Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty du lịch hương sen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.9 KB, 94 trang )

KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
LỜIMỞĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.
Trong nền kinh tế thị trường việc các doanh nghiệp tồn tại và phát triển
trong sự cạnh tranh gay gắt làđiều tất yếu. Hiện nay, du lịch được coi du lịch là
ngành công nghiệp không khói đem lại nguồn thu rất lớn cho ngân sách Nhà
nước, giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động, góp phần bảo tồn
và phát triển nền văn hoá mang đậm đà bản sắc dân tộc. Nhận thức được điều
này, Nghị quyết đại hội Đảng IX đã khẳng định “Phát triển du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn”. Ngành du lịch phát triển mạnh mẽ, đồng nghĩa với
việc các doanh nghiệp kinh doanh du lịch ra đời hàng loạt. Sự phát triển về quy
mô cũng như số lượng các doanh nghiệp du lịch nói chung và các công ty lữ
hành nói riêng một mặt đã tạo ra bước ngoặt trưởng thành của ngành du lịch,
mặt khác tạo nên áp lực cạnh tranh rất lớn giữa các công ty lữ hành. Chính vì
vậy, để có thể tồn tại và phát triển được các công ty lữ hành luôn luôn phải tìm
mọi cách để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình so với các đối thủ cạnh
tranh khác.
Nhận thức được vấn đề này, sau khi thực tập tại Công ty Du lịch Hương
Sen Chi nhánh Hà Nội, thấy được áp lực cạnh tranh của các công ty lữ hành trên
địa bàn Hà Nội lên Chi nhánh là rất lớn. Đồng thời thấy được những lợi thế,
điểm mạnh của Chi nhánh. Em đã lựa chọn đề tài nghiên cứu của mình là “Các
giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Du lịch Hương
Sen Chi nhánh Hà Nội” để góp phần giảm bớt áp lực cạnh tranh của Chi nhánh
trên thị trường du lịch Hà Nội.
2. PHẠMVIVÀPHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨUĐỀTÀI.
Phạm vi đề tài này chỉ giới hạn trong việc đưa ra các giải pháp nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh của Công ty Du lịch Hương Sen Chi nhánh Hà Nội so
với các đối thủ cạnh tranh tại thị trường du lịch Hà Nội.
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
Phương pháp nghiên cứu đề tài: Trong đề tài này em đã sử dụng những
phương pháp sau để nghiên cứu:


- Phương pháp phân tích
- Phương pháp thu thập và nghiên cứu các tài liệu có liên quan.
3. NỘIDUNGNGHIÊNCỨUĐỀTÀI:
Trong đề tài này, ngoài phần lời nói đầu và phần kết luận ra, nội dung
nghiên cứu gồm ba chương được kết cấu như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về công ty lữ hành và năng lực cạnh
tranh của công ty lữ hành
Chương 2: Đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty Du lịch Hương
Sen Chi nhánh Hà Nội .
Chương 3: Phương hướng, mục tiêu và các giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của công ty Du lịch Hương Sen Chi nhánh Hà Nội
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY LỮ HÀNH
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TY LỮ HÀNH.
1.1.1. Khách du lịch.
Khách du lịch có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau. Theo Tổ chức Du Lịch
Thế Giới(WTO) định nghĩa khách du lịch như sau:
Khách du lịch là một người từ quốc gia này đi tới một quốc gia khác với
một lý do nào đó có thể là kinh doanh, thăm viếng hoặc làm việc gì khác ngoại
trừ hành nghề hay lãnh lương.
Định nghĩa này có thểáp dụng cho cả khách trong nước. Theo cách tiếp cận
này thì khách du lịch được chia làm 2 loại: du khách và khách thăm quan.
- Du khách ( Tourist )
Du khách là khách du lịch, lưu trú tại một quốc gia trên 24 giờ và không ở
lại qua đêm với lý do kinh doanh, thăm viếng hay làm việc gì khác.
- Khách thăm quan ( Excursionst )
Khách thăm quan là khách du lịch đến viếng thăm ở một nơi nào đó dưới
24 giờ và không ở lại qua đêm với lý do kinh doanh, thăm viếng hay làm việc gì
khác.

Chúng ta có thểđưa ra một định nghĩa về khách du lịch như sau:
Khách du lịch là những người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của mình
đến một nơi nào đó, quay trở lại với mục đích khác nhau, loại trừ mục đích làm
công và nhận thù lao nơi đến, có thời gian lưu trúở nơi đến từ 24 giờ trở
lên(hoặc có sử dụng dịch vụ lưu trú qua đêm) và không quá một khoảng thời
gian quy định tuỳ từng quốc gia.
Khách du lịch có thể chia làm các loại sau:
1.1.1.1. Khách du lịch quốc tế ( Internation Tourist )
Khách du lịch quốc tế là khách du lịch mà cóđiểm xuất phát vàđiểm đến
thuộc phạm vi lãnh thổ của 2 quốc gia khác nhau.
Khách du lịch quốc tế bao gồm 2 loại:
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
- Khách du lịch quốc tếđi vào ( Inbound Tourist )
Khách du lịch quốc tếđi vào là khách du lịch là người nước ngoài và người
của một quốc gia nào đóđịnh cưở nước ngoài vào quốc gia nào đóđi du lịch.
- Khách du lịch quốc tếđi ra (Outbound Tourist).
Khách du lịch quốc tếđi ra bao gồm những khách du lịch là công dân của
một quốc gia và những người nước ngoài đang cư trú tại quốc gia đóđi ra nước
ngoài du lịch.
1.1.1.2. Khách du lịch trong nước (Domestic Tourist).
Khách du lịch trong nước là tất cả những người đang đi du lịch trong
phạm vi lãnh thổ của một quốc gia.
1.1.1.3. Khách du lịch nội địa (Internal Tourist).
Khách du lịch nội địa là những công dân của một quốc gia và những người
nước ngoài đang định cư của quốc gia đóđi du lịch trong phạm vi lãnh thổ
quốc gia đó.
1.1.1.4. Khách du lịch quốc gia (National Tourist).
Khách du lịch quốc gia là tất cả các công dân của một quốc gia nào
đóđi du lịch(kể cảđi du lịch trong nước và nước ngoài)
Ngoài ra người ta còn phân khách du lịch ra thành các loại như khách du

lịch công vụ, khách du lịch thương gia…
1.1.2. Kinh doanh lữ hành .
Để hiểu được kinh doanh lữ hành là gì chúng ta có thể tiếp cận theo hai
cách sau đây dựa trên những nội dung của hoạt động kinh doanh du lịch.
Thứ nhất: Hiểu theo nghĩa rộng thì lữ hành bao gồm tất cả những hoạt động
di chuyển của con người cũng như tất cả các hoạt động liên quan đến hoạt động
di chuyển đó.
Theo cách tiếp cận này thì kinh doanh lữ hành là việc tổ chức các hoạt
động nhằm cung cấp các dịch vụđược xắp đặt từ trước nhằm thoả mãn đúng các
nhu cầu của con người trong sự di chuyển đóđể thu lợi nhuận.
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
Thứ hai: Đề cập phạm vi hẹp hơn nhiều. Để phân biệt hoạt động kinh
doanh du lịch trọn gói với các hoạt động kinh doanh du lịch khác như khách sạn,
vui chơi giải trí, người ta giới hạn hoạt động lữ hành chỉ bao gồm những hoạt
động tổ chức các chương trình du lịch trọn gói.
Theo cách tiế cận này thì có hai định nghĩa sau đây của Tổng cục Du Lịch
Việt Nam (TCDL- quy chế quản lý lữ hành ngày 29/4/1995).
- Định nghĩa về kinh doanh lữ hành.
Kinh doanh lữ hành (Tour Operators Business) là việc thực hiện các hoạt
động nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương trình du lịch chọn gói hay
từng phần, quảng cáo và bán chương trình này trực tiếp hay gián tiếp qua các
trung gian hoặc văn phòng đại diện, tổ chức thực hiện các chương trình và
hướng dẫn du lịch nhằm mục đích thu lợi nhuận.
- Định nghĩa về kinh doanh đại lý lữ hành
Kinh doanh đại lý lữ hành(Travel-Agency-Business) là việc thực hiện các
dịch vụđưa đón, đăng ký nơi lưu chú, vận chuyển, hướng dẫn tham quan, bán
các chương trình du lịch của các doanh nghiệp lữ hành, cung cấp các thông tin
du lịch và tư vấn du lịch nhằm hưởng hoa hồng.
1.1.3. Công ty lữ hành.
Đã tồn tại rất nhiều khái niệm về công ty lữ hành xuất phát từ nhiều góc độ

nghiên cứu khác nhau về công ty lữ hành. Mặt khác bản thân hoạt du lịch nói
chung và hoạt động lữ hành nói riêng có nhiều biến đổi theo thời gian. Ở mỗi
một giai đoạn phát triển của hoạt động này luôn có những nội dung và hình thức
mới.
Trong thời kỳđầu tiên, các công ty lữ hành tập chung vào các hoạt động
trung gian, làm đại lý bán cho các nhà cung cấp như khách sạn, hãng hàng
không …khi đó các công ty lữ hành được định nghĩa như một pháp nhân kinh
doanh chủ yếu dưới hình thức là người đại diện, đại lý cho các nhà sản
xuất( khách sạn, nhà hàng, hãng ôtô tầu biển…) bán các sản phẩm đến tay người
tiêu dùng với mục đích thu tiền hoa hồng.
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
Khi đã phát triển ở mức độ cao hơn so với việc làm trung gian thuần thuý,
các công ty lữ hành đã tạo ra các sản phẩm bằng cách tập hợp các sản phẩm
riêng lẻ như dịch vụ khách sạn, vé máy bay, ôtô, tầu thuỷ, các phương tiện khác
và các chuyến tham quan thành một chương trình du lịch hoàn chỉnh và bán cho
khách với mức giá gộp. Ởđây, công ty lữ hành không chỉ dừng lại ở người bán
mà còn trở thành người mua sản phẩm của các nhà cung cấp dịch vụ du lịch.
Ở Việt Nam theo Thông tư hướng dẫn thực hiện NghịĐịnh 09/CP của
chính phủ về tổ chức và quản lý Doanh nghiệp du lịch TCDL-số715/TCDL ngày
9/7/1994 đãđịnh nghĩa công ty lữ hành như sau:
“Doanh nghiệp lữ hành là một đơn vị có tư cách pháp nhân, hạch toán độc
lập, được thành lập với mục đích sinh lời bằng việc giao dịch, ký kết hợp đồng
du lịch và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch đã bán cho khách du lịch”
Theo cách phân loại của Tổng Cục du lịch Việt Nam thì các công ty lữ
hành được phân ra thành hai loại: Công ty lữ hành quốc tế và công ty lữ hành
nội địa (Theo quy chế quản lý lữ hành TCDL ngày 29/4/1995).
♦Công ty lữ hành quốc tế:
Có trách nhiệm xây dựng và bán các chương trình du lịch chọn gói hoặc
từng phần theo yêu cầu của khách để trực tiếp thu hút khách đến Việt Nam
vàđưa công dân là người Việt Nam đi du lịch nước ngoài, thực hiện các chương

trình du lịch đã bán hoặc ký hợp đồng uỷ thác từng phần, trọn gói cho các công
ty lữ hành nội địa.
♦Công ty lữ hành nội địa.
Là một doanh nghiệp có trách nhiệm xây dựng, bán và tổ chức thực hiện
các chương trình du lịch nội địa, nhận uỷ thác để thực hiện dịch vụ chương trình
du lịch cho khách nước ngoài đãđược các doanh nghiệp quốc tếđưa vào Việt
Nam.
Trong giai đoạn hiện nay nhiều công ty lữ hành có phạm vi hoạt động
rộng lớn mang tính toàn cầu và trong hầu hết các lĩnh vực của hoạt động du lịch.
Các công ty lữ hành đồng thời sở hữu các tập đoàn khách sạn, các hãng hàng
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
không, tầu biển, ngân hàng phục vụ chủ yếu cho khách du lịch của công ty lữ
hành. Kiểu tổ chức nói trên rất phổ biến ở các nước Châu Âu, Châu á và trở
thành những tập đoàn du lịch có khả năng chi phối mạnh mẽ thị trường du lịch
quốc tế.Trong giai đoạn này, công ty lữ hành không chỉ là người bán, người mua
mà còn trở thành người sản xuất trực tiếp ra các sản phẩm dịch vụ du lịch. Từđó
có thểđịnh nghĩa về công ty lữ hành như sau:
Công ty lữ hành là một loại doanh nghiệp du lịch đặc biệt kinh doanh chủ
yếu trong việc tổ chức xây dựng, bán và thực hiện các chương trình du lịch trọn
gói cho khách du lịch. Ngoài ra công ty lữ hành còn có thể tiến hành các hoạt
động trung gian bán sản phẩm dịch vụ của các nhà cung cấp du lịch hoặc thực
hiện các hoạt động kinh doanh tổng hợp khác đảm bảo thực hiện phục vụ các
nhu cầu của khách du lịch từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng.
1.1.4. Hệ thống sản phẩm của công ty lữ hành.
Sựđa dạng trong hoạt động kinh doanh du lịch là nguyên nhân chủ yếu dẫn
tới sự phong phú vàđa dạng của các sản phẩm mà công ty lữ hành tiến hành
cung ứng cho khách du lịch. Ngoài ra nhu cầu của con người khi đi du lịch là
một nhu cầu mang tính tổng hợp, ngày càng cao cấp hơn cũng làm cho sản phẩm
của công ty lữ hành ngày càng phong phú vàđa dạng hơn.
Căn cứ vào tính chất và nội dung có thể chia các sản phẩm của công ty lữ

hành ra thành ba nhóm cơ bản sau:
1.1.4.1. Các dịch vụ trung gian.
Sản phẩm dịch vụ trung gian chủ yếu do các đại lý du lịch cung ứng. Các
đại lý lữ hành không trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm dịch vụ trung gian mà
các đại lý lữ hành chỉ hoạt động như là một đại lý bán hoặc một điểm bán sản
phẩm của các nhà cung cấp du lịch.
Các dịch vụ trung gian chủ yếu bao gồm:
- Đăng kýđặt chỗ và bán vé máy bay.
- Đăng kýđặt chỗ và bán vé trên các phương tiện giao thông khác như: tầu
thuỷ, ôtô…
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
- Mối giới cho thuê xe ôtô.
- Môi giới và bán bảo hiểm.
- Đăng kýđặt chỗ và bán các chương trình du lịch.
- Đăng kýđặt chỗ trong khách sạn.
- Các dịch vụ môi giới,8 dịch vụ trung gian khác.
1.1.4.2. Các chương trình du lịch trọn gói.
Kinh doanh các chương trình du lịch trọn gói là hoạt động cơ bản của công
ty lữ hành. Các Công ty lữ hành liên kết các sản phẩm của các nhà sản xuất
riêng lẻ thành một sản phẩm hoàn chỉnh và bán cho khách du lịch với mức giá
gộp. Khi tổ chức các chương trình du lịch trọn gói các công ty lữ hành có trách
nhiệm đối với khách du lịch và với nhà cung cấp sản phẩm ở mức độ cao hơn
nhiều so với các dịch vụ trung gian.
1.1.4.3. Các hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành tổng hợp.
Ngày nay các công ty lữ hành hoặc tập đoàn lớn thường hoạt động rất
nhiều lĩnh vực có liên quan đến du lịch. Họ không những là người bán, người
mua các sản phẩm dịch vụ của nhà cung cấp du lịch mà họ còn là người trực tiếp
sản xuất ra các sản phẩm du lịch.
Các hoạt động kinh doanh lữ hành tổng hợp trong du lịch bao gồm:
- Kinh doanh khách sạn nhà hàng.

- Kinh doanh các dịch vụ vui chơi giải trí.
- Kinh doanh vận chuyển du lịch.
- Các dịch vụ ngân hàng phục vụ khách du lịch.
Như vậy, hệ thống sản phẩm của công ty lữ hành rất phong phú vàđa dạng.
Trong tương lai nó còn phong phú vàđa dạng hơn do sự phát triển mạnh mẽ của
nhu cầu du lịch khi đời sống kinh tế xã hội ngày càng cao hơn.
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
1.2.
CẠNHTRANHVÀNĂNGLỰCCẠNHTRANHCỦACÔNGTYLỮHÀN
H.
1.2.1. Khái niệm về cạnh tranh.
Tại sao một số nước lại có sức cạnh tranh cao, còn số khác lại thất bại trong
cạnh tranh và tại sao một số doanh nghiệp thành công còn một số doanh nghiệp
khác lại không? Đây là câu hỏi mà nhiều nhà lãnh đạo đất nước và doanh nghiệp
thườnh đặt ra trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Cạnh tranh đã vàđang trở
thành vấn đềđược quan tâm nhiều nhất của các cấp lãnh đạo quốc gia và doanh
nghiệp.
Khái niệm về cạnh tranh được định nghĩa như thế nào cho phù hợp và
chính xác nhất trong nền kinh tế hiện nay? Cho đến nay chưa có một khái niệm
về cạnh tranh của tổ chức hay cá nhân nào đưa ra màđược nhiều người chấp
nhận rộng rãi. Nguyên nhân chủ yếu là do thuật ngữ này được dùng đểđánh giá
cho tất cả các doanh nghiệp hay quốc gia. Nhưng mục tiêu cơ bản lại đặt ra khác
nhau phụ thuộc vào sự xem xét trên góc độ của từng doanh nghiệp hay từng
quốc gia. Trong khi đối với doanh nghiệp mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm
kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh trên quốc gia hay quốc tế, thìđối với quốc
gia mục tiêu này là nâng cao mức sống và phúc lợi cho nhân dân.
Theo từđiển kinh tế của Nhà Xuất Bản Sự Thật Hà Nội năm 1979 trang 48
thì “Cạnh tranh chính là cuộc đấu tranh giữa người sản xuất hàng hoá tư nhân
nhằm giành điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi hơn.” Hoặc “Cạnh tranh là
cuộc đấu tranh diễn ra nhằm giành thị trường tiêu thụ, nguồn nguyên liệu, khu

vực đầu tư có lợi nhằm giành địa vị thống trị trong một ngành sản xuất nào đó,
trong nền kinh tếđất nước hoặc trong hệ thống kinh tế thế giới.”
Theo diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của tổ chức Hợp tác và
phát triển kinh tế (OECD) thìđịnh nghĩa về cạnh tranh như sau “Cạnh tranh là
khả năng của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc
làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế.”
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
Từ những định nghĩa trên về cạnh tranh ta có thểđưa ra một định nghĩa về
cạnh tranh của các công ty lữ hành như sau:
Cạnh tranh của các công ty lữ hành là cuộc đấu tranh giữa các công ty lữ
hành nhằm mục đích tranh dành thị trường mục tiêu, khách hàng, để tăng
doanh thu, lợi nhuận cao hơn.
1.2.2. Phân loại cạnh tranh.
Như trên đã nói việc phân loại cạnh tranh quốc gia và cạnh tranh doanh
nghiệp là rất khó. Việc phân loại chỉ mang tính chất tương đối, nhiều khi cạnh
tranh doanh nghiệp lại đồng nghĩa với cạnh tranh quốc gia.
1.2.2.1. Cạnh tranh quốc gia.
Theo Uỷ Ban canh tranh công nghiệp của Tổng Thống Mỹ sử dụng định
nghĩa cạnh tranh cho một quốc gia như sau: “Cạnh tranh của một quốc gia là
mức độ màởđó dưới những điều kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sản
xuất các hàng hoá dịch vụđáp ứng được đòi hỏi của thị trường quốc tếđồng thời
duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế nước đó”
Theo báo cáo về cạnh tranh toàn cầu định nghĩa về cạnh tranh của một
quốc gia như sau :” Cạnh tranh của một quốc gia là khả năng của nước đóđạt
được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống. Nghĩa làđạt được tỷ lệ
tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng cách thay đổi tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) trên đầu người theo thời gian.
1.2.2.2. Cạnh tranh doanh nghiệp.
Cũng giống như quốc gia các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế
cũng chịu sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp với nhau.

Cạnh tranh của một doanh nghiệp có thểđược định nghĩa như sau:
Cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp đó trong
việc tạo ra doanh thu và lợi nhuận cao hơn trong điều kiên cạnh tranh quốc gia
và cạnh tranh quốc tế.
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
1.2.2.3. Cạnh tranh sản phẩm.
Hiện nay, do nền kinh tế phát triển ngày càng nhiều sản phẩm mới được
tung ra thị trường và rất nhiều sản phẩm có thể thay thế nhau. Chính vì vậy, trên
thị trường còn xuất hiện sự cạnh tranh giữa các sản phẩm. Ta có thểđịnh nghĩa
cạnh tranh sản phẩm như sau:
Cạnh tranh sản phẩm là việc các doanh nghiệp đưa ra thị trường các sản
phẩm cùng loại, có khả năng thay thế nhau.
Ở Việt Nam hiện nay, do điều kiện kinh tế chưa phát triển, các doanh
nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ chưa có nhiều tập đoàn xuyên quốc gia.
Chính vì vậy, ở nước ta cạnh tranh doanh nghiệp đồng nghĩa với cạnh tranh
quốc gia. Nghĩa là khi quốc gia nâng cao được sức cạnh tranh của mình so với
các quốc gia khác thì doanh nghiệp mới có thể tạo ra những lợi thế cạnh tranh
của mình.
1.2.3. Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Bất kỳ một công ty lữ hành nào khi tiến hành các hoạt động kinh doanh của
mình đều muốn tìm mọi phương pháp để tăng cường năng lực cạnh tranh của
công ty mình so với các công ty khác.
Một công ty lữ hành được coi là có năng lực cạnh tranh nếu nóđược đánh
giá làđứng vững với các doanh nghiệp khác bằng cách đưa ra các sản phẩm du
lịch thay thế hoặc bằng cách đưa ra các sản phẩm du lịch tương tự với mức giá
thấp hơn cho các sản phẩm du lịch cùng loại hoặc bằng cách cung cấp các sản
phẩm du lịch tương tự với các đặc tính và chất lượng ngang bằng hay cao hơn.
Ta có thểđưa ra một khái niệm về năng lực cạnh tranh của công ty lữ hành
như sau: Năng lực cạnh tranh của công ty lữ hành là sức mạnh bên trong của
công ty, khả năng tận dụng những thuận lợi, hạn chế những khó khăn mà môi

trường bên ngoài đưa đến cho công ty so với đối thủ cạnh tranh của mình.
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
1.2.4. Đối thủ cạnh tranh của công ty lữ hành
Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh của công ty lữ hành cóý nghĩa vô cùng quan
trọng. Nó xác định cho các công ty lữ hành đâu là các công ty có khả năng cạnh
tranh với mình ở hiện tại cũng như trong tương lai.
Đối thủ cạnh tranh của công ty lữ hành là các doanh nghiệp cùng loại có
những đặc điểm giống nhau hoặc gần giống nhau về vị tríđịa lý, nguồn lực, thị
trường mục tiêu và cùng kinh doanh một loại sản phẩm du lịch chính.
Dựa vào thị trường mục tiêu và sản phẩm của công ty lữ hành có thể phân
loại đối thủ cạnh tranh của công ty lữ hành ra thành 2 loại:

Đối thủ cạnh tranh trực tiếp.
Là tất cả các doanh nghiệp lữ hành có cùng thị trường mục tiêu, cùng nằm
trong một khu vực, có quy mô nguồn lực tương tự nhau, có cùng hình thức sở
hữu và cung cấp các sản phẩm dịch vụ là các chương trình du lịch trọn gói hoặc
không trọn gói với các điểm du lịch trong chương trình giống nhau.

Đối thủ cạnh tranh gián tiếp.
Là tất cả các doanh nghiệp lữ hành không có những đặc điểm giống nhưđối
thủ cạnh tranh trực tiếp nhưng lại góp phần làm giảm thị phần, doanh thu và lợi
nhuận của công ty lữ hành.
1.2.5. Những nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của công ty lữ hành.
Những nhân tốảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của công ty lữ hành bao
gồm tổng thể các nhân tố khách quan và chủ quan, vận động và tương tác lẫn
nhau, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới các hoạt động kinh doanh của từng
công ty lữ hành. Sự tác động này có thể thuận lợi hay gây khó khăn hoặc trở
ngại cho kinh doanh. Những nhân tố này người ta gọi chung là môi trường kinh
doanh.
Như vậy, nhân tốảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của công ty lữ hành

bao gồm các yếu tố vừa cụ thể vừa trừu tượng. Chúng có mối quan hệ trực tiếp
hay gián tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói chung và công ty
lữ hành nói riêng.
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
Công ty lữ hành chịu tác động của môi trường kinh doanh do vậy công ty
lữ hành phải hiểu tác động này xem xem trong những tác động đó cái nào là tích
cực cái nào là tiêu cực, mạnh, yếu và thời gian tác động cũng như tính quy luật
của tác động đóđến công ty lữ hành như thế nào? Khi chưa hiểu hết, hiểu sâu
những tác động đó thì công ty lữ hành khó có thể hình dung chính xác con
đường mà mình sẽđi đểđạt được mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận.
Ở nước ta hiện nay các doanh nghiệp kinh doanh trong cơ chế thị trường có
sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Do vậy, đối với công ty lữ hành phải tuân thủ
các quy luật khách quan vàđiều chỉnh các hoạt động chủ quan của mình sao cho
đạt được mục tiêu đề ra. Một mặt công ty lữ hành phải thông qua quan hệ cung
cầu, sức cạnh tranh và mức giá của thị trường. Mặt khác, công ty lữ hành phải
căn cứ vào giới hạn cho phép của môi trường vĩ mô như môi trường kinh tế,
chính trị, xã hội-văn hoá, pháp luật, công nghệ….Cũng như môi trường nội bộ
của bản thân công ty lữ hành để tồn tại và phát triển lâu dài. Hay nói các khác
không một công ty lữ hành nào trong quá trình kinh doanh lại có thể tồn tại một
cách biệt lập mà chúng luôn luôn chịu tác động của môi trường kinh doanh.
Môi trường kinh doanh sẽ tạo thuận lợi nếu công ty lữ hành có cách nhìn
nhận đánh giá, nghiên cứu một cách tỷ mỉđể nắm bắt thời cơ. Ngược lại nếu
không quan tâm đầu tư thích đáng công ty lữ hành sẽ không tận dụng được
những yếu tố tích cực của môi trường và không hạn chếđược những yếu tố tiêu
cực của môi trường. Chính vì vậy, nghiên cứu môi trường kinh doanh là hoạt
động tất yếu và không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của công ty lữ
hành .
Các nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của công ty lữ hành bao gồm
nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài:
1.2.5.1. Nhân tố bên trong.

Nhân tố bên trong của công ty lữ hành được hiểu là các yếu tố tác động đến
hoạt động kinh doanh trong phạm vi của công ty. Các yếu tố này bao gồm uy tín
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
của công ty, vị thế của công ty, thực trạng tài chính của công ty, thực trạng
nguồn nhân lực của công ty, thực trạng cơ cấu tổ chức của công ty.
Nhân tố bên trong công ty lữ hành có mối liên hệ chặt chẽ với quá trình
phát triển vàđồng thời phản ánh sức mạnh tiềm lực hiện tại của công ty. Tất cả
những khía cạnh đó tạo nên một sức mạnh tinh thần len lỏi và tác động đến từng
thành viên và tập thể của công ty. Nếu môi trường bên trong mà thuận lợi thì
công việc kinh doanh sẽ thuận buồm xuôi gió và ngược lại nó sẽ là yêú tố cản
trởđến sự nghiệp kinh doanh.
Giữa nhân tố bên trong và bên ngoài có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ và
ràng buộc với nhau trong một thể thống nhất. Các công ty lữ hành muốn hoạt
động có hiệu quả phải tổ chức tốt các mối quan hệ bên trong, tranh thủ tận dụng
các mối quan hệ bên ngoài và làm cho điều kiện bên trong thích ứng với môi
trường bên ngoài để tạo cơ sở thuận lợi cho công ty. Nhân tố bên trong không
thể tồn tại tách rời độc lập với các nhân tố bên ngoài. Các nhân tố bên ngoài là
cơ sở cho sự tạo lập và biến đổi cho các nhân tố bên trong bởi lẽ:
Thứ nhất việc tổ chức xây dựng và phát triển môi trường bên trong trước
hết nhằm mục đích kinh doanh thích ứng với những đòi hỏi của môi trường bên
ngoài và thoả mãn nhu cầu của xã hội.
Thứ hai bản thân các yếu tốđầu vào mà công ty sử dụng để tạo thành môi
trường bên trong cũng phụ thuộc vào môi trường bên ngoài.
1.2.5.2. Các nhân tố bên ngoài.
Các nhân tố bên ngoài bao gồm tất cả những yếu tố bên ngoài công ty lữ
hành mà công ty không thể kiểm soát được nó. Công ty lữ hành chỉ có thểđiều
chỉnh những hoạt động kinh doanh của mình để lợi dụng những thời cơ, thuận
lợi mà các yếu tố này mang lại và hạn chế bớt những rủi ro mà công ty sẽ phải
gánh chịu do tác động của những yếu tố thuộc môi trường kinh doanh bên ngoài.
Các nhân tố bên ngoài của công ty lữ hành được chia ra làm 2 loại:

♦Các nhân tố cạnh tranh trực tiếp
Đây là nhân tố thường xuyên cọ sát đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
Có năm sức ép cơ bản đối với các công ty lữ hành sau:
• Thế lực của người mua ( Khách du lịch, hệ thống phân phối, bán sản
phẩm).
Khách hàng là những mua hàng hoá hay dịch vụ của công ty lữ hành, khách
hàng thực hiện việc trao đổi, họ trả tiền cho công ty lữ hành để lấy hàng hoá hay
dịch vụ. Do vậy, khách hàng chính là thị trường tiêu thụ của công ty lữ hành .
Qua thị trường khách hàng mà công ty lữ hành có thểđạt được những mục tiêu
của mình là doanh thu và lợi nhuận. Tuy nhiên mối quan hệ tốt đẹp này chỉ có
thể tồn tại và phát triển khi và chỉ khi đảm bảo lợi ích kinh tế và sự thoả mãn
cho cả hai bên công ty lữ hành và khách hàng.
Khách hàng có thể có nhiều loại một cá nhân hay tổ chức, khách hàng tiềm
năng hiện thực hay truyền thống. Tuỳ thuộc vào khách hàng khác nhau mà công
ty lữ hành có các hành vi ứng xử cũng như có các phương thức mua bán thích
hợp. Phân tích một cách tổng quát ta thấy trên thị trường có “ hai dòng” khách
hàng và doanh nghiệp tìm nhau. Đối với công ty lữ hành thì phải tìm và xác định
khách hàng cho mình một cách đầy đủ và toàn diện từ yêu cầu đòi hỏi về quy
mô, cơ cấu, nhu cầu du khách, các nhân tố tác động đến sự thay đổi cầu du lịch
đặc biệt là thói quen, sở thích của đối tượng khách. Đối với khách hàng họ cũng
có những ưu thế, chếước nhất định đối với công ty lữ hành nhất là trong xu
hướng toàn cầu hiện nay thì người mua sẽ cóưu thế mạnh hơn rất nhiều . Họ có
thể dựa vào một số lý do sau đểép giá, giảm khối lượng mua, hoặc đòi hỏi chất
lượng cao hơn:
- Mức độ tập trung hoá cao hơn mức độ tập trung hoá của các công ty lữ
hành.
- Mua với khối lượng lớn.
- Sản phẩm của công ty lữ hành không có sự phân biệt hoá.
- Người mua có khả năng liên kết với nhà cung cấp ở giai đoạn tiền sản

xuất của công ty lữ hành.
- Khách hàng cóđủ thông tin về cơ cấu giá thành của các nhà sản xuất .
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
- Mức độđàn hồi về nhu cầu của hàng hoá hoặc dịch vụ so với mức giá là
khá cao.
Sự tín nhiệm của khách hàng là tài sản quý giá của công ty lữ hành. Công
ty lữ hành phải biết tạo dựng duy trì và phát triển nó bằng cách thoả mãn tối đa
nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng so với các đối thủ cạnh tranh của mình.
• Thế lực của các nhà cung cấp.
Nhà cung cấp có thể là các tổ chức hay cá nhân cung cấp các yếu tốđầu vào
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp du lịch. Các nhà cung cấp
có thể tác động đến tương lai, lợi nhuận của doanh nghiệp vì họ liên quan đến
chi phíđầu vào của hoạt động sản xuất kinh doanh. Các nhà cung cấp có thểép
các công ty lữ hành bằng cách tăng giá bán, hạ thấp chất lượng các sản phẩm mà
họ cung cấp và họ không cung cấp thường xuyên.
Những điều kiện thuận lợi để các nhà cung cấp tăng cường sức ép của họ
là:
- Chỉ có một số lượng rất hạn chế các nhà cung cấp.
- Mức độ tập trung hàng hoá cao hơn mức độ tập trung hàng hoá của các
công ty lữ hành.
- Không có các sản phẩm thay thế.
- Các công ty lữ hành có vai trò rất yếu đối với các nhà cung cấp.
- Mức độ quan trọng của sản phẩm dịch vụđối với công ty lữ hành.
- Các nhà cung cấp có khả năng đa dạng hoá sản phẩm.
-Trong tương lai các nhà cung cấp có khả năng liên kết mạnh hơn.
- Công ty lữ hành phải chịu tổn thất lớn khi phải chuyển đổi các nhà cung
cấp.
Như vậy, công việc của các công ty lữ hành là làm sao phải hạn chế bớt sức
ép của nhà cung cấp đối với mình. Muốn vậy mỗi công ty lữ hành không nên chỉ
có một nhà cung cấp mà cần có nhiều cung cấp khác nhau. Tuy nhiên, nhà cung

cấp trong du lịch bao gồm rất nhiều bộ phận hữu quan như: Các công ty vận tải
đường không, đường bộ, các công ty gửi khách, các đầu mối cung ứng sản phẩm
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
như: Khách sạn, nhà hàng … mà mỗi nhà cung cấp lại cóảnh hưởng khác nhau
đến công ty lữ hành.Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh vàđiều kiện cụ thể của mình mà
các công ty lữ hành có thể lựa chọn các đơn vị phù hợp với điều kiện thuận lợi
cho hoạt động kinh doanh của mình cũng nhưđưa ra các tác động ép buộc hoặc
khuyến khích nhằm hạn chế sức ép của các nhà cung cấp đối với các công ty lữ
hành.
• Thế lực từ sự sâm nhập của các doanh nghiệp mới.
Các doanh nghiệp du lịch mới sâm nhập vào thị trường sẽ trở thành đối thủ
cạnh tranh của các doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường. Sự cạnh tranh
diễn ra hầu hết trên các lĩnh vực từ phân chia thị trường đến các nguồn cung cấp
và các hoạt động khuyến mại. Các doanh nghiệp mới thành lập sau nên họđón
nhận những thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại. Để hạn chế bớt sức ép
này các công ty lữ hành phải tạo ra những ngăn cản đối với sự sâm nhập mới,
những cản trở này có thể là:
- Tạo ra quy mô tối ưu: Đểđạt được chi phí tối thiểu cần bán một khối
lượng sản phẩm lớn.
- Phân biệt sản phẩm: tạo ra những đặc trưng của sản phẩm khiến nó trở
thành duy nhất trong con mắt người tiêu dùng.
- Vốn đầu tư: Để tham gia vào thị trường cần phải có một lượng vốn đầu tư
lớn.
- Chi phí thay đổi : Những chi phí cần thiết để thay đổi một doanh nghiệp
từ những nhà cung cấp hiện tại tới các nhà cung cấp mới…khi thay đổi lĩnh vực
kinh doanh.
- Khả năng tiếp cận hệ thống phân phối: Tạo ra cho doanh nghiệp mới khi
thâm nhập vào thị trường phải có chi phí xây dựng hệ thống bán sản phẩm và
dịch vụ tốn kém.
- Những lợi ích hỗ trợđộc lập với quy mô bao gồm những ưu thế của một

doanh nghiệp cóđược ngay cả khi doanh nghiệp mới có quy mô tối ưu như uy
tín, sự nhận biết về sản phẩm, vị tríđịa lý, hỗ trợ của chính phủ…
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
• Thế lực từ sản phẩm thay thế.
Sản phẩm thay thế là các sẩn phẩm có cùng công dụng, có thể thay thế cho
sản phẩm đang tồn tại trên thị trường. Sức ép từ các sản phẩm thay thế làm hạn
chế bớt tiềm năng lợi nhuận của ngành do mức giá cao bị khống chế. Nếu không
chúýđến các sản phẩm thay thế tiềm ẩn, các doanh nghiệp có thể bị tụt hậu so
với các doanh nghiệp khác. Phần lớn các sản phẩm thay thế xuất hiện do kết quả
của sự bùng nổ nhờ công nghệ kinh doanh tốt hơn. Khách hàng có thể chuyển
sang sử dụng các sản phẩm thay thế nếu như giá cả và chất lượng tốt hơn so với
sản phẩm hiện tại trên thị trường. Để chống trọi với các sản phẩm thay thế các
doanh nghiệp thường chọn các phương án như: Đa dạng hoá sản phẩm hay tạo
ra những cản trởđối với khách hàng khi thay đổi các nhà cung cấp…
Nhìn chung trong kinh doanh du lịch thì sựđe doạ của các sản phẩm thay
thế sẩy ra trong lĩnh vực kinh doanh lữ hành quốc tế là chính vì giữa các quốc
gia khác nhau thì mới có sự phân biệt giữa các sản phẩm du lịch, còn trong lữ
hành quốc tế nội địa thì có hạn chế hơn.
• Thế lực từ cường độ cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh.
Cường độ cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh ngày càng tăng lên nó
biểu hiện ở những cuộc chiến về giá, các chiến dịch khuyến mại, các sản phẩm
mới liên tục được tung ra…
Mức độ cạnh tranh thường bắt nguồn từ các yếu tố sau:
- Có nhiều doanh nghiệp, đối thủ ngang sức ngang tài.
- Tốc độ phát triển của các ngành thấp.
- Chi phí cốđịnh cao.
- Khả năng đa dạng hoá, phân biệt sản phẩm thấp.
- Chỉ có thể tăng khối lượng sản xuất ở mức độ lớn.
- Các đối thủ cạnh tranh rất đa dạng từ chiến lược, điểm xuất phát, truyền
thống…

- Rời bỏ thị trường là một điều khó khăn.
Biểu hiện của cường độ cạnh tranh:
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
- Các cuộc chiến tranh về giá cả:
Giá cả sản phẩm là nhân tố rất quan trọng trong việc định hướng chiến lược
phát triển của công ty lữ hành. Giá cả phải chăng phù hợp với chất lượng sản
phẩm sẽ dễ dàng được người mua chấp nhận.
Giá cả sản phẩm du lịch nhiều khi không tương sứng với chất lượng của
nó. Thực ra việc xác định chất lượng sản phẩm du lịch là rất khó khăn vì nó phụ
thuộc vào tâm lý vàđặc điểm tiêu dùng của khách du lịch. Chẳng hạn như cùng
một chương trình du lịch được thực hiện cho nhiều khách thì có người cho là
hay có người lại cho là dở. Mục tiêu của các công ty lữ hành là thoả mãn đa số
người tiêu dùng.
Cạnh tranh về giá trong kinh doanh du lịch vừa gay gắt vừa tồn tại hai mặt
trái ngược nhau: Nếu công ty lữ hành hạ giá thấp có nghĩa là công ty lữ hành có
thể thu hút khách bởi giá dẻ, vừa có thểđẩy khách vì chất lượng dịch vụđã bị
giảm tương ứng và khi các công ty lữ hành thi nhau giảm giá thì lợi nhuận họ bị
giảm rất nhiều và nhiều doanh nghiệp khó có thểđứng vững trước nguy cơ phá
sản nếu không có những biện pháp kinh doanh phù hợp. Vì vậy, cạnh tranh về
giá phải đồng nghĩa với cạnh tranh về chất lượng du lịch.
- Các cuộc cạnh tranh về quảng cáo.
Quảng cáo có tác dụng chính làđịnh vịđược sản phẩm của doanh nghiệp
trên thị trường, khơi dậy trong người tiêu dùng một “rãnh thói quen” vàấn tượng
về sản phẩm. Hàng năm các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp lớn
thường đầu tư một khoảng chi phí rất lớn dành cho quảng cáo sản phẩm. Quảng
cáo giúp cho gười tiêu dùng đến với sản phẩm một cách nhanh nhất và hiệu quả
nhất. Chính vì vậy, mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ngày càng căng
thẳng và phức tạp.
Quảng cáo trong du lịch chủ yếu là sử dụng các ấn phẩm, các tập gấp du
lịch, áp phích, panô trên đường phố…giới thiệu về các điểm và các tuyến du lịch

hớp dẫn với mức giá phù hợp. Chiến trường quảng cáo ngày càng đa dạng về
hình thức hoạt động.
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
- Các cuộc cạnh tranh về khuyến mại.
Từ khi suất hiện mầm mống của nền sản xuất hàng hoáđến nay khuyến mại
trở thành một thứ vũ khí quan trọng và sắc bén để “móc túi “ người tiêu dùng,
tạo lòng trung thành với nhãn hiệu sản phẩm của họ, khuyến khích họ mua hàng
nhiều lần với khối lượng lớn hoặc cả hai.
Các doanh nghiệp du lịch lớn thường có nhiều đại lý phân bố tại nhiều
vùng khác nhau. Cơ sở của mối quan hệ này là một khoản tiền hoa hồng nhất
định và khi các đại lý bán được nhiều chương trình du lịch hơn so với kế hoạch
thì họđược hưởng một khoản tiền hoa hồng khuyến khích. Đây có thể coi là một
khoản hoa hồng khuyến mại của các công ty lữ hành dành cho hệ thống phân
phối của mình. Mức khuyến khích cao thì càng có tác dụng thúc đẩy hệ thống
phân phối hoạt động có hiệu quả hơn.
Còn đối với khách du lịch thì các công ty lữ hành thường áp dụng các hình
thức khuyến khích chính như giảm giá cho đoàn khách có số lượng lớn, tặng các
vật lưu niệm nhỏ, tặng hoa và tổ chức sinh nhật cho khách hoặc ngày lễ tết của
đất nước họ.Tất cảđều tăng hiệu quả kinh doanh của công ty so với đối thủ cạnh
tranh nếu biết cách vận dụng tốt các chính về khuyến mại.
- Các cuộc cạnh tranh về việc tạo ra các sản phẩm mới
Chính sách sản phẩm luôn là xương sống của hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Không có sản phẩm thì không có khách hàng và không có những
sản phẩm mới thì không thể giữđược khách hàng tại thị trường mục tiêu của
doanh nghiệp vì nhu cầu của con người có xu hướng ngày càng đa dạng và
phong phúđặc biệt là nhu cầu về du lịch. Người ta luôn đòi hỏi phải có những
sản phẩm mới có tính năng và công dụng ngày càng cao. Công ty lữ hành càng
phân biệt hoá sản phẩm của mình bao nhiêu thì càng có cơ hội cạnh tranh với
đối thủ cạnh tranh bấy nhiêu.
Trong du lịch việc thiết kế sản phẩm mới là việc làm rất khó khăn bởi vì

bên cạnh chi phí bỏ ra rất tốn kém, công ty lữ hành còn phải lường trước những
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
vấn đề xảy ra như an ninh, môi trường, luật lệ, phong phục tập quán…của dân
sở tại vàđiểm đến du lịch mà việc này thì rất khó khăn.
♦Môi trường vĩ mô
Môi trường vĩ mô của công ty lữ hành bao gồm các yếu tố sau:
- Yếu tố kinh tế
Các yếu tố kinh tế có tác động rất lớn đối với hoạt động kinh doanh du lịch,
các yếu tố này bao gồm cả bên trong và bên ngoài. Trong nhóm các yếu tố kinh
tế thì trực tiếp ảnh hưởng đến du lịch đó là:
+ Yếu tố tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân: Nếu nền kinh tế tăng
trưởng với tốc độ cao, ổn định sẽ làm cho thu nhập bình quân của dân cư tăng
lên dẫn đến nhu cầu mua của toàn xã hội sẽ tăng lên tạo ra tính hấp dẫn của môi
trường kinh doanh. Ngoài ra khi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thì hiệu quả hoạt
động kinh doanh của các công ty lữ hành cao, các công ty lữ hành vừa giải quyết
được đời sống cho người lao động, vừa tái đầu tư phát triển làm cho khả năng
tích tụ tập trung vốn cao dẫn đến nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh
tăng lên.
+ Yếu tố về tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ vàđồng ngoại tệ: Trong nền
kinh tế mở thì yếu tố này đặc biệt quan trọng. Đặc biệt trong ngành du lịch thì
càng phải quan tâm hơn tới yếu tố tỷ giá hối đoái. Đối tượng chính của công ty
lữ hành là khách du lịch, các công ty lữ hành phải tiến hành thu hút thật nhiều
khách để tăng doanh thu và lợi nhuận.
Khi tỷ giá hối đoái thay đổi nóảnh hưởng đến quyết định đi du lịch của du
khách. Chẳng hạn như tỷ giá trao đổi giữa USD của Mỹ và VND của Việt Nam
tăng, tức là giá trị của đồng VND bị giảm khi đó khách du lịch là người nước
ngoài sẽđi du lịch vào Việt Nam với số lượng tăng lên. Nguyên nhân là do tỷ giá
trao đổi như vậy sẽ làm cho một đồng USD của khách du lịch khi đến Việt Nam
sẽđổi được nhiều VND hơn và do đó sẽ làm tăng khả năng chi tiêu của khách
khi đi du lịch ở Việt Nam. Ngược lại khi tỷ giá trao đổi giữa USD và VND giảm

sẽ làm lượng khách nước ngoài đi vào Việt Nam giảm đi.
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
+ Ngoài ra trong nhóm các yếu tố kinh tế còn có các yếu tố khác như: Tỷ lệ
lạm phát thất nghiệp của tầng lớp dân cư, tỷ lệ lãi suất ngân hàng, chính sách thu
hút đầu tư bên ngoài của Nhà nước, chính sách phát triển du lịch quốc gia, khu
vực qua các thời kỳ.
- Yếu tố tự nhiên
Các yếu tố tự nhiên có thể tạo ra những thuận lợi hay khó khăn ban đầu
trong việc phát triển hoạt động kinh doanh của các công ty lữ hành. Trong du
lịch các yếu tố tự nhiên là tài sản vô giáđối với sự phát triển của ngành. Trước
hết phải kểđến các danh lam thắng cảnh, cảnh quan môi trường, điều kiện địa
lý…Đây là cốt lõi của các điểm du lịch, là sức thu hút mạnh mẽ khách du lịch
đến thăm quan. Với Việt Nam thì yếu tố này có một tiềm năng đáng kể so với
khu vực và thế giới với nhiều danh lam thắng cảnh, cảnh quan nổi tiếng đãđược
xếp hạng trải dài khắp đất nước như Vịnh Hạ Long, Tam Cốc Bích Động, nhiều
bãi biển đẹp…
- Yếu tố về văn hoá.
Nhóm yếu tố này có tác động chậm chạp vào môi trường kinh doanh.
Nhưng một khi nóđã tác động thì nó lại ảnh hưởng đối với môi trường kinh
doanh một cách sâu sắc.
Trong du lịch nền văn hoá của mỗi một dân tộc và quốc gia là nhân tố quan
trọng tạo nên động cơđi du lịch của người bản sứđặc biệt với người nước ngoài.
Nhóm các yếu tố văn hoá có thể chia ra làm 2 nhóm nhỏ sau:
+ Nhóm thứ nhất: Bao gồm các phong tục, lối sống thói quen tiêu dùng, kết
cấu dân cư, trình độ dân trí, tôn giáo, tín ngưỡng. Các nhân tố này cóảnh hưởng
sâu sắc đến môi trường kinh doanh.
+ Nhóm thứ hai: Bao gồm các di tích lịch sử văn hóa như những làng nghề
truyền thống, những lễ hội dân gian…Những nhân tố này chiếm giữ một vai trò
ngày càng cao trong phát triển hoạt động kinh doanh du lịch.
Việt Nam có một nền văn hoá phong phúđa dạng đậm đà bản sắc dân tộc

với nhiều di tích văn hoá lịch sử như cốđô Huế, thánh địa Mỹ Sơn, phố cổ Hội
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
An, văn hoá cồng chiêng Hoà Bình, Văn Miếu Quốc Tử Giám, lễ hội dân gian…
Tất cả tạo nên một thế mạnh đáng kể trong việc phát triển du lịch ở Việt Nam.
- Yếu tố về chính trị
Tuy là gián tiếp nhưng nó chi phối tổng thể và toàn diện đến kinh doanh du
lịch. Chẳng hạn như sựổn định chính trị của một quốc gia là cơ hội thuận lợi
đểđảm bảo an toàn cho du khách đặc biệt là khách nước ngoài. Yếu tố chính trị
thông thường ảnh hưởng qua các đường lối chính sách phát triển kinh tế chung
trong đó có du lịch
- Yếu tố về luật pháp
Nếu như hệ thống luật pháp làđồng bộ vàổn định cộng với việc thực hiện
nghiêm chỉnh luật pháp thì nó sẽ tạo ra một khuôn khổ pháp lýđểđảm bảo quyền
tự chủ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hệ thống luật pháp có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cũng như
lợi ích của khách du lịch và công ty lữ hành. Vì vậy, yếu tố luật pháp chi phối
lớn đến việc phát triển du lịch.
Trong lĩnh vực kinh doanh du lịch ở Việt Nam đến nay đã có nhiều đạo luật
chi phối đó là luật doanh nghiệp, pháp lệnh du lịch và các đạo luật khác có liên
quan đến vấn đềđầu tư trong du lịch, vấn đề vốn, thuế…
- Các yếu tố khác
Chúng bao gồm sự phát triển của khoa học công nghệ, về vấn đề dân số, tài
nguyên, môi trường nói chung, sự hội nhập của các quốc gia đối với khu vực và
thế giới…Sựảnh hưởng của các yếu tố này cũng rất đáng kểđến kinh doanh du
lịch. Vì vậy, đứng trên góc độ vĩ mô cần thiết phải quan tân đến tác động của
chúng để có thể chủđộng trong việc tận dụng những thuận lợi thời cơ và hạn chế
những rủi ro, thách thức đối với hoạt động kinh doanh du lịch .
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
1.3.
CĂNCỨĐỂĐÁNHGIÁNĂNGLỰCCẠNHTRANHCỦACÔNGTYLỮ

HÀNH.
Đểđánh giáđược năng lực cạnh tranh của công ty lữ hành chúng ta có thể
dựa vào một số căn cứ sau:
1.3.1. Căn cứ vào sức mạnh bên trong của công ty lữ hành.
Sức mạnh bên trong của công ty lữ hành phụ thuộc vào một số yếu tố sau:
- Năng lực tài chính hiện tại của công ty lữ hành. Nó cóđủ khả năng để thực
hiện những mục tiêu đề ra hay không. Cần lưu một số vấn đề sau:
+ Số lượng và cơ cấu vốn sản xuất kinh doanh hiện có của công ty lữ hành.
+ Khả năng huy động từ các nguồn khác nhau.
+ Hiệu quả tài chính từ các hoạt động kinh doanh.
- Thực trạng nguồn nhân lực của công ty lữ hành có hợp lí vàđủ năng lực để
thực hiện tốt công việc hay không. Chúng ta cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
+ Số lượng lao động hiện tại và trình độ bình quân của từng lao động của công ty
lữ hành.
+ Cơ cấu lao động theo giới tính vàđộ tuổi…
+ Các nguồn tài trợ và các điều kiện cho đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực
của công ty lữ hành.
- Cơ cấu tổ chức hiện tại của công ty lữ hành.
+ Cơ cấu tổ chức hiện tại của công ty lữ hành có phù hợp không? những vấn đề
cần tiếp tục sửa đổi cho hợp lí.
+ Khả năng linh hoạt của cơ cấu tổ chức trước những biến động nhanh tróng của
môi trường kinh doanh.
- Hiệu quả của chiến lược marketing mà công ty lữ hành đang triển khai trên thị
trường bao gồm: Chính sách sản phẩm , chính sách giá cả, chính sách phân phối, chính
sách khuyếch trương.
KHOÁLUẬNTỐTNGHIỆP KHOA DU LỊCHVÀ KHÁCH SẠN
1.3.2. Căn cứ vào khả năng tận dụng những cơ hội thuận lợi và hạn chế những
khó khăn mà các yếu tố khách quan mang lại cho công ty lữ hành.
Những yếu tố khách quan luôn tác động tạo ra những thuận lợi và khó khăn. Để
nâng cao năng lực cạnh tranh thì công ty lữ hành buộc phải có những biện pháp nhằm

biến các cơ hội đóđể tăng doanh thu và lợi nhuận của công ty lữ hành đồng thời phải
khống chế những khó khăn, bất lợi mà yếu tố khách quan đưa đến.
Cụ thể bao gồm: các yếu tố kinh tế, chính trị luật pháp, điều kiện văn hoá - tự
nhiên, các sự kiện quan trọng có lợi cho ngành du lịch nói chung và công ty lữ hành
nói riêng…
1.3.3. Căn cứ vào kết quảđạt được của công ty lữ hành.
Kết quảđạt được của công ty lữ hành bao gồm:
- Thị phần của công ty lữ hành. Chúng ta có thể có hai cách xác định:
+ Xác định thị phần dựa vào doanh thu của công ty lữ hành:
Thị phần của công ty lữ hành = Doanh thu của công ty / Tổng doanh thu của
ngành .
+ Xác định thị phần dựa vào số lượt khách của Công ty Lữ hành.
Thị phần của Công ty Lữ hành = Số lượt khách của Công ty/ Tổng số lượt khách
của ngành.
- Doanh thu và lợi nhuận của công ty lữ hành, số lượt khách của công ty lữ hành.

×