộ mâu thuẫn giữa những trạng thái tình cảm khác biệt của cảm
xúc: Vui và buồn, hạnh phúc và đau khổ. Trong các tác phẩm tự sự như tiểu
thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, yếu tố mâu thuẫn tồn tại ngay trong sự vận động
của cốt truyện và trong sự phát triển của các tính cách nhân vật. Với kịch, yếu tố
xung đột mang một sắc thái thẩm mỹ khác. Nhà viết kịch hiện đại Xô Viết Ác-
bu-dốp đã cho rằng: “Trong kịch không có những yếu tố tuỳ hứng mà người nghệ
sĩ có quyền dùng khi điều khiển số phận những con người trong các tiểu thuyết
và truyện. ở đây có một khuôn khổ rất chặt chẽ, không có thì giờ để mạn đàm,
giải thích, luận bàn”. Sự khác biệt ấy chính là tính chất tập trung cao độ của sự
xung đột kịch, sự chi phối trực tiếp đến cấu trúc tác phẩm, đến nhịp độ vận động
dồn dập khác thường của cốt truyện.
Xung đột là động lực thúc đẩy sự phát triển của hành động kịch nhằm
xác lập lên những quan hệ mới giữa các nhân vật vốn được coi là kết thúc tất yếu
của tác phẩm kịch. Thiếu xung đột, tác phẩm kịch sẽ mất đi đặc trưng cơ bản đầu
tiên của thể loại, sẽ là những “vở kịch tồi”. Vì vậy người viết kịch phải tạo được
những xung đột mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, tính khái quát lớn lao nhưng phải
hết sức chân thực, nghĩa là xung đột mang tính điển hình hoá.
Thiếu ý nghĩa điển hình, tác phẩm kịch chỉ là sự mô phỏng những mâu
thuẫn vụn vặt, tầm thường của đời sống. Thiếu ý nghĩa chân thức, tác phẩm kịch
chỉ là sự giả tạo, là những dòng lý thuyết suông. Công chúng tìm đến với kịch là
tìm đến một sự đồng cảm hoặc phản bác đối với tác giả trước những vấn đề quan
trọng của đời sống. Nghệ thuật kịch luôn là diễn đàn tư tưởng của cuộc sống, là
mối giao cảm sâu xa giữa tác giả và khán giả.
Ví dụ: Trong đoạn trích “Bắc Sơn” của Nguyễn Huy Tưởng, xung đột cơ
bản trong kịch “Bắc Sơn” là xung đột giữa lực lượng Cách mạng và kẻ thù. Xung
đột cơ bản ấy được thể hiện thành những xung đột cụ thể giữa các nhân vật và
7
trong nội tâm của một số nhân vật (Thơm, bà cụ Phương). Xung đột kịch diễn ra
trong chuỗi các hành động kịch có quan hệ gắn kết với nhau. Trong hồi bốn,
xung đột giữa cách mạng và kẻ thù được thể hiện trong sự đối đầu giữa Ngọc
cùng đồng bọn với Thái Cửu. Xung đột ấy lại diễn ra trong hoàn cảnh cuộc khởi
nghĩa bị đàn áp, kẻ thù đang truy lùng những chiến sĩ cách mạng. Nhưng xung
đột ở hồn kịch này còn diễn ra ở nhân vật Thơm đã có bước ngoặt quyết định,
khiến cô lựa chọn đứng hẳn về phía cách mạng.
Nới tới xung đột kịch ta cần chú ý đến vai trò tư tưởng của người viết.
Phản ánh những xung đột trong đời sống người viết muốn gửi gắm một ý nghĩa
tư tưởng nào đó tới khán giả như Pô-gô-đin–nhà viết kịch Xô Viết nổi tiếng, khi
ông nói tới khán giả như Pô-gô-đin nhà viết kịch nổi tiếng, khi ông nói tới mối
quan hệ giữa xung đột và tư tưởng. “Xung đột là điều kiện quan trọng đầu tiên
của tác phẩm, nó mang lại cho tác phẩm kịch sự sống và sự vận động. Nhưng
xung đột bao giờ cũng phụ thuộc vào một cái cao nhất và cũng là linh hồn của
nó, đó là tư tưởng chủ đề của của tác phẩm”. Mối quan hệ giữa hai yếu tố này là
mối quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau, nhưng tư tưởng chủ đề là cái gốc, có
tính chất quyết định.
Ví dụ trong vở “Tôi và chúng ta” Lưu Quang Vũ muốn ca ngợi những
con người mạnh dạn đổi mới có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm, để phát triển sản xuất, đem lại nguồn lợi hạnh phúc cho mọi người. Tác
giả tổ chức những chất liệu mà anh thu thập được trong cuộc sống thành xung
đột giữa những người cùng sống trong một nhà máy. Một bên tiêu biểu cho loại
người máy móc, bảo thủ như phó giám đốc Nguyễn Chính, còn một bên là giám
đốc Hoàng Việt đại diện cho cái mới, dám nghĩ dám làm. Thông qua cuộc đấu
tranh đó mà khán giả tiếp thu được vở kịch như ý đồ tác giả muốn nói.
2.2. Hành động kịch
Theo Arixtốt “Hành động là đặc trưng của kịch”. Nếu xung đột được coi
là điều kiện cần thiết làm nảy sinh tác phẩm, thì hành động lại là yếu tố duy trì sự
vận hành của tác phẩm. Trong mối giao lưu đó, xung đột là nơi quy tụ, chọn lọc
và tổ chức hành động kịch. Tính kịch của tác phẩm nằm trong xung đột nhưng
xung đột lại là yếu tố để giải toả nằm trong xung đột ấy. Hành động kịch thường
8
phát triển theo hướng thuận chiều với xung đột kịch. Xung đột càng căng thẳng
thì thiên hướng hành động càng trở nên quyết liệt, vì thế sức hấp dẫn của tác
phẩm tăng lên.
Hành động kịch cần được hiểu trong tình huống thống nhất vẹn toàn của
nó. Hành động kịch không phải là những hành động đơn lẻ, ngắt quãng mà là
một chuỗi hành động liên tục xoay quanh trục xung đột. Hành động kịch ở đây
chính là cốt truyện kịch được tổ chức một cách thống nhất, chặt chẽ trong khuôn
khổ của một chính thể nghệ thuật. Các cốt truyện bằng hành động ấy xoáy vào
trung tâm xung đột bằng sự liên kết theo một quy luật riêng: quy luật nhân quả.
Mọi hành động trong tác phẩm kịch dù trực tiếp hay gián tiếp đều dựa trên luật
nhân quả.
Hình thức nhân quả trực tiếp là hình thức mà hành động thứ nhất là
nguyên nhân sinh ra hành động thứ 2 và có thể cho đến hết.
Ví dụ trong đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” trích vở chèo cổ “Quan âm
Thị Kính”
Hành động 1: Hai vợ chồng Thiện Sĩ ngồi học và khâu vá dưới trăng, sau
đó Thiện Sĩ ngủ thiếp đi. Đây là nguyên nhân của hành động thứ 2.
Hoạt động thứ 2: Thị Kính cắt chiếc râu mọc ngược cho chồng là kết quả
của hành động 1 và là nguyên nhân của hành động 3.
Hành động 3: Bố mẹ Thiện Sĩ vu cho Thị Kính giết chồng, đuổi Thị
Kính đi là kết của của hành động 2 và là nguyên nhân của hành động tiếp theo là
Thị Kính giả trai đi tu.
Hình thức nhân quả gián tiếp là hình thức mà hành động thứ nhất có khi
là nguyên nhân của hành động thứ tư hoặc thứ 5.
Ví dụ: Trong vở Ô-Ten-Lô (Hồi 1, cảnh 1 và 2).
Cảnh 1: Vẫn theo hình thức nhân quả trực tiếp.
Hành động thứ nhất: Iagô rủ Rôđơrigô đến nhà Brabanxiô báo
Đétxđêmôna bỏ nhà đi theo ÔtenLô.
9
Hành động thứ hai: Iagô chọc tức Brabanxiô về việc Đétxđêmôna tự ý
lấy ÔtenLô sau đó lánh mặt đi vì sợ lộ.
Hành động thứ ba: Brabanxiô đem gia nhân đi lùng bắt ÔtenLô.
Cảnh 2: (Theo hình thức nhân quả gián tiếp).
Hành động thứ tư: Iagô tìm ÔTenLô và nói xấu Brabanxiô để gây hiềm
khích giữa hai người. Hành động này có nguyên nhân từ hành động thứ 2: Iagô
khích Brabanxiô (cảnh 1).
Trong thực tế: Hình thức nhân quả trực tiếp thường được dùng trong các
kịch bản ca kịch dân tộc như Tuồng, Chèo, viết theo lối tự sự, có tuyến kịch rõ
ràng. Còn hình thức nhân quả gián tiếp lại được dùng trong các kịch bản kịch
nói, viết thành nhiều tuyến kịch, chồng chéo lên nhau, cùng song song phát triển.
Mối quan hệ giữa hành động và nhân vật kịch là trục chính để xác định
tính cách nhân vật. Dù ở dạng nào, nhân vật kịch cũng khẳng định bản chất của
mình bằng hình động: Một ácPaGông keo kiệt (Môlie); Ôtenlô cuồng nhiệt cả tin
nhưng không kém phần hung bạo, một Dex-mô-na trong trắng, ngây thơ, Iagô
gian trá và hiểm độc, Hăm-lét đau đớn (Sếch-x-pi-a). Bấy nhiêu tính cách là bấy
nhiêu sự trăn trở, giằng xé dữ dội từ bên trong và những hành động quyết liệt ở
bên ngoài.
Trong vở chèo cổ “Quan âm Thị Kính” có hành động cắt râu cho chồng
của Thị Kính rất kịch tính. Hành động này đã tạo thành một mối quan hệ mới,
làm thay đổi vị trí trí của Thị Kính từ chỗ là người vợ yêu chồng đến chỗ bị nghi
oan là giết chồng vì sau đó bị đuổi ra khỏi nhà. Xem đến đấy, khán giả sẽ hồi
hộp, lo lắng, chờ đợi xem số phận của Thị Kính sau này sẽ ra sao? Nỗi oan kia
liệu có được giải không. Mặt khác qua hành động này, chúng ta thấy được một
phần tính cách của Thị Kính. Đó là một tâm hồn trong sáng, chân thật của một
người vợ thương yêu chồng rất mực, không muốn để chồng xấu vì một chiếc râu
mọc ngược dưới cằm. Nếu tác giả thay bằng hành động như Thị Kính ngồi quạt
cho Thiện Sĩ ngủ thì không có nỗi oan Thị Kính và Thị Kính không thể trở thành
một hình tượng nghệ thuật có giá trị tố cáo xã hội cũ.
2.3. Ngôn ngữ kịch
10
Khi nói về các yếu tố của văn học. Giooc-ki đã coi “ngôn ngữ là yếu tố
đầu tiên của văn học”. Điều đó có nghĩa là không có ngôn ngữ sẽ không có văn
học. Đối với nghệ thuật kịch, vai trò quan trọng đó của ngôn ngữ được nhiều tác
giả kịch nổi tiếng trên thế giới công nhận. A.N.axtrop xki nhà sáng lập ra nền
kịch ở Nga ở thế kỷ XIX đã coi ngôn ngữ là điều kiện đầu tiên của tính nghệ
thuật. Giooc ki trong bài “Bàn về kịch” đã khẳng định “Ngôn ngữ đối thoại có ý
nghĩa to lớn và thậm chí có ý nghĩa quyết định đối với việc sáng tác kịch”. So với
các thể loại khác, hệ thống ngôn ngữ kịch mang tính đặc thù rõ rệt.
* Ngôn ngữ nhân vật: Đây là hình thái tồn tại duy nhất của ngôn ngữ
kịch. So với hệ thống ngôn ngữ tự sự đây là điểm khác biệt rất rõ. Ngôn ngữ tác
giả, biểu hiện trong các lời chỉ dẫn về hoàn cảnh, về nhân vật chỉ có giá trị
hướng dẫn người đọc, diễn viên, đạo diễn, hoạ sĩ trong khi đọc kịch bản, còn khi
dựng trên sân khấu chúng sẽ biến mất và nhường chỗ cho tiếng nói của hoạ sĩ
trong các cảnh trí, cho ngôn ngữ hành động của diễn viên. Ngôn ngữ nhân vật
bao gồm hai hình thức chủ yếu là đối thoại và độc thoại.
* Ngôn ngữ đối thoại: Là sự đối đáp qua lại giữa các nhân vật ngôn ngữ
đối thoại được coi là dấu hiệu đầu tiên của ngôn ngữ kịch. Ngôn ngữ độc thoại là
tiếng nói của nhân vật chỉ nói với chính mình. Để nhân vật tự nói lên những uẩn
khúc bên trong, các tác giả kịch nhằm khai thác chiều sâu tâm lý cho các nhân
vật. Khi trình diễn trên sân khấu, người ta có thể thay đổi màu sắc, ánh sáng, sử
dụng tiếng vọng, hoặc tái hiện những hình bóng đã lùi vào quá khứ. Sân khấu
hiện đại còn sử dụng thủ pháp đồng hiện: Nhân vật tự phân thân để đối thoại
cùng nhau như “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ. Ngôn ngữ
nhân vật kịch dù đối thoại hay độc thoại trước hết đó là ngôn ngữ khắc hoạ tính
cách. Từ những “Lời ăn tiếng nói” riêng của mình, nhân vật kịch “phải biểu hiện
ở mức chính xác tối đa một cái gì đó điển hình” (Gorki). Sự chính xác tối đa theo
yêu cầu Gorki chính là ở chỗ: Mỗi nhân vật với một nguồn gốc xuất thân, bản
chất xã hội là một đặc điểm cá tính riêng phải có tiếng nói riêng thật phù hợp. Đó
là một đòi hỏi tất yếu, bởi vì bản chất của nhân vật kịch chỉ có thể được bộc lộ
qua chính lời lẽ của chính họ mà thôi.
2.3.1 Những đặc điểm của ngôn ngữ kịch.
11
* Ngôn ngữ mang tính hành động:
Hệ thống ngôn ngữ có nhiệm vụ mô tả chân dung kịch bằng một loạt các
thao tác hành động. Tính hành động của nhân vật kịch không chỉ bộc lộ trong
hình tượng sân khấu mà nó đã được hình thành ngay từ trong cấu tạo kịch bản
văn học. Ngôn ngữ trong tác phẩm kịch phải đảm bảo cho sự phát triển đầy kịch
tính của cốt truyện và những phản ứng hành động theo kiểu dây chuyền của các
nhân vật kịch. Tính hành động là đặc điểm, diễn viên xử lý thích hợp với hành
động của nhân vật trên sân khấu
Ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ hội thoại gần gũi với đời sống.
Ngôn ngữ kịch súc tích, dễ hiểu và ít nhiều mang tính chất khẩu ngữ.
Ngôn ngữ kịch vừa gần với tiếng nói hàng ngày lại vừa có tính chất văn học.
Trong kịch thơ và ca kịch dân tộc ngôn ngữ giàu tính ước lệ, cách điệu phù hợp
với âm nhạc.
Ví dụ: Ngôn ngữ của Đào Huế ở lớp “Đánh ghen” trong trích đoạn chèo
cổ “Tuần Ty - Đào Hiếu” vừa gần gũi với đời sống, vừa được cách điệu lên và
phù hợp với âm nhạc của lớp này.
Đào Huế: - Liến chi, liến chi! Rẽ cậu ra để tôi trả lời cho em
Ới con tê ơi! Mày lấy được chồng bà
Đất lơ trời lẳng, đất lẳng trời lơ
Có thể ông tơ chết tiệt, bà nguyệt chết dầm,
Mồ cha đứa làm mối đặng người ni cho cậu
(Vĩa) Ối em ơi! Em nghĩ mình em đáng giá lạng vàng mười
Đem ra kẻ chợ kém người năm phân
(Hát sắp đuổi) Chém cha con bợm lầu xanh
Rủ rê chồng chị, dỗ dành chồng tao.
Ở đây ta thấy tác giả khuyết danh của vở chèo vận dụng rất tài tình ngôn
ngữ dân gian của quần chúng kết hợp với yếu tố âm nhạc dựng nên ngôn ngữ
nhân vật Đào Huế với giọng đay nghiến, chì chiết, khinh bỉ của một bà vợ đánh
ghen.
12
Trong sân khấu kịch nói không sử dụng ngôn ngữ xa lạ với đời sống. Các
nhân vật kịch đối đáp với nhau một cách tự nhiên giản dị theo cách đối thoại
trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên sự giản dị, tự nhiên ấy không hề mâu thuẫn
với những cách nói năng giàu ẩn ý, giàu hình tượng và ý nghĩa triết lý sâu xa mà
chúng ta thường bắt gặp trong các tác phẩm kịch. Là một hình thái ngôn ngữ
nghệ thuật, ngôn ngữ kịch phải đạt đến trình độ điêu luyện. Tuy vậy tác phẩm
kịch loại bỏ hoàn toàn những lời lẽ thô thiển cũng như những cách nói năng tự
nhiên chủ nghĩa. Trong vở “Tôi và chúng ta” Lưu QuangVũ đã thể hiện điều đó
nên người xem có thể tiếp thu được một cách dễ dàng nội dung đối thoại của các
nhân vật.
Lê Sơn: – Chỉ e làm giả thì được huân chương, còn làm thật thì lại no
đòn!
Hoàng Việt: – Da tôi dày lắm, cậu yên chí!
Lê Sơn: – Anh thật là Thôi được, hứa với anh: Tôi không chạy đâu! Chỉ
tuần sau là quy trình sản xuất mới sẽ được triển khai. Ông Đông
ki sốt! Khổ thân tôi, tôi lại giống kị mã Xan-chô, rất yêu và
không thể thiếu được Đông ki-Sốt. Này nhưng dứt khoát các cối
xay gió nó sẽ cho chúng ta ăn đòn nhừ tử đấy!
(Anh đi khuất)
Tóm lại, cái khó của một vở kịch là đòi hỏi mỗi nhân vật phải tự biểu
hiện tính cách bằng lời nói và hành động. Tài năng của một nhà viết kịch bộc lộ
ngay trong khả năng vận dụng tối đa sức mạnh đặc biệt của ngôn ngữ hội thoại
để cấu trúc tác phẩm và khắc hoạ hình tượng. ở Việt Nam các tác giả: Nguyễn
Huy Tưởng, Lộng Chương, Đào Hồng Cẩm, Lưu Quang Vũ đã thể hiện khá rõ cá
tính sáng tạo của mình trong sáng tạo ngôn ngữ
II. Đổi mới phương pháp dạy kịch trong trường THCS .
1- Khởi động dạy một cách hấp dẫn.
Đây là hoạt động đầu tiên cho việc dạy bài mới. Nhưng đôi khi người dạy
thường xem nhẹ hoặc bỏ qua nó. Có những thầy cô đơn giản hóa lời giới thiệu
bài mới bằng điệp khúc muôn thủa : “Tiết trước chúng ta học bài… hôm nay ta
13
vào bài mới…:. Chính điệu đó phần nào làm giảm đi hứng thú học văn của học
sinh. Đây là “khúc dạo đầu” của bài giảng nhằm tạo tâm thế cho giờ dạy, tạo
hứng thú cho học sinh, thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức cũ và kiến thức mới.
Đưa ra mục tiêu của bài học cho học sinh. Giáo viên có thể tiến hành hoạt động
này bằng nhiều cách khác nhau như kể một câu chuyện, trình bày sinh động một
trích đoạn của bài học mới, đưa một thông tin hấp dẫn, một số tranh ảnh, giáo cụ
trực quan, đặt một số câu hỏi có tình huống cần giải quyết dựa trên vốn kinh
nghiệm của học sinh, có liên quan đến phần nội dung nào đó của bài học mới
nhằm thu hút sự quan tâm của học sinh với bài học.
VD1: Trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” chèo “Quan âm Thị Kính”
-Giáo viên có thể giới thiệu từ tấm ảnh “Quan âm Thị Kính ở chùa Tây
Phương” để dẫn vào bài. Hoặc cho học sinh xem một đoạn băng hình trích đoạn
và dẫn vào bài.
VD2: Trích đoạn kịch : “Bắc Sơn” của Nguyễn Huy Tưởng có thể giới
thiệu từ bài hát Bắc Sơn-Nhạc và lời của Văn Cao 1945
“Ôi còn đâu đây sắc chàm pha màu gió.
Đau lòng bao năm sống lầm than đây đó.
Ai về châu xưa nhớ hồi máu thắm cây rừng.
Còn vang khe núi tiếng oai hùng.
Lớp lớp chiến đấu Lạng Sơn tung bay cờ.
Rồi vùng đồi núi nhớ bao nhiêu hận thù.
Dân quân du kích, Cách mạng bừng mùa thu.
Sao vương bóng cờ bay trên chiến khu”
Bắc Sơn! Đây hố sâu mồ chôn.
Rừng núi ngân tiếng hú căm hờn.
Bắc Sơn! Khi bóng trăng mờ sương.
Bắc Sơn! không bóng người dưới thôn.
Ví dụ 3: Giới thiệu đoạn trích “Tôi và chúng ta” của Lưu Quang Vũ bằng
cách kể chuyện:
“Một người Pháp Christian hoche đã kể lại “Chiều hôm ấy trong một căn
phòng lở lói vôi vữa công chúng bình dân của Hà Nội vội vã, chen chúc nhau để
14
hoan hô vở kịch châm biếm mới nhất của Mô-li-e ở Việt Nam tên là “Lưu Quang
Vũ” Với khóe mắt nhiều nếp nhăn, với ngòi bút chua cay, với khuynh hướng sâu
sắc chống chủ nghĩa xu thời. Đây là một chiến thắng thực sự, một lời khuyến cáo
về những mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể “Vở kịch thu được
nhiều thành công đó có nhan đề “Tôi và chúng ta” mà hôm nay chúng ta cũng
tìm hiểu một trích đoạn.
2- Hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài
Đây là nhiệm vụ học tập được nêu ra trong giờ học, vừa giúp học sinh
nắm vững kiến thức kỹ năng, vừa góp phần phát huy trí lực, năng lực đọc, nghe,
viết, nói, liên tưởng, tưởng tượng cho học sinh. Trong SGK Ngữ văn đã không hệ
thống câu hỏi đọc hiểu văn bản. Tuy nhiên khi tiến hành giờ dạy căn cứ vào từng
đối tượng học sinh, đặc trưng thể loại, mục đích yêu cầu giờ dạy để xây dựng hệ
thống câu hỏi cho phù hợp.
Hệ thống câu hỏi đó cần kết nối được phần tự học, chuẩn bị bài ở nhà với
bài học trên lớp. Học sinh được tiếp tục mạch suy nghĩ, làm sáng tỏ thêm những
gì các em đã hiểu đã nhận thức, đã thực hành, ứng dụng và đặc biệt điều chỉnh
được những gì các em hiểu, làm chưa đúng, chưa trúng.
Câu hỏi phải chính xác, rõ ràng có màu sắc văn học, có khả năng khêu
gợi tình cảm, xúc động thẩm mĩ cho học sinh. Câu hỏi phải vừa sức với học sinh,
có hệ thống từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
*. Các loại câu hỏi:
a) Câu hỏi phát hiện (Gợi tìm)
Đây là câu hỏi có mức độ thấp nhất trong các loại câu hỏi, dùng để phát
hiện từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ, các tín hiệu nghệ thuật nhằm khơi gợi cảm
thụ học sinh. Loại câu hỏi này phù hợp với học sinh trung bình, thậm chí yếu
kém.
Các em có thể chưa chỉ ra tác dụng của các biện pháp nghệ thuật song lại
có thể phát hiện ra rất nhanh những chi tiết nghệ thuật gợi mở dần nội dung tác
phẩm . Chúng ta nên khuyến khích các em thuộc đối tượng này phát biểu và tôn
trọng ý kiến của các em, đồng thời dẫn dắt để các em từ phát hiện của mình cảm
15
nhận sâu sắc hơn các giá trị nghệ thuật. Trong văn bản kịch có thể dùng để phát
hiện ngôn ngữ và thái độ của nhân vật.
VD1: Trích đoạn : “Nỗi oan hại chồng” ở lớp 7
Hỏi về nghệ thuật ngôn ngữ và hành động của vợ chồng Sùng Ông được
tác giả khắc hoạ như thế nào?
Định hướng : Hành động dúi đầu Thị Kính, bắt Thị Kính ngửa mặt
Ngôn ngữ đặc biệt:
+ Dùng từ ngữ mắng mỏ: Con mặt sứa gan lim, mặt trơ như thớt, con nhà
cua ốc, tuồng mèo mả gà đồng.
+ Đổ lỗi cho Thị Kính : Say hoa đắm nguyệt, trên daau dưới bộc, gái say
trai, ngựa bất kham
+ Mạt sát gia đình Thị Kính: Dòng liu điu, đồng nát thì về Cầu Môn, con
nhà cua ốc, đề cao dòng dõi mình: Công phượng, giống công, trứng rồng lại nở
ra rồng, cao môn lệch tộc.
Nội dung:“ Ông giữa đang mặc lễ phục
VD: Đoạn trích của Mô-li-e
Hỏi: “Ông Giuốc-đanh phát hiện ra điều gì trên bộ lễ phục mới may? Sự
phát hiện này chứng tỏ điều gì trong nhận thức của ông? Tại sao ông lại dễ dàng
thay đổi ý kiến? Qua đây chứng tỏ thêm điều gì về tính cách của ông?
Định hướng:
+ Việc ông Giuốc đanh phát hiện họ may ngược, chứng tỏ ông chưa phải
mất hết tỉnh táo. Nhưng chỉ cần phó may lí luận rất liều và vớ vẩn rằng những
nhà quý phái, quý tộc đều may hoa ngược như vậy là ông đã tin ngay, đã rút lui ý
kiến của mình ngay. Điều này chứng tỏ sự kém hiểu biết nhưng lại thích danh
giá, sang trọng, học đòi của ông Giuốc-đanh và đã khiến ông dễ bị lừa, bị qua
mặt như thế nào.
b) Câu hỏi giải thích
16
Câu hỏi này yêu cầu học sinh phải làm sáng tỏ vấn đề cần quan tâm trong
bài giảng, cắt nghĩa từ ngữ, hình ảnh, các thuật ngữ văn học. Khi học sinh không
trả lời được đối với những vấn đề khó thì loại câu hỏi này để giáo viên đặt ra vấn
đề gợi sự chú ý của học sinh và tự giải quyết vấn đề.
Ví dụ 1: Đoạn trích : “Bắc Sơn”
Hỏi: Vì sao “Bắc Sơn” được gọi là kịch?
Định hướng: Vì tác giả dùng ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật để thể hiện
mâu thuẫn xung đột trong đời sống.
VD2: Đoạn trích “ Tôi và chúng ta”
Hỏi: Em hiểu gì nhan đề của vở kịch?
Định hướng: Cái tôi cụ thể phải hướng đến câu chúng ta, câu chúng ta
phải là lợi ích của cái tôi cụ thể. Đó là mối quan hệ giữa lợi ích tập thể và cá
nhân.
c) Câu hỏi phân tích
Dùng năng lực cảm thụ văn học để giúp học sinh khám phá nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm. Loại câu hỏi này phù hợp với đối tượng học sinh trung
bình và khá. Các em đỡ một số vấn đề kiến thức Ngữ văn. Khi giáo viên đặt câu
hỏi phân tích, các em có thể trình bày những điều hiểu biết của mình về vấn đề
đưa ra để giáo viên hướng dẫn đi vào những cảm nhận đúng, sâu sắc.
VD
1
: Đoạn trích “ Nỗi oan hại chồng”
Hỏi: Thị Kính kêu oan một cách đáng thương như thế nào? Em hãy lựa
chọn chi tiết để phân tích.
Định hướng:
- Cử chỉ: Bị xô ngã, khóc vật vã, rũ rượi.
- Kêu oan: Không được trình bày sự việc, kêu oan 4 lần với
Sùng Bà và Thiện Sĩ nhưng Thiện Sĩ dửng dưng.
- Dồn dập bị mạt sát, không nói được một lời đối đáp, Thị Kính
càng kêu oan, nỗi oan càng dày, nàng trở nên cô độc.
17
- Đến lần thứ năm kêu oan với chú( Mãng Ông) Thị Kính mới
nhận được một sự cảm thông. Nhưng đó là sự cảm thông đau
khổ và bất lực. Kết cục Thị Kính bị đuổi ra khỏi nhà chồng.
VD
2
: Đoạn trích “ Bắc Sơn” của Nguyễn Huy Tưởng.
Hỏi: Thơm đã có hành động cứu Thái và Cửu che mắt Ngọc, quyết định
đó chứng tỏ có sự chuyển biến gì trong lòng cô?
Định hướng: Với hành động táo bạo, bất ngờ này Thơm đã thoát ra khỏi
trạng thái day dứt, trù trừ để đứng hẳn vào hàng ngũ quần chúng cảm tình với
cách mạng, hành động này không phải ngẫu nhiên, tuỳ hứng, tuỳ tiện hay xếp đặt
mà có nguyên nhân hợp lý hợp tình. Lòng thương người, lòng kính phục Thái,
cảm tình với cách mạng, nhớ đến cái chết của cha, con, hoàn cảnh gia đình và
đặc biệt Thơm đã nhận ra bộ mặt thật của chồng.
d) Câu hỏi nêu vấn đề
Câu hỏi nêu vấn đề chính là phương tiện quan trọng để giáo viên xác định
tình huống có vấn đề. Loại câu hỏi này không nhằm mục đích tái hiện kiến thức,
cũng không nhằm khơi gợi sự tự biểu hiện của học sinh khi đánh giá chi tiết toàn
bộ tác phẩm. Câu hỏi nêu vấn để phải làm rõ vấn đề tiềm ẩn trong tác phẩm văn
học, phải gây hứng thú nhận thức cho học sinh, phải động viên khuyến khích học
sinh giải quyết vấn đề đã nêu. Đó cũng chính là sản phẩm của nghệ thuật sư
phạm. Câu hỏi nêu vấn đề phù hợp với tất cả các đối tượng học sinh, khi đưa ra
tình huống các em có thể tranh luận nhiều ý kiến thú vị. Các em được nói và bộc
lộ những suy nghĩ của mình về tác phẩm. Từ đó giáo viên nắm bắt được nhận
thức của các em để hướng nhận thức đó tới thầm mỹ văn chương.
VD1: Có người cho rằng bi kịch “ Nỗi oan hại chồng” là cái nút đầu tiên
của vở chèo bộc lộ thân phận, địa vị của người phụ nữ nghèo trong quan hệ gia
đình và hôn nhân phong kiến. Theo em đúng hay sai? Hãy trình bày ý kiến của
em?
VD2: Có ý cho rằng Ông Giuốc- đanh là nhân vật hài kịch. Hãy trình bày
ý kiến của em?
VD3: Xung đột kịch được thể hiện trong hồi bốn của vở “ Bắc Sơn”
18
A. Qua cuộc đối thoại giữa Thơm với Ngọc.
B. Qua cuộc đối thoại giữa Thái, Cửu với Thơm.
C. Qua sự đối đầu giữa Ngọc với Thái, Cửu và qua mâu thuẫn nội tâm
của Thơm.
D. Qua cuộc đối thoại của Ngọc với Thái, Cửu.
Em hãy nêu ý kiến của em.
VD4: Có ý kiến cho rằng trong vở “ Tôi và chúng ta” cuộc đấu tranh giữa
cái cũ và cái mới là tất yếuvà gay go, nhưng cuối cùng phần thắng sẽ thuộc về cái
mới, cái tiến bộ. Hãy trình bày quan điểm của em?
e) Câu hỏi gợi cảm xúc, hiện tượng, tường tượng.
Là câu hỏi khơi gợi những cảm xúc, ấn tượng, khả năng liên tưởng, tưởng
tượng của học sinh khi đọc tác phẩm, hoặc tìm hiểu cảm xúc tâm trạng của nhân
vật. Đối với văn bản kịch thì loại câu hỏi này rất cần thiết khi học sinh học kịch
bản văn học.
VD
1
: Việc lặp lại đến 5 lần kêu oan của Thị Kính gợi cho em ấn tượng gì?
VD
2
: Trong suốt đoạn trích “ Ông Giuốc đanh mặc lễ phục” chi tiết nào
cho em ấn tượng nhất? Hãy minh hoạ bằng lời.
VD
3
: Cảnh 1 là cuộc trò chuyện giữa ông Giuốc đanh và bác Phô rong tại
phòng khách nhà ông Giuốc danh. Em hình dung gì về sân khấu và không khí
kịch ở đây?
VD
4
: Trong những lời nói của giám đốc Hoàng Việt, câu nào làm em nhớ
nhất? Vì sao?
g) Câu hỏi bình
Là câu hỏi mở rộng, nâng cao cảm thụ của học sinh sau khi đã phân tích
giá trị nội dung và nghệ thuật. Có thể bình một chi tiết, một nhân vật hay một
khía cạnh của văn bản kịch. Câu hỏi bình thường dành cho các em học sinh khá
giỏi, khi các em đã có vốn văn chương khá phong phú với sự cảm nhận tinh tế
được trình bày bằng những câu văn nâng cao giàu hình ảnh.
19
VD
1
: Em hiểu gì về số phận của người phụ nữ đức hạnh trong xã hội cũ
qua nhân vật Thị Kính?
Định hướng: Người phụ nữ đức hạnh bị áp bức, bị ruồng bỏ a. bất kỳ lý
do gì. Đó là số phận bất hạnh của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ.
VD
2
: Nhắc đến hội diễn sân khấu năm 1985 tổ chức tại Thành phố Hồ Chí
Minh không thể không nhắc đến thành công rực rỡ của “ Tôi và chúng ta” do
Đoàn kịch Hà Nội dàn dựng ( Đạo diễn Hoàng Quân Tạo). Em có cảm nhận gì về
sức hấp dẫn của vở kịch đó?
Định hướng: Sức hấp dẫn chính là nhờ tác phẩm đã đi thẳng vào một vấn
đề có thật, một vướng mắc còn nổi cộm lên trong đời sống xã hội. Đó là phải
thay đổi mạnh mẽ phương thức tổ chức quản lý trước sự biến chuyển sinh động
của cuộc sống.
Tóm lại: Hệ thống câu hỏi trong giảng dạy Ngữ văn nói chung, văn bản
kịch nói riêng giúp cho học sinh tìm tòi, tiếp nhận kiến thức về tác phẩm. Kích
thích nỗ lực trí tuệ của học sinh trong quá trình học tập, rèn luyện kỹ năng phân
tích khám phá. Nâng cao sự cảm thụ của học sinh. Vì vậy để có một giờ học sôi
nổi thành công người thầy cần nắm chắc đặc trưng thể loại, mục tiêu bài học để
chuẩn bị một hệ thống câu hỏi khoa học, nghệ thuật.
Trích ngang giáo án tiết 165 – 166 “ Tôi và chúng ta” của Lưu Quang Vũ.
Hoạt động của thầy Hoạt động của trò Nội dung cần đạt
Hỏi: Em hình dung
không khí của cuộc họp
tại phòng giám đốc
Hoàng Việt như thế nào?
Mục đích của cuộc họp
đó là gì?
Học sinh: tường
tượng hình dung
khung cảnh trên
sân khấu
II. Đọc – hiểu văn bản
1. Nhân vật Hoàng Việt
- Họp tại phòng giám đốc rất
khẩn trương, dân chủ.
- Trình bày kế hoạch mở rộng sản
xuất và phương án làm ăn sản
xuât của xí nghiệp.
Hỏi: Đề án có điểm mới
nào nổi bật? Em có nhận
Học sinh: Suy nghĩ
trả lời
- Mở rộng tối đa quy mô sản xuất
về mức sản xuất và số lượng công
20
xét gì về đề án đó? nhân.
-> ý tưởng táo bạo có mục đích và
kế hoạch rõ ràng. Thực hiện công
bằng trong lao động; chú ý đến
quyền của người lao động.
Hỏi: Giám đốc Hoàng
Việt có phản ứng gì khi
thấy Lê Sơn hoài nghi,
phân vân trước quan
điểm kế hoạch sản xuất
của cấp trên?
Học sinh: Tìm chi
tiết trả lời.
- Khẳng định “ chúng ta sẽ thực
hiện, từ nay chúng ta sẽ chủ động
đặt ra kế hoạch của chính chúng
ta”
-> Hoàng Việt đã dùng lý lẽ để
bác bỏ.
Hỏi: Những phản ứng đó
cho thấy Hoàng Việt là
người như thế nào?
Học sinh: trả lời,
ghi chép.
- Giám đốc dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm trong công
việc.
Hỏi: Quan niệm làm ăn
mới của Hoàng Việt bị
chống đối đó là P.GĐ
Nguyễn Chính, trưởng
phòng tài vụ, quản đốc
phân xưởng Trương.
Theo em nguyên nhân
của sự chống đối đó là
gì?
Học sinh: hoạt
động, nghiên cứu.
- Cách chống đối chung của nhóm
bảo thủ là đưa vào các quy định,
nguyên tắc, luật lệ có sẵn.
+ Họ không nhận được yêu cầu
đổi mới trong sản xuât.
+ Tin vào cơ chế cũ với nguyên
tắc luật lệ an bài.
+ Lo sợ vì bị hạn chế hoặc mất
quyền lực, quyền lợi cá nhân.
Hỏi: Trước đợt phản
công của nhóm “bảo thủ”
Hoàng Việt đã giải quyết
vấn đề như thế nào?
Học sinh: suy nghĩ
trả lời độc lập.
- Dùng quyền lực của giám đốc
để miễn chức, bãi chức.
- Dựa trên cơ sở đảm bảo đời
sống công nhân và hiệu quả công
việc.
-> Kịch tính đẩy lên cao độ.
Hỏi: Nếu như trong các
cuộc đấu tranh trước đó
Học sinh: Tìm chi - Trong cuộc đối thoại với
Nguyễn Chính Hoàng Việt không
21
là quan hệ công việc thì
trong mối quan hệ với
Nguyễn Chính còn là
quan hệ con người có
chức vụ khá gần gũi.
Hoàng Việt đã phản ứng
ra sao?
tiết phân tích. mất bình tĩnh, lập luận sắc sảo.
Khi Nguyễn Chính tung ra miếng
đòn cuối cùng “ Tất cả những
việc đồng chí định tiến hành
không có trong nghị quyết của
Đảng uỷ xí nghiệp. Đảng uỷ chưa
quyết định”. Mặc dù vậy Hoàng
Việt vẫn khẳng định đó là nghị
quyết “đẩy mạnh sản xuất và ổn
định đời sống công nhân”. Một
lần nữa cái mới đã chiến thắng.
Hỏi: Em hãy nhận xét
cách dàn cảnh của Lưu
Quang Vũ.
Học sinh: Nhận xét
và ghi chép.
- Khai thác các mối quan hệ khác
nhau nhưng thực chất mâu thuẫn
không thay đổi. Tác giả để cho
nhân vật hoạt động theo các cách
thức khách nhau. Đây là yếu tố
quan trọng đảm bảo cho vở kịch
có được sức lôi cuốn liên tục.
-> Phong cách kịch của Lưu
Quang Vũ
Hỏi: Em cảm nhận gì về
nhận vật Hoàng Việt?
Học sinh: tự bộc
lộ.
- Hoàng Việt là một giám đốc có
tinh thần trách nhiệm cao, năng
động, dám nghĩ, dám làm vì sự
phát triển của xí nghiệp và quyền
lợi của anh chị em công nhân.
Anh cũng là người trung thực,
thẳng thắn, kiên quyết đấu tranh
với niềm tin vào chân lý. Trong
cuộc sống hiện nay rất cần những
con người như vậy.
3. Sử dụng hợp lý các phương tiện dạy học.
22
Trong đổi mới phương pháp dạy học, cần sử dụng hợp lý các phương tiện
dạy học, tránh dạy chay. Sự hỗ trợ của các phương tiện nghe nhìn mang lại hiệu
quả cao cho các giờ học trong các hoạt động như nêu vấn đề, tìm kiếm thông tin,
mở rộng kiến thức. Kích thích trí tò mò, lòng ham hiểu biết và hứng thú học tập
của học sinh. Nếu dùng không đúng lúc, đúng chỗ các phương tiện dạy học lại có
tác dụng ngược lại.Với môn Ngữ văn, một đoạn băng hình, một vài mẫu thông
tin, vài phút nghe băng đĩa, vài tranh ảnh, những sơ đồ bảng biểu, những bài tập
được in to phóng lớn. Cũng có thể có những tác động tích cực hoặc tiêu cực phụ
thuộc cách sử dụng của giáo viên.
VD2: - Đoạn trích “ Nỗi oan hại chồng” có thể xem băng hình “ Quan Âm
Thị Kính” ở phần giới thiệu bài hoặc ở phần củng cố luyện tập. Nếu có điều kiện
quan sát tranh “ Quan Âm Thị Kính ở chùa Tây Phương phóng to”. Hoặc có thể
cho học sinh xem toàn bộ vở chèo Quan Âm Thị Kính bằng văn bản.
- Đoạn trích “ Ông Giuốc đanh mặc lễ phục” của Môlie có thể giới thiệu
chân dung của Môlie trong bộ “ Chân dung các tác giả trong trường THCS” hoặc
cho học sinh xem một số tác phẩm của ông.
- Đoạn trích “ Bắc Sơn” cuả Nguyễn Huy Tưởng có thể cho học sinh xem
chân dung nhà văn và toàn văn kịch bản Bắc Sơn. nghe băng bài hát Bắc Sơn,
nhạc và lời của Văn Cao năm 1945.
- Đoạn trích “ Tôi và chúng ta” của Lưu Quang Vũ cho học sinh xem ảnh
chân dung Lưu Quang Vũ và toàn văn kịch bản “ Tôi và chúng ta”.
Khi sử dụng máy chiếu hắt
hoặc giáo án điện tử cần chọn lọc nội dung cho thích hợp. Kết hợp giữa cách ghi
bảng truyền thống và các phương tiện hiện đại. Khi chiếu cần có thời gian cho
học sinh quan sát, suy nghĩ. Trong thực tế tôi hay chọn những nội dung sau cho
máy chiếu:
- Nét chính về tác giả.
- Nét chính về tác phẩm.
- Những chú thích cần lưu ý.
- Thể loại( nếu cần).
23
- Bố cục( nếu chia).
- Các câu hỏi hoạt động nhóm.
- Những nội dung so sánh, mở rộng.
- Chốt nội dung, nghệ thuật chính.
- Tổng kết nội dung, nghệ thuật cơ bản.
- Sơ đồ hoá bài học.
- Bài tập phần luyện tập.
Sau khi dạy xong, nội dung chính của bài học vẫn để trên bảng viết một
cách hệ thống.
Tóm lại: Có thể coi việc sử dụng các đồ dùng, phương tiện giảng dạy là
một trong những biện pháp hiệu quả trong việc dổi mới phương pháp giảng dạy
giờ học Ngữ văn. Việc làm đồ dùng dạy học đơn giản để hỗ trợ cho giờ dạy là
một công việc cần thiết. Chính sự suy nghĩ để làm thế nào sử dụng tốt các đồ
dùng sẵn có và sáng tạo những đồ dùng đơn giản cũng là thước đo phẩm chất
nghề nghiệp của mỗi giáo viên.
D. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÓ ĐỐI CHỨNG
Qua một vòng dạy Ngữ văn chúng ta có thể khắng định Ngữ văn THCS.
Không những đưa các em học sinh được tiếp xúc với nhiều tác phẩm hay, dẫn dắt
các em tới những chân trời mới lạ mà còn giúp các em hiểu, cảm thụ, tư duy một
cách sáng tạo, khác với những giờ văn trước kia, học sinh tiếp thu tác phẩm văn
học một cách thụ động máy móc. Giờ Ngữ văn hiện nay giúp học sinh không
những cảm, hiểu yêu thích tác phẩm văn học mà còn biết nói lên suy nghĩ cảm
nhận riêng của mình.
Vận dụng đổi mới phương pháp dạy văn bản kịch ở lớp 9 tôi thấy giờ dạy
và kết quả tiến bộ đáng kể. Các em thích đọc phân vai rất diễn cảm. Giờ học sôi
nổi hơn khi có những hoạt động kết hợp bổ trợ như chân dung tác giả, máy chiếu
hắt.
Kết quả: Dạy văn bản “ Tôi và chúng ta” của Lưu Quang Vũ ở 2 lớp 9B
và 9C( Học sinh 2 lớp có học lực tương đương) đã đem lại kết quả khác nhau. ở
lớp 9B tôi vận dụng đổi mới phương pháp theo đề tài này. ở lớp 9C không vận
24
dụng đổi mới phương pháp. Kết quả cụ thể của bài tập sau tiết dạy: “Nêu những
suy nghĩ của em về vấn đề đặt ra trong vở kịch? “
Kết quả:
Mức điểm
Tổng lớp
Điểm 3 - 4 Điểm 5 – 6 Điểm 7 – 8 Điểm 9 – 10
9B 0% 45% 45% 10%
9C 5% 55% 40% 0%
E. NHỮNG KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ NGHỊ SAU QUÁ TRÌNH THỰC
HIỆN ĐỀ TÀI
Thứ nhất: Tiếp nhận văn bản kịch bản văn học là hết sức ưu tiên tích kịch,
ngôn ngữ và hành động. Ngoài ra cần quan tâm thích đáng đỗi với các yếu tố tự
sự, biểu cảm, xuyên them trong mối quan hệ thống nhất của một văn bản văn
học. Vì vậy giáo viên phải nắm bắt mục tiêu bài học và vận dụng đổi mới
phương pháp để bài dạy thành công.
Thứ hai: Sử dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học sao cho
hợp lý và hiệu quả. Sử dụng các thiết bị dạy học phù hợp với giờ dạy.
Thứ ba: Học sinh cần soạn bài chu đáo dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Thứ tư: Tổ chức hoạt động ngoại khóa như cho học sinh xem kịch hoặc
học sinh đóng kịch để các em được sống với tác phẩm sân khấu.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của tôi trong bước đầu tìm hiểu đặc
trưng của thể loại kịch và vận dụng đổi mới phương pháp trong dạy văn bản kịch
ở trường THCS. Trong quá trình thực hiện do trình độ và khuôn khổ bài viết
không thể tránh khỏi những hạn chế. Vì vậy tôi rất mong được sự góp ý của bạn
bè, đồng nghiệp để xây dựng phương pháp giảng dạy cho bản thân ngày càng
hiệu quả hơn.
Hà Đông, ngày 16 tháng 05 năm 2006
25