LUẬT DÂN SỰ LA MÃ
NGUYỄN ĐÌNH HUY
TÀI LIỆU NÀY TRÌNH BÀY: 1.BÀI GIẢNG
2. BÀI TẬP THAM KHẢO CÓ LỜI GIẢI
3.TÀI LIỆU KHÁC CỦA THẦY HUY
MÌNH SƯU TẦM ĐƯỢC
4.ĐỀ THI GIỮA KỲ
5.ĐỀ THI CUỐI KỲ
I.LÝ THUYẾT
YÊU CẦU:
-LUẬT LA MÃ - NGUYỄN NGỌC ĐIỆN
-LÊ NẾT
Luật 12 bảng được ban hành năm 449 TCN, vì có 12 điều được khắc trên 12 bảng, mỗi bảng là
1 điều, được trao ở các nơi công cộng.
Lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 40 SCN
BÀI 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT LA MÃ
Lịch sử nhà nước La Mã cổ đại được chia thành 3 giai đoạn:
-TK V TCN- 510 TCN: quân chủ chuyên chế (hoàng đế đứng đầu).
-510 TCN-27 TCN: Nghị viện La Mã hoặc Cộng Hòa La Mã (1 tập thể 10 người đứng đầu).
27 TCN- TK VI SCN: Quân chủ độc đoán, vị hoàng đế JUSTINIAN : NỔI TIẾNG, NHÀ LẬP PHÁP VĨ ĐẠI.
1.Khái niệm luật La Mã:
Thuật ngữ luật La Mã được hiểu dưới rất nhiều nghĩa khác nhau:
-Là luật pháp của nhà nước La Mã cổ đại kéo dài trong suốt 13 TK từ TK VII TCN- TK VI SCN.
1
-Là truyền thống luật La Mã trong lịch sử luật pháp Châu Âu dựa trên bộ luật JUSTINIAN.
-Được hiểu là luật thông dụng (thành văn) được áp dụng vào thời kỳ trung cổ ở hầu hết các nước Châu
Âu.
-Luật La Mã là khoa học về luật La Mã, là 1 môn học trong hầu hết các trường đại học luật trên thế giới.
-Được hiểu là chủ nghĩa La Mã ROMANISM như là 1 trường phái luật pháp theo xu hướng bảo tồn
những nguyên tắc và giá trị của luật La Mã.
-Câu nói của ANGEN: Luật La Mã là hình thức pháp luật hoàn thiện nhất dựa trên cơ sở tư hữu, sự thể
hiện pháp lý những điều kiện sống và những xung đột trong xã hội trong đó thống trị tư hữu mà những
nhà làm luật sau đó không thể mang thêm điều gì hoàn thiện hơn.
2.Hệ thống luật La Mã:
-Dựa vào chủ thể áp dụng:
Luật La Mã được chia làm 2 loại: +Jus civilis: luật chỉ áp dụng cho những người là công dân La Mã (ở La
Mã 98% là nô lệ, còn lại là công dân).
+Jus GENTIUM: là luật chung được áp dụng bắt đầu từ TK thứ III SCN.
-Dựa vào phạm vi điều chỉnh:
+Jus publicum: luật công hay công pháp.
+Jus privatum: luật tư hay tư pháp.
3. NGUỒN CỦA LUẬT LA MÃ
Có 5 loại nguồn:
-Tập quán pháp:tập quán được công nhận là nguồn của luật La Mã, là những xử sự của xã hội La Mã
được áp dụng rộng rãi, phổ biến phù hợp vói lợi ích của nhà nước (hoàng đế) nên được nhà nước thửa
nhận và trở thành quy tắc xử sự bắt buộc chung cho tất cả mọi người.
-Các văn bản pháp luật: do cơ quan nhà nước ban hành, các văn bản này có thể gồm nhiều điều luật
hoặc cũng có thể chỉ 1 điều luật để điều chỉnh những quan hệ trong xã hội tiêu biểu có các văn bản sau
đây:
+Thế kỷ thứ V TCN có 50 văn bản về hợp đồng(chưa có hợp đồng bảo hiểm)
+Thế kỳ thứ IV TCN có các văn bản về giải phóng và hủy bỏ việc mua bán nô lệ, xóa nợ nếu chủ nợ đánh
chết con nợ.
2
+Thế kỷ thứ III TCN có văn bản về bổi thường thiệt hại
+Thế kỷ I TCN có văn bản về hạn chế khước từ thừa kế theo di chúc.
+Sau CN có các hệ thống hóa pháp luật của các hoàng đế La Mã.
-“Hiến pháp”: đây là những quyết định tồi cao của hoàng đế, những quyết định này có thể hủy bỏ bất kỳ
văn bản pháp luật nà, hoàng đế có các quyết định sau:
+Chiếu chỉ: Cho tất cả thường dân
+Sắc chỉ (chỉ thị): giải quyết từng việc cụ thể.
+Sắc dụ (lệnh): áp dụng cho các quan.
+Sắc lệnh: giải quyết những vụ việc cụ thể.
-Quyết định của quan tòa, quan chấp chính: trong quá trình giải quyết các tranh chấp phát sinh trong
thực tế mà chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh thì quan tòa, quan chấp chính có quyền ra quyết
định theo ý chí chủ quan của mình nhưng phải phù hợp với tập quán và lợi ích của hoàng đế, những
quyết định này trở thành quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung cho tất cả mọi người.
-Hoạt động của luât gia La Mã: GAI, PAVEL, MODESTIN, ULPIAN, PAPINIAN, các luật gia La Mã có 2 loại
hoạt động:
+Hoạt động thực tiễn bao gồm hoạt động tư vấn pháp luật cho công dân, đại diện cho công dân tranh
tụng hoặc các dịch vụ khác: viết di chúc, soạn thảo hợp đồng.
+Hoạt động sáng tạo pháp luật bao gồm các công trình nghiên cứu , các bài viết giải thích pháp luật, xây
dựng các dự án luật: tiêu biểu có các tác phẩm sau đây: tuyển tập giải thích pháp luật của các luật gia,
sách giáo khoa của trường trung cấp luật La Mã, tuyển tập về hỏi đáp pháp luật của các luật gia.
-Hệ thống hóa các văn bản pháp luật của các hoàng đế La Mã (pháp điển hóa).
Năm 523 Hoàng đế JUSTINIAN thành lập ra hội đồng tư vấn gồm các giáo sư luật nổi tiếng để tập hợp
các văn bản pháp luật từ TK VII TCN, hội đồng tư vấn gồm 2 bộ phận, 1 bộ phận hệ thống hóa các văn
bản pháp luật, 1 bộ phận hệ thống hóa các công trình của luật gia La Mã, công việc bắt đầu từ năm 528,
kết thúc vào năm 534 SCN, Hoàng đế JUSTINIAN đua ra 3 quan điểm về hệ thống pháp luật:
+Rõ ràng về nội dung
+Chuẩn xác về khái niệm
+Dễ áp dụng
3
Năm 534 Hoàng đế JUSTINIAN ban hành đạo luật bảo tồn hệ thống gồm 12 tuyển tập, những hệ thống
này bao gồm các quy phạm pháp luật La Mã hoàn chỉnh được áp dụng đến TK X, từ TK XI-XV mới bắt đầu
có sửa đổi, bổ sung.
Những hệ thống này là cơ sở luật pháp của nhà nước Ý hiện đại và có ảnh hưởng vô cùng sâu rộng đến
hệ thống pháp luật của hầu hết các nước trên Thế giới.
BÀI 2: CHỦ THỂ CỦA LUẬT LA MÃ
I.KHÁI NIỆM.
- Chủ thể của luật La Mã rất hạn chế địa vị pháp lý của các chủ thể không bình đẳng.
- Chủ thể của luật La Mã là những người trực tiếp tham gia vòa các quan hệ mà bản thân họ có các
quyền và nghĩa vụ từ quan hệ đó đồng thời họ phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình.
-Chủ thể gồm năng lựpháp luật và năng lực hành vi.
+Năng lực pháp luật :( khả năng có quyền và nghĩa vụ)
Người có năng lực pháp luật phải hội tụ 3 điều kiện sau đây:
1) STATUS LIBERATIS :tự do
2) STATUS CIVITATIS :công dân
3) STATUS FAMILIAL : gia chủ.
+Năng lực hành vi:
Là khả năng của 1 người bằng hành vi của chính mình xác lập thực hiện quyền và nghĩa vụ, pháp luật
La ã chia năng lực hành vi thành 3 mức độ dựa trên độ tuổi và khả năng nhận thức:
1) Không có năng lực hành vi: tất cả những người dưới 7 tuổi và những người bị điên là
những người không có năng lực hành vi, những người này không được phép tham gia vào
các giao dịch kể cả các giao dịch có lợi cho họ trừ thừa kế.
2) Năng lực hành vi 1 phần: nữ từ 7 đến 12 tuổi, nam từ 7 đến 14 tuổi, những người này
được tham gia vào các giao dịch có lợi cho mình mà không phải gánh chịu nghĩa vụ nhưng
đối với các giao dịch làm phát sinh nghĩa vụ tài sản hoặc chấm dứt quyền tài sản thì phải
được sự đồng ý của người giám hộ.
3) Năng lực hành vi toàn phần: nữ từ 12 tuổi, nam từ 14 tuổi trở lên và không bị điên đến
25 tuổi, về nguyên tắc đây là những người có năng lực hành vi toàn phần nhưng nếu họ
vẫn phụ thuộc vào gia chủ thì khi thực hiện các giao dịch làm phát sinh nghĩa vụ tài sản
4
hoặc chấm dứt quyền tài sản thì vẫn phải có sự đồng ý của gia chủ.
II. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÔNG DÂN LA MÃ.
-Công dân La Mã là những người có quốc tịch La Mã, quốc tịch La Mã được xác lập trong các
trường hợp sau:
+ Sinh ra từ công dân La Mã.
+ Trả tự do cho nô lệ từ công dân La Mã.
+ Tặng danh hiệu công dân La Mã cho người nước ngoài.
- Công dân La Mã có đầy đủ các quyền về nhân thân và tài sản và các quyền chính trị trong 1 số
trường hợp quốc tịch La Mã bị tước đối với những người phạm trọng tội, bị kết án tù chung
thân hoặc tử hình, bị xung vào làm nô lệ, bị bắt làm tù binh.
III. NGƯỜI LATINH VÀ NGƯỜI NGOẠI QUỐC.
-Người La Mã và người LaTinh sống gần nhau nhưng nhà nước của người La Mã xuất hiện sớm
hơn , TK thứ II TCN La Mã bị quân Phổ xâm lược vì vậy người La Mã phải liên minh với người
LaTinh để chống lại quân Phổ, dần dần sau đó nhà nước La Mã cho phép người LaTinh nhập quốc
tịch La Mã, người LaTinh cũng giống như người ngoại quốc sống trên lãnh thổ La Mã nếu không
có quốc tịch thì bị tước mất quyền dân sự quan trọng nhất, đó là quyền định đoạt bất động sản và
các quyền chính trị, bầu cử, ứng cử.
- Từ TK III SCN luật pháp La Mã công nhận tất cả những người LaTinh, người ngoại quốc sống
trên lãnh thổ La Mã đều là công dân La Mã.
IV.NÔNG NÔ VÀ TÁ ĐIỀN
-Về nguyên tắc là những người tự do, tá điền là những người có nhà cửa nhưng không có ruộng
đất nên phải thuê đất và nộp tô thuế, nông nô là những nô lệ được giải phóng nhưng không có tài
sản, không có ruộng đất nên phải làm thuê cho chủ cũ và hoàn toàn phụ thuộc vào chủ cũ, không
được thưa kiện và phải cấp dưỡng trong trường hợp chủ cũ bị phá sản.
V. “PHÁP NHÂN”
- Sự phát triển rực rỡ về kinh tế, văn hóa, xã hội đã làm xuất hiện nhiều nghề nghiệp mới cùng với
sự xuất hiện của đạo thiên chúa trên lãnh thổ La Mã, xuất hiện nhiều nhà thờ và nhiều công trình
xây dựng khác: rạp hát, nhà trọ, các nghiệp đoàn mai tán , các tổ chức này có tài sản riêng, tổ
chức riêng, tên gọi riêng và nhân danh tên mình tham gia vào các quan hệ.
5
BÀI 3: VẬT QUYỀN
I.KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI TÀI SẢN
Đối với người La Mã tài sản không chỉ là những vật chất mang lại lợi ích cho cuộc sống con
người mà còn có ý nghĩa xã hội.
II.KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI VẬT QUYỀN.
1.KHÁI NIỆM
-Vật quyền khác trái quyền( vật quyền là quyền đối vật còn trái quyền là quyền đối nhân)
-Vật quyền là quyền của 1 chủ thể thông qua hành vi của chính mình tác động vào tài sản theo
ý chí của mình mà không bị phụ thuộc ý chí của người khác nhằm thỏa mãn lợi ích của bản
than.
-Trái quyền là quyền của chủ thể được thực hiện thông qua hành vi của chủ thể khác.
2.PHÂN LOẠI.
Có 3 loại vật quyền:
-Chiếm hữu
-Quyền sở hữu
-Quyền đối với tài sản của người khác
III.CHIẾM HỮU( POSSESSIO)
-Cần phải phân biệt chiếm giữ thực tế với chiếm hữu bởi vì không phải mọi sữ chiếm giữ thực
tế đều là chiếm hữu, chiếm hữu phải thỏa mãn 2 điều kiện: thực tế chiếm giữ và ý chí chiếm
giữ (coi tài sản như là của mình).
-Chiếm hữu là nắm giữ, quản lý, chi phối tài sản theo ý chí của mình, không phụ thuộc vào ý
chí của người khác, coi tài sản đó như là của mình.
-Các loại chiếm hữu: hợp pháp và bất hợp pháp, bất hợp pháp gồm có bất hợp pháp ngay tình
và bất hợp pháp không ngay tình :
+Bất hợp pháp ngay tình là việc 1 người thực tế chiếm hữu vật bất hợp pháp nhưng không
biết và không thể biết sự chiếm hữu của mình là không có căn cứ.
+Bất hợp pháp không ngay tình việc 1 người thực tế chiếm hữu tài sản không có căn cứ biết
6
hoặc buộc phải biết sự chiếm hữu của mình là trái pháp luật nhưng vẫn cố tình chiếm hữu.
IV.QUYỀN SỠ HỮU
-Sở hữu lá quan hệ trọng tâm, quan hệ hạt nhân của mọi quan hệ xã hội, đối với người La Mã
quyền sở hữu lá quyền tối cao của 1 chủ thể trong xã hội, các nhà làm luật La Mã không đưa
ra 1 khái niệm chính xác về quyền sở hữu mà chỉ nêu ra những quyền năng của 1 chủ sở hữu.
-Có các loại quyền năng: +JUS UTENDI: QUYỀN SỬ DỤNG
+JUS FRUENDI:THU NHẬP THÀNH QUẢ
+JUS POSSIDENDI: CHIẾM HỮU
+JUS ABUTENDI: QUYỀN ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN.
+JUS VINDECANDI: KIỆN ĐÒI TÀI SẢN
-Căn cứ phát sinh quyền sở hữu: +Có 2 căn cứ làm phát sinh quyền sở hữu:
1.Nguyên sinh( tự nhiên): là quyền sở hữu của 1 chủ thể được xác lập không phụ thuộc vào
quyền sở hữu đối với đồ vật trước đó.
2.Phái sinh(kế tục): là căn cứ mà theo đó quyền sở hữu của 1 chủ thể được phát sinh theo ý chí
của chủ sở hữu đồ vật trước đó.
V.QUYỀN ĐỐI VỚI TÀI SẢN CỦA NGƯỜI KHÁC( JUSA IN RE ALIENA)
-Là quyền của 1 chủ thể không phải là chủ sở hữu tài sản nhưng có quyền sử dụng hoặc hưởng
dụng những lợi ích tài sản đó.
-Được thể hiện dười thuật ngữ: SERVITUS (QUYỀN DỤNG ÍCH) XUẤT PHÁT TỪ KHÁI NIỆM
SERVIS(DỊCH VỤ)
-Luật La Mã chia quyền dụng ích thành 2 loại:
+SERVITUS PRA EDIORUM( QUYỀN DỤNG ÍCH ĐẤT ĐAI HAY QUYỀN ĐẠI DỊCH) bao gồm
đất nông nghiệp và đất ở gồm các quyền:
a.Quyền có lối đi qua
b.Quyền dẫn nước, thoát nước
c.Quyền lất ánh sáng, không khí
7
d.Quyền được chăn dắt gia súc đi qua đất của người khác.
e.Quyền được lợi dụng tường nhà của người khác để xây nhà mình.
f.Quyền được sử dụng bong râm của người khác.
g.Quyền được sang đất người nhà bên cạnh để thu nhặt hoa quả.
+SERVITUS PERSONARUM: quyền dụng ích cá nhân hay quyền được sử dụng tài sản của
người khác suốt đời: các bên có thể thỏa thuận cho 1 người được sử dụng tài sản cho đến khi
chết, họ được hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản nhưng không được bán hoặc để lại thừa kế,
pháp luật cũng có quy định 1 số người không có quyền sở hữu nhưng được sử dụng tài sản
suốt đời.
BÀI 4: NGHĨA VỤ VÀ HỢP ĐỒNG
I.NGHĨA VỤ-OBLIGATIO
1.KHÁI NIỆM NGHĨA VỤ
-Theo quan điểm của hoàng đế JUSTINIAN nghĩa vụ là những ràng buộc pháp lý mà theo đó
chúng ta buộc phải làm 1 việc gì đó phù hợp với lợi ích của nhà nước chúng ta.
-Luật gia PAVEL cho rằng bản chất của nghĩa vụ không phải là ở chỗ đem lại cho chúng ta 1
vật hay 1 dụng ích ( SERVITUS) mà là buộc 1 người nào đó phải chuyển giao 1 vật hay là 1
việc gì đó cho chúng ta.
-Nghĩa vụ là 1 quan hệ giữa 2 hay nhiều người mà trong đó 1 bên có quyền yêu cầu bên kia
phải làm 1 việc hoặc không được làm 1 việc để đáp ứng nhu cầu của mình.
2.PHÂN LOẠI NGHĨA VỤ
-Luật gia GAI cho rằng nghĩa vụ đươc phát sinh hoặc là từ sự thỏa thuận hoặc là sự vi phạm,
học thuyết của hoàng đế JUSTINIAN phân chia nghĩa vụ thành 4 loại:
+EX CONTRACTU: nghĩa vụ phát sinh sự thỏa thuận(hợp đồng), khế ước :2 hay nhiều chủ thể
thỏa thuận với nhau và làm phát sinh 1 quan hệ nghĩa vụ.
+EX DELICTO: nghĩa vụ phát sinh từ vi phạm, do gây ra thiệt hại nếu 1 người có hành vi gây
thiệt hại cho người khác về thiệt hại cho người khác về tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm của người khác thì có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại và khắc phục
8
những hậu quả do hành vi của mình gây ra.
+QUASI EX CONTRACTU: nghĩa vụ phát sinh như từ thỏa thuận, chuẩ khế ước,chuẩn hợp
đồng: thuật ngữ này dùng để chỉ những loại nghĩa vụ không phát sinh từ hợp đồng nhưng vể
tính chất và nội dung thì giống với loại nghĩa vụ này, các loại nghĩa vụ này có thể là :
• Thực hiện công việc của người khác không có sự ủy quyền
• Được lợi tài sản không có căn cứ
+QUASI EX DELICTO: nghĩa vụ phát sinh như từ vi phạm, như gây ra thiệt hại, chuẩn vi
phạm: khi 1 người có hành vi hoặc tài sản đe dọa gây thiệt hại (chưa gây ra thiệt hại) về tính
mạng, tài sản, sức khỏe của người khác thì người bị đe dọa đó có quyền yêu cầu quan tòa
phạt người có hành vi, tài sản đe dọa đó 1 số tiền nhất định, số tiền phạt tối đa lên tới 50
nghàn Ao-xơ.
3.THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
Thực hiện nghĩa vụ không đúng thời hạn: 1.từ phía con nợ( người có nghĩa vụ)
2.từ phía chủ nợ( người có quyền)
-Việc con nợ chậm trễ thực hiện nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm nặng hơn nếu chủ
nợ không đốc thúc con nợ trong 1 số trường hợp không cần đến sự đốc thúc con nợ.
+Nếu đã thỏa thuận 1 ngày chính xác thì bản thân nó đã là sự đốc thúc con nợ rồi.
+Kẻ trộm luôn luôn bị coi là chậm trễ
-Việc chậm trễ thực hiện nghĩa vụ từ phía con nợ dẫn đến 1 số hậu quả pháp lý:
+Phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do sự châm trễ gây ra
+Nếu giá của đối tượng nghĩa vụ tăng thì con nợ phải trả cho chủ nợ phần tăng thêm đó.
+Nếu con nợ mang toàn bộ lợi nhuận thu được trả cho chủ nợ thì sẽ được giải phóng khỏi
trách nhiệm do chậm trễ thực hiện nghĩa vụ.
+Đối với ăn trộm thì phải trả giá gấp đôi.
-Ở thời kỳ đầu luật pháp La Mã thậm chí còn cho phép con nợ vứt bỏ đồ vật vay nợ nếu
chủ nợ không tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn và đỉa điểm như đã thỏa
thuận, về sau này trong trường hợp có sự chậm trễ từ phía chủ nợ luật pháp cho phép con
nợ có thể giao đồ vật vay nợ cho nh2 thờ hoặc quan tòa.
9
4.TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
-Là hậu quả xấu đối với các bên khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
của mình, trách nhiệm dân sự chủ yếu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại có nghĩa là sự
cưỡng chế vật chất nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu và khắc phục hậu quả xảy ra.
-Việc bồi thường thiệt hại phát sinh hội tụ 2 điều kiện:thiệt hại thực tế và lỗi.
-Theo các luật gia La Mã thiệt hại bao gồm những mất mát thực tế về tài sản( tài sản bị
tiêu hủy, mất mát, giảm sút) và những lợi nhuận bị mất: là những tài sản chắc chắn thu
được trong những điều kiện bình thường.
-Các luật gia La Mã cũng đề cập đến những thiệt hại về tinh thần( lo lắng, sợ hãi, đau đớn)
-Trong chế định bồi thường thiệt hại luật La Mã rất chú trọng đến vấn đề lỗi, mức độ lỗi
ảnh hưởng đến phạm vi bồi thường, luật La Mã chia lỗi thành 2 loại:
+Lỗi DOLUS( lỗi cố ý):là biết sai nhưng vẫn cố tình thực hiện và mong muốn hậu quả xảy
ra.
+Lỗi CULPA( lỗi vô ý):được chia làm 2 loại: vô ý nặng và vô ý nhẹ.Vô ý nặng là việc khi
thực hiện hành vi người đó không hiểu, không thấy những điều mà 1 người bình thường
phải hiểu, phải thấy. Vô ý nhẹ là khi thực hiện hành vi người đó không thể hiện được mình
là người chủ tốt đối với tài sản hoặc công việc nghĩa là có quan tâm đến tài sản, công việc
nhưng sự quan tâm chưa đúng mức.
-Lỗi cố ý và vô ý nặng luôn luôn phải bồi thường thiệt hại, lỗi vô ý nhẹ có thể không phải
bồi thường.
-Luật La Mã quy định không xác định loại thiệt hại phát sinh do sự vô tâm, kém cỏi, ngu
dốt của người bị thiệt hại.
BÀI 5:QUYỀN THỪA KẾ-HERDITAS
I.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.KHÁI NIỆM
10
-Thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống
-Quyền thừa kế là quyền của 1 người được để lại toàn bộ tài sản của mình cho người khác
sau khi chết, quyền được thừa hưởng tài sản của người chết, pháp luật La Mã cho phép 1
người được quyền hưởng tài sản của người chết( di sản) đồng thời buộc họ phải thực hiện
nghĩa vụ tài sản của người chết.
2.NGƯỜI THỪA KẾ
-Người thừa kế phải còn sống vào thời điểm hưởng thừa kế , nếu “người thừa kế” là thai nhi
thì phải được sinh ra trước 10 tháng sau khi người để lại di sản chết.
3.DI SẢN THỪA KẾ
Bao gồm: -tài sản riêng của người chết
- Phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác
III.THỪA KẾ THEO DI CHÚC (TESTATO)
1.KHÁI NIỆM’
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm định đoạt tài sản của mình cho người khác sau
khi chết.
2.CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC
-Người lập di chúc phải có khả năng lập di chúc, phải minh mẫn, sáng suốt tại thời điểm lập di
chúc.
-Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức, xã hội.
-Hình thức của di chúc phải phù hợp với quy định của pháp luật.:1. Chúc ngôn(lời nói):ít nhất
7 người làm chứng
2.Chúc thư( văn bản): phải có xác nhận của quan tòa, quan chấp chính.
-Luật pháp La Mã chỉ công nhận những di chúc có điều kiện phát sinh không công nhận
những di chúc có điều kiện đình chỉ bởi vì di chúc có điều kiện đình chỉ sẽ chống lại nguyên
tắc: SEMEL HERES, SEMPER HERES (người được chỉ định là người thừa kế, mãi mãi là người
thừa kế).
-Di chúc phải chỉ định rõ người nhận di sản, đối với các con phải ghi rõ ai được nhận ,ai bị
11
truất quyền thừa kế mà không được phép im lặng bỏ qua.
3NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC HƯỞNG DI SẢN THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG
DI CHÚC( KỶ PHẦN BẮT BUỘC)
-Ở thời kỳ đầu luật pháp La Mã tuân thủ nguyên tắc “ gia chủ chia như thế nào thì sẽ được
như thế đó”.
-Trong trường hợp các con bị truất quyền thừa kế thì họ được hưởng kỷ phần bắt buộc không
phụ thuộc vào nội dung di chúc như sau:
+Nếu 1 suất thừa kế được chia <= 1/4 tổng di sản thì 1 kỷ phần bắt buộc =1/2 1 suất thừa kế.
+ Nếu 1 suất thừa kế được chia >1/4 tổng di sản thì 1 kỷ phần bắt buộc =1/3 1 suất
thừa kế.
Ví dụ:
1. A có 4 đứa con B, C, D,E lập di chúc cho B,C ,truất quyền thừa kế của D, E , biết A
có 90 as.
D, E được hưởng kỷ phần bắt buộc.
1 suất thừa kế= 1/4. 90=22.5
D=E= 11,5 AS
2 .A có 3 đứa con B, C, D, lập di chúc cho B,C còn D bị truất biết A có 90 as.
1 suất thừa kế:90/3=30>1/4. 90
Vậy D được 1/3.30=10 as
B=C=(90-10)/2=40 as
4.DI TẶNG( LEGATA)
-Là phần di sản mà người để lại thừa kế dành để tặng cho người khác.
-Người được nhận di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại trừ
trường hợp di sản không đủ để thực hiện nghĩa vụ.
-Di tặng không tính vào khối di sản để chia thừa kế.
12
-Di tặng không được quá ¼ tổng tài sản.
III. THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT( INTESTATO)
-Là sự phân chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật dựa vào hàng thừa kế.
+Các con( các cháu nếu các con chết)
+Bố mẹ(nếu cha mẹ chết) thì ông bà nội ngoại
+Anh chị em cùng cha cùng mẹ
+Anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha
+Họ hàng tính theo nhánh ngang, từ gần đến xa từ nội đến ngoại trong phạm vi 6 đời.
+Trong trường hợp không có những người nêu trên thì quan tòa có thể quyết định cho vợ
được hưởng 1 phần di sản thừa kế.
Tài liệu sưu tầm:
Quyền thừa kế trong luật La Mã cổ đại
ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ KHPL SỐ 4.2001
QUYỀN THỪA KẾ TRONG LUẬT LA MÃ CỔ ĐẠI
NGUYỄN ĐÌNH HUY
TS. Giảng viên Khoa Luật Dân sự - ĐH Luật TP.HCM
Khái niệm luật La Mã rất rộng, được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau. Ví dụ luật La Mã là truyền
thống luật La Mã trong lịch sử pháp luật châu Âu, dựa trên Bộ Luật Justinian; luật La Mã còn được
hiểu là luật thông dụng (Ius Commune) được áp dụng ở hầu hết các nước châu Âu ; luật La Mã còn là
một trường phái luật pháp theo xu hướng bảo tồn những nguyên tắc của luật La Mã… Thế nhưng khi
nhắc đến khái niệm luật La Mã chúng ta phải hiểu rằng đó là luật pháp của nhà nước La Mã cổ đại kéo
dài suốt 13 thế kỷ (từ thế kỷ VII trước Công nguyên đến thế kỷ VI sau Công nguyên). Những thành tựu
rực rỡ trong lĩnh vực xây dựng pháp luật của nhà nước La Mã là một trong những công trình văn hóa
vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, có thể so sánh với Kim tự tháp của Ai Cập, Vạn lý trường thành của
Trung quốc… Theo Ăng- ghen: “Luật La Mã là hình thức pháp luật hoàn thiện nhất dựa trên cơ sở tư
hữu. Sự thể hiện pháp lý những điều kiện sống và những xung đột xã hội trong đó thống trị tư hữu mà
những nhà làm luật sau đó không thể mang thêm điều gì hoàn thiện hơn…”.
Cho đến ngày nay, người ta vẫn luôn đặt ra câu hỏi tại sao kỹ thuật xây dựng luật pháp của các luật
gia La Mã lại hoàn thiện đến mức khó tin như vậy. Chỉ lấy một ví dụ trong phần hợp đồng thì so với
13
luật pháp hiện đại người ta chỉ thấy thiếu một loại hợp đồng duy nhất, đó là hợp đồng bảo hiểm.
Sẽ không thái quá khi nói rằng luật La Mã là cơ sở, là nền tảng của pháp luật hầu hết các nước trên
thế giới và đối với những nhà làm luật, những người nghiên cứu luật pháp thì việc nghiên cứu luật La
Mã là điều gần như không thể bỏ qua. Gomsten cho rằng: “Nghiên cứu luật pháp phải bắt đầu từ luật
La Mã, bởi vì nếu không nghiên cứu luật La Mã thì tổn phí biết bao công sức một cách vô ích để tìm
thấy cái mà người ta đã tìm thấy từ lâu”.
Nói đến luật La Mã chúng ta không thể không nhắc tới Luật XII bảng, Bộ Luật Justinian, tên tuổi các
luật gia La Mã nổi tiếng như Gai, Pavel, Ulpian, Modestin, Papinian và Hoàng đế Justinian.
Khái niệm luật “dân sự” La Mã rộng hơn so với khái niệm luật dân sự Việt Nam, bao gồm cả tố tụng
dân sự, hôn nhân gia đình. Luật dân sự La Mã bao gồm nhiều chế định khác nhau như sở hữu, nghĩa
vụ hợp đồng, thừa kế, thực hiện công việc không có ủy quyền, được lợi tài sản không có căn cứ… Trong
đó, thừa kế là một chế định rất quan trọng.
Thừa kế (hereditas):
Theo quan điểm của Ăng- ghen: “là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho người còn sống”. Quyền
thừa kế là quyền thừa hưởng tài sản của người chết để lại theo một trình tự do pháp luật quy
định.Pháp luật cho phép những người thừa kế được hưởng di sản đồng thời buộc họ phải thực hiện
những nghĩa vụ tài sản của người chết.
Luật La Mã quy định hai hình thức cơ bản là thừa kế theo di chúc (testato) và thừa kế theo luật
(intestato), ngoài ra còn có thừa kế theo lệnh của các quan. Ở thời kỳ đầu, hình thức chủ yếu là thừa
kế theo luật, sau đó thừa kế theo di chúc trở thành phổ biến hơn.
Thời điểm mở thừa kế:
Là thời điểm người có tài sản chết. Việc xác định thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc xác định khối di sản của người chết để lại; xác định sự gia tăng hay giảm sút di sản để xác
định trách nhiệm cho người bảo quản, xác định thời hiệu khởi kiện (3 năm).
Di sản thừa kế:
Bao gồm khối tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết và các quyền tài sản của người chết chưa
thực hiện (quyền thừa kế, quyền đòi nợ). Một vấn đề rất quan trọng là theo luật La Mã, các nghĩa vụ về
tài sản của người chết không phải là di sản thừa kế. Ví dụ A chết để lại tài sản là 100 aosơ (as), A nợ B
30 aosơ, vậy di sản thừa kế của A là: 100 – 30 = 70 aosơ.
Người thừa kế:
Là những người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, nếu “người thừa kế” là thai nhi thì phải được
sinh ra sau khi người để lại tài sản chết 300 ngày (10 tháng). Luật XII bảng quy định: “Tôi được biết
rằng khi người đàn bà sinh đẻ vào tháng thứ mười một sau khi chồng chết thì (ở đó) có việc dường
như người đàn bà có thai sau khi chồng chết, bởi vì Ủy ban mười người đã ghi rằng con người sinh ra
vào tháng thứ mười chứ không phải vào tháng thứ mười một (bảng IV)”. Người thừa kế có quyền
14
sở hữu tài sản thừa kế, có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của người chết trong phạm vi di sản được
hưởng, có quyền từ chối không nhận di sản.
Thừa kế theo di chúc (testato):
Di chúc là ý chí chủ quan của người có tài sản định đoạt tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Theo luật gia Ulpian thì: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của chúng ta và ý chí đó được thực hiện sau khi
chúng ta chết”.
Luật La Mã quy định trong di chúc không được phép “im lặng bỏ qua” đối với hàng thừa kế thứ nhất
(các con, nếu con chết thì các cháu). Nếu “im lặng bỏ qua” thì di chúc vô hiệu mặc dù tuân thủ đầy đủ
các điều kiện khác. Ví dụ ông A có ba người con là B, C, D, ông để lại di chúc với nội dung: “Tôi cho hai
con tôi là B và C mỗi đứa một nửa tài sản” mà không ghi “truất quyền thừa kế của D” thì di chúc vô
hiệu vì đã im lặng bỏ qua D. Nếu A chết tài sản sẽ được chia theo luật cho B, C, D.
Người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc vào bất kỳ lúc nào. Nếu có người lập nhiều
di chúc thì di chúc sau có giá trị hơn di chúc trước. Luật La Mã quy định khá chặt chẽ các điều kiện để
một di chúc có hiệu lực như: người lập di chúc phải có khả năng lập di chúc (con gái từ 12 tuổi, con
trai từ 14 tuổi trở lên, không bị tâm thần, không phạm trọng tội); hình thức di chúc phải phù hợp với
quy định của pháp luật (di chúc viết phải được quan tòa, quan chấp chính chứng thực, di chúc miệng
phải có bảy người làm chứng, người thừa kế phải được chỉ định rõ ràng, chính xác); người được chỉ
định trong di chúc phải là người có khả năng trở thành người thừa kế (thai nhi sinh vào tháng thứ
mười một, đàn ông từ 25 đến 60 tuổi, đàn bà từ 20 đến 50 tuổi mà không lập gia đình thì không được
hưởng thừa kế…).
Một nguyên tắc quan trọng của luật La Mã và thừa kế là Semel heres, semper heres – người được chỉ
định là người thừa kế sẽ vĩnh viễn là người thừa kế. Điều này có nghĩa là luật pháp chỉ công nhận di
chúc có điều kiện phát sinh, không công nhận di chúc có điều kiện đình chỉ. Ví dụ một di chúc có nội
dung sau: “Tôi không cho con tôi là M hưởng tài sản nếu nó không thi đậu vào trường Trung cấp pháp
lý La Mã”. Trường hợp này, M vẫn là người được hưởng di sản thừa kế bởi vì điều kiện trong di chúc
là điều kiện đình chỉ (chấm dứt) trái với nguyên tắc “người thừa kế là vĩnh viễn”.
Một vấn đề mà trong hầu hết pháp luật dân sự của các nước có quy định được xuất phát từ luật La Mã
là việc quy định những người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (hay còn gọi
là kỷ phần bắt buộc). Ở thời kỳ đầu (thời kỳ Cộng hòa La Mã sơ khai) thì gia chủ chia tài sản như thế
nào thì sẽ là như thế (Unti legassit super pecunia tutelave suae rei ita ius esto). Nhưng dần dần về sau
đối với những người ở hàng thừa kế thứ nhất nếu bị người lập di chúc truất quyền thừa kế thì sẽ được
hưởng một kỷ phần bắt buộc.
Thời kỳ đầu, kỷ phần bắt buộc bằng ¼ một suất thừa kế nếu chia theo luật. Ví dụ A có hai con là B và
C, A di chúc cho B toàn bộ tài sản, truất quyền thừa kế của C, vậy nếu A chết thì tài sản của A sẽ được
chia như sau (giả sử A có 100 aosơ):
Một suất thừa kế là 100 : 2 = 50 aosơ
15
C sẽ được hưởng ¼ 50 aosơ = 12,5 aosơ, B được hưởng: 100 – 12,5 = 87,5 aosơ.
Dưới thời Hoàng đế Justinian việc phân chia kỷ phần bắt buộc rất chi tiết với nguyên tắc sau: nếu như
một suất thừa kế được chia lớn hơn ¼ di sản thừa kế thì kỷ phần bắt buộc là 1/3 một suất thừa kế;
nếu như một suất thừa kế nhỏ hơn hoặc bằng ¼ giá trị di sản thì kỷ phần bắt buộc bằng ½ một suất
thừa kế.
Có thể diễn giải như sau: nếu người chết có số con nhỏ hơn 4 (1, 2, 3) thì một kỷ phần bắt buộc bằng
1/3 một suất thừa kế. Còn nếu người đó có 4 con trở lên thì một kỷ phần bắt buộc bằng ½ một suất
thừa kế.
- Ví dụ 1: A có 3 con là B, C, D. A di chúc cho B toàn bộ 900 aosơ, C và D bị truất quyền thừa kế. Đầu tiên
ta phải xác định một suất thừa kế nếu chia theo luật = 900 : 3 = 300 aosơ. Vì một suất thừa kế là 300
aosơ lớn hơn ¼ di sản (1/4 di sản bằng 900 : 4 = 225 aosơ) nên C , D mỗi người sẽ được hưởng 1/3
một suất thừa kế = 1/3 x 300 = 100 aosơ, B được hưởng: 900 – (100 + 100) = 700 aosơ.
- Ví dụ 2: A có 6 con B, C, D, E, G, H; A di chúc cho B toàn bộ 900 aosơ, những người còn lại bị truất
quyền thừa kế.
Một suất thừa kế là 900 : 6 = 150 aosơ. Vì một suất thừa kế nhỏ hơn ¼ di sản (225 aosơ) nên một kỷ
phần bắt buộc là ½ x 150 = 75 aosơ. Vậy C, D, E, G, H mỗi người được hưởng 75 aosơ; B được hưởng:
900 – (75 x 5) = 525 aosơ.
Một nguyên tắc quan trọng khác của luật La Mã là không được tiến hành chia một di sản vừa theo di
chúc vừa theo luật. Nghĩa là nếu có di chúc thì chỉ được chia theo di chúc, người được hưởng kỷ phần
bắt buộc không được hiểu là được chia thừa kế theo luật.
Ví dụ ông A có 2 con là B và C, tài sản của ông là 300 aosơ, ông di chúc cho B 100 aosơ và truất quyền
thừa kế của C. Trong trường hợp này nếu A chết B sẽ được hưởng toàn bộ di sản (sau khi chia kỷ phần
bắt buộc cho C) vì số di sản không được định đoạt trong di chúc không chia cho B, C theo luật được. Cụ
thể: C được hưởng một kỷ phần bắt buộc bằng 1/3 của một suất thừa kế (150 aosơ) = 50 aosơ; B được
hưởng: 300 – 50 = 250 aosơ.
Di tặng (legata):
Là một phần tài sản mà người lập di chúc dành riêng cho một hoặc nhiều người. Ở thời kỳ đầu luật La
Mã không hạn chế phần tài sản di tặng dẫn đến tình trạng lợi dụng di tặng để trốn tránh nghĩa vụ.
Đến thời Justinian di tặng được quy định không quá ¼ tổng di sản. Di tặng không tính vào khối di sản.
Việc quy định di tặng không quá ¼ di sản là rất hợp lý và được pháp luật nhiều nước trên thế giới kế
thừa.
Thừa kế theo pháp luật:
Trong trường hợp không có di chúc hoặc di chúc vô hiệu thì di sản của người chết để lại được chia
theo luật. So với luật dân sự Việt Nam, luật La Mã có sự khác biệt về việc phân chia hàng thừa kế mà
cụ thể là quy định theo hàng, bậc như sau:
16
- Hàng thứ nhất: Các con (các cháu nếu các con chết)
- Hàng thứ hai: Bố mẹ (nếu bố mẹ chết thì ông bà nội, ông bà ngoại, anh chị em ruột).
- Hàng thứ ba: Anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha.
- Hàng thứ tư: Họ hàng nội, ngoại theo nhánh ngang tính từ gần đến xa, từ nội đến ngoại trong phạm
vi sáu đời.
- Hàng thứ năm: Nếu không có những người ở bốn hàng trên thì quan tòa có quyền quyết định cho vợ
hưởng một phần di sản.
Với việc quy định của luật La Mã ở hàng thừa kế thứ nhất thì người cháu luôn luôn được hưởng di sản
của ông nếu bố mẹ chúng chết. Còn theo luật dân sự Việt Nam thì cháu sẽ không được nhận thừa kế
của ông nếu bố mẹ chúng chết cùng thời điểm với ông bà. Ở hàng thừa kế thứ hai thì bố mẹ ở bậc một,
ông bà nội, ngoại, anh chị em ruột ở bậc hai. Có nghĩa là mặc dù ở cùng một hàng thừa kế nhưng nếu
có những người ở bậc một (bố mẹ) thì những người ở bậc hai (ông bà nội ngoại, anh chị em ruột) sẽ
không được hưởng thừa kế. Mặt khác, ông bà nội, anh chị em ruột được hưởng mỗi người một suất
thì ông bà ngoại chỉ được hưởng ½ một suất thừa kế.
Ví dụ A chết để lại di sản là 400 aosơ, A không có con, không còn bố mẹ mà chỉ còn ông bà nội ngoại và
anh ruột. Vậy di sản của A sẽ được chia như sau: ông nội 100 aosơ, bà nội 100 aosơ, anh ruột 100
aosơ, ông ngoại 50 aosơ, bà ngoại 50 aosơ.
Trải qua mấy ngàn năm, luật La Mã nói chung và chế định về quyền thừa kế nói riêng vẫn là minh
chứng hùng hồn cho quan điểm của những ai cho rằng luật La Mã là một phần không thể thiếu được
của văn minh nhân loại. Tất nhiên cho đến nay một số quy phạm của luật La Mã không còn phù hợp
nữa. Điều đó cũng dễ hiểu bởi vì điều kiện xã hội, kinh tế, chính trị của xã hội La Mã khoảng hai ngàn
năm về trước khác xa so với bây giờ. Dẫu sao một số quy định của luật La Mã thiết nghĩ rằng có thể
được kế thừa vào luật dân sự Việt Nam. Ví dụ như quy định của luật La Mã về di tặng không được quá
¼ di sản và trên cơ sở đó có thể quy định cụ thể về phần di sản được dùng vào việc thờ cúng (ví dụ như
không quá ¼, không quá 1/5 di sản). Nếu có những quy định cụ thể như vậy thì việc thực thi quyền
thừa kế trên thực tế sẽ dễ dàng và đồng nhất tránh được tình trạng hiểu và vận dụng luật pháp một
cách không đồng bộ, nhất quán.
BÀI TẬP
1 gia đình La Mã có sơ đồ: A B
C D E
TH1: A lập di chúc cho C toàn bộ tài sản, truất thừa kế của D và E.
TH2: A di tặng cho B ½ tài sản, di chúc cho C =1/2, truất thừa kế của D, E.
Biết tài sản của A là 1600 as
BÀI GIẢI
D,E được hưởng kỷ phần bắt buộc:
17
1 suất thừa kế=1600/3=533,3> 1/4.1600=400
TH1: D được 1/3.533,3=177,78as
Vậy D=E=177,78 as
C=1600-177,78.2=1244,44 as
TH2:
B được di tặng=1/4.1600=400 as
Di sản còn lại=1600-400=1200 as
D, E hưởng kỷ phần bắt buộc:
1 suất thừa kế=1200/3=400 as> 1/4 . 1200=300 as
Vậy D=E=1/3.400=133,3 as
C=1200-133,3.2=933,4 as
CẤU TRÚC ĐỀ THI:
Thời gian:60 phút
Câu 1,2: lý thuyết( 6 điểm)
Câu 3:bài tập (4 điêm) gồm 3 câu, 2 câu đầu 1,5 điểm, câu cuối 1 điểm.
ĐỀ THI GIỮA KỲ:
1.Hãy trình bày nguồn của luật La Mã?
(quá dễ phải không, nhớ học đầy đủ tiếng La Mã để đạt điểm cao)
ĐỀ THI CUỐI KỲ:
Câu 1:Trình bày quyền sở hữu và quyền đối với tài sản của người khác?
Câu 2:Trình bày nghĩa vụ.
Câu 3:bài tập mình không nhớ rõ nữa nhưng chỉ cần hiểu bài tập trên thì đảm bảo làm được.
(đề môn này học rất dễ, chỉ cần chăm chỉ học thuộc bài là >9.0 môn này, chăm chỉ 1 chút chứ mấy môn
khác khó kiếm điểm lắm đấy)
CHÚC CÁC BẠN ÔN THI TỐT
18.END