Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

đáp án đề cương thi công sửa chữa cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.03 MB, 42 trang )

Câu 1. Trình bày nội dung công tác bê tong trong XD cầu (gợi ý: công tác chuẩn bị vật liệu, chế tạo
hỗn hợp vữa BT, vận chuyển BT, đổ đầm và bảo dưỡng) 3
Câu 2. Trình bày các biện pháp đổ BT dưới nước(công nghệ vữa dâng, CN rút ống thẳng đứng) 8
Câu 3. Trình bày công tác ván khuôn (vai trò, yêu cầu cấu tạo VK) trình bày nguyên lý VK thép 9
Câu 4. Vai trò phân loại các công trình phụ trợ trong thi công cầu? 11
Câu 5. Các nguyên tắc thiết kế công trình phụ trợ? Các tải trọng tác dụng lên công trình phụ trợ 12
Câu 7. Cấu tạo cọc ván thép Larsen và biện pháp thi công? 16
Câu 8. Cấu tạo thùng chụp không đáy và biện pháp thi công thùng chụp? khi nào cần sử dụng thùng
chụp và khi nào sử dụng vòng vây(cọc ván thép)? 19
Câu 9. Các loại đà giáo dùng trong thi công cầu, phạm vi áp dụng? 20
Câu 10. Cấu tạo trụ tạm? 21
Câu 11. Trình bày 1 số dạng kết cấu vạn năng thông dụng? ứng dụng. cấu tạo từng loại? 23
Câu 12. Vai trò hệ nổi trong thi công cầu , cấu tạo hệ nổi? 25
Câu 13. Tính toán ổn định chống lật hệ nổi? 26
Câu 14. Vai trò công tác đo đạc trong XD cầu? ND cần tiến hành và cách tổ chức đo đạc trên công
trình thi công cầu? 28
Câu 15. Trình bày pp đinh vị tim mố trụ cầu cống? 29
Câu 16. PP gián tiếp định vị tim mố trụ cầu đối với cầu trung và cầu lớn có địa hình phức tạp nước
chảy sâu và dòng chảy siết? 29
Câu 17.Trình bày biện pháp thi công móng nông trên nền thiên nhiên( thi công trên cạn, thi công
nước nông và móng ngập sâu) ? 29
Câu 18. Trình bầy biện pháp thi công móng cọc đóng trong xây dựng cầu ( đặc điểm, phạm vi áp
dụng), thi công trên cạn, thi công dưới nước? 29
Câu 19. Trình bày biện pháp,công nghệ thi công cọc khoan nhồi (ưu nhược điểm, phạm vi áp dụng)
thi công trên cạn, thi công dưới nước ? 29
Câu 20. Trình bày các biện pháp thi công móng giếng chìm(phương pháp đúc ngay tại chỗ, pp chở
nổi)? 29
Câu 21. Các phương pháp thi công kết cấu nhịp cầu BTCT DUL dạng giản đơn ? (pp cần cẩu, giá 3
chân, cẩu long môn ) ? 41
Câu 22. Trình bày trình tự thi công KCN cầu liên tục theo công nghệ đúc hẫng cân bằng ? 41
Câu 23. Trình bày trình tự thi công KCN cầu liên tục theo công nghệ lắp hẫng cân bằng ? hợp long


ở nhịp biên trước và nhịp giữa trước có gì khác nhau? 41
Câu 24. Trình tự thi công KCN dầm hộp liên tục theo công nghệ đúc tại chỗ trên đà giáo di động
MSS ? 41
Câu 25.Trình tự thi công KCN liên tục theo công nghệ đúc đẩy ( đặ điểm, phạm vi áp dụng) ? 41
Câu 26. Các phương pháp thi công KCN cầu dầm thép, trình bày phương phấp thi công KCN dầm
thép theo công nghệ lao dọc ? 41
Câu 27. Trình bày pp thi công KCN dàn thép theo công nghệ lắp hẫng cân bằng ? 41
Câu 28. trình bày trình tự thi công KCN dàn thép theo công nghệ chở nổi ? 41
41
Câu 29. sự khác nhau giữa sửa chữa và tăng cường cầu, các CN thi công và sửa chữa cầu thép và
dàn thép ? 42
(trang 106 sách bài giảng sửa chữa tăng cường cầu phần 3.3) 42
Câu 30. Trình bày CN thi công sửa chữa cầu BTCT thường và BTCT DưL, phân tích ưu nhược
điểm, phạm vi áp dụng? 42
(trang 90 sách bài giảng sửa chữa tăng cường cầu phần 3.2) 42
Câu 31. Trình bày CN sửa chữa mố cầu BTCT? 42
Câu 32. Trình bày CN tăng cường KCN cầu dầm BTCT và BTCT DUL, Phân tích ưu nhượ điểm và
phạm vi áp dụng? 42
Câu 33 .Trình bày CN sửa chữa trụ cầu BTCT ,biện pháp hiệu quả nhất ? 42
Câu 34. Trình bày công nghệ tăng cường mố trụ cầu ? 42
1
Câu 35. Trình bày công nghệ tăng cường KCN cầu dầm thép , dàn thép .Phân tích ưu nhược điểm
và phạm vi áp dụng? 42
2
Câu 1. Trình bày nội dung công tác bê tong trong XD cầu (gợi ý: công tác chuẩn bị vật liệu, chế tạo
hỗn hợp vữa BT, vận chuyển BT, đổ đầm và bảo dưỡng)
Trả lời:
Công tác bê tông bao gồm các nội dung công việc : chuẩn bị vật liệu, chế tạo hỗn hợp vữa bê
tông,vận chuyển vữa, đổ và đầm bê tông, bảo dưỡng bê tông.
Công tác bê tông có vị trí quan trọng trong xây dựng nói chung và trong thi công cầu nói riêng, ảnh

hưởng trực tiếp đến chất lượng của công trình và tiến độ thi công .
Vữa bê tông sử dụng trên công trường cầu bao gồm một hoặc cả ba loại sau :
• Vữa bê tông chế tạo tại chỗ bằng máy trộn di động.
• Vữa bê tông chế tạo tại trạm trộn cố định trên công trường.
• Bê tông tươi thương phẩm mua của nhà máy bê tông.
1.1- Công tác chuẩn bị vật liệu :
- Vật liệu dùng cho bê tông bao gồm : cát , đá dăm, xi măng, nước và phụ gia.
- Những vật liệu này đều phải được kiểm tra bằng các thí nghiệm theo tiêu chuẩn đã được thỏa thuận giữa
nhà thầu và chủ đầu tư. Vật liệu trừ nước được tập kết đến công trường với số lượng dự trữ đảm bảo thi
công liên tục và được chứa ở trong kho và bãi chứa vật liệu.
+ Cát dùng cho bê tông là cát tự nhiên lấy từ nguồn khai thác được chấp thuận , phải đáp ứng các yêu cầu :
- Sạch : lượng bùn sét, bụi và chất hữu cơ lẫn trong cát không được vượt
quá tỉ lệ cho phép
- Có cấp phối đều : Tỉ lệ % tích tụ lọt qua sàng theo trọng lượng phù hợp với
+Cốt liệu thô dùng cho bê tông là đá dăm xay từ đá vôi hoặc đá nguyên khai có cường độ ≥ 1,5 lần cường
độ của số hiệu bê tông và ít nhất bằng 40Mpa. Đá dăm qui định kích cỡ hạt 1-2, 2-4 và 4-6 dùng cho bê
tông các kết cấu của cầu. Đá phải đảm bảo những yêu cầu :
• Sạch: số lượng các tạp chất không được vượt quá tỉ lệ % theo trọng lượng có thể
• Đều hạt : Tỉ lệ các hạt dài, hạt dẹt là những hạt có chiều dài ≥3 lần chiều rộng và chiều rộng ≥ 3lần
chiều dày không được vượt quá 1% theo trọng lượng.
• Cấp phối hạt phải thỏa mãn yêu cầu
Loại tạp chất Tỉ lệ % tính theo trọng lượng
- Các cục đất sét. 0,25
- Các hạt mềm. 5,0
- Vật liệu có tỉ trọng nhỏ
hơn 1,95 kN /m3
1,0
+Xi măng dùng cho bê tông trong các kết cấu cầu phải có số hiệu ít nhất là PC30. Loại xi măng dùng do chủ
đầu tư quyết định và không được pha trộn nhiều loại xi măng với nhau. Xi măng dùng trong một đợt đổ bê
tông phải cùng một loạt sản xuất của nhà máy.

+Nước ngọt thiên nhiên dùng cho sinh hoạt có độ pH ≥4 đều có thể dùng cho bê tong
+ Phụ gia: Cho thêm phụ gia phù hợp và đáp ứng được yêu cầu (đông kết nhanh, đạt cường độ sớm, giảm co
ngót hay tăng tính dẻo…)
1.2 - Chế tạo vữa bê tông :
Hỗn hợp vữa bê tông được chế tạo trên công trường bằng hai hình thức : trộn bằng máy trộn cơ động
và bằng trạm trộn cố định. Không được phép trộn bằng tay.
* Máy trộn:
Có hai loại máy trộn bê tông hoạt động theo hai nguyên tắc khác nhau :
- Máy trộn cưỡng bức : Thùng trộn được chế tạo ở hai dạng, loại hình trụ thấp cố định ở vị trí thẳng đứng và
loại hình máng nằm ngang. Bộ phận trộn vữa là trục có gắn các lưỡi xẻng khuấy quay đều , đảo trộn hỗn hợp
theo thời gian quy định và trút vữa qua cửa sổ mở ra ở dưới đáy thùng. Máy trộn cưỡng bức thường dùng
cho các trạm trộn cố định.
- Máy trộn rơi tự do : Thùng trộn hình quả lê quay đều quanh trục dọc và nghiêng được theo một số góc
nghiêng. Trong thùng trộn có gắn một số lưỡi xẻng bố trí theo đường xoắn ốc. Hỗn hợp vữa bê tông được
nhào trộn do liên tục bị cuốn lên và rơi xuống tự do. Vữa được trút đổ ra ngoài bằng cách xoay gần dốc
ngược thùng trộn. Các máy trộn đều trộn từng mẻ , thùng trộn được chế tạo để trộn mỗi mẻ có dung tích
250 , 400, 800 và 1200 lít.
* Trạm trộn
3
Trạm trộn được lắp đặt theo công suất tính toán đảm bảo tại thời điểm thi công dồn dập nhất, vữa bê
tông vẫn được cung cấp đủ để đổ bê tông liên tục.
Trạm trộn phải bố trí ở vị trí ngay cạnh bãi chứa cốt liệu và kho xi măng, gần bãi đúc cấu kiện BTCT
lắp ghép, bãi đúc dầm và không bị ngập nước.
Trạm trộn đặt ở vị trí thuận tiện cho việc cung cấp vữa đến các điểm đổ bê tông trên công trường
bằng hình thức vận chuyển đã lựa chọn : nếu bằng xe ôtô thì phải có đường công vụ cho xe đến tận chân
từng hạng mục và chiều cao tối thiểu của miệng phễu rót vữa so với cao độ đứng của xe là 1,95m. Nếu vận
chuyển bằng máy bơm vữa thì khoảng cách từ vị trí đặt máy bơm đến điểm thi công xa nhất không vượt quá
khả năng đẩy xa của máy bơm. Chiều cao tối đa của miệng phễu rót so với thùng chứa của phương tiện vận
chuyển không được vượt quá 1,5m.
Trong mỗi trạm trộn đều có thiết bị cân đong tự động các thành phần cấp phối bê tông đã được thiết

kế của từng mẻ trộn.
* Máy trộn di động:
Khi khối lượng đổ bê tông không lớn hoặc việc vận chuyển vữa bê tông đến vị trí đổ khó khăn phải
tập kết vật liệu ra tận chân công trình và tổ chức trộn vữa tại chỗ thì phải dùng các máy trộn di động.
Máy trộn đặt trên sàn công tác kê cao để có thể trút vữa vào được thùng chứa của thiết bị vận chuyển
vữa đặt ở phía dưới. Mặt sàn có diện tích đủ rộng để bố trí cốt liệu đã đong sẵn cho một mẻ trộn, 1÷2 bao xi
măng và thùng phuy đựng nước, chỗ đứng làm việc cho 4 công nhân phục vụ máy trộn. Chiều cao của sàn
công tác so với mặt đất là 70cm.
* Chất lượng vữa bê tông phụ thuộc vào những yếu tố sau :
• Thời gian trộn.
• Tốc độ quay thùng.
• Độ chính xác của việc cân, đong các thành phần hỗn hợp vữa.
• Trình tự nạp các thành phần hỗn hợp.
Để đáp ứng yêu cầu chất lượng vữa đúng theo số hiệu mác bê tông và đạt được năng suất trộn cao cần tổ
chức việc trộn vữa một cách khoa học và đúng kỹ thuật:
Trứơc hết mặt bằng thi công phải gọn , sạch. Sân đong cốt liệu phải đủ rộng và được láng vữa. Chuẩn bị
đầy đủ những dụng cụ phục vụ công tác trộn bê tông như xẻng, cào sắt, xô múc nước, thúng hoặc rổ sắt đựng
cốt liệu. Có bảng ghi rõ thành phần hỗn hợp trong mỗi mẻ trộn và thời gian trộn một mẻ.
4
Nhân lực bố trí đủ và phân công rõ ràng, bộ phận đong và nạp cốt liệu là vất vả nhất cần bố trí nhân
công hợp lý. Người đứng máy có trình độ tay nghề cao và có kinh nghiệm. Những người tham gia khác
phải được huấn luyện làm việc theo dây chuyền và đã tập dượt thử trên dây chuyền đó.
Lượng vữa của một mẻ trộn thường theo khối lượng xi măng trong một bao, mỗi mẻ trộn 1 bao hoặc
1/2 bao. Khối lượng xi măng trong bao phải được cân thử để xác định xem có đúng như trọng lượng ghi trên
vỏ bao hay không. Thành phần hỗn hợp trong một mẻ trộn tính theo tỉ lệ lượng xi măng trong một mẻ trộn so
với lượng xi măng thiết kế theo số hiệu bê tông.
1.3 Vận chuyển vữa BT:
a-Yêu cầu:
Vữa bê tông sau khi trộn sẽ bắt đầu xảy ra quá trình ninh kết , trong quá trình vận chuyển sẽ phải đáp
ứng những yêu cầu sau đây :

• Không để vữa ninh kết.
• Không để vữa bị phân tầng(hỗn hợp vữa mất tính đồng đều , cốt liệu thô bị chìm lắng và dồn vào
một chỗ, bột vữa và nước nổi lên trên)
• Không để vữa bị mất nước.
Để ba hiện tượng nêu trên không xảy ra , phương tiện vận chuyển vữa bê tông phải đảm bảo các yêu
cầu : kín nước , khuấy trộn đều và chậm , được che kín; Vận chuyển đến chân công trình càng sớm càng tốt
(không muộn quá 3 tiếng)
b- Hình thức vận chuyển
Trên công trường có hai hình thức vận chuyển vữa bê tông là vận chuyển bằng xe chuyên dụng và
dùng máy bơm vữa bê tông.
Xe chuyên dụng chở vữa bê tông có thùng chứa vữa quay trộn liên tục trong suốt thời gian vận
chuyển. Trong thùng có gắn rãnh xoắn ruột gà , khi quay thùng theo chiều ngược lại vữa được đưa ra miệng
thùng và xả ra ngoài theo máng dẫn.

Máy bơm vữa BT:
Trong những trường hợp sau phải sử dụng máy bơm để vận chuyển vữa:
5
• Không có đường cho xe vào đến chân công trình.
• Vị trí thi công nằm trong vùng ngập nước.
• Vị trí thi công ở trên cao.
Máy bơm vữa bê tông có hai loại hoạt động theo hai nguyên tắc : loại bơm bằng áp suất khí nén và bơm
đẩy bằng pít tông. Loại thứ hai sử dụng tiện lợi hơn và là loại máy dùng phổ biến hiện nay trên các công
trường. Máy bơm có thể đẩy vữa đi xa đến 300m và lên cao 40m, bê tông có cốt liệu là đá 4-6 và độ sụt của
vữa từ 5÷24cm. Để dẫn đường ống đến vị trí đổ bê tông phải có đà giáo để đặt ống , đặc biệt là những đoạn
ống vượt qua khu vực ngập nước và đoạn đi thẳng đứng dẫn vữa lên tầng cao.
Trước khi bơm vữa phải bơm nước đi trước để làm trơn đường ống , người ta dùng quả bóng lọt vừa
đường kính ống bịt phía trước cho nước đẩy theo phía sau một đoạn và cũng chặn lại bằng quả bóng thứ hai ,
phía sau là vữa bê tông. Lượng vữa đầu tiên chảy ra khỏi đầu ống thường lẫn nhiều nước nên phải xả bỏ đi
cho đến khi xuất hiện dòng vữa dẻo mới sử dụng.
Khi bơm phải cho máy hoạt động liên tục, không được ngừng lâu giữa chừng rất dễ bị tắc ống. Ở đợt

bơm cuối cùng trước khi ngừng bơm cũng đặt quả bóng và bơm nước đẩy theo một cách liên tục để vệ sinh
đường ống. Đường ống có giá thành cao nên phải lưu ý rửa sạch không để bê tông làm tắc ống đồng thời
bảo quản tránh làm cong hoặc dập ống
1.4. Đổ và đầm bê tông :
Hỗn hợp vữa bê tông được rót vào khuôn phải đảm bảo yêu cầu giữ nguyên trạng thái đồng đều và
đồng nhất như vừa trộn. Vữa bê tông bị coi là phân tầng khi mất tính đồng đều, không liên tục có sự phân
lớp và tách lớp. Nguyên nhân chính là khi rót bê tông từ trên cao cốt liệu thô và vữa xi măng tách rời nhau
trong quá trình rơi , khi xuống đến mặt vữa do ban đầu vữa chưa kịp san phẳng nên dồn đống tạo thành hình
chóp , các
hạt thô khi rớt xuống sẽ lăn theo mặt nón và xếp xung quanh còn lại bột vữa tập trung ở giữa.
Cường độ bê tông phụ thuộc vào độ chặt của nó , muốn đạt được độ chặt khi đổ bê tông phải tiến
hành đầm. Đầm có tác dụng làm cho bột vữa bị chảy loãng như một thứ dung dịch , các hạt cốt liệu thô xếp
xít lại với nhau còn khe rỗng giữa chúng sẽ lấp đầy dung dịch vữa. Dưới tác dụng của đầm , các bọt khí còn
lại trong bột vữa bị ép đẩy nổi lên và thoát ra ngoài. Tất cả những tác dụng trên làm cho bê tông chặt, đều
lấp đầy khuôn và bề mặt tiếp giáp với ván khuôn được nhẵn mịn.
Như vậy khi đổ bê tông phải đảm bảo bốn nguyên tắc sau :
• Đổ liên tục cho đến khi kết thúc.
• Chiều cao vữa rơi không được vượt quá 1,5m.
• Vữa rót xuống thành từng lớp có chiều dày không quá 0,3m và san đều.
• Sau mỗi lớp vữa phải tiến hành đầm kỹ mới rải lớp tiếp theo.
Khi đổ bê tông hỗn hợp vữa đã được chuyển đến sát ngay chân công trình bằng những biện pháp vận
chuyển đã nêu ở trên hoặc trộn ngay tại chỗ. Việc rót vữa vào khuôn và san đều là nội dung của công việc
đổ bê tông.
Có bốn biện pháp rót vữa bê tông vào khuôn :
1- Dùng máng nghiêng : trong điều kiện phải rót vữa từ trên mặt đất xuống vị trí thấp hơn nằm sâu dưới
đáy hố móng. Máng nghiêng đóng bằng gỗ hoặc gò bằng tôn mỏng có các nẹp tăng cứng. Phía trên có gắn
phễu để hứng vữa trút xuống từ máy trộn hoặc xe chở vữa.Đường máng có độ dốc từ 45÷600 có các khung
đỡ ở những vị trí trung gian
6
2- Bằng các gầu chứa vữa : các gầu chứa bằng thép chế tạo ngay trên công trường. Dung tích của gầu

bằng bội số của dung tích một mẻ trộn bằng máy trộn di động và thường là 0,3; 0,6 và 0,8 m3
Gầu chứa có cấu tạo thành thấp để phù hợp với các phương tiện dễ dàng trút vữa vào thùng và đáy
nghiêng dốc có cửa đóng mở được để trút vữa ra nhanh chóng. Đặt gầu chứa chắc chắn trên mặt bằng , đóng
kín cửa xả rồi trút vữa vào sau đó dùng cần cẩu đưa gầu đến sát vị trí trút vữa ra và mở cửa xả , rót vữa vào
khuôn. Sử dụng gầu chứa để đổ bê tông trong những điều kiện phải chuyển vữa từ trên cao xuống hố móng
hoặc từ dưới mặt đất lên trên tầng cao hơn. Trong giáo trình này giới thiệu hai loại gầu chứa thường được
dùng trên các công trường thi công cầu. Loại thứ nhất có cấu tạo như chiếc thuyền được treo lên bằng bốn
sợi xích ở bốn góc và phía trên móc cẩu có một palăng xích để kéo nâng dốc một đầu khi trút vữa ra khỏi
gầu. Loại này có cấu tạo đơn giản và có thể chuyển được mỗi mẻ hơn 1m3 vữa , nhưng có nhược điểm là
trút vữa chậm
Loại thứ hai có dạng hình phễu đặt trên khung giá bằng thép góc, đưới đáy phễu có cửa xả mở ra bằng
bản lề và đóng lại bằng chốt móc. Mở chốt theo nguyên lý đòn bẩy (hình 2.28a).
3- Rót vữa trực tiếp vào khuôn: từ ống bơm của máy bơm vữa, ống bơm được dẫn đến tận khuôn và kê
đầu ống lên giá sao cho có thể di chuyển miệng ống đến các vị trí khác nhau trên mặt ván khuôn để san vữa
cho đều. Khi chiều cao từ miệng ống đến mặt bê tông lớn hơn 1,5m phải hạ thấp miệng xả vữa xuống. Vì
ống bằng thép cứng khó di chuyển nên đoạn ống xả thẳng xuống được thay bằng ống cao su có tăng cứng
bằng cốt thép lò xo. Cần phân biệt đoạn ống này với loại ống vòi voi sẽ giới thiệu dưới đây.
4- Dùng xe bơm bê tông chuyên dụng còn gọi là máy bơm động : xe bơm được trang bị ống bơm có dạng
cánh tay thủy lực có thể vươn với tới mọi vị trí nằm trong tầm hoạt động của xe, cuối tay với có một đoạn
ống mềm để di chuyển ống đến những vị trí bị vướng nhiều cốt thép. Xe bơm có thể vươn cao đến 20m.
Khixe bơm hoạt động có các xe Mix cung cấp vữa bê tông đi kèm.
1.5 - Bảo dưỡng bê tông :
Bảo dưỡng là giữ ẩm tạo điều kiện cho quá trình thuỷ hoá trong bê tông được hoàn tất. Nếu sử dụng phụ
gia tạo lớp phủ bề mặt giữ nước trong khối bê tông thì không cần tưới nước bảo dưỡng, tuy nhiên phụ gia
này còn chưa được dùng phổ biến cho nên việc bảo dưỡng bê tông bằng tưới nước thường xuyên vẫn là biện
pháp hữu hiệu. Trong mùa khô tưới nước được duy trì trong 7 ngày đêm, trong 3 ngày đầu ban ngày cách 3
tiếng tưới nước 1 lần ,ban đêm ít nhất tưới 1 lần. Các ngày sau tưới ít nhất 3 lần trong 1 ngày đêm. Nếu dùng
các vật liệu che phủ giữ ẩm thì số lần tưới nước giảm ít đi và chất lượng bê tông tốt hơn.
Đối với những cấu kiện BTCT đúc sẵn chế tạo trong xưởng hoặc trên bãi đúc có thể áp dụng biện
pháp bảo dưỡng bằng hấp trong môi trường hơi nước gọi là bảo dưỡng gia nhiệt để đẩy nhanh thời hạn ninh

kết của bê tông. Đối với mối nối ướt giữa các kết cấu BTCT lắp ghép cũng có thể làm cho bê tông sớm đạt
được cường độ bằng cách tưới thường xuyên nước nóng và ủ kín giữ nhiệt.
7
Câu 2. Trình bày các biện pháp đổ BT dưới nước(công nghệ vữa dâng, CN rút ống thẳng đứng)
Trả lời:
Đổ bê tông dưới nước là tiến hành rót vữa bê tông vào trong khuôn nằm ngập chìm sâu dưới nước để
thi công các hạng mục kết cấu khi không có điều kiện bơm tát cạn. Phải có các biện pháp kỹ thuật để không
cho vữa bê tông hòa tan trong nước , nước không ngấm vào trong khối vữa đổ xuống , kết cấu đảm bảo tính
liền khối và có chất lượng đáp ứng yêu cầu sử dụng. Các giải pháp kỹ thuật này đã được nghiên cứu ứng
dụng và xây dựng thành các biện pháp công nghệ. Trong thi công cầu hai biện
pháp công nghệ được áp dụng phổ biến là công nghệ vữa dâng và công nghệ rút ống thẳng đứng.
a- Công nghệ vữa dâng là đổ cốt liệu thô vào trong khuôn trước sau đó bơm vữa xi măng đã trộn
vào trong khối đá ép từ dưới đáy ép dần lên , áp suất bơm làm cho dòng vữa chảy lấp các khe rỗng và đẩy
nước ra ngoài. Vữa từ mỗi ống bơm lan tỏa ra một vùng có bán kính nhất định , các vùng kề nhau đan nhập
vào nhau tạo thành một khối lỏng dâng lên lấp dần các khe rỗng của khối cốt liệu. Sau khi đông kết ta có
được khối bê tông nằm trong nước. Do vữa bê tông không được nhào trộn, khối bê tông do các viên đá xếp
ngẫu nhiên được gắn kết lại bằng khối vữa lỏng mà thành nên số hiệu không thể xác định. Mặt khác khi đổ
đá trong nước không thể san tạo phẳng nên bề mặt bê tông rất kém. Vì những lý do trên bê tông đổ theo
công nghệ vữa dâng chỉ dùng cho các công trình phụ tạm không dùng cho những kết cấu chính. Công nghệ
vữa dâng chủ yếu áp dụng để thi công lớp bê tông bịt đáy hố móng.
Kỹ thuật đổ bê tông được thực hiện theo các bước :
1- Chia diện tích đổ bê tông thành lưới ô vuông , kích thước 2,5÷4m , riêng các
cạnh biên cách các cạnh của vòng vây hố móng 1,3÷2m. Dùng cây luồng hoặc thanh
cốt thép buộc thành dàn định vị theo lưới đã chia.
2- Chế tạo các lồng thép chống bẹp dạng lồng sóc với cốt thép dọc làm bằng ∅10 và cốt đai tròn làm bằng
∅6 , đường kính lồng bằng 2 lần đường kính ống bơm vữa đồng thời phải ≥ 200mm. Cự ly giữa các thanh
cốt thép 5cm , cự ly giữa các cốt đai tròn nằm trong phần đổ đá phải nhỏ hơn kích thước viên đá còn ở phần
trên bố trí cách 100cm một đai. Các lồng chống bẹp phải nhô cao hơn mặt nước để khi đổ, đá không bị rơi
vào trong lồng. Cắm các lồng chống bẹp vào những đỉnh lưới ô vuông và buộc cố định vào dàn định vị.
3- Đổ đá vào khuôn, đổ đều theo từng lưới ô vuông đã chia , lượng đá đổ vào mỗi ô lưới bằng diện tích của

ô nhân với chiều dày bê tông. Đá dùng cho đổ bê tông theo công nghệ vữa dâng là đá dăm ≥ 4cm hoặc đá
hộc.
4- Đặt các ống bơm vữa vào trong lòng các lồng chống bẹp , miệng ống thả xuống sát đáy. Ống bơm vữa có
đường kính ∅50÷100mm nối chung với đường trục và nối vào máy bơm vữa.
5- Vữa xi măng cát được trộn trong máy trộn theo tỉ lệ Dùng máy bơm vữa khí nén với áp suất 0,5Mpa
hoặc có thể dùng máy bơm đẩy pít tông để bơm vữa. Tốc độ vữa dâng 0,2÷2m/h đầu ống bơm phải giữ
luôn ngập trong vữa 0,65m.
6- Lượng vữa dâng lên được kiểm tra thông qua lượng vữa đã bơm vào bằng thể tích khối đá nhân với tỉ lệ
lỗ rỗng là 40 ÷45%, hoặc bằng cách đo chiều dày của vữa trong các lồng thép.
7- Sau khi kết thúc việc bơm vữa , thu các ống bơm và thu hồi các lồng thép bằng cách dùng cần cẩu kéo
nhổ chúng lên ngay khi vữa chưa ninh kết. Sơ đồ công nghệ xem trong hình 3.34.

8
b-Công nghệ rút ống thẳng đứng dùng vữa bê tông đã trộn sẵn rót vào trong khuôn bằngống kín
cắm ngập trong khối vữa. Áp suất tạo ra do chiều cao cột vữa thắng áp lực của nước làm cho vữa chảy lan
tỏa ra xung quanh và để cho áp suất vữa luôn lớn hơn áp lực nước ống đổ phải được kéo rút từ từ lên cao.
Các vùng vữa của mỗi ống đổ giao cắt nhau và trộn thành một khối. Do bê tông được đùn từ trong lòng khối
vữa nên chỉ có mặt ngoài tiếp xúc với nước vì vậy bê tông đổ theo biện pháp này đồng đều và liền khối , hỗn
hợp vữa bê tông trộn theo thành phần thiết kế và kiểm soát được chất lượng , vữa có độ sụt lớn nên đảm bảo
độ chặt cần thiết của bê tông. Vì những lý do trên chất lượng bê tông đổ dưới nước theo công nghệ rút ống
thẳng đứng được đảm bảo và có thể áp dụng công nghệ này để đổ bê tông cho những kết cấu nằm chìm trong
nước. Kỹ thuật đổ bê tông theo biện pháp rút ống thẳng đứng được thực hiện như sau :
1- Chuẩn bị các ống đổ bê tông :
Đường kính ống ∅200÷300mm chiều dài mỗi đốt ống 2,5m nối với nhau bằng khớp nối kín. Ống
nối với phễu đổ có dung tích bằng 1,5 lần dung tích của toàn bộ ống Các ống được thả xuống sát đáy, cự ly
giữa các ống là 1,25R và cách thành khuôn 0,65R. Trong đó R là bán kính lan tỏa của vữa trong mỗi ống
Chiều dài của ống phải đảm bảo sao cho cao độ mực vữa trong phễu (cách miệng
Trong mỗi phễu, tại vị trí cổ phễu nối với ống treo một nút thông kích thước vừa lọt trong ống và có
khả năng nổi trên mặt nước. Quả thông này có các tác dụng : giữ cho vữa không rơi tự do vào trong ống,
ngăn không cho vữa tiếp xúc với nước, dồn đẩy nước và không khí ra khỏi ống khi bắt đầu trút vữa. Nút

thông treo vào móc có hai sợi dây, một sợi là dây treo có khả năng kéo đứt lớn và một sợi dây điều khiển làm
quay móc để thả nút rơi xuống. Các ống đổ cùng với phễu được đặt trên hệ thống nâng để kéo rút lên với
cùng một tốc độ.
2- Vữa bê tông có kích thước cốt liệu ≤ 1/4 đường kính trong của ống, độ sụt 16÷24cm và lượng xi măng
tăng 20% so với chỉ tiêu xi măng cùng mác vữa nếu đổ trên cạn. Đổ vữa vào trong các phễu. Thả các nút
thông tụt xuống sát đáy đồng thời các cột vữa cũng hạ xuống theo trong các ống. Kéo dây điều khiển để thả
rơi nút thông. Nâng các đầu ống lên khỏi đáy 25cm , vữa đẩy nút thông ra ngoài và chảy tràn ra xung
quanh , rút ống lên với tốc độ 0,12m/phút và tiếp tục cấp vữa vào các phễu. Trong quá trình rút ống phải
đảm bảo điều kiện chiều sâu t, đảm bảo nước không thâm nhập vào trong khối vữa và đầu ống kịp rút ra khỏi
khối vữa bắt đầu ninh kết.
3- Tốc độ cấp vữa cho mỗi ống
So với biện pháp vữa dâng, rút ống thẳng đứng phức tạp hơn rất nhiều nên chỉ áp dụng khi bê tông
có yêu cầu chất lượng cao.
Câu 3. Trình bày công tác ván khuôn (vai trò, yêu cầu cấu tạo VK) trình bày nguyên lý VK thép.
Trả lời:
3.1- Vai trò và yêu cầu đối với ván khuôn :
Ván khuôn là khuôn đúc của kết cấu bê tông , khuôn như thế nào thì sản phẩm như vậy, do đó ván khuôn
có vai trò quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của công tác bê tông :
• Ván khuôn có vai trò định dạng cho kết cấu bê tông và BTCT , đảm bảo cho kết
cấu có hình dạng và kích thước đúng như thiết kế.
• Giữ kín nước xi măng đảm bảo cho bê tông có cường độ như thiết kế.
• Bảo vệ cho vữa bê tông đang ninh kết .
• Tạo bề mặt kết cấu có chất lượng cao.
3.2. Yêu cầu cấu tạo:
Để đáp ứng được những vai trò trên , công tác ván khuôn phải đạt được những yêu
cầu sau :
• Kết cấu ván khuôn phải bền vững , chịu được tải trọng tác dụng lên.
• Kết cấu đủ cứng không bị biến dạng , tạo được hình dạng kết cấu đúng như thiết kế.
• Cấu tạo phải kín , giữ được nước xi măng cho bê tông rót vào trong khuôn.
• Bề mặt nhẵn , tạo bề mặt bê tông chất lượng cao và đễ bóc ván.

• Dễ lắp dựng và dễ tháo dỡ.
• Giá thành rẻ : nên sử dụng vật liệu tại chỗ và có thể sử dụng luân chuyển được nhiều lần.
Ván khuôn được chế tạo từ ba loại vật liệu : bằng gỗ, bằng thép và bằng nhựa tổng hợp. Ván khuôn dùng
trong kết cấu cầu thường làm bằng thép hoặc gỗ thép kết hợp. Ván khuôn gỗ sử dụng khi số lần luân chuyển
ít và có thể khai thác được vật liệu tại địa phương.
3.3. Nguyên lý ván khuôn thép:
Tấm ván đơn bằng thép có cấu tạo đơn giản hơn là ván gỗ do đặc điểm của vật liệu. Tấm ván đơn
được thiết kế theo một số chủng loại. Loại tấm lớn có kích thước 1250×2500 mm, loại và loại nhỏ thu hẹp
9
theo chiều cao và theo chiều dài để có thể kết hợp với nhau ghép thành các khuôn có kích thước thay đổi.
Cấu tạo của mỗi tấm ván bao gồm một tấm tôn lát có chiều dày δ= 2,5÷3mm , xung quanh dùng thép góc
L75×75×8 , L80×80×8 để đóng khung viền bao kín các mép ván , trên cánh đứng của thép góc khoan sẵn
các lỗ khoan đường kính ∅20 có khoảng cách thống nhất để liên kết các tấm ván lại với nhau bằng bulông.
Do tôn lát mỏng nên phải tăng cường ở phía sau tấm ván các sườn tăng cường đứng và ngang. Trong đó
sườn đứng bố trí theo cạnh ngắn và liền suốt theo cạnh này còn sườn ngang chia ra thành từng đoạn lọt giữa
khoảng cách của hai sườn đứng và hàn vào sườn đứng.
Các bộ phận của tấm ván đều liên kết với nhau bằng hàn. Trên tấm ván khoan sẵn hai lỗ khoan ở hai
góc để lắp thanh giằng sau này. Chế tạo các tấm ván cong mặt trụ hay mặt cong hình chop cụt bằng cách
dùng tấm tôn uốn theo các sườn ngang bằng thép dày 8mm đã cắt sẵn theo hình vành khăn.
Xung quanh tấm ván cũng phải có thanh viền mép và khoan sẵn lỗ để lắp bu lông liên
kết giữa các tấm ván với nhau. Các tấm ván liên kết với nhau bằng cách bắt bulông theo cạnh của thép góc
viền mép, có gioăng cao su đệm ở giữa để giữ kín nước. Ngoài ra có thể liên kết bằng then và chốt hình
nêm, cách liên kết này có ưu điểm lắp ráp nhanh chóng và vẫn đảm bảo chắc chắn.
Cấu tạo của ván khuôn mố và ván khuôn trụ ghép từ các tấm ván thép khác với ván khuôn ghép từ
các tấm ván gỗ. Trong ván khuôn gỗ, các tấm ván đơn ghép lại với nhau thành mặt phẳng nhờ các nẹp bên
ngoài của khuôn còn trong ván khuôn thép , các tấm ván liên kết lại với nhau thành mặt phẳng bằng liên kết
các thép góc cạnh với nhau.
Các thanh nẹp ngoài làm thành hệ khung tăng cứng cho mặt phẳng của các tấm ván. Các thanh nẹp
ngoài đều làm bằng thép hình gồm hai thanh thép chữ [ loại cao 120mm ghép đôi lại với nhau liên kết kiểu
bản giằng. Các mặt phẳng của ván khuôn đều khép kín tại các góc bằng một thanh liên kết có tạo vát chém

cạnh chống sứt cho bê tông , thanh này có chiều dài bằng kích thước một cạnh của tấm ván và khoan lỗ
tương ứng với các lỗ khoan trên cạnh mép của tấm ván.
Phải tổ hợp các loại ván có kích thước khác nhau sao cho vừa đủ chiều dài của kết cấu bê tông, nếu
không đủ thì chế tạo riêng một tấm ván theo kích thước đo tại chỗ để ghép.
2.5.4 – Biện pháp lắp dựng ván khuôn :
Các loại ván khuôn khi lắp dựng đều phải quan tâm đến yêu cầu bóc dỡ sau này sao cho dễ dàng và
không gây chấn động đến kết cấu bê tông. Để bóc ván được dễ dàng, trên bề mặt ván khuôn phía tiếp giáp
với bê tông phải quét một lớp chống dính. Chất chống dính cho ván khuôn là dầu máy hoặc nước xà nphòng
pha bột tan, sao cho khi quét lên mặt ván dựng đứng không bị chảy mất và không dây bẩn sang cốt thép, bề
mặt bê tông bóng sang
Thông thường, nếu mặt bằng thi công rộng rãi thì sau khi dựng xong khung cốt thép mới tiến hành lắp
các mặt ván khuôn thành. Nếu ở một phía nào mà không gian thi công chật hẹp thì phải đặt ván vào phía
đó trước , sau khi dựng xong khung cốt thép thì ghép với các mặt ván còn lại thành khung.
10

Đối với kết cấu bản đúc trên ván khuôn đáy thì bắt buộc phải ghép ván khuôn trước sau đó rải cốt thép
bản lên trên mặt ván. Ván khuôn đáy chịu tải trọng thẳng đứng do trọng lượng và tải trọng thi công gây ra.
Để chịu được tải trọng này, ván đáy phải dựa trên hệ dầm đỡ của kết cấu đà giáo và khi đã có vữa bê tông ,
ván đáy luôn đè lên dầm đỡ. Để tháo dỡ ván đáy ra khỏi bê tông cần phải bố trí thiết bị hạ đà giáo kê giữa
ván đáy và dầm đỡ nhằm điều chỉnh cao độ điểm kê sao cho mọi điểm kê đều đỡ vào ván đáy đồng thời
tháo hẫng đà giáo ra khỏi ván đáy một cách êm thuận sau đó bóc ván khuôn ra khỏi bê tông được dễ dàng.
Đối với ván khuôn thành , tải trọng tác dụng lên ván là áp lực ngang do vữa bê tông và các tải trọng ở
trên bề mặt khối vữa. Áp lực này đẩy ra hai bên thành, vì vậy để chống áp lực này, hai bên mặt ván được
giằng với nhau bằng các bu lông bố trí tại các giao điểm của hệ thanh nẹp ngang và nẹp đứng đỡ phía ngoài
ván khuôn.
Để giữ ổn định cho cả hệ thống ván khuôn chống các lực xô ngang do gió hoặc lực va quệt của các thiết
bị thi công thì dùng các thanh chống xiên xuống đất ở về hai phía hoặc nếu kết cấu cao quá có thể dùng đà
giáo dựng vây xung quanh.
Các tấm ván liên kết với nhau thành mặt phẳng bằng bu lông hoặc bằng chốt nêm. Ván khuôn thành
ghép kín xung quanh và đổ bê tông.

Đối với kết cấu có chiều cao 4÷5m thì việc liên lạc giữa bên trong và bên ngoài khuôn sẽ gặp khó
khăn,vì vậy người ta sẽ để trống một phía ván khuôn và ghép dần từng đợt theo quá trình đổ bê tong.
Đối với kết cấu có thành mỏng như tường bê tông, sườn dầm. việc dùng các thanh gỗ làm văng chống
giữa hai mặt ván đối diện sẽ không thể lấy ra được trong quá trình đổ bê tông. Các thanh văng chống phải để
lại nhưng không làm ảnh hưởng đến chất lượng bê tông của tường.
Hai bên mặt ván được chống bằng các thanh chống xiên hoặc dùng thanh chống xiên có tăng - đơ để
điều chỉnh và đóng mở ván.
Câu 4. Vai trò phân loại các công trình phụ trợ trong thi công cầu?
Trả lời: (Nguồn: sách thi công cầu. Có thể sử dụng slide các công trình phụ trợ của thầy giáo Vũ Quang
Trung- Trang 2-3-4-5)
4.1- VAI TRÒ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH PHỤ TRỢ TRONG THI CÔNG.
Công trình phụ trợ là tên gọi chung cho những kết cấu hoặc công trình được dựng lên trong thời gian
thi công và được tháo dỡ sau khi công trình đã hoàn thành để hỗ trợ và phục vụ cho mục đích công nghệ. Các
công trình phụ trợ trong thi công cầu rất đa dạng và cần thiết trong tất cả các giai đoạn thi công, dùng để kè
chống, làm đà giáo, làm sàn công tác và trong kích kéo, lao lắp kết cấu nhịp.
Nhiều công trình phụ trợ quy mô rất lớn, thời gian sử dụng kéo dài hàng năm và có dự toán chiếm tỉ
lệ cao trong toàn bộ giá xây dựng công trình. Các công trình này không được coi là tạm vì vai trò của chúng
quan trọng không kém công trình chính bởi những lý do sau :
• Chịu tải trọng thi công đảm bảo an toàn cho người và thiết bị trong quá trình thi công.
• Chống đỡ công trình chính trong giai đoạn công trình chính chưa có khả năng chịu được trọng lượng
bản thân.
• Tạo mặt bằng thuận lợi cho thực hiện các bước công nghệ.
11
Nếu công trình phụ trợ không đáp ứng yêu cầu chịu lực, công trình chính sẽ bị sụp đổ ngay trong giai
đoạn thi công. Công trình phụ trợ không đủ cứng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng công trình thi
công trên nó, đặc biệt là đối với kết cấu bê tông. Ví dụ: Một sàn công tác không chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến
tiến độ và chất lượng thực hiện công việc.
Thời gian dành để lắp dựng và tháo dỡ công trình phụ trợ cũng nằm trong tiến độ chung thi công công
trình, vì vậy nếu chọn được kết cấu lắp dựng nhanh sẽ rút ngắn được tiến độ thi công. Giảm giá thành cho
công trình phụ trợ là tăng thêm lợi nhuận trong thi công công trình. Việc giảm giá thành phải trên cơ sở đáp

ứng được các yêu cầu sử dụng.
4.2- PHÂN LOẠI CÁC CÔNG TRÌNH PHỤ TRỢ.
Các công trình phụ trợ được phân ra các nhóm theo mục đích sử dụng :
- Cầu tạm : xây dựng để phục vụ cho vận chuyển qua sông hoặc từ bờ ra vị trí các trụ trong giai đoạn
thi công. Cầu tạm có thể nối hai bên bờ vừa phục vụ vận chuyển cho thi công vừa để đảm bảo giao thông.
Nếu cầu tạm chỉ phục vụ cho đi lại,vận chuyển thủ công thì còn có tên gọi khác là cầu công tác .
- Đà giáo : là kết cấu được dựng lên để đỡ kết cấu nhịp chính trong giai đoạn kết cấu nhịp chưa có
khả năng chịu được trọng lượng bản thân, ví dụ đà giáo dùng cho đổ bê tông tại chỗ dầm chủ, đà giáo dùng
cho đổ bê tông xà mũ trụ, đà giáo dùng cho lắp ráp tại chỗ dầm thép, dàn thép
- Trụ tạm : có vai trò làm trụ đỡ trong một thời hạn nhất định. Trụ tạm là bộ phận của cầu tạm và đà
giáo hoặc có thể là một kết cấu độc lập dùng để tạm thời đỡ kết cấu nhịp chính trong giai đoạn thi công.
- Công trình công vụ : dùng cho mục đích tạo mặt bằng thi công trong những điều kiện phải thi
công ở trên cao hoặc trong điều kiện ngập nước. Các công trình này gồm những loại sau :
• Đảo nhân tạo.
• Hệ nổi.
• Dàn giáo.
• Sàn đạo.
- Công trình chống vách : là những kết cấu dùng để ngăn áp lực đất, giữ ổn định thành vách hố móng
hoặc ta luy nền đào, nền đắp. Tuỳ theo cấu tạo mà kết cấu này có tên gọi là tường ván hoặc tường cừ.
- Công trình ngăn nước còn gọi là vòng vây : có tác dụng ngăn không cho nước thâm nhập vào trong khu
vực thi công bệ móng. Vòng vây thường kết hợp với lớp bê tông ngăn không cho nước thâm nhập vào hố
móng từ phía dưới nền gọi là lớp bê tông bịt đáy.
- Công trình phụ trợ công tác kích kéo : đó là hệ thống đường trượt, mũi dẫn, hố thế, neo, giá long
môn
- Công trình phục vụ cho công nghệ bê tông bao gồm : ván khuôn, bệ đúc. Vật liệu dùng cho công trình
phụ trợ rất đa dạng từ đất, gỗ, đá đến bê tông, sắt thép. Cấu tạo của công trình phụ trợ có thể dùng loại có kết
cấu định hình để sử dụng nhiều lần, nhưng trong nhiều trường hợp phải chế tạo đơn chiếc sử dụng một lần vì
ít có điều kiện sử dụng lại.
Câu 5. Các nguyên tắc thiết kế công trình phụ trợ? Các tải trọng tác dụng lên công trình phụ trợ
Trả lời: (Nguồn: sách thi công cầu. Có thể sử dụng slide các công trình phụ trợ của thầy giáo Vũ Quang

Trung- trang 6 đến 14)
5.1. Các nguyên tắc thiết kế công trình phụ trợ
a- Nguyên tắc cấu tạo:
Để đáp ứng những yêu cầu sử dụng của công trình phụ trợ trong thi công cầu, khi thiết kế các công
trình này phải chú ý đến những vấn đề mang tính nguyên tắc sau đây:
- Kết cấu phải đơn giản, hợp lý : thể hiện ở chỗ ít các chi tiết, sơ đồ truyền lực rõ ràng, dễ xác định
nội lực và kiểm soát được các bước tính toán. Trong khi lắp dựng những công trình phụ trợ như đà giáo, sàn
công tác thường hay tận dụng vật liệu và thêm vào những điểm giằng chống, nhưng phải lưu ý một điều rằng
không phải cứ thêm điểm chống hay điểm giằng vào cho kết cấu là kết cấu vững chắc thêm lên, mà nhiều
khi có tác dụng ngược lại hoặc làm tăng tĩnh tải.
- Kết cấu dễ lắp dựng và tháo dỡ thể hiện ở chỗ từng cấu kiện phải nhẹ, có thể mang vác thủ công,
liên kết bằng bulông hoặc chốt, phải tháo hẫng được ra khỏi tải trọng đè lên nó. Lắp và tháo dỡ dễ dàng sẽ
đẩy nhanh tiến độ thi công, có khả năng quay vòng sử dụng kết cấu tạm và do đó tiết kiệm đ-ợc chi phí.
- Nếu kết cấu bằng thép phải chú ý đến khả năng sử dụng nhiều lần. Có những dạng kết cấu do yêu
cầu chịu lực phải làm bằng thép, khi đó ta chú ý đến việc sử dụng các dạng kết cấu vạn năng, hoặc kết cấu
này phải đ-ợc thiết kế sao cho có thể dùng cho các công trình khác, ít ra cũng có thể quay vòng sử dụng cho
những hạng mục khác trên công tr-ờng. Yếu tố sử dụng lại nhiều lần thể hiện ở tính có thể lắp lẫn giữa các
bộ phận của kết cấu, tính nối ghép giữa các bộ phận, khả năng thay đổi kích th-ớc, khả năng thay đổi hình
dạng. Trong đơn giá dự toán các kết cấu phụ trợ cho thi công đều buộc phải tính khấu hao, ví dụ ván khuôn
12
thép yêu cầu luân chuyển đến 40 lần, vì vậy nếu kết cấu chỉ sử dụng đ-ợc một lần sẽ thiệt hại đến lợi ích kinh
tế.
- Nếu kết cấu chỉ sử dụng một lần thì chú ý đến những loại vật tư tận dụng. Khi công trình phụ trợ có
dạng đặc biệt, rất ít có điều kiện sử dụng lại trong những lần sau, để tiết kiệm ta nên chú ý đến việc thiết kế
cấu tạo sao cho có thể sử dụng đ-ợc
vật liệu tại chỗ gồm loại vật liệu khai thác ở địa ph-ơng nh- gỗ, đá hoặc tận dụng vật tư sắt thép sẵn có trên
công trường.
- Những loại công trình phụ trợ xây dựng trên sông phải xét đến yêu cầu đảm bảo thông thuyền và
an toàn giao thông đường thuỷ. Những công trình phụ trợ có cho phép các phương tiện giao thông chạy phía
dưới phải đảm bảo yêu cầu tĩnh không xây dựng

- Từng loại công trình phụ trợ phải được đối chiếu xem xét với những qui định về cấu tạo và lắp
dựng theo Quy phạm thi công và nghiệm thu cầu, cống hiện hành.
b- Nguyên tắc tính toán:
Các công trình phụ trợ phải được tính toán chi tiết, kiểm soát được sự làm việc của từng bộ phận
chịu lực mới được đưa vào sử dụng. Các bộ phận chịu lực của công trình phụ trợ được tính toán theo Tiêu
chuẩn thiết kế cầu cống mà công trình chính áp dụng. Dù là áp dụng tiêu chuẩn thiết kế nào kết cấu và công
trình phụ trợ cũng phải đáp ứng các điều kiện :
+ Đảm bảo điều kiện về cường độ.
+ Đảm bảo điều kiện ổn định về hình dạng và ổn định vị trí.
+ Công trình phụ trợ và từng bộ phận của nó không đ-ợc biến dạng quá trị số cho phép để đảm bảo
yêu cầu sử dụng.
5.2. Các tải trọng tác dụng lên công trình phụ trợ
Tác dụng lên các công trình phụ trợ trong quá trình thi công bao gồm hai nhóm : tải trọng thường
xuyên và không thường xuyên
a- Tải trọng thường xuyên gồm :
- trọng lượng bản thân của kết cấu phụ trợ (thuộc nhóm DC)
- áp lực đất thẳng đứng EV
- áp lực ngang của đất EH
- lực kéo xuống do ma sát âm DD.
- tải trọng đất chất thêm ES.
b-Tải trọng không thường xuyên gồm :
- trọng lượng vật liệu, cấu kiện chưa lắp ráp. ( thuộc nhóm DC)
- trọng lượng thiết bị, xe máy.
- hoạt tải xe LL
- tải trọng thi công : người và thiết bị.
- Lực kéo dọc , lực sàng ngang.
- Lực lắc ngang do lệch đường trượt.
- Lực quán tính khi cẩu vật nặng.
- Lực căng ứng suất trước.
- Lực kích nâng hạ kết cấu nhịp.

- Tác dụng do chênh lệch nhiệt độ.
- Tải trọng va xô.
- Tải trọng gió.
Trọng lượng của kết cấu chính tuỳ theo từng trường hợp cụ thể được xét như tải trọng thường xuyên
hoặc tải trọng không thường xuyên đối với kết cấu phụ trợ. Ví dụ trọng lượng của kết cấu bê tông đúc tại
chỗ được xét như tải trọng thường xuyên đối với đà giáo nhưng trọng lượng của kết cấu nhịp khi lao kéo dọc
lại là tải trọng không thường xuyên đối với kết cấu trụ tạm và đường trượt dưới.
13
Câu 6. Trình bày các dạng vòng vây, cấu tạo chung, phạm vi áp dụng từng loại vòng vây?
2 Phương án:
PA1: sử dụng slide các công trình phụ trợ của thầy giáo Vũ Quang Trung- Trang 36 đến 46. và trang 67-68
Chú ý: các dạng vòng vây bao gồm: đê đập ngăn nước,vòng vây đất, vòng vây cọc ván thép, thùng chụp ko
đáy, chỉ trình bày cấu tạo và phạm vi áp dụng, ko trình bày biện pháp thi công.
PA2:
Để thi công bệ móng trong khu vực ngập nước cần có biện pháp ngăn không cho nước thâm nhập
vào trong khu vực thi công. Vị trí thi công có thể ở cách xa bờ và chiều sâu ngập nước đến hơn 10m . Tùy
thuộc vào địa hình thi công, độ lớn của bệ móng, chiều sâu ngập nước, địa chất mà có thể sử dụng một trong
những dạng vòng vây sau :
• Đê, đập ngăn nước.
• Vòng vây đất.
• Vòng vây cọc ván.
• Thùng chụp.
6.1- Đê, đập ngăn nước.
a- Có hai dạng đê bao và đê quai.
Cấu tạo:
+Đê bao là bờ đất đắp vòng kín, bao xung quanh khu vực thi công móng. Đê quai là bờ đất đắp ôm
ba mặt phía ngoài sông phía còn lại là phần đất cạn cao hơn MNTC.
+Đê bao và đê quai có chiều rộng mặt tối thiểu là 200cm để có thể đi lại trên đó mà không bị sạt lở,
cao độ mặt đê cao hơn MNTC 70cm để chống tràn nước từ bên ngoài vào khi có sóng.
+Ta luy mái dốc phía ngoài sông là 1:1,5; phía trong hố móng là 1:1.

+Bên trong thân đê dùng đất sét để làm một lớp chống thấm có chiều dày 50-60cm.
Phạm vi SD:
+Với quy cách như vậy, đê bao có diện tích chắn dòng rất lớn, biện pháp đắp khó khăn cho nên ít
được sử dụng.
14
+Đê quai sử dụng hợp lý hơn nhưng với điều kiện chiều sâu ngập nước (Hn) không quá 2m. Khi sử
dụng đê quai để ngăn nước, đáy hố móng không có biện pháp gì để bịt kín cả cho nên chỉ có thể áp dụng
trong điều kiện nền đất dính, ít thấm, khi thi công hố móng bố trí máy bơm hút cạn nước và máy bơm
thường xuyên hoạt động mỗi khi nước chảy vào đầy hố tụ.
b- Đập ngăn
Cấu tạo:
+tiến hành đắp chặn hai phía thượng và hạ lưu để ngăn nước
+để giữ không cho nước ở phía thượng lưu chảy tràn qua đập, dùng đoạn đường ống có đường kính
đảm bảo đủ thoát được lưu lượng dư tràn dẫn cho nước chảy qua khu vực thi công nhưng không làm ảnh
hưởng đến vị trí móng
PVSD: dùng để chặn dòng khi thi công móng trong kênh mương, dòng chảy hẹp.
6.2 - Vòng vây đất :
Cấu tạo:+Vòng vây đất là kết cấu bờ đất được đắp giữa hai mặt chắn bằng tường bằng ván hoặc
bằng các cọc cừ.
+Hàng cọc đóng bên trong cần ngàm sâu trong nền tối thiểu là 1,5m còn hàng cọc bên ngoài chỉ cần
đóng vào nền 0,5m. Có thể dùng các cọc tre hoặc gỗ cây có đường kính nhỏ, vát nhọn một đầu, đóng ken
dày. Các đầu cọc được bó liên kết với nhau thành bè bằng cây nẹp và dây thép, giữa hai hàng cọc dùng cốt
thép
Φ
6 buộc giằng với nhau, hai bên mặt tường dùng ván hoặc các tấm phên nứa chắn và đắp bằng đất
không thấm.
PVSD: Vòng vây đất chỉ áp dụng cho trường hợp nước ngập nhỏ hơn hay bằng 2m và nền đất không
có hiện tượng cát chảy, cát trôi.
6.3 - Vòng vây cọc ván thép:
Vòng vây cọc ván thép là loại kết cấu ngăn nước dùng phổ biến trong thi công cầu. ưu điểm của

dạng vòng vây này là độ cứng lớn có thể dùng trong điều kiện ngập sâu rên 10m nước, kích thước vòng vây
không hạn chế, kết cấu gọn ít chắn dòng, sử dụng được nhiều lần.
Phạm vi áp dụng của vòng vây cọc ván thép là có tầng đất đủ dầy cho phép đóng ngập với độ sâu
sao cho không bị xói hở chân cọc.
a- Cọc ván thép:
+Vòng vây được ghép từ các cọc riêng rẽ. Cọc ván là sản phẩm thép cán định hình, có tiết diện sao
cho đủ cứng khi chuyên chở và chịu lực được ở một độ sâu ngập nước trung bình mà không cần tăng cường,
dọc hai bên mép cọc có rãnh khóa. Khi ghép các cọc, các rãnh khóa lồng khít vào nhau tạo thành một tấm
tường kín bao quanh khu vực thi công, nước ở bên ngoài chỉ rỉ thấm mà không chảy vào trong vòng vây.
15
+3 loại : loại tấm phẳng, loại lòng máng và loại cọc ống. Trong thi công cầu sử dụng phổ biến loại
cọc lòng máng Larxen. Cọc Larxen cũng có thể ghép thành tiết diện kép(hình b) để tăng độ cứng và khả năng
chịu uốn, cọc ghép đôi hàn đấu lưng lại với nhau.
b- Cấu tạo vòng vây cọc ván thép Larsen:
+Các cọc ghép lại liên tục với nhau và quây kín khu vực thi công gọi là vòng vây. Rãnh khóa cho
phép cọc nọ xoay đi so với cọc kia một góc nhất định và như vậy vòng vây có thể đóng thành vòng tròn,
thành các mặt tường phẳng rồi nối lại với nhau và nối hai mặt phẳng với hai đầu tròn ( hình ôvan).
+Tuy rãnh khóa có thể quay tự do nhưng không thể đổi hướng ghép đi một góc 90 độ được, bởi vậy
khi ghép vòng vây thành hình chữ nhật, ở bốn góc phải chế tạo cọc góc riêng bằng cách xẻ đôi cọc thành hai
nửa và hàn bụng cọc với hai cánh của một thanh thép góc hình cánh dơi hoặc hàn một cọc nguyên với một
nửa cọc xẻ đôi.
+Kích thước của vòng vây được xác định theo kích thước của bệ móng sao ho đảm bảo khoảng cách
tĩnh giữa vòng vây và bề mặt của bệ móng =70cm. Đỉnh cọc ván cao hơn MNTC 0,7m. Hình dạng của vòng
vây dựa theo hình dạng của bệ móng :
• Vòng vây hình tròn nếu bệ móng có dạng hình tròn hoặc lục giác.
• Hình ôvan nếu bệ móng có hai đầu tròn hoặc vát cạnh.
• Hình chữ nhật là phổ biến vì phần lớn các bệ móng đều có dạng CN
+Số lượng cọc ván xác định theo chu vi của vòng vây và bằng phần nguyên của tỉ số giữa chu vi và
chiều dài danh định của tiết diện cọc
+Các cọc đóng thẳng đứng theo cả hai phương và tuyệt đối song song với nhau, nếu chỉ có một cọc

bị nghiêng, tất cả các cọc khác sẽ bị nghiêng theo và tạo thành khe hở hình chữ V ở vị trí khép góc.
+Chân cọc đóng cắm sâu vào trong nền, đầu cọc tựa vào khung chống bằng thép. Nếu chiều sâu
ngập nước không lớn có thể không cần khung chống trên các đầu cọc, chỉ cần một đầu cọc ngàm vào trong
nền là đủ (tường cọc ván làm việc theo sơ đồ công xon). Ngược lại trong vùng nước ngập sâu, để tăng cường
cho cọc ván, ngoài khung chống trên đầu cọc còn phải bổ sung thêm một số tầng khung chống trung gian.
+Với diện tích của mặt phẳng vòng vây lớn hơn 300m
2
,sử dụng vành đai khung chống có kết cấu
dạng dàn. Do dàn có độ cứng lớn nên có thể không cần những thanh chống ngang do đó thi công trong vòng
vây sẽ không bị cản trở. Để đỡ vành đai cần có hai hàng cọc chữ H, các hàng cọc này đóng ngập sâu vào
trong nền và đỡ giàn vành đai trong suốt quá trình thi công trong vòng vây.
Câu 7. Cấu tạo cọc ván thép Larsen và biện pháp thi công?
Trả lời: sử dụng slide các công trình phụ trợ của thầy giáo Vũ Quang Trung- Trang 42 đến 50.
Trả lời:
7.1 Cấu tạo cọc:
+Trong thi công cầu sử dụng phổ biến loại cọc lòng máng Larsen (hình vẽ).
16
+Cọc Larsen cũng có thể ghép thành tiết diện kép(hình vẽ) để tăng độ cứng và khả năng chịu uốn,
cọc ghép đôi hàn đấu lưng lại với nhau.
7.2- Cấu tạo vòng vây cọc ván thép Larsen:
+Các cọc ghép lại liên tục với nhau và quây kín khu vực thi công gọi là vòng vây. Rãnh khóa cho
phép cọc nọ xoay đi so với cọc kia một góc nhất định và như vậy vòng vây có thể đóng thành vòng tròn,
thành các mặt tường phẳng rồi nối lại với nhau và nối hai mặt phẳng với hai đầu tròn ( hình ôvan).
+Tuy rãnh khóa có thể quay tự do nhưng không thể đổi hướng ghép đi một góc 90 độ được, bởi vậy
khi ghép vòng vây thành hình chữ nhật, ở bốn góc phải chế tạo cọc góc riêng bằng cách xẻ đôi cọc thành hai
nửa và hàn bụng cọc với hai cánh của một thanh thép góc hình cánh dơi hoặc hàn một cọc nguyên với một
nửa cọc xẻ đôi.
+Kích thước của vòng vây được xác định theo kích thước của bệ móng sao ho đảm bảo khoảng cách
tĩnh giữa vòng vây và bề mặt của bệ móng =70cm. Đỉnh cọc ván cao hơn MNTC 0,7m. Hình dạng của vòng
vây dựa theo hình dạng của bệ móng :

• Vòng vây hình tròn nếu bệ móng có dạng hình tròn hoặc lục giác.
• Hình ôvan nếu bệ móng có hai đầu tròn hoặc vát cạnh.
• Hình chữ nhật là phổ biến vì phần lớn các bệ móng đều có dạng CN
+Số lượng cọc ván xác định theo chu vi của vòng vây và bằng phần nguyên của tỉ số giữa chu vi và
chiều dài danh định của tiết diện cọc
+Các cọc đóng thẳng đứng theo cả hai phương và tuyệt đối song song với nhau, nếu chỉ có một cọc
bị nghiêng, tất cả các cọc khác sẽ bị nghiêng theo và tạo thành khe hở hình chữ V ở vị trí khép góc.
+Chân cọc đóng cắm sâu vào trong nền, đầu cọc tựa vào khung chống bằng thép. Nếu chiều sâu
ngập nước không lớn có thể không cần khung chống trên các đầu cọc, chỉ cần một đầu cọc ngàm vào trong
nền là đủ (tường cọc ván làm việc theo sơ đồ công xon). Ngược lại trong vùng nước ngập sâu, để tăng cường
cho cọc ván, ngoài khung chống trên đầu cọc còn phải bổ sung thêm một số tầng khung chống trung gian.
+Với diện tích của mặt phẳng vòng vây lớn hơn 300m
2
,sử dụng vành đai khung chống có kết cấu
dạng dàn. Do dàn có độ cứng lớn nên có thể không cần những thanh chống ngang do đó thi công trong vòng
17
vây sẽ không bị cản trở. Để đỡ vành đai cần có hai hàng cọc chữ H, các hàng cọc này đóng ngập sâu vào
trong nền và đỡ giàn vành đai trong suốt quá trình thi công trong vòng vây.
7.3. Biện pháp thi công vòng vây cọc ván thép Larsen:
Để đảm bảo khép kín được vòng vây, trước tiên ghép vòng vây theo hình dạng thiết kế sau đó dùng
búa rung hạ các cọc xuống dần đều nhau. Búa rung hạ cọc là loại búa chuyên dụng, búa có hàm kẹp, khi rung
kẹp chặt vào bụng cọc và cũng dùng chính búa này để nhổ cọc.
Không nên dùng búa Diezel để đóng cọc ván thép vì sẽ làm vênh móp tiết diện khó sử dụng lần sau.
Trường hợp không có búa rung phải dùng búa Diezel để đóng thì không cho nổ búa mà chỉ dùng trọng lượng
của búa để ép cọc xuống gọi là biện pháp đóng câm.
Trình tự thi công
1- Đóng một số cọc chữ thép H xung quanh về phía trong của vòng vây để làm
cọc định vị khoảng cách 2-3m/ cho một cọc. Dùng búa rung để đóng.
2- Dùng cần cẩu cẩu lắp khung chống tựa trên các cọc định vị để làm khung dẫn
hướng cho các cọc ván.

3- Tổ hợp cọc ván : tổ hợp 3 -5 cọc thành một mảng trước khi đóng. Dùng thanh kẹp, kẹp các cọc để tổ hợp
lại với nhau.
4- Xảm me(rãnh liên kết) cọc ván thép có tác dụng làm kín mạch nối ghép giữa các cọc. Vật liệu là dây
thừng tẩm dầu thải, dùng que nhét vào khe hở giữa các cạnh me.
5- Dựa vào khung dẫn hướng tiến hành ghép vòng vây. Dùng cần cẩu cẩu từng tổ hợp cọc theo phương thẳng
đứng và lùa một cạnh me của tổ hợp vào hàng cọc để ghép trước, thả từ từ cho tổ hợp cọc trượt thẳng theo
rãnh me và cắm ngập chân vào trong nền. Đối với vòng vây hình chữ nhật, xuất phát từ hai góc của vòng
vây còn đối với vòng vây có hình tròn hoặc elíp thì có thể bắt đầu từ một vị trí bất kỳ của vòng vây.
6- Tại điểm hợp long, đo cụ thể khoảng hở còn lại để chế tạo cọc khép mối và tiến hành khép kín mối nối .
7- Dùng búa rung rung hạ cọc ván, đi lần lượt từ một góc cho hết một lượt xung quanh vòng vây, chiều sâu
hạ giữa các cọc không chênh nhau quá 1m.
Chú ý:
+Với trường hợp đóng ở trên cạn, cọc ván thép dùng làm tường ván ổn định vách hố móng hoặc
vách tường hào thì không cần tổ hợp và xảm me giữa các cọc
+Trường hợp ở dưới nước nếu việc di chuyển búa rung xung quanh vòng vây nhiều lần gặp khó
khăn, hoặc do biện pháp tổ chức thi công mà vòng vây cọc ván thép không khép kín được ngay mà phải để
trống một hoặc hai mặt ván, sau khi thực hiện những nội dung công việc trong vòng vây mới tiến hành ghép
và đóng nốt những mặt ván còn lại. Khi đó, áp dụng biện pháp hạ cọc ván thép không qua ghép trước để
khép kín vòng vây.
+Để ngăn không cho nước thâm nhập vào hố móng từ các phía, sau khi hạ vòng vây tiến hành đổ lớp
bê tông bịt đáy trong khi nước vẫn còn ngập đầy trong hố móng. Sau khi bơm cạn nước, ở phía dưới đáy
móng chịu một áp lực đẩy nổi do lực đẩy Acximet tác dụng, nếu trọng lượng khối bê tông bịt đáy không đủ
lớn nền sẽ bị đẩy trồi lên.
Qua đó ta thấy lớp bê tông bịt đáy có vai trò sau đây:
•Giữ ổn định nền phía dưới đáy móng chống áp lực đẩy nổi.
•Ngăn kín nước từ phía đấy hố móng.
•Tạo mặt bằng thi công bệ móng.
Chiều dày lớp bê tông bịt đáy được xác định căn cứ vào khả năng chống áp lực đẩy nổi của nước, không
đ-ợc nhỏ hơn 1m để đảm bảo chất lượng đổ bê tông dưới nước.
18

Câu 8. Cấu tạo thùng chụp không đáy và biện pháp thi công thùng chụp? khi nào cần sử dụng thùng
chụp và khi nào sử dụng vòng vây(cọc ván thép)?
Trả lời 1: sử dụng slide các công trình phụ trợ của thầy giáo Vũ Quang Trung - Trang 67 đến 76.
Sử dụng thùng chụp khi:
- Chu vi khu vực thi công không quá lớn
- Đáy mặt bằng bằng phẳng
- Thường sử dụng trên nền đá- khi không đóng được cọc ván thép
Trả lời 2:
8.1.aSử dụng vòng vây cọc ván thép khi:
+điều kiện ngập sâu rên 10m nước, kích thước vòng vây không hạn chế, kết cấu gọn ít chắn dòng.
+ tầng đất đủ dầy cho phép đóng ngập với độ sâu sao cho không bị xói hở chân cọc.
b.Sử dụng thùng chụp không đáy thay thế vòng vây cọc ván thép khi:
- Chu vi khu vực thi công không quá lớn
- Đáy mặt bằng bằng phẳng
- Thường sử dụng trên nền đá- khi không đóng được cọc ván thép- không cần đóng sâu vào nền mà
vẫn giữ ổn định, chỉ cần đặt tựa trên mặt nền
- Hố móng đào vào nền đá bên trên không có lớp đất phủ hoặc lớp phủ này mỏng không đủ để giữ ổn
định chân cọc thì khi đó vòng vây ngăn nước chỉ có thể là thùng chụp.
8.2.Thùng chụp không đáy:
a- Cấu tạo:
+Thùng chụp là một khối hộp gồm bốn mặt bên ghép từ các tấm thép, được tăng cường bởi hệ
thống khung sườn và kết cấu giằng hạ xuống sát đáy quây kín xung quanh khu vực thi công.
+Kết hợp với lớp bê tông bịt đáy, thùng chụp có tác dụng ngăn kín nuớc, có thể bơm cạn nước để thi
công. Kích thước của thùng chụp bằng kích thước của bệ móng cộng thêm mỗi chiều 100 -150mm.
+Có hai dạng thùng chụp: loại ghép từ các tấm ván định hình và loại ghép từ các tấm cọc ván.
Cấu tạo của thùng chụp ghép từ các tấm ván định hình.
+Các tấm ván để ghép thành thùng chụp có kích thước và cấu tạo thống nhất nhau để có thể lắp lẫn
được.
+Cấu tạo của mỗi tấm ván thép bao gồm tôn lát chiều dày d=2,5-5mm, xung quanh đóng khung cạp
mép bằng thép góc. Trên cánh đứng của thép góc ở bốn cạnh ván có khoan các lỗ ở những vị trí thống nhất

để có thể liên kết các tấm lại với nhau bằng bu lông. Tôn lát được tăng cường bằng hệ sườn đứng và sườn
ngang.
+Ghép các tấm ván này lại với nhau thành bốn mặt phẳng của thành hộp bằng bu lông có đệm bằng
gioăng cao su. Các thành hộp liên kết với nhau tại bốn góc bằng
thép góc liên kết
+Nếu ghép để mặt ván phẳng quay ra phía ngoài, thì liên kết ván với hệ thống khung giằng dễ
dàng nhưng khi đổ lớp bê tông bịt đáy, sườn tăng cường của các tấm phía dưới cùng sẽ chôn chặt vào lớp
bêtông này không thể lấy lên được. Nếu ghép mặt phẳng quay vào trong, khả năng có thể lấy được tất cả các
tấm ván lên khi dỡ thùng chụp nhưng phải hàn thêm các bản tiếp điểm để liên kết hệ khung chống bên trong.
b-Thi công hạ thùng chụp
19
+Thùng chụp được ghép sẵn ở trên bờ rồi hạ xuống hệ nổi và kéo ra vị trí hoặc được ghép trên sàn
đạo ngay tại vị trí thi công tùy điều kiện thi công cụ thể của công trường.
+Thùng chụp là một kết cấu lớn, khi hạ xuống nước phải chú ý đến lực đẩy của nước lên thùng rất
mạnh có thể làm lật đổ hoặc kéo trôi thiết bị cẩu hạ thùng. Để tránh sự cố này không được dùng cần cẩu tay
với thông dụng để hạ mà phải dùng cần cẩu nổi có sức nâng lớn và độ ổn định cao hoặc dùng giá long môn
kết hợp với hệ thống tời múp để hạ.
+Trước hết dùng gầu đào hoặc máy xói hút để nạo vét, san cho đáy sông tương đối bằng phẳng
không bị nghiêng dốc và tạo thành hố móng rộng có chiều sâu khỏang 0,5m so với địa hình xung quanh.
+Hệ nổi chở thùng chụp được neo ở các góc đảm bảo đứng cố định tại vị trí.
+Trên hệ nổi dựng giá long môn để treo móc cẩu và múp.
+ Hạ thùng chụp. Sau khi thùng chụp được hạ xuống sát đáy, dùng các bao tải chứa cát hoặc vữa bê
tông thả xuống xếp chèn xung quanh mép ngoài của thùng chụp gọi là lớp chân khay, lớp này vừa có tác
dụng kê chèn giữ cho thùng chụp ổn định vừa có tác dụng bịt kín những chỗ hở dưới chân mép thùng để
khi đổ lớp bê tông bịt đáy vữa bê tông không bị đùn chảy ra ngoài.
+Đổ lớp bê tông bịt đáy bằng biện pháp đổ bê tông dưới nước, sau đó bơm nước từ thùng ra ngoài để
thực hiện công việc khác.
Câu 9. Các loại đà giáo dùng trong thi công cầu, phạm vi áp dụng?
Trả lời 1: Sử dụng slide các công trình phụ trợ của thầy giáo Vũ Quang Trung- Trang 85
Trả lời 2: Các loại đà giáo trong thi công cầu và phạm vi áp dụng :

9.1. Phân loại theo phương pháp thi công:
a) Đà giáo dùng cho đúc tại chỗ kết cấu nhịp cầu bê tông cốt thép.
+Sử dụng biện pháp đúc tại chỗ phải xét đến kỹ thuật lắp dựng đà giáo và chế tạo ván khuôn, hai
công đoạn này quyết định chất lượng của công trình.
+Đà giáo có vai trò chống đỡ toàn bộ trọng lượng của khối vữa bê tông và cốt thép của công trình
khi bê tông chưa đông cứng, cốt thép còn rời rạc chưa phát huy được khả năng chịu tải.
+Cùng với đà giáo đỡ phía dưới, ván khuôn tạo nên dáng vẻ, kích thước và chất lượng của khối bê
tông cốt thép.
PVAD: Dùng cho đúc tại chỗ kết cấu nhịp cầu bê tông cốt thép. Phương pháp đúc tại chỗ áp dụng
rất rộng rãi đặc biệt là đối với những nhịp nhỏ hoặc là những nhịp rất lớn, cấu tạo phức tạp. Trong phương
pháp đúc tại chỗ áp dụng nhiều biện pháp công nghệ như : đúc tại chỗ trên đà giáo cố định, đúc trên đà giáo
di động và đúc hẫng, với mỗi công nghệ có một dạng đà giáo, đà giáo có thể được chế tạo thành một kết cấu
đồng bộ và được coi như một thiết bị chuyên dụng.
b) Đà giáo dùng trong công nghệ thi công lắp tại chỗ kết cấu nhịp dàn thép.
Cầu dàn thép được lắp ráp từ các thanh ngay tại công trường, một trong những biện pháp thông dụng
là lắp tại chỗ theo sơ đồ hẫng cân bằng và bán hẫng.Biện pháp hẫng là biện pháp dựa vào phần nhịp đã lắp
để chịu tải trọng thi công và trọng lượng của phần lắp tiếp theo theo sơ đồ công xon. Để có thể lắp hẫng cần
có một vài khoang dàn được lắp sẵn trên đà giáo.
PVAD: sử dụng trong công nghệ thi công lắp tại chỗ kết cấu nhịp dàn thép. Dàn thép dùng trong
các cầu vượt nhịp lớn, tính thẩm mĩ cao.
20
9.2 Phân loại theo vật liệu: căn cứ vật liệu kết cấu chính của đà giáo là dầm chủ chịu lực, ta chia 2 loại: đà
giáo thép và đà giáo gỗ. Trên thực tế sử dụng kết cấu kết hợp giữa hai loại vl.
9.3 Phân loại theo cấu tạo: Theo cấu tạo, đà giáo phân làm bốn loại :
1- Đà giáo cố định là loại đà giáo được lắp dựng tại chỗ và khi di chuyển đến vị trí sử dụng khác phải
tháo dỡ hoàn toàn. Đà giáo cố định là kết cấu được thiết kế đơn chiếc phù hợp với từng điều kiện thi
công cụ thể, cho một công trình cụ thể.
2- Đà giáo mở rộng trụ, là một dạng đặc biệt của đà giáo cố định nhưng được lắp tạm vào hai phía trụ
cầu, tựa hoàn toàn hoặc một phần lên kết cấu trụ.
3- Đà giáo di động là loại dà giáo có khả năng di chuyển đến vị trí sử dụng mới mà không cần tháo dỡ

hoàn toàn. Đà giáo di động được thiết kế như một dạng thiết bị chuyên dụng, có khả năng áp dụng rộng
rãi cho nhiều công trình, phù hợp với nhiều điều kiện thi công.
4- Đà giáo treo là đà giáo mà kết cấu chính của nó để đỡ kết cấu nhịp cầu nằm phía trên. Đà giáo treo
được sử dụng với mục đích để dễ di chuyển và thuộc loại đà giáo di động.
Tùy theo điều kiện thi công mà áp dụng loại đà giáo cho thích hợp
Câu 10. Cấu tạo trụ tạm?
Trả lời:
Cấu tạo trụ tạm.
Tương tự như cấu tạo của trụ cầu nói chung, trụ tạm cũng bao gồm: móng tạm, thân trụ và xà mũ trụ.
a- Móng tạm có hai loại : móng khối trên nền thiên nhiên và móng cọc.
+Móng khối trên nền thiên nhiên dùng cho những trường hợp nền đất từ loại cát hạt thô và sét pha
nửa cứng trở lên, không bị ngập hoặc ngập nông. Nếu nền đất là cát nhỏ bão hòa nước hoặc đết sét dẻo cần
gia cố bằng cách đóng cọc tre. Móng khối làm bằng rọ đá xếp chồng lên nhau, kích th-ớc đáy móng sao cho
áp lực đáy p không v-ợt quá 0.3 Mpa. Trên mặt bệ móng đặt tà vẹt để liên kết với thân trụ.
+Móng cọc dùng cọc gỗ hoặc cọc thép. Hiện nay ít dùng cọc gỗ mà phổ biến là dùng cọc thép bằng
các thanh ray cũ hoặc cọc thép chữ H, cọc ống thép. Những móng cần sức chịu tải lớn có thể dùng cọc
BTCT và đổ bê tông bệ cọc.
21
Bệ móng cọc tạm bằng thép thông thường được cấu tạo theo dạng xà mũ. Trước hết dùng dầm I
gác trên các đầu cọc đóng thẳng hàng và liên kết bằng bu lông hoặc hàn vào các đầu cọc. Những dầm này
vừa có vai trò giằng các đầu cọc vừa là đà ngang truyền lực lên cọc. Bên trên hàng dầm ngang đầu cọc đặt
các bó dầm I làm thành mặt sàn để dựng thân trụ.
Nhất thiết phải bố trí cao độ của mặt sàn cao hơn MNTC 0,5m để lắp dựng trụ được thuận lợi, đồng
thời bảo vệ kết cấu palê, sử dụng được nhiều lần.
b- Thân trụ:
Trụ gỗ, sử dụng gỗ cây có đường kính gốc d= 18-28 cm hoặc gỗ xẻ. Các thanh gỗ ghép sẵn thành
khung hình thang, không bị biến hình, đủ cứng và chắc chắn có thể chịu lực độc lập gọi là palê đơn. Các
palê đơn ghép đôi với nhau bằng liên kết ngang thành palê kép.
Trụ thép được chế tạo từ các thanh thép hình,I, [ hoặc L và cũng liên kết thành từng khung phẳng
gọi là palê thép. Ở những đơn vị thi công cầu chuyên nghiệp thường luôn sẵn có bộ kết cấu vạn năngchuyên

dụng cho đà giáo và trụ tạm thì kết cấu của trụ đều ghép từ các thanh của bộ vạn năng.
Kích thước của trụ tạm :
- Chiều cao trụ bằng cao độ đáy đà giáo trừ đi cao độ đỉnh móng tạm và trừ đi
50- 70 cm là chiều cao của các bộ phận kê đệm
- Chiều rộng theo phương dọc cầu xác định theo yêu cầu công nghệ, và theo số mặt phẳng palê cần
ghép để đáp ứng chịu lực
- Chiều dài của trụ tạm theo phương ngang cầu phụ thuộc cấu tạo hệ dầm chủ của đà giáo gác lên trụ.
Nếu trụ tạm độc lập không có đà giáo thì chiều dài này căn cứ theo thiết kế mặt bằng thi công trên trụ tạm.
c- Xà mũ trụ:
Xà mũ của trụ pa lê là dầm chịu uốn để gối các dầm chủ đà giáo. Nếu trụ tạm lắp từ các thanh của bộ
kết cấu vạn năng thì xà mũ phải được đặt trên hệ dầm truyền lực và các con kê bằng gỗ hoặc thép để sao cho
lực chỉ truyền lên trụ thông qua các nút của dàn vì các thanh chỉ làm việc chịu kéo nén dọc trục, không chịu
uốn.
22
Câu 11. Trình bày 1 số dạng kết cấu vạn năng thông dụng? ứng dụng. cấu tạo từng loại?
Trả lời:
Kết cấu vạn năng(KCVN) là những bộ kết cấu thép chuyên dụng đ-ợc chế tạo
định hình theo một tiêu chuẩn thống nhất, các chi tiết trong bộ kết cấu có thể lắp ráp lại với nhau thành nhiều
hình thức để được những dạng kết cấu có cấu tạo phù hợp
với mục đích sử dụng khác nhau.
11.1 Kết cấu UYKM
a) Cấu tạo :
Bộ kết cấu này theo thiết kế của Liên xô (cũ) gồm 71 bộ phận, chủ yếu là thép góc. Tuy gọi theo định hình
Liên xô song chúng được dùng phổ biến ở nước ta, kết cấu không phức tạp, dễ chế tạo và dễ sử dụng.
- Các thanh mạ dài suốt 2 ô : L125x125x10; l =3994mm; m=76,4kg
- Các thanh đứng: L125x125x10; l =1994mm; m= 36kg
- Các thanh chéo chịu lực : L100x100x10, l=2290mm, m=30kg
- Các thanh chéo liên kết : L75x75x8, l=2290mm, m=21.8kg.
- Các thanh giằng ngang :L75x75x8, l=1994mm, m= 18.9kg
Hệ dầm dọc I550,hệ dầm ngang [30, và các thanh liên kết của hệ dầm bằng L100x100x10 cùng các phụ kiện

của hệ dầm.
Các bản nút hệ dàn, bản đệm,bu lông thô phi 20.
Các thanh lắp với nhau thành sơ đồ không gian với các ô vuông có kích thước
2000x2000mm. Theo yêu cầu chịu lực mà các thanh mạ và thanh đứng có thể ghép 2,3 hoặc 4 thép góc thành
một tiết diện tổ hợp. Các bản liên kết là những tấm phẳng nh-ng có thể ghép lại thành bản nhiều cạnh để liên
kết những đầu thanh đi về mọi h-ớng. Dầm I550 đi kèm có thể ghép lại với nhau thành bó dầm gồm 2 hoặc 3
dầm để làm dầm chủ cho đà giáo hoặc xà mũ cho trụ tạm
b) Ứng dụng:
Kết cấu lắp từ các thanh UYKM rất phong phú, khi cần một dạng nào tr-ớc tiên cần sơ họa sơ đồ cấu
tạo, sau đó tính toán nội lực để chọn số hiệu và tổ hợp mặt cắt thanh rồi cuối cùng chọn bản liên kết để nối
ghép các thanh lại thành kết cấu.
Một số dạng kết cấu phụ trợ được lắp từ các thanh UYKM
- Đà giáo,cầu tạm : lắp thành dàn chạy trên chiều cao 2 và 4m khẩu độ đến 24m và
dàn chạy dưới khẩu độ đến 20m.
- Trụ tạm : kết cấu trụ tạm rất đa dạng, chiều cao có thể đến 16 ữ 20m.
- Đà giáo mở rộng trụ: dùng cho công nghệ đúc hẫng, lắp hẫng cầu BTCT và lao lắp
cầu dàn thép.
- Giá lao cầu: dùng để cẩu lắp các phiến dầm cầu BTCT lắp ghép chiều dài 24ữ 35m thay cho những loại giá
lao dầm chuyên dụng.
- Cần cẩu long môn.
- Cần cẩu nổi.
23
- Trụ nổi : lắp dựng thành các dạng trụ đỡ đặt trên hệ nổi dùng cho lao dọc hoặc lao ngang kết cấu nhịp cầu
bằng biện pháp chở nổi.Có thể sử dụng các thanh UYKM để lắp thành những cần cẩu chuyên dụng có sức
nâng lớn mà những cần cẩu thông dụng không thể đáp ứng.
11.2- Kết cấu trụ tạm MUK
Đây cũng là một dạng kết cấu định hình tiêu chuẩn của Liên xô (cũ) chuyên dùng để làm đà giáo và
trụ tạm. Kết cấu gồm các thanh dạng cột đường kính
Φ
159 và

Φ
203mm, chiều dài thanh 2000 và 4000mm.
Hai đầu thanh có cấu tạo mặt bích và 4 tai nối với 4 thanh giằng theo 4 hướng. Các thanh giằng ngang và
giằng chéo đường kính
Φ
95 và
Φ
159 có chiều dài định sẵn 1510 và 3820 mm, hai đầu có tấm nối dùng để
giằng ổn định các cột. Ghép các cột với nhau thành trụ tạm pa lê với cự li các cột cách nhau 2,0m dùng cho
các mục đích sử dụng khác nhau trong công nghệ thi công cầu. Trong bộ định hình này còn có các đoạn dầm
I550, kết hợp để làm xà mũ và bệ móng đồng thời có các thanh thép I550 để làm dầm tạm.
Ứng dụng tương tự UYKM
11.3. Giàn Bailey
Là bộ kết cấu định hình bằng thép, được lắp ghép các cấu kiện lại với nhau một cách nhanh chóng để
tạo thành kết cấu nhịp dùng cho cầu tạm, hoặc cột cho trụ
tạm. Dạng kết cấu này đ-ợc dùng phổ biến ở Anh, Mỹ và các n-ớc Tây Âu, đ-ợc dùng trong công binh của
quân đội khối NATO. ở n-ớc ta dầm Bailey đ-ợc dùng nhiều trong cầu tạm đảm bảo giao thông.
Các bộ phận trong dầm cầu Bailey gồm có :
1 -Khung dàn ( panel) liên kết với nhau bằng 4 chốt ở 4 góc
2-Tấm liên kết : dùng để liên kết các mặt phẳng panel lại với nhau
3- Dầm ngang dầm I250, chiều dài 5,97m gác tại vị trí thanh đứng
4-Thanh Ram-dầm dọc
5-Tấm lát.
6- Các phụ kiện khác : chốt, móc dầm ngang, tăng đơ giằng, gối cầu
24
Câu 12. Vai trò hệ nổi trong thi công cầu , cấu tạo hệ nổi?
12.1 Vai trò của hệ nổi trong thi công cầu :
Thi công cầu là loại công việc mà nhiều hạng mục phải tiến hành ở trên điều kiện sông nước, để thực
hiện được những công việc này cần thiết phải có các thiết bị nổi. Hệ nổi là cách gọi chung cho kết cấu chịu
lực có khả năng nổi và di chuyển trên mặt nước. Hệ nổi dùng trong thi công cầu với ba mục đích chính :

a-Tạo mặt bằng thi công trên mặt nước.
Tạo mặt bằng thi công trên mặt nước là mục đích rất quan trọng, nó có ưu điểm là
cơ động và kinh tế hơn rất nhiều so với đắp đảo nhân tạo hay làm sàn đạo,áp dụng được khi chiều sâu ngập
nước đủ lớn đảm bảo cho hệ nổi không bị mắc cạn trong quá trình thi công. Tác dụng:
o lắp dựng giá nơi tập kết vật tư và thiết bị thi công
o làm chỗ đứng làm việc của máy đào, của cần cẩu.
o đặt được trạm trộn bê tông tại chỗ có năng suất đủ cấp vữa cho thi công từng bộ phận của trụ
cầu.
o chỗ nghỉ của công nhân trong ca làm việc
o có thể còn sử dụng để xây dựng lán trại nổi cho công nhân.
b-Làm phương tiện vận chuyển trên sông phục vụ thi công.
c-Lắp các thiết bị treo, trục để làm thành phương tiện trục vớt.
Để cẩu trên sông, cần cẩu thông dụng được đưa xuống hệ nổi và xếp tải sao cho khi cần cẩu làm
việc với tải trọng treo trên móc cẩu ở tầm với xa nhất, độ nghiêng của cả hệ vẫn nằm trong phạm vi cho
phép. Khi cẩu nâng những kết cấu lớn như thùng chụp, kết cấu nhịp, cần phải có cần cẩu nổi chuyên dụng
được lắp sẵn trên hệ sà lan
d-Làm trụ nổi dùng cho lao kéo kết cấu nhịp.
12.2- Cấu tạo hệ nổi :
Hệ nổi bao gồm: phao, hệ dầm phân phối lực trên mặt boong, hệ thống neo và kéo dắt, hệ thống điều
tiết n-ớc trong các ngăn phao và kết cấu chuyên dụng lắp dựng trên phao.

a-Phao có hai dạng : dạng thứ nhất là ghép từ các phao đơn, dạng thứ hai là dùng một xà lan hoặc ghép
nhiều xà lan lại với nhau. Các phao đơn được chế sẵn theo một kết cấu và kích thước định hình sao cho đủ
độ cứng khi chuyên chở, ổn định khi dùng đơn chiếc và có thể ghép lại được với nhau thành xà lan kích
thước lớn.
Phao KC theo định hình của Liên xô (cũ) có kích thước 1,8x3,6x7,2 m. Các phaocó thể ghép kề
thành vào nhau theo chiều cao 1,8m và ghép đứng úp mặt vào nhau để có chiều cao 3,6m. Xà lan đ-ợc chế
tạo theo sức chở ( trọng tải) : từ 200 đến 1200 Tấn. Bộ phận chịu lực chính của phao đơn là hệ khung suờn
bao quanh các mép phao và đan ngang dọc bên trong các mặt phao
Các phao nối với nhau được liên kết theo các mặt bằng trên boong, ở mặt đáy phao, hai đầu phao và

hai bên thành phao bằng bulong liên kết.
b- Hệ dầm phân phối lực trên mặt boong
Khi chất tải lên phao không được đặt tải trực tiếp lên mặt tôn mà phải thông qua hệ thống dầm
truyền lực
c- Hệ thống neo và kéo dắt, hệ thống điều tiết nước trong các ngăn phao
25

×