Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

bài tập về tổ chức và đào tạo nguồn nhân lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.88 KB, 5 trang )

Bài tập 2
Nghiên cứu kỹ vòng tròn học hỏi của Kolb từ đó chỉ ra và mô tả ứng dụng của nó trong việc
giải quyết một công việc cụ thể nào đó.
Bài làm
Tài liệu 1
David Kolb đã phát triển một mô hình học tập thực nghiệm (experiential learning, thường được
biết đến với cái tên Chu trình học tập Kolb) nhằm “quy trình hóa” việc học với các giai đoạn và
thao tác được định nghĩa rõ ràng. Thông qua chu trình này, cả người học lẫn người dạy đều có thể
cải tiến liên tục chất lượng cũng như trình độ của việc học. Đây là một trong số các mô hình được
sử dụng rộng rãi nhất trong việc thiết kế chương trình học, thiết kế bài giảng, trong việc huấn luyện
cũng như trong các hướng dẫn học tập cho các khóa học sau phổ thông.
Chu trình học tập Kolb gồm bốn bước được mô tả như hình dưới đây:
Chu trình học tập Kolb
Trong đó, Kolb khuyến cáo trình tự của việc học theo mô hình học tập thực nghiệm cần tuân thủ
trình tự của Chu trình, nhưng không nhất thiết phải khởi đầu từ bước nào trong Chu trình.
Với sự lựa chọn điểm khởi đầu và thiên lệch sự tập trung vào một giai đoạn nào đó sẽ cho thấy
phong cách học tập của từng người.
Quan điểm cơ bản trong mô hình học tập dựa trên kinh nghiệm này là người học cần thiết phát
phản tỉnh (reflect) trên các kinh nghiệm của mình để từ đó khái quát hóa và công thức hóa các khái
1
niệm để có thể áp dụng cho các tình huống mới có thể xuất hiện trong thực tế; sau đó các khái
niệm này được áp dụng và kiểm nghiệm trong thực tế để thấy được sự đúng-sai, hữu dụng – vô
ích,v.v. ; từ đó lại xuất hiện các kinh nghiệm mới, và chúng lại trở thành đầu vào cho vòng học tập
tiếp theo, cứ thế lặp lại cho tới khi nào việc học đạt được mục tiêu đề ra ban đầu.
Chu trình này yêu cầu người học có một kỉ luật trong việc học thông qua việc lên kế hoạch, hành
động, phản tỉnh và liên hệ ngược trở lại các lý thuyết.
Dưới đây là mô tả chi tiết hơn về các bước trong Chu trình Kolb:
Kinh nghiệm Rời rạc (Concrete Experience)
Người học có thể đã đọc một số tài liệu, tham dự bài giảng, xem một số video trên Internet về chủ
đề đang học tập, hoặc đã thử làm thử theo hướng dẫn của một số bài giới thiệu nhập môn (tutorial)
về chủ đề cần học, hoặc tự mình mò mẫm trong giây lát với máy móc trong phòng lab v.v. Tất các


các yếu tố đó sẽ tạo ra các kinh nghiệm nhất định cho người học. Và chúng trở thành “nguyên liệu
đầu vào” quan trọng của quá trình học tập.
Thông thường, người học dạng “hời hợt” (surface learning) thường chỉ dừng lại ở các kinh nghiệm
đó, ghi chép lại và chờ cho tới kì thi và kết thúc việc học. Theo Chu trình Kolb, đó mới chỉ là sự
khởi đầu.
Quan sát có suy tưởng (Reflective Observation)
Người học cần có các phân tích, đánh giá các sự kiện và các kinh nghiệm đã có. Sự đánh giá này
cần mang yếu tố “phản tỉnh”, tức là tự mình suy tưởng về các kinh nghiệm đó, xem mình cảm thấy
thế nào, có hiểu được hay không, có thấy nó hợp lý hay không, có thấy nó đúng hay cảm thấy nó
“có gì đó không ổn”, có quan điểm hay thực tế nào đi ngược lại với các kinh nghiệm mình vừa trải
qua hay không, v.v. Đối với việc học, việc suy tưởng hàm ý sâu sắc rằng ta phải luôn tự hỏi và tự
trả lời “việc học có tiến triển tốt đẹp hay không?”, và thuần túy sử dụng trực giác để trả lời câu hỏi
đó. Trong quá trình suy tưởng, và xa hơn nữa là ghi lại các suy tưởng ấy theo một cách tự nhiên và
tự thân, ta sẽ rút ra được các bài học cũng như định hướng mới cho chặng đường học tập tiếp theo
thú vị và hiệu quả hơn. Đối với việc dạy, nhà giáo sử dụng kĩ thuật tương tự áp dụng cho việc dạy
của mình, và cho việc học của học trò để có được các phương án và hành động hiệu quả hơn. Khi
suy tưởng, chúng ta sẽ “tham gia” sâu hơn vào quá trình, bản thân điều đó cũng đã giúp đỡ rất
nhiều cho việc học tập. Với việc suy tưởng có chất lượng, ta sẽ có được các cải tiến, nâng cấp, điều
chỉnh cho tiến trình phát triển của việc học tập.
Khái niệm hóa (Conceptualization)
Sau khi có được quan sát chi tiết cộng với suy tưởng sâu sắc, người học tiến hành khái niệm hóa
các kinh nghiệm đã nhận được. Bước này chính là bước quan trọng để các kinh nghiệm được
chuyển đổi thành “tri thức” và bắt đầu lưu giữ lại trong vỏ não. Không có bước này, các kinh
2
nghiệm sẽ không thể được nâng cấp và phát triển lên một tầm cao mới hữu ích hơn mà chỉ là các
trải nghiệm vụn vặt nhặt được trong tiến trình học tập hay thực hành.
Giai đoạn khái niệm hóa kết thúc bằng việc ta lập một kế hoạch cho cách hành động tiếp theo
trong thời gian tới. Thông thường giai đoạn này được tiếp nối giai đoạn trước (Quan sát có suy
tưởng) một cách tự nhiên bằng việc trả lời cho các câu hỏi quan trọng trong quá trình quan sát và
suy tưởng – có thể coi như kết luận của toàn bộ quá trình suy tưởng, và giai đoạn tiếp theo sẽ là

giai đoạn kiểm chứng kết luận đó có đúng hay không.
Thử nghiệm tích cực (Active Experimentation)
Ở giai đoạn trước, người học đã có một bản kết luận được đúc rút từ thực tiễn với các luận cứ và
suy tư được liên kết chặt chẽ. Bản kết luận đó có thể coi như một giả thuyết, và ta phải đưa vào
thực tiễn để kiểm nghiệm.
Tài liệu 2
Trong bước thứ nhất "Kinh nghiệm thực tế", chúng ta trải nghiệm (tiếp nhận những thông tin bên
ngoài nhưng chưa phân tích) và ghi lại nhận thức của chúng ta (suy nghĩ, tình cảm, thái độ, v.v…)
về những trải nghiệm đó.
Bước thứ hai "Quan sát, Suy ngẫm", chúng ta nhớ lại những điều chúng ta đã quan sát trong phần
kinh nghiệm thực tiễn, và suy ngẫm xem những điều chúng ta quan sát được có ý nghĩa gì từ
những góc nhìn khác nhau. Chúng ta thử tự đặt mình vào những tình huống khác nhau để có
những góc nhìn đa dạng và tự đặt những câu hỏi cho mình ví dụ như nếu người khác ở vị trí mình
họ sẽ nghĩ gì, hoặc sẽ cảm thấy gì về những trải nghiệm đó, một người quan sát trung lập sẽ cảm
thấy gì, những người có lợi ích liên quan sẽ suy nghĩ thế nào, nếu mình trẻ hơn, hoặc già đi liệu
mình có suy nghĩ khác không, v.v…
Trong bước thứ ba "Tổng kết, khái quát hóa", trên cơ sở những thông tin, kiến thức thu lượm được,
chúng ta xem xét liệu các trải nghiệm và quan sát đó có nằm trong một mô thức hoặc lý thuyết
chung nào hay không. Ví dụ sau khi bạn nói dối (trải nghiệm thực tế) và cảm thấy rất hối hận
(nhận thức), bạn đi nói chuyện với tất cả mọi người, hoặc bạn tự đặt mình vào vị trí của mọi người
và nhận thấy hầu như ai cũng sẽ không đồng tình với việc bạn đã làm (quan sát và suy ngẫm), bạn
rút ra kết luận là "nói dối là việc làm không tốt". Trong bước này, bạn có thể xem xét để lựa chọn
ra những lý thuyết, tư tưởng hoặc mô hình nào có liên quan trên cơ sở những trải nghiệm, nhận
thức và quan sát mà bạn đã thu lượm được. Sau đó bạn có thể nghiên cứu xem liệu những lý
thuyết đó có làm bạn nhận thức rõ hơn về những trải nghiệm và quan sát của bạn hay không? Hoặc
liệu những trải nghiệm và quan sát đó có giúp bạn nhận thức rõ hơn, giúp khẳng định, hoặc phủ
nhận những lý thuyết kia hay không. Bạn không nhất thiết phải coi các lý thuyết đó là đúng.
Chẳng hạn như trong ví dụ trên, nếu nói dối xong bạn không hề thấy có lỗi, và tất cả những người
3
bạn hỏi ý kiến đều nói rằng việc đó không phải là việc quan trọng thì bạn cũng có thể cần phải xem

lại tính chính xác của mệnh đề "cứ nói dối là xấu". Bạn có thể tự đưa ra một lý thuyết mới cho
mình, ví dụ như "nói dối trong hầu hết các trường hợp, nhưng không phải tất cả mọi trường hợp,
đều là không nên" chẳng hạn.
Trong bước tiếp theo "Áp dụng, triển khai trên thực tế", bạn bắt đầu triển khai trên thực tế một
cách dựa trên những kinh nghiệm, quan sát và bài học rút ra. Bạn xác định xem những hành động
nào sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn. Bạn sẽ thử nghiệm các bài học và lý thuyết vừa xây dựng thế
nào.
Về mặt lý thuyết, sơ đồ Kolb sẽ bắt đầu từ bước 1 đến bước 4 và bắt đầu trở lại ở bước 1 tạo thành
một vòng tròn khép kín. Quá trình học luôn là tiếp diễn một cách liên tục và nhịp nhàng trên cở sở
những thành tựu đã thu được, đúng như một câu danh ngôn của Vương Dương Minh: "Học như
nghịch thủy hành châu, bất tiến tất thoái." Rõ ràng trong thời đại thông tin này, chúng ta cũng
giống như con thuyền đi ngược dòng nước, không liên tục tiến lên phía trước ắt tức khắc sẽ bị đẩy
lùi trở lại. Nếu coi bốn bước trên vòng tròn Kolb là bốn đầu của hai đường kính và chia sơ đồ
Kolb thành bốn ô thì mỗi người chúng ta sẽ nằm ở một trong bốn ô này tùy theo thế mạnh của
mình trong quá trình học. Có người thì giỏi về trải nghiệm, quan sát (ô 1: diverging), có người
giỏi về quan sát, chiêm nghiệm (ô 2: assimilating), có người giỏi về chiêm nghiệm, thực hành (ô 3:
converging), có người giỏi về thực hành, trải nghiệm (ô 4: accommodating).
Ví dụ : Đối với việc thăng chức cho nhân viên , ta có thể có một ví dụ cho việc thực thi Chu trình
Kolb như sau:
Mục tiêu: Thăng chức cho một nhân viên lên trưởng phòng nhân sự

Bước 1: Làm việc với từng nhân viên trong phòng hành chính nhân sự

Bước 2: Sau khi đã thảo luận với các nhân viên , nhà quản lý đánh giá lại từng nhân viên
một về điểm mạnh , yếu , điều làm được và chưa làm được của từng nhân viên
Ghi lại các cảm nhận quan trọng, đánh giá lại các thành tích của từng nhân viên để xem mình
làm có đúng không. Khi gặp chỗ không ổn nhà quản lý nên tìm kiếm các tài liệu về nhân viên
được lưu trữ trong công ty để rút ra kết luận chính xác nhất . Ghi lại các suy tưởng đó vào một
trang blog cá nhân hoặc một cuốn nhật kí học tập của riêng mình.


Bước 3: Cho các nhân viên làm một bài kiểm tra test lại các kiến thức về quản lý nhân sự
và đặt ra một số tình huống cho nhân viên khi làm trưởng phòng
VD : Khi làm trưởng phòng bạn sẽ thực hiện chính sách lương thưởng như thế nào ?
Làm sao để quản lý những nhân viên hay làm việc riêng trong giờ làm việc ?
-
Sau khi đã kiếm tra kiến thức của nhân viên , nhà quản lý đánh giá xem những suy nghĩ
của mình về họ có đúng không .

Bước 4: Chọn ra 2 nhân viên ưu tú nhất cho chức trưởng phòng nhân sự và cho họ thử
nghiệm 1 tháng . Sau một tháng kết thúc sẽ đánh giá lại ai là người có năng lực hơn và thăng
chức trưởng phòng nhân sự cho người đó .
4
Notes: Các nghiên cứu gần đây phê bình mô hình Kolb, vốn ra đời từ 1984, là quá đơn giản,
không khớp với thực tế học tập của sinh viên và có phần thiếu hiệu quả trong nhiều lĩnh vực. Một
số tác giả cho rằng việc học không nhất thiết phải tuân thủ kiểu tuyến tính như Kolb mô tả. Tuy
vậy Kolb vẫn là một trong các hướng dẫn quan trọng cho người học, đặc biệt trong lĩnh vực “thực
hành”. Đối với nhà giáo, cần phải tiếp nhận Kolb với quan điểm phát triển và phê phán. Theo đó,
tự mình phải suy tưởng về Kolb và đưa ra các gợi ý thích hợp cho môn học của mình; có thể nghĩ
tới Chu trình Kolb như là một “gợi ý” hoặc một “mô típ học tập” hơn là một phương pháp thực
hành cứng nhắc.
5

×