Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Nhận xét tình trạng mòn răng, nha chu ở công nhân tiếp xúc với a xít và nhóm đối chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (992.39 KB, 83 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay bệnh răng miệng được coi là bệnh phổ biến, lan tràn rộng với
tỉ lệ cao. Trong các bệnh răng miệng, bệnh nha chu và bệnh tổn thương tổ
chức cứng của răng là hai bệnh chính gây ảnh hưởng đến ăn nhai, sức khỏe và
thẩm mỹ. Tổ chức cứng của răng bao gồm men răng và ngà răng. Men răng
được coi là phần cứng nhất của cơ thể. Mặc dù vậy không có nghĩa là men
răng không thể không bị phá hủy. A xít và vi khuẩn có thể “gặm nhấm”men
răng từ từ, gây ra tình trạng xói mòn răng và tạo ra những lỗ hổng trên răng.
Men răng có thể bị vỡ, rạn và không như xương, men răng không thể tự tái
tạo, tức là nó sẽ bị tổn thương vĩnh viễn. Điều gì sẽ xảy ra khi men răng bị tổn
thương? Các lớp ngay dưới men răng sẽ bị tổn thương dẫn đến sâu răng. Các
lỗ hổng trên không phải là vấn đề duy nhất, khi men răng bị tổn thương răng
sẽ trở nên nhạy cảm với nhiệt độ một cách “bất thường”. Chẳng hạn khi ăn
nóng quá hoặc lạnh quá đều có thể gây ê buốt, khó chịu.
Trong nền công nghiệp hóa , hiện đại hóa của đất nước hiện nay, nhu
cầu sử dụng hóa chất ngày càng nhiều, đồng nghĩa với việc nền công nghiệp
sản suất hóa chất ngày càng phát triển để đáp ứng nhu cầu phát triển của các
ngành công nghiệp khác. Vì vậy số người tiếp xúc trực tiếp và gián tiếp với
hoá chất ngày càng nhiều và các bệnh lý do hóa chất gây nên cũng ngày một
tăng lên ví dụ như bệnh đường hô hấp, bệnh ung thư, bệnh tổn thương tổ chức
cứng của răng….
Miệng được coi là cửa ngõ của đường hô hấp và tiêu hóa, khi hít thở
không khí có lẫn hóa chất sẽ vào mũi hoặc miệng từ đó thâm nhập vào phổi,
dạ dày vào máu…. gây hai cho rất nhiều cơ quan nhưng tác hại đầu tiên nó
gây ra phải nhắc đến là các bộ phận của miệng như răng, lợi , niêm mạc
miệng, môi, má….
Trên thế giới bệnh mòn răng và các triệu chứng của nó đã được nghiên
cứu từ rất sớm. Westergaard và Johansson [1]: Nghiên cứu từ 134 công nhân
của 1 nhà máy hóa chất tại Osaka, Nhật Bản cho thấy có 31% công nhân có
dấu hiệu của sự xói mòn răng. Các nguy cơ xói mòn nghề nghiệp do tiếp xúc
với enzim thủy phân protein hoặc tiếp xúc liên tục với hơi a xít acetic. Nghiên cứu


1
tại một doanh nghiệp dược phẩm và công nghệ sinh học cho thấy mức độ xói mòn
nghiêm trọng ở mặt ngoài và rìa cắn của răng cửa hàm trên không chỉ gia tăng do
sự phơi nhiễm với enzim thủy phân protein mà còn do tuổi tác, việc sử dụng rượu
vang, trà chanh và sử dụng kem đánh răng mài mòn.
Các nghiên cứu cho thấy công nhân mạ, pin có nguy cơ cao bị xói mòn
răng. Nguy cơ gia tăng xói mòn liên quan đến nồng độ ngày càng tăng của a
xít, thời gian tiếp xúc ngày càng tăng và thời gian công tác. Ngoài ra mức độ
trầm trọng của sự xói mòn gia tăng với nồng độ ngày càng tăng của khói a xít.
Đối với khói a xít, nghiên cứu của Chikte, Chikte và Josie- Perez [2], Nam
Phi tìm thấy một nguy cơ cao gấp 3-5 lần so với sự xói mòn răng ở công nhân
các nhà máy sản xuất a xít khác.
Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ xói mòn răng của công nhân tiếp xúc với
a xít ở các nước đang phát triển cao hơn rất nhiều lần so với các nước phát
triển. Ở châu Phi, tỷ lệ xói mòn răng của công nhân tiếp xúc với a xít lên đến
100%, trong khi chỉ có 8-31% lao động ở châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Lê Thị Hải Yến (2005) [3] thực hiện
trên 100 bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên đến khám tại khoa Răng Hàm Mặt Bệnh
viện Hữu Nghị theo chỉ số TWI (Smith và Knight 1984) thấy: 100% có mòn
răng từ mức độ mòn men (độ I) đến mòn hoàn toàn men ngà (độ IV). Trên
mỗi bệnh nhân có thể gặp nhiều mức độ mòn khác nhau ở các vùng
Ở Việt Nam cũng có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về mòn
răng nhưng các nghiên cứu này chỉ đề cập tới mòn răng cơ học mà chưa có
công trình khoa học nghiên cứu về mòn răng hóa học ở những người làm việc
trong môi trường hóa chất gây ăn mòn. Vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài:
“Nhận xét tình trạng mòn răng, nha chu ở công nhân tiếp xúc với a xít và
nhóm đối chứng.” nhằm mục tiêu:
1. So sánh tỷ lệ mòn răng, bệnh vùng quanh răng ở công nhân công ty cổ phần
hóa chất Việt Trì và nhóm đối chứng từ tháng 1/ 2013 đến tháng 10/2013 .
2. Nhu cầu điều trị của hai nhóm này.

2
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Đại cương của răng và tổ chức quanh răng [4], [5]
Cấu tạo của răng gồm:
- Mô cứng: Men răng, ngà răng.
- Mô mềm: Tủy răng
Hình 1.1. Cấu trúc giải phẫu của răng
1.1.1. Men răng
Men răng phủ mặt ngoài ngà thân răng, có nguồn gốc ngoại bì, là mô
cứng nhất của cơ thể, có tỷ lệ chất vô cơ cao 96% trong đó chủ yếu là canxi
và hydroapatit, chất hữu cơ chiếm 1,7%, muối chiếm 2,3%.
Hình dáng và bề dày của men răng được xác định từ trước khi răng
mọc ra, trong đời sống men răng không có sự bồi đắp thêm theo tuổi, nhưng
có sự trao đổi về vật lý và hóa học với môi trường miệng.
3
Về mặt lý học:
Men răng cứng, giòn, trong và cản tia X, với tỷ trọng từ 2,9-3. Men
răng phủ toàn bộ thân răng dày nhất ở núm răng và mỏng dần về phía cổ răng.
Ở trạng thái bình thường thì men răng trong suốt, song nó có thể thay đổi màu
sắc do có một số yếu tố tác động khác.
Về mặt hóa học:
Men răng chứa 90 - 96% là chất vô cơ, chủ yếu là 3[(PO
4
)
2
Ca
3
]
Ca(OH)

2
(hydroxy apatit), 3[(PO
4
)
2
Ca
3
]
2
H
2
O (phosphat 3 canxi ngậm nước)
còn lại là một lượng rất ít nhưng không thể thiếu được của muối cacbonat Mg
(2%) lượng nhỏ Clorua, Fluorua và sunfat của Kali, Natri. Thành phần hữu cơ
khoảng trên 1% trong đó chủ yếu là protit.
1.1.2. Ngà răng
Ngà răng được bao phủ phía ngoài bởi men răng và xương răng, ngà là
tổ chức ít rắn hơn và chun giãn hơn, không giòn và dễ vỡ như men.
Thành phần vô cơ của ngà chiếm 70% và chủ yếu là Hydroxy apatit
(3[(PO
4
)
2
Ca
3
]
2
H
2
O). Nước và chất hữu cơ chiếm 30% chủ yếu là Collagene.

Ngà thứ phát: Được sinh ra khi răng đã hình thành, bao gồm: ngà thứ
phát sinh lý, ngà phản ứng.
- Ngà sinh lý: Được hình thành liên tục trong suốt thời gian tồn tại của
răng với nhịp độ rất chậm so với ngà tiên phát.
- Ngà phản ứng: Là biểu hiện phản ứng của tủy đối với quá trình sâu
răng, sang chấn hoặc quá trình làm mòn răng. Ngà này thường khu trú ở một
vùng tổn thương, ít ngấm vôi và ít cản quang hơn so với ngà tiên phát.
1.1.3. Tủy răng
Là một tổ chức liên kết nằm trong hộp cứng ngà thân răng, ngà chân
răng và được thông với bên ngoài bởi lỗ cuống răng.
4
Về tổ chức học: Tủy răng chia thành hai vùng: vùng giữa tủy và vùng
cạnh tủy.
-Vùng giữa tủy: Là tổ chức liên kết gồm nhiều tế bào và ít tổ chức sợi,
có nhiều mạch máu và bạch huyết.
-Vùng cạnh tủy: Gồm có lớp tế bào tạo ngà và lớp không có tế bào là
những tổ chức sợi keo.
1.1.4. Tổ chức học vùng quanh răng
Gồm: Lợi, dây chằng quanh răng, xương ổ răng và xương răng
Lợi là vùng đặc biệt của niêm mạc miệng được giới hạn ở phía cổ răng
bởi bờ lợi và phía cuống răng bởi niêm mạc miệng. ở phía ngoài của cả hai
hàm và phía trong của hàm dưới, lợi liên tục với niêm mạc xương ổ răng bởi
vùng tiếp nối niêm mạc - lợi. Ở phía khẩu cái, lợi liên tục với niêm mạc khẩu
cái cứng. Lợi được chia thành hai phần là lợi tự do và lợi dính.
Dây chằng quanh răng là mô liên kết có cấu trúc đặc biệt nối liền răng
với xương ổ răng
Xương ổ răng là một bộ phận của xương hàm gồm có bản xương (có
cấu tạo là xương đặc) và xương xốp.
Xương răng bọc phần ngà răng ở chân răng, nó có tính chất lý học và hóa
học giống với các xương khác nhưng không có hệ thống Havers và mạch máu.

1.2. Tổng quan về mòn răng
1.2.1. Định nghĩa và phân loại mòn răng
Mòn răng là tình trạng mất dần tổ chức cứng trên bề mặt của răng
không do sâu. Mòn răng làm thay đổi kích thước ngoài, hình thể răng, mối
tương quan hai hàm, dần dần thay đổi tính chuyển động của hàm dưới, dẫn tới
giảm hiệu quả nhai, giảm chiều cao khớp cắn. Đặc điểm của mòn răng là bề
mặt của tổn thương thường cứng nhẵn và rất bóng, có thể có màu hơi nâu.
5
Theo một số tác giả thì mòn răng còn được chia thành hai loại theo
nguyên nhân chung là mòn cơ học và mòn hóa học [6].
Bình thường thì mòn răng xảy ra như một quá trình sinh lý, mức độ
mòn và độ lan rộng thường rất chậm, không đáng kể và thay đổi tùy theo tuổi,
nhưng mòn răng được xem là bệnh lý khi tốc độ mòn nhanh, mòn nhiều, lan
rộng, hủy hoại trầm trọng tổ chức cứng của răng do nhiều nguyên nhân khác
nhau làm ảnh hưởng đến chức năng ăn nhai và thẩm mỹ.
1.2.2. Cơ chế bệnh sinh
Men răng được cấu tạo chủ yếu từ 3[(PO
4
)
2
Ca
3
] Ca(OH)
2
(hydroxy
apatit), 3[(PO
4
)
2
Ca

3
]
2
H
2
O (phosphat 3 canxi ngậm nước) , nó được coi là phần
cứng chắc nhất của cơ thể. Fluor và canxi là hai yếu tố chủ yếu giúp kiến tạo
nên men răng. Khi uống canxi và fluor sẽ dung nạp vào cấu tạo răng đang
hình thành trong cấu tạo xương hàm, sau khi răng đã mọc fluor và canxi cũng
ảnh hưởng từ bên ngoài vào men răng.
Căn nguyên của sự xói mòn răng chính là việc giải thể hóa học của men
và ngà răng dưới tác động của nguồn a xít ngoại sinh. A xít phản ứng với các
thành phần chính của hydroxyapatit bao gồm carbonate, phosphate và
hydroxyl, kết quả là hợp chất hydroxyapatit vốn được coi là cứng chắc nhất
cơ thể bị phá hủy giải phóng ra ion canxi làm men răng mềm ra. Mức độ xói
mòn phụ thuộc vào độ pH của a xít, thời gian một lần tiếp xúc và thời gian cả
quá trình tiếp xúc.
6
1.2.3. Phân loại mòn răng [6, 7].
1.2.3.1. Mòn răng cơ học (mòn răng sinh lý)
Men răng là tổ chức khoáng hóa cứng chắc nhất của cơ thể, tuy nhiên
theo thời gian quá trình mòn răng vẫn xảy ra. Mòn răng sinh lý xảy ra chủ yếu
ở mặt nhai các răng hàm do quá trình ăn nhai. Mức độ mòn phụ thuộc vào độ
tuổi, thói quen ăn đồ cứng và tình trạng khớp cắn. Ở những người khớp cắn
sâu thường mòn cả răng cửa và răng hàm, thậm trí mòn gần hết thân răng.
Hình 1.2. Hình ảnh mòn mặt nhai
7
Ngoài ra mòn răng có thể xuất hiện ở cổ răng. Cổ răng là vùng có men
răng mỏng nhất vì vậy do khớp cắn sai gây sang chấn hoặc do thói quen chải
răng ngang, dùng bàn chải cứng, mòn cổ răng cũng rất hay gặp ở người lớn

tuổi (trên 40 tuổi). lúc đầu nơi mòn chỉ là một rãnh nhỏ hình chữ V, nằm ở sát
lợi, sau lớn dần gây ê buốt, khó chịu nhất là khi ăn đồ nóng quá, lạnh quá hay
khi đánh răng…. Mòn cổ răng có thể xảy ra ở răng cửa hoặc răng hàm,
thường gặp nhất ở răng nanh và răng hàm nhỏ (răng 3, 4, 5), ở răng hàm trên
hay hàm dưới làm buồng tủy hẹp dần, có thể gây gãy răng.
Hình 1.3. Hình ảnh mòn cổ răng
1.2.3.2 Mòn răng hóa học (mòn răng bệnh lý)
Mòn răng hóa học hay xói mòn răng (Corrosion hay Erosion): được coi
là một bệnh lý mãn tính mất mô cứng của răng do ảnh hưởng của acid nội tại
hay ngoại lai mà không có sự tham gia của vi khuẩn. Men răng được cấu tạo
chủ yếu từ 3[(PO
4
)
2
Ca
3
] Ca(OH)
2
(hydroxy apatit), 3[(PO
4
)
2
Ca
3
]
2
H
2
O
(phosphat 3 canxi ngậm nước) vì vậy khi tiếp xúc với acid sẽ xảy ra quá trình

khử khoáng làm mềm bề mặt men răng, dẫn đến răng dễ bị mài mòn cơ học.
8
Hình 1.4. Hình ảnh xói mòn men răng
Với đặc điểm rất cứng chắc men răng được coi là hàng rào bảo vệ các
mô bên trong của răng. Tuy nhiên do đặc điểm tiếp xúc với môi trường miệng
là một môi trường phức tạp và dễ biến đổi nên nguy cơ mất khoáng men răng
là thường xuyên và do nhiều nguyên nhân khác nhau như:
- Hay bị nôn hay trào ngược dạ dày: Là nguyên nhân phổ biến nhất
gây nên sự mòn trầm trọng ở mặt trong răng cửa trên.
- Chứng cuồng ăn, nghiện rượu, say rượu thường xuyên có thể gây
mòn răng do sự tăng nguy cơ trào ngược acid dạ dày.
- Ăn trái cây có vị chua: Gây mòn răng ở mặt ngoài răng cửa trên. Vị
trí và mức độ trầm trọng của mòn răng liên quan trức tiếp đến cách sử dụng
thức ăn có tính acid, độ acid và thời gian tiếp xúc.
- Nước uống có ga: Cocacola, nước cam, nước ép bưởi…. là loại nước
uông có tính acid (pH thấp) làm gia tăng độ mòn của răng.
- Răng bị mòn do thuốc: Bất cứ loại thuốc nào có pH acid và tiếp xúc
thường xuyên với bề mặt răng đặc biệt là các thuốc nhai đều gây mòn răng
như: Vitamin C nhai, aspirin nhai….
9
- Tiếp xúc với acid: Ở các xưởng sản xuất acid hoặc sử dụng acid đặc
biệt là các a xít mạnh, hơi a xít trong không khí ngấm vào nước bọt gây xói
mòn răng của công nhân. Hơi a xít kích thích niêm mạc mũi nên công nhân
quen thở miệng do đó răng cửa hàm dưới thường bị mòn ở mặt ngoài và rìa
nhai. Rìa cắn răng cửa hàm trên cũng bị mòn, chỉ khi môi trên ngắn thì mặt
ngoài răng cửa hàm trên mới bị ăn mòn. Răng trở nên mất bóng, thô ráp, rồi
có vết nâu, men mất dần, lớp ngà lộ ra màu vàng nhạt rồi vàng thẫm, răng bị ê
buốt, đau khi ăn đồ nóng, lạnh, ngọt. Tủy răng không bị viêm vì ngà thứ phát
làm kín buồng tủy. Khi răng đã cụt thì ổ răng bị ảnh hưởng, viêm lợi, nha chu
viêm mãn tính.

Chỉ số pH của một số đồ uống, hóa chất
Tên Nước
Pin, ắc
quy
Cà phê
Nước hoa
quả (chanh)
Rượu Bia
Rượu
gừng
Độ
pH
7,0 1,0 2,4 -3,3 1,8 -2,4
2,3 –
3,8
4,0 –
5,0
2,0 –
4,0
Độ pH của men răng là 5,5 vì vậy với bất kỳ chất nào có độ pH thấp
hơn 4,5 đều có thể gây xói mòn răng, nhất là thời gian tiếp xúc lại kéo dài
Người ta đã nghiên cứu và thấy rằng khi răng tiếp xúc với đồ uống hay các
thuốc có tính a xít liền trong 4 giờ có thể làm men răng yếu đi.
- Dùng quá nhiều Fluor: nước uống có nồng độ fluor cao hơn 1,5 ppm,
nhất là nước nhiễm fluor quá nặng (trên 4 ppm) hoặc dùng thuốc có quá liều,
kéo dài sẽ làm đục men răng, nếu dùng như thế trong thời kỳ hình thành men
răng lốm đốm màu trắng như phấn, có thể màu vàng nâu, có khía rãnh sâu,
thiểu sản men răng, nặng hơn nữa răng có màu vàng nâu, trở nên giòn và dễ
vỡ. Bệnh gây tổn thương răng vĩnh viễn. nếu bổ sung thừa fluor kéo dài có thể
gây “ bệnh nhiễm độc fluor ở xương”, làm xương yếu đi biến dạng, dễ gãy.

10
Bệnh nhiễm độc fluor ở xương còn gây triệu chứng kích thích ở ruột và đau
nhức khớp nên dễ chẩn đoán nhầm với bệnh viêm khớp dạng thấp.
Hình 1.5. Nhiễm fluor điển hình
- Cuối cùng những yếu tố di truyền gây loạn sản tổ chức cứng của
răng ảnh hưởng đến số lượng men hay chất lượng canxi hóa làm mặt men
răng mỏng hơn và bở hơn. Điều này sẽ làm yếu sự kháng mài mòn và làm
tăng thêm sự mất chất bề mặt do nguyên nhân hóa học và cơ học. Loạn sản di
truyền có thể ảnh hưởng lên cả hệ răng sữa và răng vĩnh viễn, khiến răng có
màu nâu hoặc xám đục , đặc trưng liên kết cấu trúc răng bị yếu đi gây mất
men sớm, mòn nhanh và dễ bị sâu răng.
1.2.4. Triệu chứng của mòn răng
Khi răng bị mòn có thể gặp một hoặc nhiều triệu chúng dưới đây:
- Triệu chứng cơ năng: răng trở nên nhạy cảm, thấy ê buốt khi ăn đồ
quá nóng (lẩu, nước nóng…) hoặc quá lạnh (kem, đá…), đồ ngọt (kẹo
bánh…). Nặng hơn bệnh nhân thấy đau nhức,, khó chịu, ù tai, đau lan lên
đỉnh đầu buộc phải chữa tủy.
- Triệu chứng thực thể:
+ Xung quanh răng hay ở các thành, cạnh răng có vết nứt hoặc có sứt
mẻ bất thường.
11
+ Bề mặt răng không còn sáng bóng, bằng phẳng, trơn nhẵn nữa.
+ Men răng trở nên vàng và mỏng dần đi.
+ Răng dễ bị sâu.
Sơ lược đặc điểm của quá cảm ngà
Nhạy cảm ngà răng là tình trạng đau buốt răng hay gặp. Để kiểm soát
nhạy cảm ngà răng cần phải có hiểu biết sâu về sự phức tạp của vấn đề này
cũng như sự đa dạng trong điều trị.
Theo Holland GR. nhạy cảm ngà được định nghĩa như sau: “Răng bị
đau buốt rõ, diễn biến nhanh, xuất hiện từ vùng ngà bị lộ khi có các kích thích

như: nhiệt độ, hơi, cọ sát, thẩm thấu, hóa chất mà không phải do khiếm
khuyết hoặc bệnh lý nào khác”.
Theo các điều tra dịch tễ học, tỷ lệ nhạy cảm ngà răng rất khác nhau từ 3
đến 57%. Trong nhóm người bị bệnh quanh răng, tỷ lệ này rất cao từ 72-98%.
Theo kết quả tra ở 683 người tại Canada, có tới 30% bị nhạy cảm ngà răng.
- Trong một nghiên cứu có tính chất toàn cầu với cỡ mẫu 11.000
người, kết quả cho thấy: tỷ lệ nhạy cảm ngà răng cũng rất cao.
Khu vực Bắc Mỹ Châu Âu
Vùng
khác
Tính
chung
Tỷ lệ % nhạy cảm ngà răng 37 45 52 46
Tỷ lệ% người có nhạy cảm
ngà răng đi khám răng
60 47 34 48
* Tuổi nhạy cảm ngà răng: Nhạy cảm ngà răng gặp ở nhiều lứa tuổi,
phần lớn ở độ tuổi 20-50, đặc biệt tập trung nhiều nhóm tuổi 30-40.
* Giới: Tỷ lệ nữ bị nhạy cảm ngà răng nhiều hơn nam. Một số tác giả
cho rằng hiện tượng này là do nữ thường chải răng nhiều hơn nam. Tuy nhiên,
sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
* Thời gian bị nhạy cảm ngà răng: Không ít người bị nhạy cảm ngà răng
trong thời gian dài. Có từ 14-23% người bị nhạy cảm ngà răng từ 1-5 năm.
12
* Nhạy cảm ngà răng ảnh hưởng đến sinh hoạt như các hoạt động ăn
uống, vệ sinh răng miệng. Có tới 11,4% người bị nhạy cảm ngà có bị ảnh
hưởng đến ăn uống và chải răng.
* Vị trí răng bị nhạy cảm ngà hay gặp:
- Răng nanh, răng số 4, sau đến răng cửa và răng số 5, cuối cùng là
răng hàm lớn [6].

- Nghiên cứu khác: Răng hàm nhỏ, răng số 6 rồi đến răng cửa.
Các yếu tố nguy cơ gây nhạy cảm ngà
• Mòn răng: Răng bị mòn do ăn nhai, chải răng quá mạnh, không đúng
kỹ thuật, sử dụng bàn chải cứng chải răng ngay sau khi ăn cũng tăng cường
nguy cơ sâu răng, ăn uống thức ăn nhiều chất a xít, làm việc ở môi trường tiếp
xúc với a xít, tật nghiến răng
• Lợi co hở cổ chân răng do bệnh viêm quanh răng, sang chấn khớp cắn.
• Lấy cao răng: Do loại bỏ lớp cao răng lấy ở cổ răng gây hở ngà đột
ngột hoặc lấy cao răng không đúng kỹ thuật có thể gây kích thích nhạy cảm
ngà từ vài ngày đến 1 – 2 tuần.
• Sau phẫu thuật loại bỏ túi lợi làm chân răng dài ra gây nhạy cảm ngà,
tình trạng này có thể kéo dài hàng tháng. Bệnh nhân điều trị bệnh nha chu
theo báo cáo của Connie Hastings Dricko có tỷ lệ nhạy cảm ngà cao gấp 4 lần
người bình thường.
• Tẩy trắng răng: Theo nghiên cứu của các tác giả Mỹ, tỷ lệ nhạy cảm
ngà khi tẩy trắng răng chiếm trên 60%, nồng độ thuốc càng cao thì nguy cơ
quá cảm ngà càng cao, đặc biệt là ở người có răng bị lộ ngà.
1.2.5. Tổng quan nghiên cứu trên thế giới về mòn răng
13
• Trên thế giới bệnh mòn răng và bệnh nha chu đã được nghiên cứu từ
rất sớm. Tại Nhật Bản xói mòn răng từ lâu đã được coi là một bệnh nghề
nghiệp. Trong những năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu về sự phát triển
của căn bệnh này cũng như cách dự phòng của bệnh.
• Năm 1991 Yuji Sugam, Satoru Takau, Yoshikazu Okawa và Takashi
Matsukubo- sở dịch tễ và y tế công cộng, Đại học nha khoa Tokyo nghiên cứu
tình trạng răng miệng tại cơ sở sản xuất pin, ác quy của cho thấy tỷ lệ xói mòn
răng rất cao ở những người làm việc trên 10 năm [8]:
+ 42,9% cho những người là 10- 14 năm
+ 57,1% cho những người là 15- 19 năm
+ 66,7% cho những người làm trên 20 năm

+ 22,5 % tính trên tổng số lao động
Tương ứng với môi trường lao động có nồng độ a xít sulfuric là:
+ 17,9% ở 0,5-1 mg/m
3
+ 25% ở 1-4 mg/m
3
+ 50% ở 4-8 mg/m
3
Trong khi ngưỡng giới hạn an toàn cho người tiếp xúc thường xuyên
với a xít sulfuric và a xít phosphoric trong một ngày làm việc 8 giờ, một tuần
làm việc 40 giờ là 1mg/m
3

. Các hạn chế tiếp xúc ngắn được định nghĩa là một
tập trung trong vòng 15 phút mà không vượt quá bất cứ lúc nào trong ngày
làm việc và được chỉ định tới 3 mg/m
3
[63-66].
• Patrick và cộng sự thuộc trường đại học Alabama tại Birmingham
đã nghiên cứu tìm ra mối liên hệ giữa bệnh trào ngược a xít dạ dày và tình
trạng xói mòn răng. Jones và Cleaton-Jones đã tìm thấy 69% người mắc
chứng bệnh cuồng ăn có mòn răng, nguyên nhân do men và ngà răng phải
14
thường xuyên phơi nhiễm với một lượng a xít nhất định của dạ dày. Ở những
người này mòn răng xảy ra ở mặt lưỡi của răng cửa hàm trên chiếm 50%, bề
mặt của răng cửa và răng nanh chiếm 70%. Nghiên cứu của Elsburi trên 15
công nhân nữ của nhà máy sản xuất thiếc thường xuyên tiếp xúc với 11mg/m
3
bụi a xít tartaric , làm việc 30 giờ 1 tuần, 14 cô gái của nhóm thử nghiệm có
xói mòn răng, tổn thương sớm có thể quan sát được sau khi tiếp xúc trung

bình 10 tháng. Mức độ nghiêm trọng của sự xói mòn gia tăng theo thời gian
tiếp xúc ngày càng tăng, dẫn đến sự mất nhiều răng của 5 công nhân sau một
thời gian tiếp xúc trung bình là 6 năm.
• Cate Bruggen nghiên cứu sự xói mòn răng ở công nhân nhà máy sản
xuất đạn dược, nhà máy sản xuất nước giải khát và nhà máy sản xuất chất tẩy
rửa, kết quả cho thấy, có 42% công nhân tại nhà máy sản xuất nước giải khát
có sự xói mòn răng.
• Nghiên cứu từ 134 công nhân của 1 nhà máy hóa chất tại Osaka cho
thấy có 31% công nhân có dấu hiệu của sự xói mòn răng [8]. Các nguy cơ xói
mòn nghề nghiệp do tiếp xúc với enzim thủy phân protein hoặc tiếp xúc liên
tục với hơi a xít acetic được nghiên cứu bởi Westergaard [1] và Johansson
[9]. Nghiên cứu tại một doanh nghiệp dược phẩm và công nghệ sinh học cho
thấy mức độ xói mòn nghiêm trọng ở mặt ngoài và rìa cắn của răng cửa hàm trên
không chỉ gia tăng do sự phơi nhiễm với enzim thủy phân protein mà còn do tuổi
tác, việc sử dụng rượu vang, trà chanh và sử dụng kem đánh răng mài mòn.
• Một cuộc khảo sát trên 19 công nhân nếm rượu (taster) tại Thụy Điển
cho thấy 78% các đối tượng này có mòn răng, trong đó 11% có xói mòn
nghiêm trọng làm lộ bề mặt ngà răng [[10].
• Trong một nghiên cứu cắt ngang tại Nam Phi ở 21 nhà máy sản xuất
rượu với những công nhân nếm rượu trên 8,2 năm, mỗi tuần nếm từ 50-150
lần, rượu vang được giữ trong miệng từ 10-30 giây/lần, có 14% đối tượng có
mòn răng [11].
15
• Trong nghiên cứu invitro cho thấy rượu vang trắng và đỏ có khả
năng làm mòn răng. Rượu không chỉ chứa chủ yếu là a xít tartaric mà còn
chứa a xít malic, a xít lactic và a xít citric….
• Các nghiên cứu cho thấy công nhân mạ, pin có nguy cơ cao bị xói
mòn răng. Nguy cơ gia tăng xói mòn liên quan đến nồng độ ngày càng tăng
của a xít, thời gian tiếp xúc ngày càng tăng và thời gian công tác. Ngoài ra
mức độ trầm trọng của sự xói mòn gia tăng với nồng độ ngày càng tăng của

khói a xít. Đối với khói a xít Chikte [12], Chikte và Josie- Perez [13] tìm thấy
một nguy cơ cao gấp 3-5 lần so với sự xói mòn răng ở công nhân các nhà máy
sản xuất a xít khác.
• Chuajedong P. (2002) [14] nghiên cứu trên 506 bệnh nhân trên 15
tuổi tới khám tại Bệnh viện Nha khoa của Trường đại học Prince ở Songkla
trong tháng 4 và 5 năm 1999 để đánh giá các yếu tố liên quan tới tình trạng
mòn răng thấy tuổi, giới, số răng mất, thói quen uống rượu, ăn hoa quả chua,
uống đồ uống có ga là các yếu tố có liên quan tới tình trạng mòn răng. Về vị
trí của răng, răng hàm lớn thứ nhất mòn nhiều nhất, trong khi đó răng nanh,
và các răng hàm nhỏ mòn ít nhất. Mòn mặt nhai và cổ răng xuất hiện nhiều
nhất, mặt lưỡi, mặt má mòn ít hơn. Mòn răng ở mặt nhai do nhiều yếu tố hơn
các mặt khác. Mức độ mòn thay đổi theo vị trí răng nhưng ít khác nhau giữa
các phần hàm. Mức độ mòn mặt nhai răng và cổ răng tăng rõ theo tuổi.
• Nghiên cứu của Aw T.C (2001)[15] thấy rằng mức độ mòn mặt nhai
răng và cổ răng tăng rõ theo tuổi. Tổn thương mòn cổ răng thường gặp ở răng
sau, phổ biến nhất ở răng hàm nhỏ hàm trên. Đa số tổn thương vùng cổ răng
có dạng chêm.
• Theo Neal Miller (2003) [16] cạnh cắn và mặt nhai bị mòn nhiều hơn
các mặt răng khác. Kế đến là vùng cổ răng, mặt trong và cuối cùng là mặt
ngoài. Mức độ mòn thay đổi theo vị trí răng nhưng ít khác nhau giữa các phần
16
hàm. Mức độ mòn mặt nhai răng và cổ răng tăng rõ theo tuổi. Nam có xu
hướng bị mòn răng nhiều hơn nữ. Mặt trong răng trước hàm trên ở các đối
tượng có trào ngược bị mòn nhiều hơn những đối tượng không có tiền sử này.
.
• Theo Borcic J. (2004) [17] mức độ mòn mặt nhai và cổ răng tăng rõ
theo tuổi. Mặt trong răng trước hàm trên ở các đối tượng có trào ngược dạ dày
bị mòn nhiều hơn những đối tượng không có tiền sử này.
.
Tổn thương mòn cổ

răng thường gặp ở răng sau, phổ biến nhất ở răng hàm nhỏ.
• Năm 2006, Restrepo sử dụng phương pháp chụp hình kỹ thuật số
nghiên cứu mòn răng trên mặt nhai để chẩn đoán nghiến răng ở trẻ em từ 8
đến 11 tuổi đã đi đến kết luận: mòn răng có thể được sử dụng như là tiêu
chuẩn để chẩn đoán nghiến răng ở trẻ có bộ răng hỗn hợp.
• Năm 2006, Kononen (2006) [18] tiến hành nghiên cứu dọc các diện
mòn ở mặt trong các răng trước hàm trên trong các giai đoạn tuổi từ 14 đến
18 và từ 18 đến 23. Kết quả xác định tổng diện tích các diện mòn tăng có ý
nghĩa thống kê ở cả hai giai đoạn từ 14 đến 18 tuổi và từ 18 đến 23 tuổi. Ở
nhóm 18 dến 23 tuổi răng nanh hàm trên mòn nhiều nhất, trong khi đó răng
cửa giữa trên có diện mòn lớn nhất. Các tác giả kết luận mòn trên các răng
trước vĩnh viễn là một hiện tượng liên tục ở tuổi vị thành niên và người trẻ.
Có sự liên quan giữa các diện mòn răng và tật nghiến răng.
• Schierz O (2007) [19] trong một điều tra về răng miệng quốc gia ở
Đức đã nghiên cứu 646 đối tượng trong độ tuổi 35 - 44 ở tìm mối liên quan
giữa hiện tượng mòn nhóm răng trước như là hậu quả của thói quen nghiến
răng và sự xuất hiện tình trạng rối loạn khớp thái dương hàm thấy mòn răng
trước được sử dụng như một biểu hiện của tật nghiến răng, là một biểu hiện
lâm sàng thích đáng cho liên quan giữa nghiến răng và rối loạn khớp thái
dương hàm.
17
• Van't Spijker A (2007) [20] nghiên cứu các dữ liệu về tình trạng mòn
răng ở người lớn bằng cách thu thập trên Pubmed và thư viện Cochrane các tài
liệu nghiên cứu liên quan tới mòn răng từ tháng một năm 1980 tới tháng bảy
năm 2007 thấy tỷ lệ người lớn có tình trạng mòn răng nặng tăng từ 3% ở tuổi 20
tới 17% ở tuổi 70. Sự gia tăng của mức độ mòn răng liên quan đáng kể với tuổi.
• Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ xói mòn răng của công nhân tiếp xúc
với a xít ở các nước đang phát triển cao hơn rất nhiều lần so với các nước phát
triển. Ở châu Phi, tỷ lệ xói mòn răng của công nhân tiếp xúc với a xít lên đến
100%, trong khi chỉ có 8-31% lao động ở châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Điều này là do kết quả các biện pháp bảo hộ lao động không đủ để làm giảm
tiếp xúc với a xít hoặc phạm vi các quy định của chính phủ liên quan đến
nồng độ tối đa có thể chịu được các tac nhân có khả năng ăn mòn ở nơi làm
việc. Giáo dục về nghề nghiệp nguy hiểm, bảo vệ sức khỏe răng miệng, sử
dụng các thiết bị bảo hộ lao động như khẩu trang trong và sau khi làm việc
được xem là chiến lược dự phòng làm giảm nguy cơ xói mòn răng nghề
nghiệp. Ngoài ra vệ sinh răng miệng, điều trị dự phòng đã được khuyến cáo
cho công nhân có một nghề nghiệp liên quan đến nguy cơ xói mòn răng.
• Đối với cá nhân có nguy cơ cao với sự xói mòn răng nghề nghiệp,
thường xuyên khám răng được khuyến nghị cho việc phát hiện sớm các tổn
thương và lập kế hoạch chiến lược trước bao gồm thiết bị bảo hộ lao động,
hành vi cũng như tư vấn dinh dưỡng, tối ưu hóa các chế độ fluor, kích thích
lưu lượng dòng chẩy nước bọt, sủ dụng thuốc đệm và khuyến khích thói quen
không đánh ràng bằng các thuốc đánh răng mài mòn.
1.2.6. Tổng quan các nghiên cứu ở Việt Nam
• Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Lê Thị Hải Yến (2005) [3] thực
18
hiện trên 100 bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên đến khám tại khoa Răng Hàm Mặt
Bệnh viện Hữu Nghị theo chỉ số TWI (Smith và Knight 1984) thấy: 100% có
mòn răng từ mức độ mòn men (độ I) đến mòn hoàn toàn men ngà (độ 5). Trên
mỗi bệnh nhân có thể gặp nhiều mức độ mòn khác nhau ở các vùng. Mức độ
mòn trung bình ở tất cả các vùng chủ yếu là độ 2 (37,3%), độ 3 (46,8%). Mức
độ mòn trung bình độ 4 (11%) vùng răng hàm lớn cao hơn vùng răng hàm
nhỏ và răng nanh. Vùng răng cửa mòn trung bình độ 2 chiếm đa số (50%).
Mòn răng độ 5 vùng răng cửa là 6% gấp 3 lần vùng răng hàm. Mất răng
không làm phục hình làm thay đổi khớp cắn gây tăng tình trạng mòn mặt
nhai. Khớp cắn sâu mòn trung bình độ 4 là 20%, độ 5 là 40%. Chưa thấy có
sự ảnh hưởng về tuổi, chế độ ăn, cách thức ăn nhai, môi trường miệng, thói
quen cận chức năng với tình trạng mòn răng.
• Năm 2007, Phạm Lệ Quyên [21] thực hiện nghiên cứu trên 150 sinh

viên răng hàm mặt tuổi từ 18-25 và sử dụng chỉ số mòn răng TWI (Smith và
Knight 1984) để khảo sát tình trạng mòn răng và một số yếu tố liên quan. Kết
quả: Chỉ số mòn răng trung bình là 0,38 ± 0,09. Mức độ mòn tăng theo tuổi, ở
nam nhiều hơn ở nữ (0,42 ± 0,09 và 0,36 ± 0,09). Răng cửa mòn nhiều hơn
các nhóm khác (0,48 ± 0,13). Trong các mặt răng, mặt nhai mòn nhiều nhất
và vùng cổ răng ít mòn nhất. Độ mòn phổ biến nhất là độ 1 cho mặt nhai,
cạnh cắn và mặt trong răng trước trên. Độ 0 là phổ biến nhất đối với các mặt
răng còn lại và vùng cổ răng. Nghiến răng là một yếu tố nguy cơ gây mòn mặt
nhai và cắn hở là yếu tố bảo vệ đối với cạnh cắn. Tụt lợi và tuổi là hai yếu tố
nguy cơ đối với tổn thương mòn cổ răng.
• Đặc điểm mòn răng theo kiểu nhai mòn được Nguyễn Phúc Diên Thảo
(2009) [22] tiến hành nghiên cứu dọc trên sinh viên răng hàm mặt từ năm thứ nhất
đến năm thứ sáu. Nghiên cứu này sử dụng chỉ số Woda để đánh giá tình trạng
mòn răng. Kết quả quan sát được trong năm đầu tiên cho thấy cọ mòn là một yếu
tố có liên quan đến thói quen nhai một bên và nghiến răng ở người trẻ tuổi. Đối
19
với răng sau, nhóm răng hàm lớn dưới có độ mòn nhiều nhất. Đối với răng trước,
nhóm răng cửa trên có độ mòn nhiều nhất. Chỉ số mòn răng của nam cao hơn nữ.
Không có sự khác biệt giữa chế độ ăn thức ăn cứng hay mềm.
• Theo Trịnh Thu Hà (2010): Các tổ chức cứng của răng có thể bị ăn
mòn bởi acid. Những người ăn nhiều chất chua, uống thuốc có chứa acid,
hoặc làm việc trong môi trường acid đều dễ bị mòn răng.
• Nhìn chung ở Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu về mòn răng, tuy
nhiên tất cả các đề tài này chỉ nghiên cứu về mòn răng cơ học (mòn răng do
ăn nhai, tuổi tác….), chưa có đề tài nào nghiên cứu về tình trạng mòn răng
hóa học ở công nhân tiếp xúc với hóa chất gây ăn mòn.
1.3. Đại cương về bệnh quanh răng.
1.3.1. Tình hình bệnh QR trên thế giới và Việt Nam.
1.3.1.1. Trên thế giới
Bệnh răng miệng là bệnh phổ biến và có tính chất toàn cầu, là loại tai

hoạ thứ 3 về bệnh tật của loài người sau tim mạch và ung thư.
Tỷ lệ phần trăm người lành ở Châu Á thấp chỉ khoảng 3%, ở châu Âu
khoảng 4,57%, châu Úc là 11%, Đông Nam Á là 6%.
Tình hình bệnh quanh răng ở châu Á vẫn ở mức nghiêm trọng, các
nước Đông Nam Á cũng không nằm ngoài tình trạng trên ví dụ ở Thái Lan là
một nước có công tác chăm sóc sức khoẻ răng miệng tốt nhưng theo kết quả
điều tra toàn quốc thì mới chỉ có 1% lợi hoàn toàn khoẻ mạnh, 58% có túi lợi
nông và 11% có túi lợi sâu.
1.3.1.2. Ở Việt Nam
Nhiều công trình nghiên cứu điều tra về bệnh QR đã cho kết quả là tỷ
lệ mắc bệnh QR ở nước ta còn cao.
20
Theo điều tra SKRM toàn quốc năm 2001 thì tỷ lệ người có bệnh QR ở
mức 96,7% trong đó 31,8% có túi lợi bệnh lý nông và sâu.
Chương trình điều tra SKRM toàn quốc năm 2000 do Việt Nam và Úc
hợp tác cũng cho kết quả là > 90% người được khám bị viêm lợi và VQR, chỉ
số CPITN(1-4) > 97%, chỉ số này nói lên tính chất phổ biến, tỷ lệ mắc cao và
mức độ nặng của bệnh.
1.3.2. Vai trò vi khuẩn trong mảng bám răng.
Vai trò gây bệnh của vi khuẩn đã được chứng minh bằng thực nghiệm
từ những công trình nghiên cứu của Loe năm 1965 [23]. Qua nhiều năm
nghiên cứu trên các quần thể khác nhau trên thế giới đã chứng tỏ rằng có sự
liên quan chặt chẽ giữa mảng bám vi khuẩn với tỷ lệ bệnh VQR và mức độ
trầm trọng của bệnh . Hiện nay, VQR được coi là bệnh nhiễm khuẩn mà mỗi
thể bệnh được đặc trưng bởi sự chiếm ưu thế của một hay nhiều vi khuẩn đặc
hiệu. Nhiều vi khuẩn đặc hiệu như Porphyromonas gingivalis, Actinobacillus
actinomycetemcomitan, Prevotella intermedia, Bacteroides forsythus, và
những vi khuẩn khác như Wolinella recta, Fusobacterium nucleatum, và xoắn
khuẩn Spirochetes thường kết hợp với nhiều hình thức bệnh VQR nặng.
1.3.3. Phân loại bệnh vùng quanh răng [24].

Việc phân loại bệnh quanh răng là cần thiết cho việc chẩn đoán và điều
trị. Từ trước tới nay có nhiều tác giả đã tiến hành phân loại như Rhein - 1884,
Hội nghiên cứu bệnh quanh răng ARPA – 1958, Tổ chức y tế thế giới WHO –
1982, Gần đây cách phân loại của Viện hàn lâm bệnh quanh răng Mỹ
AAP– 1986 được sử dụng nhiều hơn vì nó đơn giản nhưng đầy đủ và hữu ích
trong thực hành lâm sàng.
* AAP chia bệnh quanh răng làm 2 loại: viêm lợi và viêm quanh răng,
trong VQR lại chia thành 3 loại là VQR người lớn, VQR tuổi thanh thiếu niên
và VQR kèm theo bênh toàn thân. Trong các loại VQR thì VQR người lớn là
21
quan trọng nhất về cả tỷ lệ bệnh và về điều trị nên AAP đã phân loại cụ thể
VQR người lớn như sau:
- AAP I khởi đầu: Tổn thương mô bệnh học, chưa phát hiện trên lâm sàng.
- AAP II VQR sớm: Túi lợi bệnh lý > 3mm, mất bám dính > 2mm, tiêu
xương ổ răng ít, răng chưa lung lay.
- AAP III VQR mãn: Túi lợi bệnh lý 4 – 5 mm, mất bám dính ≥ 4 mm,
tiêu xương ổ răng, răng lung lay độ 2
- AAP IV VQR tiến triển: Túi lợi bệnh lý > 5 mm, tiêu xương ổ răng
nhiều, răng lung lay độ 2, 3.
Tổng hợp các biến đổi bệnh lý trên lâm sàng AAP đã phân loại các thể
bệnh VQR như sau:
- Thể viêm: VQR đơn giản, VQR phức tạp.
- Thể thoái hoá: VQR cấp ở người trẻ,VQR ở người già.
- Thể tăng sản: VQR có lợi phì đại do các nguyên nhân khác nhau.
- Tổn thương teo: thoái hoá ở người già.
- Tổn thương do sang chấn: VQR do sang trấn.
* Theo hội thảo quốc tế về phân loại bệnh quanh răng năm 1999
 Bệnh lợi:
- Bệnh lợi do mảng bám răng có yếu tố tại chỗ giúp đỡ hoặc không.
- Bệnh lợi ảnh hưởng bởi các yếu tố toàn thân: nội tiết (viêm lợi tuổi

dậy thì, phụ nữ có thai, ), liên quan với thể tạng máu (bạch cầu cấp).
- Bệnh lợi ảnh hưởng bởi thuốc, dinh dưỡng
- Tổn thương lợi không do mảng bám:
- Bệnh lợi căn nguyên do vi khuẩn (Sởi, giang mai, ), do virus
(Herpes, thuỷ đậu, ), do nấm (Candida, Histoplasma, ), do di truyền.
- Biểu hiện của lợi với tình trạng toàn thân: rối loạn miễn dịch Liken,
pemphigoid, ), phản ứng dị ứng(vật liệu phục hình răng, kem đánh răng, ).
22
 Viêm quanh răng mạn tính: thể khu trú và lan toả.
 Viêm quanh răng tiến triển nhanh: thể khu trú và lan toả.
 Viêm quanh răng như là một biểu hiện của bệnh toàn thân: Liên quan
với các rối loạn huyết học hoặc các rối loạn di truyền.
 Bệnh hoại tử quanh răng
 Apcess mô nha chu.
 Viêm quanh răng kết hợp với các tổn thương nội nha.
 Những khiếm khuyết do mắc phải hoặc phát triển giải phẫu răng: lợi
co, ngách tiền đình, phục hình răng, sang chấn khớp cắn, ).
1.4. Các phương pháp điều trị và dự phòng
1.4.1. Các phương pháp điều trị và dự phòng mòn răng
Điều trị mòn răng phụ thuộc vào nguyên nhân gây mòn, mức độ nặng
nhẹ, sự lan rộng của tổn thương, tuổi và sự hợp tác của người bệnh và tính
nhạy cảm của răng.
- Trung hòa tác động của axít và tăng sức đề kháng của răng đối với sự
tấn công của axít. Sử dụng các chất súc miệng có tính kiềm hoặc trung tính,
uống sữa hoặc nhai kẹo cao su loại không đường sau mỗi bữa ăn là việc làm
có lợi để tránh mòn răng.
- Bôi véc-ni fluoride tại chỗ để giảm tình trạng quá cảm của răng và
tạo điều kiện cho quá trình tái khoáng hóa.
- Nên thường xuyên đi khám kiểm tra sự tái khoáng của mô răng 3
tháng một lần.

- Nếu có vấn đề trào ngược dịch vị, nên đeo máng nhai vào những thời
điểm có nguy cơ cao để giảm tổn thương răng.
- Thêm vào đó, cho vào máng nhai một chất kiềm như: magnesium
hydroxide hoặc sodium bicarbonat, cả hai chất này đều có bán sẵn rất dễ mua,
để trung hòa tác động của axít dạ dày, hoặc cho gel fluoride vào máng nhai.
23
- Việc lựa chọn điều trị phục hồi phụ thuộc vào từng trường hợp cụ
thể. Những điều trị phục hồi đầu tiên nên là điều trị bảo tồn, đặc biệt ở những
người trẻ tuổi. Có thể dùng các vật liệu dán để bảo vệ các mặt răng dễ mòn và
phục hồi đầy đủ hình dạng chức năng của răng như composite.
- Ngoài ra có thể dùng các vật liệu dán bằng nhựa, kim loại hoặc sứ để
phục hồi khi mòn nhiều ở các mặt của răng dưới dạng chụp răng.
- Cần phải điều trị các răng bị bệnh nha chu, viêm tủy, phục hồi làm
dài thân răng, hoặc nắn chỉnh răng do mòn quá mức.
Dự phòng
Đối với các cá nhân có nguy cơ xói mòn răng nghề nghiệp cao nên thực
hiện các biện pháp dự phòng sau:
- Thường xuyên khám răng định kỳ 3 tháng/lần để phát hiện sớm các
tổn thương và kịp thời điều trị.
- Đeo thiết bị bảo hộ lao động như khẩu trang trong và sau khi làm
việc được coi là chiến lược phòng ngừa giúp giảm nguy cơ xói mòn răng.
- Kích thích tăng lưu lượng dòng chảy nước bọt, sử dụng thuốc đệm,
xúc miệng bằng dung dịch kiềm magnesium hydroxide hoặc sodium
bicarbonate để trung hòa dịch axit sau khi tiếp xúc với hơi axit.
- Giáo dục về hành vi cũng như tư vấn dinh dưỡng, tối ưu hóa các
chế độ fluor
1.4.2. Các phương pháp điều trị và dự phòng bệnh nha chu
Nguyên tắc chung:
- Loại bỏ vi khuẩn gây bệnh.
- Điều trị túi quanh răng.

- Loại bỏ các yếu tố thuận lợi.
24
Điều trị không phẫu thuật.
* Điều trị khởi đầu:
- Hướng dẫn vệ sinh răng miệng.
-Lấy sạch cao răng trên và dưới lợi.
- Loại bỏ các yếu tố gián tiếp gây bệnh
*Điều trị bằng kháng sinh.
Kháng sinh toàn thân: dưới dạng viên uống hoặc thuốc tiêm.
Kháng sinh tại chỗ: Đặt thuốc trực tiếp vào trong các túi quanh răng dưới
dạng mỡ hoặc bấc tẩm thuốc.
Một số loại kháng sinh thường sử dụng như: Tetracylin, Metronidazon,
Spiramycin, Ciprofloxacin,…hiện nay Rodogyl là lựa chọn đầu tay của các
nha sỹ trong việc điều trị các loại viêm nhiễm vùng răng miệng.
* Điều trị túi quanh răng.
Ngày nay người ta thường áp dụng liệu pháp oxy già để điều trị túi QR,
sau khi lấy sạch cao răng, mảng bám răng, làm nhẵn bề mặt chân răng thì sẽ
bơm rửa túi QR bằng oxy già rồi thổi khô đưa vào túi các chất sát trùng,
chống viêm.
* Điều trị duy trì.
Đây là bước quyết định thành công của điều trị bệnh QR, nếu làm không
tốt bệnh sẽ tái phát nhanh chóng và thường nặng hơn.
Điều trị duy trì gồm:
+ Tiếp tục làm VSRM tốt và thường xuyên.
+ Định kỳ 3 – 6 tháng kiểm tra tình trạng răng miệng, lấy cao răng, kiểm
soát các yếu tố gián tiếp gây bệnh.
Điều trị phẫu thuật :
25

×