Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

CHUYỂN DỊCH cơ cấu KINH tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.71 KB, 12 trang )

CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ – THỰC TRẠNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
TS. TRẦN ANH PHƯƠNG
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH,HĐH)
đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam nhanh
thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia văn minh,
hiện đại.
Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CCKT) ở nước ta theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các
ngành công nghiệp, xây dựng (gọi chung là công nghiệp) và thương mại – dịch vụ (gọi
chung là dịch vụ), đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành
nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp (gọi chung là nông nghiệp). Cùng với quá trình
chuyển dịch của cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi kinh tế và xã hội theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cơ cấu các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế,
các lực lượng lao động xã hội, cơ cấu kinh tế đối nội, cơ cấu kinh tế đối ngoại…
1. Cơ cấu kinh đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Thực hiện định hướng cơ bản trên đây của Đảng và Nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sau hơn 20 năm đổi mới, chúng ta đã đạt
được những kết quả nổi bật sau đây.
Về cơ cấu ngành kinh tế, cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của GDP, cơ
cấu ngành kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực. Đó là tỷ trọng trong
GDP của ngành nông nghiệp đã giảm nhanh từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2% năm 1995;
24,5% năm 2000; 20,9% năm 2005, và đến năm 2008 ước còn 20,6%. Tỷ trọng công
nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%; năm 1995 tăng lên 28,8%; năm
2000: 36,7%; năm 2005: 41% và đến năm 2008 ước tính sẽ tăng đến 41,6%. Tỷ trọng
dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%; năm 1995: 44,0%; năm
2000: 38,7%; năm 2005: 38,1%; năm 2008 sẽ là khoảng 38,7%.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Số lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng
tăng lên, trong khi số lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm đi.
Trong nội bộ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng đã có sự chuyển dịch ngày


càng tích cực hơn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng giá trị sản xuất
công nghiệp khu vực nông thôn đã tăng từ 17,3% năm 2001 lên 19,3% năm 2007. Trên
cơ sở đó, đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội nông thôn mà biểu
hiện rõ nhất là thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu hộ nông thôn theo hướng ngày càng
tăng thêm các hộ làm công nghiệp, thương mại và dịch vụ; trong khi số hộ làm nông
nghiệp thuần tuý giảm dần. Tỷ lệ hộ nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp)
đã giảm 9,87%; tỷ lệ hộ công nghiệp tăng lên 8,78%. Năm 2007, số hộ công nghiệp và
dịch vụ trên địa bàn nông thôn có 3,6 triệu hộ, tăng 62% so với năm 2000.
Trong cơ cấu các thành phần kinh tế kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về
quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ
những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc
chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả,
tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Về cơ cấu vùng kinh tế, trong những năm vừa qua cũng đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế. Trên bình diện quốc gia, đã hình thành 6
vùng kinh tế: vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc
Trung bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ và vùng
đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, có 3 vùng kinh tế trọng điểm là vùng động lực cho
tăng trưởng kinh tế cả nước.
Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây dựng các khu công
nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho sản xuất nông nghiệp, lâm
nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá trên cơ sở
điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển
công nghiệp chế biến, góp phần tạo nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
tăng tỷ trọng sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu.
Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhập vào kinh tế
toàn cầu, thể hiện ở tỷ lệ xuất khẩu/GDP (XK/GDP) ngày càng tăng, nghĩa là hệ số mở
cửa ngày càng lớn, từ 34,7% năm 1992 lên 47% năm 2001, và đến năm 2005 là trên 50%.
Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 2001 – 2005 đã đạt 111 tỉ USD, tăng bình quân

17,5%/năm (kế hoạch là 16%/năm), khiến cho năm 2005, bình quân kim ngạch xuất
khẩu/người đã đạt 390 USD/năm, gấp đôi năm 2000. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu
tiếp tục đạt mức cao – 40 tỉ USD, tăng 24% so với năm 2005; năm 2007 đạt gần 50 tỉ
USD, tăng 21,5% so với năm 2006; năm 2008 tăng 29,5% so với năm 2007, đưa tỷ lệ
XK/GDP đạt khoảng 70%.
Nhiều sản phẩm của Việt Nam như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản… đã có sức
cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như đầu tư
trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và viện trợ phát triển chính thức (ODA) cũng đều tăng
trưởng khả quan, đặc biệt là vốn FDI đã có bước phát triển tích cực, tăng mạnh từ năm
2004 đến nay. Năm 2001, vốn FDI vào Việt Nam là 3,2 tỉ USD; tiếp theo, năm 2002: 3,0
tỉ USD; 2003: 3,2 tỉ USD; 2004: 4,5 tỉ USD; 2005: 6,8 tỉ USD; 2006: 10,2 tỉ USD; và
năm 2007 vừa qua đã là năm thứ hai nước ta liên tục nhận được các nguồn vốn đầu tư
trực tiếp từ nước ngoài (FDI) đạt con số kỷ lục: 20,3 tỉ USD, tăng gấp đôi so với năm
2006, bằng tổng mức thu hút FDI của cả giai đoạn 5 năm 2001-2005, chiếm 1/4 tổng vốn
FDI vào Việt Nam trong suốt hơn 20 năm vừa qua.
Năm 2008 này, tuy kinh tế toàn cầu có nhiều khó khăn lớn trong xu thế suy thoái, song
đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký tại Việt Nam đạt 64,011 tỉ USD, tăng gấp đôi năm
2007. Tại Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam năm 2008 diễn ra đầu
tháng 12, tại Hà Nội, tổng cam kết từ các nhà tài trợ lên tới 5,014 tỉ USD (thấp hơn 1 chút
so với năm 2007: 5,4 tỉ USD). Giải ngân vốn ODA được 2,2 tỉ USD, vượt chỉ tiêu kế
hoạch đề ra và cao hơn mức năm 2007 (2,176 tỉ USD).
Hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài đã bước đầu được triển khai. Các doanh
nghiệp Việt Nam đã có một số dự án đầu tư ra nước ngoài như khai thác dầu ở An-giê-ri,
Xin-ga-po, Vê-nê-du-ê-la; trồng cao su ở Lào…
Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế sau hơn 20 năm đổi mới là một trong những nguyên
nhân quan trọng và cơ bản nhất đưa đến các kết quả, thành tựu tăng trưởng kinh tế khả
quan, tạo ra những tiền đề vật chất trực tiếp để chúng ta giữ được các cân đối vĩ mô của
nền kinh tế như thu chi ngân sách, vốn tích luỹ, cán cân thanh toán quốc tế…, góp phần
bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế – xã hội theo hướng bền vững. Các chương trình
mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, chương trình về đầu tư xây dựng kết cấu hạ

tầng kinh tế – xã hội cho các vùng khó khăn, các chương trình tín dụng cho người nghèo
và chính sách hỗ trợ trực tiếp đã mang lại kết quả rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ
17,2% năm 2006 xuống còn 14,7% năm 2007, và năm 2008 còn 13,1%. Chỉ số phát triển
con người (HDI) đã không ngừng tăng, được lên hạng 4 bậc, từ thứ 109 lên 105 trong
tổng số 177 nước…
2. Những hạn chế, bất cập của chuyển dịch cơ cấu kinh tế
So với yêu cầu đặt ra, tốc độ chuyển dịch CCKT còn chậm và chất lượng chưa cao.
Ngành công nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng yếu tố hiện đại trong toàn
ngành chưa được quan tâm đúng mức, trình độ kỹ thuật công nghệ nhìn chung, vẫn ở
mức trung bình. Công nghiệp chế biến, đặc biệt là những ngành công nghệ cao chưa phát
triển. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP giảm liên tục trong những năm gần đây. Những ngành
dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao như dịch vụ tài chính – tín dụng,
dịch vụ tư vấn chậm phát triển. Tình trạng độc quyền, dẫn tới giá cả dịch vụ cao, chất
lượng dịch vụ thấp còn tồn tại ở nhiều ngành như điện lực, viễn thông, đường sắt. Một số
ngành có tính chất động lực như giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, tính chất xã
hội hoá còn thấp, chủ yếu dựa vào nguồn vốn của Nhà nước.
Mới đây, tháng 9-2008, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra đánh giá tổng quan về tình hình
thực hiện kế hoạch kinh tế – xã hội trong 3 năm qua (2006-2008) và dự báo khả năng
thực hiện 52 chỉ tiêu chủ yếu đã được Đại hội X của Đảng đề ra trong kế hoạch kinh tế –
xã hội giai đoạn 2006-2010, trong đó có các chỉ tiêu liên quan đến việc thực hiện nhiệm
vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Bộ
Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra cảnh báo, mặc dù đã có sự chuyển dịch đúng hướng, song
tiến độ thực hiện còn chậm so với mục tiêu kế hoạch; trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy
thoái hiện nay mà dự báo là sẽ còn rất nan giải, chí ít là trong vài ba năm tới, nếu không
có các giải pháp chính sách thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa trong phát triển công nghiệp và
dịch vụ theo hướng nâng cao sản lượng và chất lượng tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu
các ngành kinh tế cùng với chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công
nghiệp và dịch vụ… thì khó có thể thực hiện được mục tiêu đã đề ra. Có cảnh báo đó là
vì, theo ước tính, đến hết năm 2008, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP vẫn còn 20,6-
20,7%, trong khi kế hoạch đến năm 2010 phải giảm còn 15-16%; giá trị công nghiệp năm

2008 mới đạt 40,6-40,7% GDP, trong khi kế hoạch đến năm 2010 phải đạt 43-44%; tỷ
trọng thương mại – dịch vụ năm 2008 ước tính có thể đạt 38,7-38,8% GDP, trong khi kế
hoạch đến năm 2010 phải là 40-41%.
3. Một số giải pháp tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến năm 2010
Trong Báo cáo của Chính phủ trình bày tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội khoá XII (tháng 10-
11-2008) đã nêu rõ có nhiều nguyên nhân khiến cho kinh tế nước ta lâm vào tình trạng
lạm phát và suy giảm tăng trưởng từ đầu năm 2008 đến nay, trong đó có một nguyên
nhân cơ bản là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH còn chậm. Vì thế đẩy
nhanh chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH vẫn được coi là một trong những giải
pháp quan trọng hàng đầu để phát triển bền vững. Cụ thể, để phấn đấu đạt được mục tiêu
kế hoạch chuyển dịch CCKT đến năm 2010 như Đại hội X đã đề ra, cần thực hiện tốt hơn
nữa những vấn đề sau đây:
- Tăng mạnh hơn nữa tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội
(GDP). Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH ở nước ta trước hết chính là quá
trình phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp, thông qua đó giảm bớt lao động
trong lĩnh vực nông nghiệp, tăng khả năng tích luỹ cho dân cư. Đây lại chính là điều kiện
để tái đầu tư, áp dụng các phương pháp sản xuất, công nghệ tiên tiến hiện đại vào sản
xuất, trong đó có cả sản xuất nông nghiệp. Kết quả là, tất cả các ngành kinh tế đều phát
triển, nhưng ngành công nghiệp và dịch vụ cần phát triển nhanh hơn, biểu hiện là tăng tỷ
trọng của sản phẩm công nghiệp và dịch vụ trong GDP.
- Hình thành các vùng kinh tế dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, gắn với nhu cầu của
thị trường. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là quá trình chuyển biến căn bản
về phân công lao động xã hội theo lãnh thổ. Xoá bỏ tình trạng chia cắt về thị trường giữa
các vùng; xoá bỏ tình trạng tự cung tự cấp, đặc biệt là tự cung, tự cấp về lương thực của
từng vùng, từng địa phương. Mỗi địa phương cần đặt mình trong một thị trường thống
nhất, không chỉ là thị trường cả nước mà còn là thị trường quốc tế, trên cơ sở đó xác định
những khả năng, thế mạnh của mình để tập trung phát triển, tham gia vào quá trình phân
công và hợp tác lao động có hiệu quả.
- Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH gắn với quá trình hình thành các trung tâm
kinh tế thương mại, gắn liền với quá trình đô thị hoá. Mặt khác, việc quy hoạch xây dựng

các khu đô thị, trung tâm kinh tế, thương mại có ảnh hưởng trực tiếp trở lại tới quá trình
chuyển dịch CCKT.
- Giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số lao động xã hội.
Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là quá trình phân công lao động xã hội, là
quá trình chuyển dịch lao động từ ngành nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và
dịch vụ. Đây là giải pháp vừa cấp bách, vừa triệt để để giải quyết tình trạng thiếu việc
làm ở nông thôn hiện nay, đồng thời là hệ quả tất yếu của quá trình chuyển dịch CCKT
theo hướng CNH, HĐH.
- Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH,HĐH phải theo định hướng dẫn đến phát triển
bền vững không chỉ vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế đơn thuần mà phải vì mục tiêu phát
triển kinh tế mà bao trùm lên cả là vì mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có một cấu
thành bộ phận rất quan trọng và không thể thiếu là bảo vệ môi trường. Từ đó cho thấy,
các nhà lãnh đạo, nhà quản lý cho đến các doanh nghiệp, các địa phương, cơ sở… cần
phải hết sức chú ý thực hiện tốt vấn đề này, tránh tình trạng vì lợi nhuận kinh tế trước mắt
dẫn đến phá huỷ nghiêm trọng môi trường sinh thái tự nhiên như vừa qua và hiện nay
công luận vẫn đang tiếp tục lên án về không ít các trường hợp doanh nghiệp đã vi phạm
nghiêm trọng pháp luật bảo vệ môi trường./.
Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986), lần thứ IX (2001) và lần
thứ X (2006), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1987, 2001 và 2006.
2. Các văn kiện nghị quyết Trung ương ( khoá IX, X) có liên quan từ năm 2001 đến nay.
3. Các báo cáo của Quốc hội và Chính phủ về những vấn đề liên quan đã công bố trên
báo Nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng khác từ năm 2006 đến nay.
4. Một số báo điện tử và trang web: Báo điện tử ĐCS Việt Nam, Nhân dân điện tử, Tạp
chí Cộng sản điện tử, Thời báo Kinh tế Việt Nam điện tử, Đầu tư nước ngoài, Bộ Công
thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường…
5. Một số bài báo liên quan của Trần Anh Phương và các tác giả khác đã đăng trên các
tạp chí khoa học và báo chuyên ngành từ nhiều năm qua đến nay: Nghiên cứu Kinh tế;
Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương; Tạp chí
Cộng sản; Thời báo Kinh tế Việt Nam…

20/05/2013 | 11:56
Các giải pháp thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế chưa đạt yêu
cầu
Dân Việt - "Chúng ta đã đạt được sự thống nhất về bản
chất và nội dung của tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng Tuy vậy, các giải pháp có
hiệu lực và được triển khai trên thực tế thúc đẩy tái
cơ cấu kinh tế chưa đầy đủ và đồng bộ, chưa đáp
ứng được yêu cầu", Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc nói.
Trên cơ sở Đề án tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty giai đoạn 2011-
2015 đã được phê duyệt, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tái cơ cấu của 6/9 tập
đoàn kinh tế và 8/10 tổng công ty 91. Đã triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp tái
cơ cấu đối với 9 ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém Đó là những con số được Phó
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu.
Sáng nay, 20.5, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc thay mặt Chính phủ trình
bày Báo cáo của Chính phủ đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh
tế-xã hội và ngân sách nhà nước năm 2012; việc triển khai thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2013. Về một trong những
vấn đề quan trọng là các cuộc tái cơ cấu quan trọng của nền kinh tế, Phó Thủ tướng cho
biết:
Với tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, Chính phủ đã tập trung đánh giá, xác định
thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản; xây dựng và tổ chức triển khai phương án cơ cấu
lại, trong đó ưu tiên xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém; tập trung hỗ trợ thanh khoản để
bảo đảm khả năng chi trả của các tổ chức tín dụng; triển khai sáp nhập, hợp nhất, mua lại
tổ chức tín dụng trên nguyên tắc tự nguyện; tăng vốn điều lệ, xử lý nợ xấu và cơ cấu lại
hoạt động, hệ thống quản trị
Đã triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp tái cơ cấu đối với 9 ngân hàng thương mại
cổ phần yếu kém cần phải tập trung cơ cấu lại. Các ngân hàng thương mại nhà nước tập
trung triển khai các giải pháp tự củng cố, rà soát các hoạt động kinh doanh chính, tham

gia hỗ trợ thanh khoản và triển khai các giải pháp cơ cấu lại các ngân hàng thương mại cổ
phần yếu kém.
Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước (DNNN), Phó Thủ tướng Phúc cho biết, cơ chế,
chính sách về sắp xếp, đổi mới DNNN tiếp tục được hoàn thiện, trong đó quy định rõ
trách nhiệm về quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với DNNN.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN của tất
cả các Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế và tổng công ty 91. “Trong năm 2012, đã
sắp xếp được 27 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hoá 16 doanh nghiệp, sáp nhập 5 doanh
nghiệp, bán 3 doanh nghiệp và chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
3 doanh nghiệp”, Phó Thủ tướng thông báo.
Trên cơ sở Đề án tái cơ cấu DNNN, trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty giai đoạn 2011-
2015 đã được phê duyệt, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tái cơ cấu của 6/9 tập
đoàn kinh tế và 8/10 tổng công ty 91; các Bộ quản lý ngành, UBND các tỉnh, thành phố
trực thuộc T.Ư, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã phê duyệt đề án tái cơ cấu
các doanh nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý.
Về cơ bản, các đề án tái cơ cấu của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã tập trung vào
việc đổi mới mô hình tổ chức, cơ cấu lại sản phẩm, nguồn nhân lực, trên cơ sở xác định
rõ nhiệm vụ, ngành nghề, chiến lược phát triển, đảm bảo tập trung thực hiện các ngành,
lĩnh vực kinh doanh chính do Nhà nước giao; thực hiện thoái vốn, chuyển nhượng vốn
không thuộc ngành, lĩnh vực kinh doanh chính.
“Chúng ta đã đạt được sự thống nhất về bản chất và nội dung của tái cơ cấu kinh tế,
chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Tuy vậy, các giải pháp có hiệu lực và được triển khai trên thực tế thúc đẩy tái cơ cấu kinh
tế chưa đầy đủ và đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu; đó cũng là những đòi hỏi các
cấp, các ngành phải nỗ lực phấn đấu hơn nữa trong thời gian tới, đổi mới mạnh mẽ các cơ
chế chính sách, các khuôn khổ pháp luật thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo
đúng các mục tiêu, định hướng đã đề ra”, Phó Thủ tướng thẳng thắn đánh giá.
Hải Phong
Tái cơ cấu nền kinh tế: Kết quả bước đầu
Chinhphu.vn - 19/05/2013 09:25 10 tin đăng lại

• 0
• 1
• Tin gốc
(Chinhphu.vn) – Kiểm soát tốt việc bố trí vốn đầu tư, hoàn thành nhiều công trình quan
trọng; xúc tiến tái cấu trúc 9 ngân hàng TMCP yếu kém; sắp xếp lại 27 doanh nghiệp Nhà
nước; phê duyệt đề án tái cơ cấu 14 tập đoàn, tổng công ty… là những kết quả đạt được
trong việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế thời gian qua.
Tái cơ cấu nền kinh tế bước đầu đã kết quả quan trọng.
Theo Báo cáo của Chính phủ, đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô
hình tăng trưởng, trong đó tập trung vào 3 trọng tâm lớn là tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ
cấu doanh nghiệp Nhà nước và tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng bước đầu đã đạt
kết quả quan trọng.
Kiểm soát bố trí vốn, hoàn thành nhiều công trình
Trước hết, về tái cơ cấu đầu tư công, bước đầu khắc phục tình trạng bố trí vốn phân tán,
dàn trải, nâng cao hiệu quả đầu tư, giảm thất thoát. Các cấp, các ngành từ Trung ương đến
địa phương đã nhận thức rõ hơn và quán triệt các yêu cầu tăng cường quản lý đầu tư phát
triển trong tất cả các khâu, từ quy hoạch, kế hoạch, chuẩn bị đầu tư, xây dựng dự án, bố trí
vốn tập trung, đến triển khai, giám sát thực hiện, kiểm toán, quyết toán, nghiệm thu công
trình.
Nhờ đó, việc bố trí vốn đầu tư đã có sự kiểm soát tốt, các dự án đầu tư về cơ bản được
thực hiện theo đúng mức vốn kế hoạch đã giao, góp phần hạn chế nợ đọng xây dựng cơ
bản. Số dự án khởi công mới giảm đáng kể, số dự án hoàn thành tăng cao.
Cụ thể, số vốn trong nước từ nguồn ngân sách Nhà nước bố trí đúng quy định chiếm tới
95,6% tổng số vốn rà soát; số vốn trái phiếu Chính phủ bố trí đúng quy định chiếm 99,7%
tổng số vốn theo kế hoạch năm 2013. Tất cả các quyết định giao dự toán ngân sách Nhà
nước, kế hoạch đầu tư phát triển nguồn ngân sách Nhà nước (bao gồm các chương trình
mục tiêu quốc gia) và kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ năm 2013 của Thủ tướng Chính
phủ được ban hành đúng thời hạn theo Nghị quyết của Quốc hội.
Với việc bố trí vốn tập trung hơn, nhiều công trình quan trọng thuộc các ngành, lĩnh vực,
như: giao thông, thủy lợi, giáo dục đào tạo, y tế, khoa học công nghệ, các chương trình

mục tiêu quốc gia và xóa đói giảm nghèo đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, phát huy
hiệu quả đầu tư nhiều công trình.
Có thể kể đến những công trình quan trọng đã hoàn thành như: Nhà máy Thủy điện Sơn
La; các cảng hàng không quốc tế Phú Quốc, Đà Nẵng, Cần Thơ; các tuyến Quốc lộ 1
(đoạn Ninh Bình), 21B, 18, 38, 32, 39, 3 (đoạn Cao Bằng) ; các tuyến đường quan trọng
của địa phương như: đường Gò Găng-Long Sơn (Bà Rịa-Vũng Tàu), Vị Thanh-Cần Thơ
(Cần Thơ), Mậu Thân-sân bay Trà Nóc (Cần Thơ), Đại lộ Đông Tây (TPHCM)… Các
tuyến đường liên huyện, đường ô tô đến trung tâm xã được đầu tư, giao thông nông thôn
miền núi được cải thiện. Nhiều cảng biển được hoàn thành, nâng cấp như: Cụm cảng Cái
Mép-Thị Vải, mở rộng giai đoạn I cảng Đồng Nai, hoàn thành đầu tư, nâng cấp cảng biển
Nghi Sơn, Vũng Áng, Chân Mây, Tiên Sa, Dung Quất, Kỳ Hà, Quy Nhơn…
Tái cơ cấu 9 ngân hàng TMCP yếu kém
Về tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, các cơ quan hữu quan đã tập trung đánh giá,
xác định thực trạng hoạt động, chất lượng tài sản; xây dựng và tổ chức triển khai phương
án cơ cấu lại, trong đó ưu tiên xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém; tập trung hỗ trợ thanh
khoản để bảo đảm khả năng chi trả của các tổ chức tín dụng; triển khai sáp nhập, hợp
nhất, mua lại tổ chức tín dụng trên nguyên tắc tự nguyện; tăng vốn điều lệ, xử lý nợ xấu
và cơ cấu lại hoạt động, hệ thống quản trị
Đồng thời, đã triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp tái cơ cấu đối với 9 ngân hàng
thương mại cổ phần yếu kém: Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn (SCB), Ngân hàng
Đệ nhất (Ficombank) và Ngân hàng Việt Nam Tín nghĩa hợp nhất thành Ngân hàng
Thương mại cổ phần Sài Gòn; Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank)
sáp nhập vào Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn-Hà Nội (SHB); Ngân hàng
Thương mại cổ phần Nam Việt (Navibank); Ngân hàng Đại Tín (TrustBank);
TienPhongBank; Ngân hàng Phương Tây (Western Bank) hợp nhất với Tổng Công ty cổ
phần Tài chính Dầu khí (PVFC); và GP Bank.
Các ngân hàng thương mại Nhà nước tập trung triển khai các giải pháp tự củng cố, rà soát
các hoạt động kinh doanh chính, tham gia hỗ trợ thanh khoản và triển khai các giải pháp
cơ cấu lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém.
Sắp xếp 27 doanh nghiệp, tái cơ cấu 14 tập đoàn, tổng công ty

Về tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, cơ chế, chính sách sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp
Nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, trong đó quy định rõ trách nhiệm về quyền và nghĩa
vụ của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước của tất cả các bộ, ngành, địa
phương, tập đoàn kinh tế và tổng công ty 91.
Trong năm qua, đã sắp xếp được 27 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 16 doanh nghiệp,
sáp nhập 5 doanh nghiệp, bán 3 doanh nghiệp và chuyển thành công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên 3 doanh nghiệp.
Trên cơ sở Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty
giai đoạn 2011-2015 đã được phê duyệt (Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012),
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án tái cơ cấu của 6/9 tập đoàn kinh tế và 8/10 tổng
công ty 91; các bộ quản lý ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty Nhà nước đã phê duyệt đề án tái cơ cấu các
doanh nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý.
Về cơ bản, các đề án tái cơ cấu của các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước đã tập trung vào
việc đổi mới mô hình tổ chức, cơ cấu lại sản phẩm, nguồn nhân lực, trên cơ sở xác định rõ
nhiệm vụ, ngành nghề, chiến lược phát triển, đảm bảo tập trung thực hiện các ngành, lĩnh
vực kinh doanh chính do Nhà nước giao; thực hiện thoái vốn, chuyển nhượng vốn không
thuộc ngành, lĩnh vực kinh doanh chính.
Có bước đi phù hợp để nâng cao hiệu quả, phát triển bền vững
Các đề án tái cơ cấu kinh tế được chú trọng xây dựng và bước đầu triển khai thực hiện,
trước mắt vẫn phải tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu
tư từ ngân sách Nhà nước để tăng tổng cầu cho nền kinh tế. Tập trung điều hành giảm
chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay; điều hành lãi suất ở mức hợp lý theo tín
hiệu thị trường và tập trung vốn cho vay các lĩnh vực ưu tiên để tháo gỡ khó khăn cho sản
xuất kinh doanh theo các giải pháp tại Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-
CP của Chính phủ.
Đồng thời, tăng cường quản lý hoạt động của hệ thống ngân hàng, giám sát thực hiện các
tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và các tỷ lệ về an toàn hoạt động ngân hàng, chất lượng tín
dụng và chấp hành các quy định pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tập trung

triển khai đồng bộ, quyết liệt Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015;
khẩn trương đưa vào hoạt động Công ty Quản lý Tài sản Quốc gia để góp phần xử lý nợ
xấu trong hệ thống ngân hàng, tăng khả năng cung ứng tín dụng của hệ thống TCTD đối
với nền kinh tế.
Về trung và dài hạn, trong năm 2013, Chính phủ xác định tiếp tục triển khai thực hiện Đề
án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng
cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020 đã được phê duyệt.
Đề ra các chương trình hành động, bước đi, các biện pháp triển khai bảo đảm nâng cao
hiệu quả và phát triển bền vững nền kinh tế. Đặc biệt, tập trung tiếp tục triển khai tái cơ
cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; tái cơ cấu doanh nghiệp, trọng tâm là doanh nghiệp
Nhà nước; tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, trọng tâm là tái cơ cấu các ngân hàng
thương mại.
Phân bổ lại nguồn lực, tạo động lực khuyến khích mới
Tán thành cơ bản với với các nhóm nhiệm vụ,giải pháp bổ sung cần tập trung thực hiện
trong những tháng còn lại của năm 2013 trong Báo cáo của Chính phủ, Ủy ban Kinh tế
của Quốc hội cho rằng, Chính phủ cần tiếp tục rà soát lại tổng thể các dự án đầu tư công,
đánh giá việc cắt giảm, dừng thi công các dự án đầu tư xây dựng cơ bản để có điều chỉnh
hợp lý, hạn chế gây ra sự mất cân đối trong việc thực hiện đồng bộ quy hoạch phát triển
kinh tế-xã hội của một số địa phương. Ngoài những dự án buộc phải thực hiện cắt giảm
theo chủ trương của Chính phủ, cần yêu cầu các doanh nghiệp Nhà nước tiếp tục chủ động
rà soát để giảm việc đầu tư từ vốn nhà nước vào các dự án chưa thực sự cần thiết hoặc
tính toán lại quy mô đầu tư để bảo đảm nguồn vốn Nhà nước được sử dụng một cách hiệu
quả.
Đặc biệt, cần tiếp tục cụ thể hóa và tập trung thực hiện những chủ trương, mục tiêu đã
được xác định trong đề án tổng thể về tái cơ cấu, hướng tới tạo lập một hệ thống động lực
khuyến khích mới để phân bổ lại nguồn lực theo hướng hiệu quả, hợp lý và bền vững hơn.
Bên cạnh đó, Ủy ban Kinh tế cũng đề nghị sớm ban hành Đề án tái cơ cấu đầu tư công
gắn với cải cách thể chế, đổi mới phân cấp quản lý kinh tế, quản lý ngân sách nhằm thay
đổi rõ rệt phương thức phân bổ nguồn lực công, nâng cao hiệu quả đầu tư công. Rà soát,
điều chỉnh các quy định về sở hữu của các tổ chức tín dụng, giám sát hiệu quả việc sáp

nhập, hợp nhất, không gây xáo trộn trong hệ thống tổ chức tín dụng và đảm bảo an toàn
tiền gửi của người gửi tiền; tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng trích đủ dự phòng rủi ro
và đảm bảo tự xử lý nợ xấu phát sinh.
Đồng thời, Ủy ban Kinh tế cũng nhấn mạnh giải pháp hoàn thiện thể chế, quy định rõ
trách nhiệm trong quản lý doanh nghiệp Nhà nước, yêu cầu tất cả tập đoàn, tổng công ty
Nhà nước phải công bố công khai, minh bạch thông tin như quy định đối với doanh
nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán. Hoàn thiện mô hình quản lý vốn Nhà nước
tại doanh nghiệp có vốn nhà Nước.
Bình Minh
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn diễn ra chậm sau khi
Việt Nam gia nhập WTO
Thứ ba - 09/04/2013 07:22



Đánh giá lại quá trình Việt Nam (VN) gia nhập WTO, nhiều chuyên gia kinh tế đều thừa
nhận bên cạnh những cái được như: VN đã tiếp cận thị trường xuất nhập khẩu dễ dàng
hơn, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng nhanh hơn… nhưng nền kinh tế
Việt Nam đã đối mặt với không ít thách thức.
Tăng trưởng chưa bền vững
Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung ương (CIEM), Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mức tăng trưởng kinh tế trong 5 năm 2007 -
2011, tức là từ sau khi gia nhập WTO, chỉ đạt 6,5%/năm, thấp hơn mức tăng trưởng của giai đoạn 5 năm trước đó là 7,8%/năm và
không đạt được mục tiêu 7,5 - 8%/năm.
Chỉ có ngành nông lâm thủy sản là tăng trưởng cao hơn chút ít so với mục tiêu. Hai khu vực còn lại, công nghiệp - xây dựng lẫn dịch
vụ đều kém khá xa so với kỳ vọng. Là lĩnh vực có ảnh hưởng lớn nhất đến tăng trưởng GDP toàn nền kinh tế (chiếm tỷ trọng 40%),
ngành công nghiệp - xây dựng thậm chí sụt giảm mạnh so với thời kỳ trước WTO. Các mục tiêu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, như
đưa nông lâm thủy sản chiếm 15, 16% GDP, công nghiệp - xây dựng lên 43 đến 44% GDP, dịch vụ 40 đến 41% GDP vào năm 2010
đều không thực hiện được.
Sức tăng trưởng thấp của cả 3 ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong giai đoạn này đã kéo theo tăng trưởng kinh tế đạt
thấp. Theo đó, tăng trưởng kinh tế 5 năm sau WTO không chỉ kém 5 năm trước về tốc độ, mà chất lượng cũng giảm sút. Đặc biệt

trong giai đoạn 2007-2010, hiệu quả kinh tế còn suy giảm mạnh. Nhiều ý kiến cho rằng, kết quả tăng trưởng thấp là do VN chưa
chuẩn bị nguồn lực để đối mặt với các thách thức, nên đã gặp nhiều cú sốc trong quá trình mở cửa nền kinh tế.
Theo TS. Phạm Lan Hương, nguyên Trưởng ban, Ban chính sách kinh tế vĩ mô (CIEM), nguyên nhân dẫn đến hiệu quả kinh tế giảm
mạnh là do việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ còn chậm, đổi mới các hình
thức tổ chức sản xuất trong ngành vẫn chưa có nhiều chuyển biến, chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ phân tán, năng suất, chất lượng, giá trị
gia tăng thấp
Trong bối cảnh kinh tế khó khăn nông nghiệp thường là ngành được trông cậy cho kinh tế Việt Nam, tuy vậy một số lĩnh vực đang
được bảo hộ ở mức độ cao như bông, dâu tằm, rau quả nhiệt đới lại đang bộc lộ những mặt yếu kém trong khi ngành tưởng chừng có
thế mạnh như dệt may, da giày lại có tác động lan tỏa kém, ông Võ Trí Thành, Phó viện trưởng CIEM cho biết như vậy.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan lại cho rằng, “Phải chăng chúng ta chưa tận dụng được các cơ hội, nên sau khi gia nhập WTO, hiệu
quả chưa đạt được như kỳ vọng?”. Bà Lan dẫn chứng, nhiều chính sách của VN đưa ra còn thiếu cơ bản, không có đánh giá tác động
tới đời sống người dân.
Cần các chính sách để tạo bước đột phá
Mặc dù, kinh tế VN đã có nhiều cải thiện tích cực hơn về tình hình hiện tại khi lạm phát đã giảm, cán cân thương mại và thanh toán
cải thiện, dự trữ ngoại tệ cũng tăng nhanh hơn kỳ vọng, nhưng ông Võ Trí Thành lại cho rằng, những khó khăn cơ bản vẫn chưa thực
sự được giải quyết, việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp (DN) khó do tổng cầu thấp, mức tiêu dùng trừ đi giá cả chỉ tăng có 3,5% - là
mức thấp nhất; tổng đầu tư 3 tháng đầu năm 2013 chỉ còn 29,6%, tức là điều kiện để DN kinh doanh là không có. Thêm vào đó, các
điều kiện để DN được vay tín dụng còn vướng mắc, nợ xấu chưa được giải quyết. Cải tổ các ngân hàng yếu kém vẫn chưa xong.
Ngoài ra, hoạt động sản xuất cũng chưa được cải thiện khi nợ xấu, nợ xây dựng cơ bản, tồn kho công nghiệp chế biến vẫn ở mức cao.
Thời gian qua đã có các chính sách đã đưa ra nhưng vẫn chưa được thực hiện, trong khi có rất nhiều yêu cầu đặt ra liên quan đến việc
tháo gỡ khó khăn cho DN và tái cấu trúc kinh tế, và mở rộng hội nhập, ông Thành cho rằng điều quan trọng nhất hiện nay chính là sự
ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện tinh gọn bộ máy hành chính, giảm lãi suất cho DN. Do đó, vấn đề trước hết là cần xử lý nợ xấu,
triển khai đồng bộ các giải pháp hỗ trợ DN, như: giãn, giảm thuế, kích cầu đầu tư và tiêu dùng
Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập ngày một sâu rộng, để nâng cao năng lực cạnh tranh, các biện pháp bảo hộ cần dần được thay thế
bằng những chính sách phát triển gắn với mạng sản xuất và chuỗi giá trị, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngành sản xuất
của VN.
Đại diện CIEM kiến nghị, thời gian tới, VN cần phải tiếp tục cải cách hành chính theo chiều sâu để tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi. Thêm vào đó, cần khuyến khích doanh nghiệp tận dụng tốt hơn các cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do để thâm nhập, khai
thác thị trường ngoài nước; đồng thời, đưa ra các chính sách phù hợp với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; điều chỉnh cơ cấu FDI
theo hướng tăng tỷ trọng dòng vốn vào các ngành sản xuất, đầu tư phải đi kèm với tăng năng lực sản xuất, tạo lợi thế xuất khẩu.

Nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển đề nghị, để tránh những “cú sốc” cho ngành nông nghiệp, VN cần sớm đưa ra các
biện pháp phòng ngừa khi phải cắt giảm thuế nhập khẩu nông sản xuống thấp theo cam kết. Người nông dân phải được hỗ trợ để ngoài
kiến thức nông học còn phải biết hợp tác, liên kết sản xuất, phối hợp với các tổ chức kinh doanh nông sản để cùng sản xuất - chế biến -
tiêu thụ sản phẩm khép kín.
TS Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế cao cấp lại cho rằng, chúng ta cần xem lại chính sách hỗ trợ, bảo hộ khi hội nhập. TS Lê Đăng
Doanh ví dụ, ngành nông nghiệp được bảo hộ kém nhưng đã tự cạnh tranh vươn lên rất quyết liệt và có sức lan tỏa lớn với nền kinh tế
hội nhập, ngược lại những ngành có lợi thế, được bảo hộ lớn lại kém phát triển và sức lan tỏa yếu với nền kinh tế.
THÚY HIỀN (TTXVN)

×