mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, liên tiếp các sự kiện chính
trị, kinh tế xảy ra trên thế giới gây tác động mạnh đến trạng thái tâm lý tinh
thần của loài ngời.
Chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực lâm vào khủng hoảng trầm
trọng, dẫn đến sự sụp đổ ở hàng loạt nớc Đông Âu và Liên Xô, gây nên sự
đảo lộn nghiêm trọng đời sống vật chất và tinh thần của xã hội, làm đổ vỡ
niềm tin của hàng triệu con ngời vào lý tởng xây dựng cuộc sống tốt đẹp
trên "trần thế".
Các cuộc chiến tranh tàn phá ở vùng Vịnh, cuộc chiến ở Nam T,
cùng bao cuộc chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, các phong trào ly khai, khủng
bố đẫm máu ở châu á, châu Âu, châu Phi , chính sách bao vây cấm vận
của chủ nghĩa đế quốc, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tài chính - tiền
tệ với sự suy thoái về các mặt của đời sống xã hội ở nhiều nớc ngày càng
làm sâu sắc thêm tâm lý bất mãn của con ngời lao động đang mong tìm lối
thoát khỏi nỗi "khổ cực trần gian".
Nhân loại mặc dù đã và đang bớc vào nền văn minh mới nhng cũng
đang đứng trớc hàng loạt nguy cơ đe dọa của: chiến tranh hạt nhân hủy diệt;
nạn ô nhiễm môi trờng sinh thái; các căn bệnh hiểm nghèo; sự gia tăng dân
số; mức độ thiên tai tàn phá ngày một gia tăng (động đất, bão lụt, núi
lửa ); hiểm họa thiên thạch đối với trái đất v.v và v.v Tất cả những vấn
đề đó làm cho một số ngời phải cam lòng gửi số phận vào những "phép
mầu" của "đấng siêu nhiên". Đây chính là mảnh đất màu mỡ cho sự nảy
sinh, nuôi dỡng sự tồn tại và phát triển của tôn giáo xét trên nhiều khía
cạnh.
1
Nằm chung trong tình hình của nhân loại, Việt Nam trong thời gian
gần đây, trớc sự đổi mới toàn diện của đất nớc, nhất là việc mở rộng tự do
dân chủ - trong đó có tự do tín ngỡng, các hoạt động của tôn giáo đợc khôi
phục và phát triển mạnh mẽ. Khắp nơi tiến hành mở lại lễ hội, sửa chữa lại
đình chùa, nhà thờ, đền miếu, từ đờng dòng họ Số ngời đi theo các tôn
giáo ngày càng tăng lên nhanh chóng. Các hoạt động của mê tín dị đoan
cũng đã xuất hiện một cách phổ biến.
Phật giáo là một tôn giáo lớn của thế giới, đồng thời cũng là một
học thuyết mang đậm tính triết học sâu sắc. ở Việt Nam, Phật giáo là một
tôn giáo có truyền thống gắn bó với dân tộc ta từ lâu đời, và là tôn giáo có
ảnh hởng không nhỏ tới đời sống tinh thần của nhân dân. Ngày nay Phật
giáo ở nớc ta đang có sự phục hồi và phát triển một cách nhanh chóng.
Bên cạnh đó, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ cũng đang
tìm cách lợi dụng tôn giáo (trong đó chú ý tới Phật giáo) nh một công cụ -
một phơng tiện cơ bản để thực hiện chiến lợc "diễn biến hòa bình" hòng
xóa bỏ mọi thành quả của CNXH trên đất nớc ta.
Bởi vậy có học giả đã từng khẳng định: "Trong thời đại ngày nay,
tìm hiểu tôn giáo là một điều cần thiết và đầy hứng thú đối với tất cả những
ai quan tâm đến cuộc sống quanh mình" [28, 5].
Trớc tình hình diễn biến phức tạp nh vậy của thực tiễn, đòi hỏi
chúng ta phải dùng quan điểm khoa học để nghiên cứu một cách toàn diện
điều kiện tồn tại của Phật giáo Việt Nam hiện nay, để từ đó có cơ sở khoa
học rút ra những quan điểm, biện pháp nhằm phát huy mặt tích cực và hạn
chế mặt tiêu cực của Phật giáo trong xã hội ta hiện nay. Đáp ứng phần nào
yêu cầu đòi hỏi đó, chúng tôi đi vào nghiên cứu đề tài: Điều kiện tồn tại
của Phật giáo Việt Nam hiện nay (Qua một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ).
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho tới nay, ở nớc ta đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về tôn
giáo tín ngỡng nói chung, Phật giáo nói riêng dới các góc độ, khía cạnh
khác nhau có thể nêu lên mấy chủ đề cơ bản sau:
- Nghiên cứu về sự phát triển của Phật giáo Việt Nam qua các thời
kỳ khác nhau trong lịch sử có các tác phẩm nh: "Phật giáo Việt Nam từ
nguyên thủy đến thế kỷ VIII" của Trần Văn Giáp; "Việt Nam Phật giáo sử lợc"
của Thích Mật Thể; "Việt Nam Phật giáo sử luận" (ba tập) của Nguyễn
Lang; "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" của nhiều tác giả do PGS Nguyễn Tài
Th chủ biên; "Lợc sử Phật giáo Việt Nam" của Thợng tọa Thích Minh Tuệ;
"Lịch sử Phật giáo Việt Nam" của Lê Mạnh Thát,
- Nghiên cứu Phật giáo Việt Nam với t cách là một bộ phận cấu
thành lịch sử t tởng Việt Nam nh: "Sự phát triển của t tởng ở Việt Nam" của GS
Trần Văn Giàu; "Lịch sử t tởng Việt Nam" tập 1 của PGS Nguyễn Tài Th chủ
biên; "Lịch sử t tởng Việt Nam" tập 2 của PGS Lê Sỹ Thắng; "Mấy vấn đề
Phật giáo và lịch sử t tởng Việt Nam" của tập thể tác giả Viện Triết học; "T
tởng Phật giáo Việt Nam" của Nguyễn Duy Hinh; "Lợc khảo t tởng Thiền
Trúc Lâm Việt Nam" của Nguyễn Hùng Hậu
- Nghiên cứu Phật giáo dới góc độ văn hóa, nghệ thuật nh các tác
phẩm: "Thiền học của Trần Thái Tông" của Nguyễn Đăng Thục; "Cảm
nhận đạo Phật" của Phạm Kế; "Cơ sở văn hóa Việt Nam" của Trần Ngọc
Thêm; "Văn hóa Phật giáo và lối sống của ngời Việt ở Hà Nội và châu thổ
Bắc Bộ" của Nguyễn Thị Bảy; "Chùa Hà Nội" của Nguyễn Thế Long và
Phạm Mai Hùng; "Vài nét về Phật giáo dân gian Việt Nam" của GS Trần
Quốc Vợng; "Mỹ thuật Lý - Trần, mỹ thuật Phật giáo" của Chu Quang Trứ,
- Nghiên cứu những ảnh hởng của Phật giáo trong đời sống tinh thần
của ngời Việt Nam. Gần đây có đề tài khoa học công nghệ cấp nhà nớc
"ảnh hởng của các hệ t tởng và tôn giáo đối với con ngời Việt Nam hiện nay"
do PGS Nguyễn Tài Th chủ biên; luận án PTS "Về vai trò của Phật giáo Việt
Nam" (Qua triều đại nhà Lý) của Phạm Văn Sinh; "Vai trò xã hội của tôn
giáo: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của Hồ Trọng Hoài
Ngoài ra, trên một số tạp chí nghiên cứu mà điển hình là tạp chí
Triết học, tạp chí Cộng sản, tạp chí Nghiên cứu lý luận, tạp chí Nghiên cứu
tôn giáo cũng có một số bài đề cập tới nội dung giáo lý, lịch sử, văn hóa
cùng những mặt tích cực và tiêu cực của Phật giáo Việt Nam.
Nhìn chung điều kiện tồn tại của Phật giáo Việt Nam hiện nay cha
đợc các công trình khoa học nói trên đề cập tới một cách có hệ thống và đầy
đủ. Dù sao những công trình nghiên cứu đó là những đóng góp to lớn trên
con đờng tiếp cận Phật giáo Việt Nam dới góc độ khoa học và là những tài
liệu vô cùng quí báu để chúng tôi lấy làm t liệu học tập và kế thừa.
3
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Mục đích: Luận án vận dụng lý luận triết học Mác - Lênin, t tởng
Hồ Chí Minh cùng với các quan điểm của Đảng và Nhà nớc kết hợp với
khái quát hóa thực tiễn tình hình Phật giáo ở Việt Nam - mà cơ bản là tình
hình Phật giáo ở một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ hiện nay để chứng minh và
phân tích một cách toàn diện về điều kiện tồn tại của Phật giáo Việt Nam
hiện nay. Trên cơ sở đó, đa ra những giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực
và hạn chế mặt tiêu cực của Phật giáo trong xã hội ta hiện nay.
- Để thực hiện mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau:
+ Phân tích lịch sử Phật giáo và Phật giáo ở Việt Nam để làm rõ
Phật giáo Việt Nam hiện nay là sự tiếp tục của Phật giáo Việt Nam trong
lịch sử.
+ Phân tích, chứng minh những nhân tố chủ yếu qui định sự tồn tại
của Phật giáo ở nớc ta hiện nay (Qua một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ).
+ Đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực
và hạn chế mặt tiêu cực của Phật giáo Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Lịch sử Phật giáo Việt Nam nói chung, đặc
biệt là tình hình Phật giáo hiện nay của các tỉnh, thành: Hà Nội, Hải Dơng,
Bắc Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Hà Tây (một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ).
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận án dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa
Mác Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, cùng với đờng lối chính sách của Đảng
và Nhà nớc ta về vấn đề tôn giáo.
- Cơ sở thực tiễn của luận án: Đề tài đi sâu phân tích thực tiễn, trên
cơ sở các số liệu, dữ kiện thu thập đợc qua các sách báo, tài liệu, tạp chí ,
4
cùng các cuộc tiếp xúc, trao đổi, khảo sát một số đối tợng của sáu tỉnh,
thành đồng bằng Bắc Bộ (Hà Nội, Hải Dơng, Bắc Ninh, Hải Phòng, Thái
Bình, Hà Tây).
- Phơng pháp nghiên cứu: Luận án đợc thực hiện trên cơ sở vận
dụng tổng hợp phơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, cùng một số phơng pháp khác nh phơng pháp phân
tích và tổng hợp, thống kê, đối chiếu, so sánh, khái quát hóa, trừu tợng hóa,
lịch sử và lôgíc
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án có sự hệ thống hóa điều kiện tồn tại của Phật giáo Việt
Nam hiện nay trên cơ sở những t liệu, số liệu thực tế.
Bớc đầu luận án đã nêu lên đợc một số vấn đề đặt ra hiện nay của
Phật giáo Việt Nam ở một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.
Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm từng bớc phát huy mặt
tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của Phật giáo Việt Nam hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án đóng góp một phần cho việc nghiên cứu Phật giáo Việt
Nam một cách toàn diện và sâu sắc hơn.
Luận án có thể sử dụng nh là một tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, giảng dạy những môn có liên quan tới những vấn đề của Phật giáo,
đồng thời qua đây cũng giúp cho công tác hoạt động thực tiễn đối với Phật
giáo của cán bộ các cấp đạt đợc hiệu quả hơn.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
có 167 trang, gồm 3 chơng, 7 tiết.
5
6
Chơng 1
Phật giáo Việt Nam hiện nay - sự tiếp tục
của Phật giáo Việt Nam trong lịch sử
1.1. Phật giáo và phật giáo ở Việt Nam
1.1.1. Sự ra đời và nội dung cơ bản của Phật giáo
a) Lịch sử hình thành Phật giáo.
Thái tử Tất Đạt Đa - Ngời sáng lập Phật giáo.
Theo truyền thuyết, ngời sáng lập ra Phật giáo là Thái tử Cồ Đàm -
Tất Đạt Đa (Gau ta ma Siddhattha) sinh năm 563 trớc công nguyên (TCN),
con vua Tịnh Phạn (Shudd hodana) thuộc bộ tộc Thích Ca (Sa Kya), trị vì
một vơng quốc nhỏ là Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavaxtu) ở trung lu sông Hằng, bao
gồm một phần phía Nam Nê-pan và một phần các bang Ut-ta-rơ, Pra-đe-zơ,
Bi he của ấn Độ ngày nay. Đợc sinh ra trong hoàn cảnh đặc biệt, hơn nữa
lại là ngời con độc nhất, do đó Vua và Hoàng hậu rất yêu quí Tất Đạt Đa.
Ngay từ nhỏ Tất Đạt Đa đã sống trong môi trờng giàu sang nhung lụa và đ-
ợc mọi ngời tránh cho những nỗi u lo phiền não. Tuổi trẻ Tất Đạt Đa không
đợc rời khỏi hoàng cung, chỉ sử dụng thời gian vào việc giải trí, vui chơi,
yến tiệc, học hành, lễ bái tế tự. Tất Đạt Đa không hề thấy và cũng không hề
biết những gì là đen tối, cực nhọc, xấu xa, bất hạnh đang xảy ra xung quanh
mình, thậm chí cũng không ngờ rằng trong cuộc đời lại có cảnh đói khát,
bệnh tật, già yếu và chết chóc bi thơng.
Năm 17 tuổi, đã đợc đức Vua cha cho sớm kết duyên cùng Công
chúa Da Du Đà La, sau đó sinh hạ đợc ngời con trai đặt tên là La Hầu La.
Kể từ sau đó, Tất Đạt Đa mới có điều kiện tiếp xúc với xã hội hiện thực.
Theo chuyện kể, lý do dẫn đến bớc ngoặt trong tâm hồn trí tuệ đầy
nhạy cảm của Tất Đạt Đa là những cảnh tợng gặp bất ngờ tại bốn cửa ra vào
Hoàng cung. Tất Đạt Đa tận mắt nhìn thấy một cụ già còm cõi, một ngời bị
7
bệnh tật giày vò, và sau đó là cảnh của một ngời chết đau thơng. Lần đầu tiên
Tất Đạt Đa nhận ra rằng bệnh tật, già yếu và cái chết là những điều bất
hạnh, bi kịch cho tất cả mọi ngời. Cuối cùng Tất Đạt Đa gặp một tu sĩ
nghèo với nét mặt dung dị, thanh thản khác thờng (một ngời chối bỏ hởng
thụ xa hoa để đi tìm sự bình yên của tâm hồn trong khổ hạnh), và rồi Ngời
quyết định noi theo vị tu sĩ ấy.
Năm 19 tuổi (có sách chép là 29 tuổi), nhân lúc vợ con, vua cha ngủ
say, Ngời đã rời bỏ Hoàng cung, từ chối giàu sang và quyền lực vào ẩn
trong núi Tuyết Sơn (Già-Xà-Gaya) để tu tập thiền định. Trong sáu năm trời
kiên trì tu khổ hạnh, nhng Ngời vẫn cha đợc thành chính quả. Qua thực tế tu
hành, Tất Đạt Đa hiểu ra rằng; từ cuộc sống giàu sang tràn đầy vật chất,
thỏa mãn dục vọng, lẫn cuộc sống khổ hạnh ép xác đều đi chệch khỏi con
đờng đúng đắn. Cuộc sống thứ nhất là cuộc sống tầm thờng vô tích sự; cuộc
sống thứ hai cũng tăm tối, không xứng đáng và vô nghĩa nh cuộc sống thứ
nhất. Con đờng đúng đắn phải là "trung đạo", con đờng tự mình đào sâu suy
nghĩ để nhận thức chân lý, con đờng dẫn tới yên tĩnh và sự bừng sáng của tâm
hồn trí tuệ. Sau đó, Tất Đạt Đa từ bỏ tu khổ hạnh đi vào t duy trí tuệ. Sau 49
ngày thiền định dới gốc cây Bồ đề (pippala), cuối cùng Ngời đã giác ngộ đ-
ợc chân lý - thấu hiểu đợc bản chất của tồn tại, nguồn gốc của khổ đau và
con đờng giải thoát cho chúng sinh. Từ đó, Ngời chu du khắp lu vực sông
Hằng truyền bá đạo của mình. Tôn giáo mới gắn liền với tên tuổi của Ngời
đã hình thành và dần dần lan rộng ra nhiều vùng của ấn Độ đơng thời. Ngời
đời gọi đó là Phật giáo (giáo lý giác ngộ).
Phật thọ 80 tuổi và tịch diệt vào ngày rằm tháng hai, trong một vờn
cây gần thành Câu-thi-la (Kusinagara).
Phật giáo ra đời trong một hoàn cảnh xã hội đặc biệt của ấn độ lúc
bấy giờ. Nó đợc hình thành trên những tiền đề cơ bản sau:
8
- Tiền đề kinh tế xã hội.
ấn Độ là một nớc lớn, đất rộng ngời đông ở miền nam Châu á, là n-
ớc có lịch sử từ lâu đời, là một trong những nơi có nền văn minh sớm nhất
và rực rỡ nhất trên thế giới.
Vào khoảng thế kỷ VI Tr.CN ở ấn Độ lực lợng sản xuất phát triển
nhanh, sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn giai cấp trong xã hội ngày càng
gay gắt. Đạo Bà La Môn sau một thời gian củng cố đã đi vào giai đoạn phát
triển cực thịnh cả về mặt tôn giáo lẫn vị trí chính trị trong xã hội. Đạo Bà La
Môn đã phân chia xã hội thành bốn đẳng cấp với quyền lợi, địa vị và nghĩa
vụ khác nhau.
+ Bà La Môn (Brahmanas), bao gồm tăng lữ, những ngời hoạt động
tôn giáo chuyên nghiệp.
+ Sát Đế Lợi (Ksastryas), gồm vua-quan cai trị thế quyền và tầng
lớp võ sĩ.
+ Vệ Xá (Vai syas), gồm dân tự do: làm nông nghiệp, bán buôn, thợ
thủ công.
+ Thủ Đà La (Soudras), chiếm đa số, là con cháu của những bộ lạc
bại trận, những ngời bị phá sản, không có t liệu sản xuất - những ngời nô
lệ .
Sự phân biệt giữa các đẳng cấp đợc thể hiện ở nhiều mặt, không
những chỉ về quyền lợi kinh tế, địa vị xã hội, mà cả trong quan hệ giao tiếp,
đi lại, ăn mặc, sinh hoạt tôn giáo. Hai đẳng cấp trên trở thành giai cấp bóc
lột và thống trị trong xã hội, trong đó nổi bật là những đặc quyền đặc lợi
của đẳng cấp Bà La Môn, đẳng cấp đợc coi là đẳng cấp cao quý, trong sạch
nhất, sánh vai với thánh thần. Đẳng cấp Thủ Đà La ở địa vị tận cùng của xã
hội, làm nô lệ cho các đẳng cấp trên. Mâu thuẫn giữa các đẳng cấp ở ấn Độ
ngày càng trở nên gay gắt, đã xuất hiện nhiều trào lu t tởng khác nhau. Các
9
trào lu t tởng đó đều gặp nhau ở chỗ - hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp - chống
lại chế độ phân biệt đẳng cấp và đạo Bà La Môn. Học thuyết Phật giáo là
một trong những trào lu t tởng đó.
- Tiền đề t tởng lý luận.
Phật giáo bắt nguồn từ những cảm hứng, suy t khát vọng của những
ngời ấn Độ cổ đợc tập hợp lại trong Vê Đa. Đối với phái chính thống, Vê
Đa có nghĩa là những tri thức cao cả, thiêng liêng. Trong nghĩa cụ thể, Vê
Đa là một khối lợng tác phẩm văn học đợc sáng tác trong khoảng thời gian
trên dới 2000 năm, không đồng nhất về văn phong và nội dung. Các tác
phẩm truyền miệng rất xa này, gọi theo truyền thống là man tra, làm thành
một bộ phận lớn của Vê Đa. Man tra còn lại đến ngày nay dới dạng bốn tập.
- Rig veda là bộ phận cổ nhất thể hiện những nguyện vọng của ngời
dân thờng nh ớc mong có thức ăn, có gia súc, ớc vọng ma xuống, mong an
c, mạnh khỏe, nhiều con cháu
- Sama veda là tuyển tập các đoạn hát trong khi tiến hành nghi lễ.
- Atharvaveda là tuyển tập các bài thần chú ma thuật dùng cho sự
khẩn cầu khác nhau.
- Yajurveda gồm có hai bộ phận: Yajurveda trắng chỉ các bài thần
chú và công thức sử dụng; Yajurveda đen thì nêu những ý kiến về nghi lễ và
thảo luận những ý kiến đó.
Ba bộ phận văn học Vêđa muộn hơn là Bràhamana, Aranyaka và
Upanisad. Tiền đề t tởng lý luận của Phật giáo mang đặc trng của hệ thống
lý luận tôn giáo phơng Đông. Phật giáo tiếp thu Vêđa, Bà La Môn và một
số hệ thống khác mang ý nghĩa truyền thống nối tiếp, mọi t tởng đều xoay
xung quanh việc giải quyết các vấn đề về nhân sinh quan và thế giới quan,
trong sự đan xen, vay mợn giữa tôn giáo và triết học, giữa phái này và phái
kia. Đặc biệt Phật giáo đã khai thác triệt để mối quan hệ của Atman và
10
Brahman (trong Upanisad), cái mà Nê Ru gọi là trục tung thế giới quan t t-
ởng của ngời ấn Độ.
b) Nội dung cơ bản của Phật giáo
Sinh thời Đức Phật không viết sách. Ngời chỉ giảng dạy và bàn luận
với học trò mình bằng lời nói. Sau khi Đức Phật mất, các học trò của Ngời
đã tiếp tục phát triển t tởng của ông, trải qua bốn lần kết tập kinh điển để
xây dựng thành một học thuyết tôn giáo hoàn chỉnh.
Kinh sách của Phật giáo rất đồ sộ, đợc chia làm ba bộ phận gọi là
Tam tạng (Tri pi ta ka); kinh, luật, luận.
- Kinh (Sutra) gồm năm bộ lớn là những sách ghi lời Phật giảng về
giáo lý.
- Luật (Vinaya) là sách ghi những giới luật do Phật chế định làm
khuôn phép cho việc sinh hoạt, tu học của các đệ tử, nhất là đối với những
ngời xuất gia tu hành.
- Luận (Sástra) là các tác phẩm luận giải các vấn đề Phật giáo của
các học giả cao tăng về sau.
Cũng nh các tôn giáo khác, đối tợng phản ánh của Phật giáo là thế
giới và con ngời. Song quan niệm về thế giới và con ngời của Phật giáo có
hệ thống chặt chẽ và mang tính triết học sâu sắc, trên cơ sở tiếp thu nhiều
yếu tố của đạo Bà La Môn và các trào lu triết học ấn Độ cổ đại.
Quan niệm về thế giới.
Theo Phật giáo các sự vật và hiện tợng trong vũ trụ không phải do
một đấng thiên nhiên nào tạo tác ra ("vô tạo giả"), mà nó đợc tạo nên bởi
những yếu tố "pháp" - (dharma).
Các sự vật, hiện tợng trong vũ trụ không đứng im mà luôn luôn chuyển
động, biến đổi ("vô thờng") theo một chu trình; thành - trụ - hoại - không
(đối với loài vô tình) hay sinh - trụ - dị - diệt (đối với loài hữu tình). Với
11
quan niệm này, Phật giáo cho rằng không phải sự vật, hiện tợng sinh ra mới
gọi là sinh, mất (chết) đi mới gọi là diệt, mà trong sự sống có sự chết, chết
không phải là hết, chết là điều kiện của một sinh thành mới. Sinh - diệt là
hai quá trình xảy ra đồng thời trong sự vật, hiện tợng, cũng nh trong toàn
thể vũ trụ rộng lớn. Hay nói cách khác, sự thành trụ của pháp này, thế giới
này là sự hoại - không của thế giới khác, pháp khác, cứ nh vậy mà tiếp diễn
không dứt.
Các sự vật, hiện tợng trong vũ trụ chuyển động, biến đổi đều bị qui
định bởi luật nhân duyên (nhân là mầm tạo quả, duyên là điều kiện - phơng
tiện đảm bảo cho nhân thành quả), tức là sự vật, hiện tợng trong vũ trụ đều
do nhân duyên mà thành.
Tùy theo nhân duyên kết hợp mà thành các sự vật, hiện tợng khác
nhau. Tuy nhiên, một sự vật, hiện tợng không phải do một nguyên nhân mà
do nhiều nguyên nhân tạo thành. Nhân cũng không tự nhiên mà có, mà do
nhiều nguyên nhân đã có từ trớc hợp lại. Vũ trụ là hệ thống nhân duyên vô
tận, sách Phật gọi là tính "trùng trùng duyên khởi" của vũ trụ. Do đó, các sự
vật hiện tợng thống nhất và đa dạng với nhau, nơng nhờ, tác động và chi
phối lẫn nhau.
Trong nhận thức thế giới, Phật giáo còn đa ra thuyết "sắc - không".
"Sắc" là danh từ Phật học chỉ sự vật hiện tợng ở trạng thái có hình tớng
trong không gian mà con ngời nhận biết đợc, gọi là có, "không" chỉ sự vật,
hiện tợng ở trạng thái không có hình tớng mà con ngời không nhận biết đ-
ợc. Theo thuyết sắc - không, thế giới luôn chuyển động, biến đổi nhng
không phải khi sự vật tồn tại ở trạng thái có hình tớng (gọi là sắc) mới là có,
ở trạng thái không (diệt) mới là không. Thực ra cái gọi là không đã là có và
cũng là có, cái gọi là có đã là không và cũng là không. Sắc - sắc, không -
không có đấy mà không đấy, không đấy mà có đấy.
12
Khi bàn về không gian và thời gian, Phật giáo cho rằng thời gian là
vô cùng, không gian là vô tận, thế giới nhiều nh cát của sông Hằng. Tuy
nhiên, Phật giáo cũng đa ra những khái niệm đo lờng cụ thể: về không gian
có "tam thiên thế giới" (đại thiên thế giới, trung thiên thế giới, tiểu thiên thế
giới); về thời gian có "tam kiếp" (đại kiếp, trung kiếp và tiểu kiếp). Khi xét
riêng từng sự vật, hiện tợng, Phật giáo cũng nhìn nhận giới hạn thời gian,
không gian, tức là có khởi đầu có kết thúc.
Nh vậy, Phật giáo cho rằng thế giới luôn chuyển động và biến đổi
không ngừng, "vô thủy, vô chung" (không có bắt đầu, không có kết thúc).
Sự biến đổi của thế giới, sinh - diệt của sự vật, hiện tợng không phải do ý
muốn chủ quan của bất kỳ ai, mà là tự nó ("tự kỷ nhân quả"). Sự vật, hiện t-
ợng mà con ngời nhận biết đợc chỉ là giả tạo, không có thực tớng, hay nói
một cách khác, đối với con ngời thế giới khách quan đang tồn tại là ảo giả,
do vô minh đem lại.
Quan niệm về con ngời.
Cũng nh các tôn giáo khác, Phật giáo cũng bàn đến những vấn đề
sinh thành, sống chết, đặc biệt là nỗi khổ và con đờng thoát khổ của con ng-
ời. Phật giáo đã phủ nhận quan niệm về sự "sáng thế" của các đấng tối cao
là t tởng chủ yếu trong các tôn giáo thời bấy giờ. Con ngời là một pháp "đặc
biệt" của thế giới. Con ngời bao gồm phần sinh lý, phần tâm lý và là sự kết
hợp của "ngũ uẩn" (sắc, thụ, tởng, hành, thức).
Phần sinh lý "sắc uẩn" (Rupakaya) là thần sắc, hình tớng, đợc giới
hạn trong không gian bằng xơng, thịt, da đợc tạo thành bởi bốn yếu tố vật
chất ("tứ đại"; địa, thủy, hỏa, phong).
Phần tâm lý hay tinh thần, ý thức gồm; "thụ uẩn", "tởng uẩn", "hành
uẩn", "thức uẩn" đợc biểu hiện bằng "thất tình" (ái, ố, nộ, hỷ, lạc, ai, dục).
Nói một cách khái quát, sự hình thành của con ngời là do "danh -
sắc" tác hợp. Con ngời mất đi (chết) chẳng qua chỉ là sự tan ra của "ngũ
uẩn" theo qui luật "sinh - trụ - dị - diệt" mà thôi.
Bên cạnh những yếu tố duy vật đó, thì Phật giáo lại quan niệm con
ngời sau khi chết có thể đầu thai trở lại một trong sáu kiếp phàm là: ngời,
tiên, súc sinh, địa ngục, Atula và quỷ, trong đó sự tái sinh trở lại kiếp ngời
là rất khó khăn ("nhất thất nhân thân vạn kiếp bất phục"). Quá trình ấy cứ
nh chiếc bánh xe (luân) quay tròn (hồi) không dứt; "luân hồi nghiệp báo" là
qui luật nhân quả của con ngời tồn tại trong vũ trụ.
Phật cho rằng; vì "danh - sắc" dẫn con ngời tới vô minh (không
nhận thức đợc bản thể), nên con ngời không thoát khỏi vòng luân hồi
nghiệp báo. Tái sinh ở kiếp nào (kết quả của nghiệp báo) là phụ thuộc vào
13
nghiệp của mình (nguyên nhân) lúc còn sống ở kiếp trớc. Có thân nghiệp,
khẩu nghiệp và ý nghiệp, bất động nghiệp, cực trọng nghiệp, cận tử nghiệp.
Có nghiệp của bản thân, có nghiệp của cha mẹ, của gia đình.
"Luân hồi" ở đây không phải là sự đầu thai của linh hồn, mà là sự
kết tập mới của "ngũ uẩn" qua nghiệp lực. Nó di chuyển vào trong "ngũ
uẩn" dẫn dắt con ngời vào "luân hồi". Cũng xuất phát từ đây, Phật giáo đa ra
quan điểm "vô ngã", tức là khẳng định "cái tôi" không thờng tồn tại. "Cái
tôi" chỉ tồn tại trong thời gian thoáng qua, nh cơn gió thoảng, nh ánh sao
băng theo luật luân hồi "vô thủy, vô chung".
Vậy sự sống cũng nh cái chết của con ngời luôn tuân theo luật "luân
hồi nghiệp báo" một cách "tự nhiên nhi nhiên", không có bất cứ sự can thiệp
nào của các "đấng sáng thế" hay các thần linh. Đồng thời, cũng xuất phát từ
những quan điểm này, Phật giáo đi tới phủ nhận linh hồn bất tử. Bên cạnh đó,
Phật giáo cũng đã thấy đợc vị trí, vai trò của con ngời trong vũ trụ; con ngời
là động vật thông minh và hùng mạnh nhất; con ngời là chúa tể của muôn
loài; con ngời có thể chế ngự đợc tất cả (nhân thị tối thắng).
Bản chất con ngời ai cũng nh ai. Phật đã từng nói: "Không có đẳng
cấp trong dòng máu cùng đỏ nh nhau, không có đẳng cấp trong giọt nớc
mắt cùng mặn. Mỗi ngời sinh ra không phải mang sẵn trong bào thai dây
chuyền hay dấu tin -ka (dấu hiệu quí phái của dòng Bà La Môn) giữa trán"
[12, 115].
Trong xã hội ấn Độ thời bấy giờ, ngời phụ nữ bị xã hội khinh rẻ,
ruồng bỏ, thờng bị bắt cóc, cỡng ép, buôn bán để làm những món đồ tiêu
khiển cho giới mày râu quyền quí, chồng chết phải chịu thiêu sống để đi
theo ngời đã chết, v.v Phật giáo đã chống lại những tập tục hủ bại ấy và đã
nêu lên t tởng bình đẳng nam nữ. Trên thực tế, đức Phật đã cho phép thành
lập giáo hội tỳ - khu - ni (nữ tu sĩ) tổ chức đầu tiên của phụ nữ trong lịch sử.
14
Phật giáo chủ trơng kêu gọi con ngời phải biết yêu thơng nhau trên
tinh thần "từ bi hỉ xả", với tấm lòng quên mình để cứu độ chúng sinh (vô
ngã vị tha). Trong kinh U-đà-na, đức Phật đã khẳng định: "Cũng nh nớc của
đại dơng hùng dũng chỉ có một vị là vị mặn của muối. Giáo pháp chỉ có
một vị là vị giải thoát" [14, 262]. Những t tởng này thể hiện bản chất đạo
đức khuyến thiện trong tính nhân văn của Phật giáo, song thông qua đây
cũng phần nào bộc lộ nhợc điểm cố hữu của tôn giáo là duy ý chí.
"Tứ diệu đế" (cat va ri à rya satyani), nghĩa là bốn chân lý tuyệt diệu
là giáo lý nền tảng cơ bản nhất của Phật giáo. Đồng thời, qua tứ diệu đế,
quan điểm về con ngời cũng đợc thể hiện một cách tập trung và sâu sắc
nhất.
Chân lý thứ nhất là "khổ đế" (Duhkha-Satya). Phật giáo đã khái
quát toàn bộ cuộc sống của cả đời ngời trong bốn chữ; "đời là bể khổ".
Phật đã từng nói: nớc của bốn biển không nhiều bằng nớc mắt của
chúng sinh. Toàn bộ bể khổ của đời ngời đợc Phật giáo tổng kết, qui lại
thành nhiều nỗi khổ khác nhau, song tiêu biểu nhất là "bát khổ" (tám khổ);
sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn. Khổ
đau là vô tận và tuyệt đối. Nhìn chung trong Phật giáo, cuộc đời ngoài khổ
đau không tồn tại nào khác. Ngay cả cái chết cũng không phải chấm dứt sự
khổ đau, mà là tiếp tục sự khổ mới.
Chân lý thứ hai là "nhân đế" (Samudaya-Satya) hay còn gọi là tập
đế. Nếu nh chân lý thứ nhất khẳng định đời là bể khổ, thì chân lý thứ hai
của Phật giáo lại chỉ ra nguyên nhân của mọi sự đau khổ đó. Có nhiều
nguyên nhân dẫn con ngời ta tới "bể khổ trầm luân", song tựu trung có ba
nguyên nhân cơ bản (tam độc) nằm ngay trong mỗi một con ngời đó là:
"tham, sân, si". Những nguyên nhân ấy kết hợp với "duyên khởi" hình thành
thuyết "thập nhị nhân duyên". Mời hai cái vừa là nhân vừa là duyên nguồn
gốc của sự khổ (vô minh, hành, thức, danh - sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ,
15
hữu, sinh, lão - tử). Mọi nguyên nhân của sự khổ đều bắt nguồn từ con ngời,
do con ngời hiện diện ra trong mỗi một hành vi của mình.
Vô minh (avidya) có nghĩa là mê hoặc, tối tăm, nhầm lẫn là ngu đần
dốt nát, là trạng thái trí tuệ không đúng đắn. Do vô minh con ngời không
nhận thức đợc thực tớng, bản chất của thế giới và của chính con ngời, cho
nên sinh ra vọng tởng, chấp ngã, cho rằng có cái ta thờng tồn và trên hết, từ
đó sinh ra vị kỷ tham lam, dục vọng và có những hành động tơng ứng.
Những hành động đó tạo ra nghiệp (thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp).
Do tạo nghiệp, đặc biệt là nghiệp ác, mà con ngời phải chịu đau khổ, không
dứt ra khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Chân lý thứ ba là "diệt đế" (Nirodha-Satya); Phật giáo khẳng định
cái khổ có thể tiêu diệt đợc, có thể chấm dứt đợc luân hồi. Muốn chấm dứt
mọi đau khổ thì chỉ có cách diệt nguyên nhân sinh ra sự đau khổ ấy. Nh trên
đã nêu, Phật giáo quan niệm nguồn gốc của sự khổ là sự vận hành của
"Thập nhị nhân duyên", trong đó gốc rễ sâu xa là vô minh. Vì vậy muốn
diệt khổ phải đi ngợc lại sự vận động của mời hai nhân duyên, bắt đầu từ
diệt trừ vô minh. Vô minh bị diệt, trí tuệ đợc bừng sáng, hiểu rõ đợc bản
chất của tồn tại, thực tớng của vũ trụ và con ngời, không còn tham dục và
kéo theo những hành động tạo nghiệp nữa. Tức là thoát khỏi vòng luân hồi
sinh - tử.
Chân lý thứ t là "đạo đế" (Màrga-Satya). Đó là con đờng lên cõi
Niết bàn (Nirvana), hay cách thức, giải pháp diệt khổ, giải thoát khỏi vòng
luân hồi. Cách thức ấy cần có ba cái phải học (tam học) là : học giới, học
định, học tuệ. Có tám giải pháp chính (bát chính đạo) để trở thành chính
quả là: chính kiến, chính t duy, chính nghiệp, chính ngữ, chính mệnh, chính
tinh tiến, chính niệm và chính định. Ngoài ra, còn có một số phơng pháp tu
luyện bổ trợ khác. Thực hành tu luyện đạo tốt để có thể giác ngộ chân lý
nhà Phật, chứng quả Niết bàn, giải thoát khỏi bể khổ trầm luân.
16
Nh vậy, Phật giáo nguyên thủy có t tởng vô thần luận, phủ nhận
đấng sáng thế (vô tạo giả) và có t tởng biện chứng (vô thờng, thuyết duyên
khởi ). Phật giáo là tiếng nói chống chế độ phân biệt đẳng cấp, tố cáo bất
công, đòi tự do và bình đẳng xã hội, nói lên khát vọng giải thoát của con
ngời khỏi những bi kịch của cuộc đời. Đồng thời, Phật giáo cũng nêu cao
thiện tâm, từ bi, bác ái nh là những tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của đời sống
xã hội. Tuy nhiên, triết học Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ quan
khi coi thế giới hiện tợng (vạn pháp) là ảo giả, huyễn hoặc và do cái tâm vô
minh của con ngời tạo ra. Trong cách giải quyết về sự đau khổ của con ng-
ời, xem xét con ngời trong tính nhân bản mà lại tách con ngời ra khỏi xã
hội loài ngời, dẫn tới nhị nguyên, càng về sau càng trở nên duy tâm thần bí.
1.1.2. Sự du nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam
a) Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
Phật giáo truyền vào nớc ta từ rất sớm. Theo quan điểm chung của
giới nghiên cứu lịch sử, thì Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ những năm
đầu công nguyên. Trong thời điểm ấy nớc ta đang nằm dới sự đô hộ của chế
độ phong kiến Trung Quốc. Xã hội phân chia thành hai tầng lớp rõ rệt. Tầng
lớp trên gồm những quan lại Trung Quốc, cùng quan lại chức sắc ngời Việt
trong bộ máy chính quyền đô hộ của phơng Bắc. Họ mang thế giới quan
Nho giáo và phơng thuật phơng Bắc. Còn tầng lớp dới là những ngời nông
dân bản xứ trồng lúa nớc. Họ tin ở sức mạnh của ông trời trên cao có thể
khuyến thiện, trừng ác, tin ở các hiện tợng tự nhiên nh mây, ma, sấm, chớp,
sông, núi, đất đai đều là những vị thần có thể phù trợ con ngời, hoặc cũng
có thể gây cho con ngời những tai họa. Cả hai tầng lớp trên đều cảm thấy xa
lạ trớc những giáo lý sâu sắc và uyên thâm của Phật giáo, khi mới truyền
vào. Nhng Phật giáo không mâu thuẫn với các tín ngỡng dân gian sẵn có.
Chẳng những thế nó còn đem lại cho đơng thời những giải thích mới mẻ về
nỗi khổ của con ngời, về nguyên nhân khổ đau, về con đờng thoát khổ, là
17
những day dứt từng làm khổ sở con ngời trong bao nhiêu đời, đồng thời nó
kêu gọi lòng từ bi, hỷ xả, một chủ trơng đáp ứng đợc lòng mong muốn của
con ngời vốn nhiều rủi ro và lắm tai họa trong chế độ Bắc thuộc lúc bấy giờ.
Nguyễn Lang đã từng viết: "Đạo Phật thấm vào văn minh Giao châu tự
nhiên và dễ dàng nh nớc thấm vào lòng đất" [42, 52]. Vì vậy, Phật giáo
nhanh chóng tìm đợc chỗ đứng và điều kiện bám rễ chắc chắn trên mảnh
đất này.
Vậy Phật giáo du nhập vào Việt Nam bằng con đờng nào?
Nh chúng ta đã biết, Việt Nam nằm trong bán đảo Đông Dơng, là
cái gạch nối địa lý giữa hai nớc lớn, hai nền văn minh cổ xa của loài ngời:
ấn độ và Trung Quốc. Với một địa thế nằm kẹp giữa hai nớc lớn - với hai
nền văn minh cổ xa và rực rỡ nh vậy, Việt Nam tất yếu chịu ảnh hởng từ cả
hai phía, ấn độ và Trung Quốc.
Căn cứ vào những sự kiện lịch sử và địa lý, chúng ta bác bỏ thuyết
cho rằng Phật giáo đầu tiên truyền từ ấn độ qua Trung Quốc, rồi từ Trung
Quốc truyền sang Việt Nam. Không ai phủ nhận rằng ấn độ có những con
đờng thủy và đờng bộ nối liền ấn độ và Trung Quốc, không thông qua Việt
Nam, đặc biệt là hai tuyến đờng bộ ngang qua Trung á. Cũng không ai phủ
nhận là Việt Nam chịu ảnh hởng nhiều và trực tiếp của Phật giáo Trung
Quốc. Thế nhng Việt Nam ngay từ thời rất xa đã đợc các cao tăng ấn độ
đến truyền giáo trực tiếp. Chính lịch sử Trung Quốc cũng đã từng ghi nhận
rằng, vào những năm đầu công nguyên, trong khi ở miền Nam Trung Quốc
cha biết đến Phật giáo, thì ở Luy Lâu (Thuận Thành - Bắc Ninh) đã có một
trung tâm Phật giáo phát triển khá phồn thịnh [10, 123].
Đi theo các tuyến đờng thủy hay bộ, đi một mình hay đi từng nhóm
hai ba ngời, hay là đi chung cùng các đoàn buôn, một số tăng sĩ ngoại quốc
chủ yếu là ngời ấn độ hay là ngời vùng Trung á đã đến Việt Nam truyền
18
đạo. Các tăng sĩ Phật giáo đầu tiên đến Việt Nam vào thời điểm nào, thuộc
nớc nào và bao nhiêu ngời, v.v đó là những vấn đề thiếu sử liệu ghi chép
cụ thể. Những tăng sĩ ngoại quốc đợc nêu danh trong sử liệu Việt Nam và
Trung Quốc, cha chắc chắn là ngời đầu tiên đặt nền móng cho Phật giáo ở
Việt Nam.
Đơng nhiên, sự truyền bá Phật giáo vào Việt Nam không phải chỉ
xảy ra trong một thời gian ngắn, với một số ít cao tăng, mà là liên tục trong
nhiều thời điểm, với vô số các cao tăng, từ đầu công nguyên cho đến mãi
các thế kỷ về sau. Công lao lúc đầu là thuộc về ngời ấn độ và ngời Trung
á, sau đó là ngời Trung Quốc và có cả ngời Việt Nam đã sang ấn độ hoặc
sang Trung Quốc và các nớc khác học thêm đạo Phật để về giảng lại cho
ngời mình.
Từ khi vào Việt Nam đến nay, Phật giáo đã có cuộc sống gần 2000
năm. Trong khoảng thời gian dài đó, Phật giáo đã trải qua nhiều quá trình
chuyển biến, từ ngoại lai đến bản địa, từ một vùng đến nhiều vùng, từ ít ngời
tin theo đến đại đa số ngời trong nớc ngỡng mộ, từ thô sơ đơn giản đến sâu
sắc, bề thế Phật giáo Việt Nam cũng đã trải qua nhiều bớc thăng trầm,
nhiều giai đoạn phát triển khác nhau do điều kiện lịch sử qui định.
b) Quá trình phát triển của Phật giáo ở Việt Nam
- Phật giáo thời kỳ đầu du nhập đến thế kỷ V.
Từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau, chúng ta có thể ít nhiều hiểu đợc
về Luy Lâu - trung tâm Phật giáo Việt Nam trong những thế kỷ đầu công
nguyên.
Luy Lâu là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa của Việt Nam
(Giao Chỉ) trong những thế kỷ của đầu công nguyên. Cũng chính nơi đây đã
từng là trung tâm thơng mại lớn có tính quốc tế, cho nên ngời ngoại quốc
ngụ c hay qua lại rất đông. Các nhà buôn ngời ấn Độ và ngời Trung á đến
buôn bán ở đây rất sớm và theo sau họ là các nhà s đến hành đạo và truyền
đạo. Dần dần Luy Lâu trở thành trung tâm Phật giáo lớn và sớm nhất ở Việt
Nam. Có nhà nghiên cứu Phật học đã từng cho rằng trung tâm Phật giáo ở
19
Luy Lâu hình thành sớm hơn hai trung tâm Phật giáo ở Bành Thành và Lạc
Dơng của Trung Quốc.
Các đoàn sứ thần các nớc phía Nam, trớc khi đến kinh đô Trung
Quốc ở Lạc Dơng, Trờng An hay Kiến Nghiệp ( Nam Kinh), mà dừng lại
một thời gian ở Luy Lâu để thăm hỏi, điều tra tình hình bên Trung Quốc là
rất có lợi. Điều đó càng rất hợp với các tăng sĩ ấn Độ hay Trung á dự định
qua truyền giáo ở bên Trung Quốc. Họ đến Luy Lâu trớc hết để làm quen
với ngôn ngữ, văn tự ngời Hán, với phong tục tập quán ngời Hán. ở Luy
Lâu họ đã có thể bắt đầu dịch kinh từ chữ Phạn (Sanscrit) sang chữ Hán,
dựa vào sự cộng tác của các tăng sĩ Việt Nam vừa giỏi chữ Hán vừa thông
chữ Phạn. Luy Lâu vô hình trung trở thành nơi hội tụ của các luồng văn
hóa. Ngôn ngữ tiếng Việt, ngôn ngữ Hán tự và Phạn ngữ đều có dịp đợc sử
dụng trong trao đổi buôn bán và cả trong truyền đạo. Điều đó có lợi cho
việc giảng kinh và dịch kinh Phật, có lợi cho việc truyền bá mạnh mẽ Phật
giáo trên mảnh đất này và vơn xa hơn nữa.
Nhng Phật giáo ở Luy Lâu trong lúc này không hoàn toàn giống
Phật giáo của đức Thích Ca, cũng không hoàn toàn giống Phật giáo ở ấn Độ
đơng thời. Bởi nó đã bị biến dạng đi do truyền thống t tởng và phong tục tập
quán cũng nh điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam lúc bấy giờ qui định.
Đức Phật Thích Ca đợc quan niệm nh một ông thần có ở khắp mọi
nơi, có thể biết đợc mọi nỗi suy t và hành vi của con ngời, có thể cứu giúp
ngời tốt và trừng trị kẻ xấu nh ông Bụt trong truyện "Tấm Cám", Phật cũng
đợc quan niệm nh vị thần linh có nhiều phép lạ có thể hóa thành các hiện t-
ợng tự nhiên, có thể biến các hiện tợng tự nhiên quanh con ngời thành các
vị thần, thánh, các vật linh thiêng mang phúc trừ họa nh hòn đá và tợng "Tứ
Pháp" trong "Truyện Man Nơng" hay cái gậy, nón lá trong "Truyện Chử
Đồng Tử".
Phật giáo Luy Lâu gắn liền với tín ngỡng dân gian đợc dân gian hóa
và phong tục hóa. Nó thể hiện tâm lý, lòng mong ớc và thế giới quan của
ngời dân trồng lúa nớc vùng đồng bằng sông Hồng. Chính vì vậy, nó có độ
bền vững, sống hàng nghìn năm, còn duy trì cho đến tận ngày nay và mai
sau nữa.
20
Theo sử liệu hiện có, từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ V, Phật giáo tiếp
tục truyền vào Việt Nam gắn liền với tên tuổi một số nhà s ấn Độ, Trung á
và Trung Quốc nh sau:
- Ma-Ha-Kỳ-Vực (Mahajvaka) với Khâu Đà La ngời ấn Độ cùng
đến Luy Lâu, trị sở của Sĩ Nhiếp (187 - 226) vào cuối đời Hán Linh Đế, tức
khoảng những năm 188 - 189. Đến Việt Nam đợc một thời gian Khâu Đà
La ở lại Việt Nam tu hành và truyền đạo còn Ma-Ha-Kỳ-Vực lại tiếp tục đi
Trung Quốc truyền đạo.
- Mâu Bác (Mâu Tử) là c sĩ, sinh vào khoảng những năm 165 - 170
ở Thơng Ngô - Trung Quốc. Trớc đó, ông vốn có học đạo Lão, sau di c sang
Việt Nam trở thành phật tử ở Luy Lâu. Theo một số nhà nghiên cứu, tại đây,
ông đã cho ra đời cuốn "Lý hoặc luận" là tác phẩm Phật giáo đầu tiên sáng
tác ở Việt Nam, đồng thời nó cũng là cuộc đụng độ đầu tiên giữa Nho - Phật -
Lão ở Việt Nam. Qua nội dung của "Lý hoặc luận" đã nói lên Phật giáo Việt
Nam, ngay giai đoạn đầu tiên này đã là Phật giáo Đại thừa (Mahayana), chính
xác hơn là Đại thừa ấn Độ, vì các nhà s khi đó mặc vải đỏ, hoàn toàn xa lạ
với phong tục, tập quán, cách ăn mặc và giao tiếp của ngời Hán. Điều đó
cũng chứng tỏ Phật giáo Việt Nam đến giai đoạn này đã có một quá trình
lịch sử, không chỉ về tín đồ, tôn giáo mà còn cả về mặt lý luận nữa.
- Khơng Tăng Hội (? - 280) là một ngời ngoại quốc gốc ở Khơng C
(Sogdine - tức xứ U dơ -bếch) sinh ra và học Phật tại Việt Nam rồi sau đó
sang Giang Nam - Trung Quốc truyền đạo, Khơng Tăng Hội có thể đợc xem
nh ông tổ của Thiền học Việt Nam.
- Chi - Cơng - Lơng - Lâu (Kalaruci) là ngời ấn Độ đã tới Luy Lâu
truyền đạo thế kỷ III, đợc sự giúp đỡ của tăng sĩ Việt Nam là Đạo Thanh đã
dịch đợc nhiều kinh, trong đó có bộ Kinh Đại thừa nổi tiếng là Pháp Hoa
tam muội. Với Kinh Pháp Hoa đã đợc dịch và phổ biến ở Việt Nam dẫn đến
việc sùng bái lòng đại từ, đại bi, lòng thơng ngời rộng lớn của vị Bồ Tát
21
Quan Thế Âm (Avalo Kitesvara). Từ đó, tín ngỡng thờ cúng Bồ Tát Quan
Thế Âm cũng đợc phổ biến ở Việt Nam.
- Thế kỷ thứ V có thiền s Đạt Ma Đề Bà (Dharmadeva) ngời ấn Độ
và nhà s Đàm Hoằng ngời Trung Quốc sang Việt Nam tu hành và truyền
đạo Phật.
Đến thế kỷ thứ V, Phật giáo đã đợc truyền bá nhiều nơi trên đất nớc
ta, và đã xuất hiện những nhà s Việt Nam danh tiếng nh: Huệ Thắng, Thích
Đạo Thiền, Đạo Cao và Pháp Minh
Huệ Thắng và Thích Đạo Thiền đã từng đợc mời sang Trung Quốc
giảng Phật - Pháp. Đặc biệt là sáu bức th của Đạo Cao và Pháp Minh trả lời
Lý Miễu. Thông qua sáu bức th đó, cho thấy tình hình Phật giáo Việt Nam
ở thế kỷ này là rất phát triển. Đồng thời qua đó cũng cho thấy kiến thức của
các nhà s Việt Nam lúc đó là rất uyên bác. Họ nắm vững Phật lý. Tiếng tăm
của họ vang xa. Sứ thần "Thiên triều" cũng phải tìm đến để vấn nạn và học
hỏi.
- Phật giáo thời kỳ Hậu Lý Nam Đế đến Tiền Lê (571 - 1009).
Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, từ thế kỷ VI đến thế kỷ X vẫn đ-
ợc xem là giai đoạn truyền giáo. Giai đoạn này, ảnh hởng của các nhà
truyền giáo ấn Độ giảm dần, trong khi các nhà truyền giáo Trung Quốc
tăng lên. Đáng chú ý hơn cả là các phái Thiền Trung Quốc đợc du nhập vào
Việt Nam.
- Phái Thiền Tỳ-Ni-Đa-Lu-Chi (Vinitaruci). Thời kỳ hậu Lý Nam
Đế, nhà s ấn Độ Tỳ-Ni-Đa-Lu-Chi, học trò của Tăng Xán - tổ thứ ba của
phái Thiền Trung Quốc, đã vào Việt Nam (580) tu tại chùa Pháp Vân (Bắc
Ninh) dịch bộ kinh Tổng trì và trở thành vị s tổ của phái Thiền Việt Nam.
Phái Thiền này truyền thừa đợc 19 đời với 30 vị Thiền s, ngời đợc truyền thừa
đầu tiên là Pháp Hiền (?, 626) đến ngời cuối cùng là Y Sơn (?, 1216).
22
Sự xuất hiện của phái Thiền Tỳ-Ni-Đa-Lu-Chi đã tạo ra bớc ngoặt
của Phật giáo Việt Nam. Bởi nó đã chỉ ra quan điểm mới về Phật giáo.
Quan điểm ấy đợc thể hiện tập trung thông qua lời của Tỳ-Ni-Đa-Lu-Chi
khi truyền tâm ấn cho Pháp Hiền: "Tâm ấn của ch Phật không có lừa dối,
trọn vẹn nh thái H, không thừa, không thiếu; không đi, không lại; không đ-
ợc, không mất; không giống, không khác; không thờng còn, không gián
đoạn vốn không nơi sinh cũng không nơi diệt; không xa cách mà không
phải không xa cách; chỉ vì đối với cái duyên tà vọng mà phải đặt ra cái tên
giả thiết đó thôi ". ở đây Phật giáo đã vắng bóng thần linh. Đồng thời, nó
cũng chỉ ra phơng pháp của phép trì giới mới; hành thiền - làm cho trí tuệ
(Bát Nhã) bừng sáng.
- Phái Thiền Vô Ngôn Thông - năm 820, khoảng 2 thế kỷ sau Thiền s
Tỳ-Ni-Đa-Lu-Chi, có một Thiền s Trung Quốc, pháp hiệu Vô Ngôn Thông,
sang tu ở chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng (Bắc Ninh), lập ra phái Thiền thứ
hai tại Việt Nam.
Vô Ngôn Thông truyền đợc 15 đời, với 40 vị Thiền s, Cảm Thành là
ngời Việt Nam đợc truyền giáo đầu tiên ( ? 860), đến ngời cuối cùng là
ứng Vơng ( ? 1287). (Theo "Thiền Uyển tập anh").
Có thể nói, t tởng cơ bản của phái Thiền Vô Ngôn Thông là chân lý
không phải ở đâu xa, mà ở ngay hiện tiền, ở trong bản thân mỗi ngời, nhng
chân lý đó chỉ có thể tu chứng trực tiếp, chứ không thể nào nắm bắt đợc qua
ngôn ngữ, văn tự, sách vở
Tuy nhiên, trong đời sống hàng ngày, các Thiền s của phái Thiền
này vẫn sử dụng cái gọi là Pháp thuật và niệm Phật. Pháp thuật thì vẫn sử
dụng vào đời. Niệm Phật thì để đạt tới Tuệ giác.
Sang thế kỷ X, Việt Nam bớc vào kỷ nguyên độc lập tự chủ sau một
ngàn năm Bắc thuộc, đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển sang một bớc
mới. Phật giáo đã lan rộng khắp mọi miền của nớc ta thời ấy. Đã xuất hiện
23
một lớp cao tăng ngời Việt, đi nhiều, học rộng, kiêm thông Hán - Phạn, có
thể coi là những trí thức đơng thời. Các nhà s và các tín đồ đã thực sự tham
gia vào các cuộc vận động giải phóng dân tộc, đứng vào hàng ngũ nhân dân
chống áp bức, giành lại nền độc lập cho đất nớc. Khi đất nớc đã đợc độc
lập, cũng là lúc uy tín và vai trò xã hội của lực lợng Phật giáo đợc khẳng
định. Đời Đinh và Tiền Lê (968 - 1009), đã có những chính sách nâng đỡ
Phật giáo. Đinh Bộ Lĩnh sau khi lên ngôi Hoàng Đế (đặt hiệu Đinh Tiên
Hoàng) đã triệu tập các cao tăng để định rõ phẩm trật cho tăng già. Vua Lê
Đại Hành cử những phái đoàn sang Trung Quốc thỉnh kinh để về truyền bá
Phật Pháp. Đặc biệt, vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành đã trọng
dụng và phong thởng cho những nhà s có công giúp vua lo việc triều chính.
Đinh Tiên Hoàng phong nhà s Ngô Chân Lu (đời thứ IV của phái Thiền Vô
Ngôn Thông) chức Tăng Thống (tức chức quan đứng đầu Phật giáo) và đợc
ban hiệu là Khuông Việt - đại s - ngang với hàng "Tam công" trong triều.
Lê Đại Hành đã mời Thiền s Đỗ Thuận (đời thứ X của phái Thiền Tỳ-Ni-
Đa-Lu-Chi) giúp triều đình về đối nội, đối ngoại.
- Phật giáo thời Lý - Trần (1010 - 1400).
Có thể nói đây là thời kỳ Phật giáo Việt Nam phát triển cực thịnh.
Triều Lý đợc xem là triều đại Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam. Lý Công Uẩn
ngời sáng lập ra nhà Lý nguyên là một sa di, học trò của nhà s Lý Khánh
Vân, cùng thọ giáo với s Vạn Hạnh. Ngay sau khi lên ngôi, cũng nh các
năm làm vua, Thái Tổ Lý Công Uẩn đã ban hành nhiều lệnh chỉ có lợi cho
sự phát triển của Phật giáo nh làm chùa trong cả nớc, độ dân làm s, sai sứ
sang Trung Quốc xin kinh Tam Tạng Nhng Phật giáo thời Lý phát triển
không chỉ vì sự ủng hộ của Lý Thái Tổ, mà còn là một sự phát triển tự nhiên
trên vị trí và cơ sở đã có từ thời Đinh - Lê.
Năm 1069 Phật giáo nớc ta lại có thêm một phái Thiền nữa là phái
Thảo Đờng. Phái Thảo Đờng truyền xuống đợc 5 đời - với 18 vị Thiền s, ng-
24
ời đợc truyền đầu tiên là Lý Thánh Tông đến ngời cuối cùng là Phạm Phụng
Ngự [74, 152-153].
Các vua Lý đều tôn sùng Phật giáo. Lý Thái Tông thuộc thế hệ thứ
VII của phái Thiền Vô Ngôn Thông. Lý Thánh Tông thuộc thế hệ thứ nhất
của phái Thiền Thảo Đờng, thuộc phái này còn có Lý Anh Tông, thế hệ thứ
III và Lý Cao Tông, thế hệ thứ V. Lý Huệ Tông sau khi nhờng ngôi cho Lý
Chiêu Hoàng cũng đi tu với hiệu danh là Huệ Quang Thiền S.
Các vua đã tu Phật, tất nhiên cả tầng lớp quí tộc quan lại và cả dân
thờng cũng đều mộ Phật. Tinh thần sùng Phật, biểu hiện qua các sinh hoạt
Phật giáo, cùng với việc xây dựng chùa tháp ở khắp mọi nơi, gắn liền với
nhiều lễ hội của nó, đã trở thành một đặc điểm của văn hóa thời Lý.
Dới đời Trần, vua Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông đều là những
nhà Phật học lỗi lạc, sáng tác nhiều thơ văn mang t tởng Phật giáo. Trần
Thái Tông đã viết tác phẩm khóa H Lục nổi tiếng Có tác giả đã từng nhận
định rằng: "Triết học Trần Thái Tông là tập đại thành đầu tiên của lịch sử
triết học Việt Nam từ khởi nguyên đến giữa thế kỷ XIII" [34, 82]. Trần
Nhân Tông - Ngời mở đầu cho phái Thiền Trúc Lâm Việt Nam. Sau này ông
đợc suy tôn "Trúc Lâm đệ nhất tổ", tức tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm. Tổ
thứ hai là Pháp Loa, tổ thứ ba là Huyền Quang.
Nói tới Phật giáo đời Trần, chúng ta không thể nào không nói tới
Tuệ Trung Thợng Sĩ (Trần - Tung, 1230 - 1291). Ông là một c sĩ, nhng đợc
vua Trần Nhân Tông - ông tổ của Thiền phái Trúc Lâm - tôn làm thầy. Tuệ
Trung Thợng Sĩ là một trong những ngôi sao sáng trên bầu trời Thiền nớc
ta, một trong những bậc anh tú của vờn Thiền Việt Nam. Cùng với Trần
Thái Tông, những t tởng của Tuệ Trung Thợng Sĩ có ảnh hởng lớn đến
không khí học thuật đời Trần.
25