Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Ô nhiễm đất do ký sinh và biện pháp xử lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.63 KB, 27 trang )

Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
^
Bộ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP
• • •
VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
TIẾU LUẬN
% Ẵ
ĩf \
GVHD : GS - TSKH LÊ HUY BÁ
LỚP : ĐHMT3A
TÊN : TRỊNH HÒNG KHẢI
MSSV : 07708461
TP.HCM, Ngày 04 Tháng 05 năm 2010
Th h
ô nhiễm ký sinh trùng trong đất 1
Bộ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP
• • •
VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
TIÉU LUẬN
GVHD : GS - TSKH LÊ HUY BÁ
LỚP : ĐHMT3A
TÊN : TRỊNH HÒNG KHẢI
MSSV : 07708461
TP.HCM, Ngày 04 Tháng 05 năm 2010
-\
LỜI MỞ ĐẦU
Bạn đã bao giờ phải tiếp những vị khách không mời mà đến? Họ thật sự gây phiền toái,
đúng không? Nhung cuộc sổng của chúng ta còn phiền toái hơn nhiều, khi "vị khách" đấy
thuộc họ ký sinh trùng.
Trong số các loài sinh vật sống trên trái đất, ký sinh trùng chiếm đa số. Mỗi sinh vật trên


trái đất này đều là vật chủ của ít nhất một loại ký sinh trùng. Nhiều loài, trong đó có con
người, mang khá nhiều ký sinh trùng.
Ký sinh trùng trong đất hay nói chính xác là ấu trùng của ký sinh trùng trong đất đến từ
nhiều nguồn khác nhau. Tại Việt Nam thì chủ yếu là do việc dùng phân tươi để bón cho cây
trồng, dùng nước bấn nhiễm ký sinh trùng đế tưới rau và một lý do khác đế ký sinh trùng có
mặt trong đất là do ý thức vệ sinh kém của con người.
Đất là môi trường trung gian đế đưa ấu trùng của ký sinh trùng vào cơ thế con người và
gây ra nhiều ảnh ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ. Hiếu rõ được tầm quan trọng đó,
em đã tìm hiểu và đưa ra một số thông tin về vấn đề “Ô nhiễm ký sinh trùng trong đất và
biện pháp xử lý” để hạn chế ký sinh trùng trong đất và bảo vệ sức khoẻ con người.
fb*> + «ể*
MỤC LỤC
03 + BO
NỘI DƯNG
I. Một số định nghĩa
1.Ký sinh trùng
Ký sinh trùng là những sinh vật chiếm sinh chất của cácsinh vật khác đang sống để
tồn tại và phát triến. Tuỳ loại ký sinh trùng mà hiệntượng ký sinhcó khác nhau:
Ký sinh trùng ký sinh vĩnh viễn: suốt đời sống trên / sống trong vật chủ ví dụ: giun đũa
sống trong ruột người.
Ký sinh trùng ký sinh tạm thời: khi cần thức ăn/ sinh chất thì bám vào vật chủ ví dụ như
muồi đốt người khi muồi đói.
Tuỳ vị trí ký sinh người ta còn chia ra:
Nội ký sinh trùng: là những ký sinh trùng sống lâu trong cơ thể như giun sán sống trong
ruột người.
Ngoại ký sinh trùng: là những ký sinh trùng sống ở da, tóc, móng.
Xét về tính đặc hiệu ký sinh trên vật chủ có thể chia ra:
Ký sinh trùng đơn thực: là những ký sinh trùng chỉ sống trên một loại vật chủ. Ví dụ
giun đũa ở người chỉ sống trên người.
Ký sinh trùng đa thực: là những ký sinh trùng sống trên nhiều loại vật chủ khác nhau.

Ví dụ sán lá gan nhỏ có thế sống ở người hoặc mèo.
Ký sinh trùng lạc vật chủ: là nhũng ký sinh trùng có thế sống trên vật chủ bất thường như
cá biệt người có thế nhiễm giun đũa lợn.
2.Vật chủ
Là những sinh vật bị ký sinh nghĩa là bị ký sinh trùng chiếm sinh chất nhưng cần phân
biệt vật chủ chính và vật chủ phụ.
Vật chủ chính là vật chủ mang ký sinh trùng ở giai đoạn trưởng thành hoặc có khả năng
sinh sản hữu giới. Ví dụ muồi là vật chủ chính trong chu trình của ký sinh trùng sốt rét,
người là vật chủ chính trong bệnh sán là gan.
Vật chủ phụ là vật chủ mang ký sinh trùng ở giai đoạn ấu trùng hoặc chưa trưởng thành.
Vì dụ như cá mang ấu trùng của sán lá gan.
3. Chu kỳ
Là toàn bộ quá trình phát triển của ký sinh trùng từ giai đoạn non như trứng hoặc ấu
trùng đến khi trưởng thành hoặc có khả năng sinh sản hữu giới.
Tuỳ từng loại ký sinh trùng mà chu kỳ có thế khácnhau từ đơn giản đến phức tạp -
qua một hay nhiều vật chủ nhưng khái quát có thế chia thành 2 loại:
• Chu kỳ đơn giản: là chu kỳ chỉ cần một vật chủ như chu kỳ giun đũa ở người.
• Chu kỳ phức tạp: là chu kỳ cần tù’ 2 vật chủ trở lên mới có khả năng khép kín chu kỳ
như chu kỳ của ký sinh trùng sốt rét cần 2 vật chủ là người muồi có khả năng truyền
bệnh sốt rét.
Ngoài ra, có một số loại chu kỳ cần phải có giai đoạn phát triến ngoại cảnh, ngoại giới như
chu kỳ giun đũa, giun tóc, giun móc
II. Đặc điếm ký sinh trùng
Kích thước thay đối tuỳ theo loại và tuỳ theo giai đoạn phát triển.
Hình thể cũng khác nhau tuỳ từng loại và tuỳ vào giai đoạn phát triển.
Màu sắc của ký sinh trùng có thể thay đối tuỳ thuộc vào vị trí ký sinh và môi trường.
1. Cấu tạo cơ quan: do biến hoá qua nhiều niên đại nên cấu tạo của ký sinh trùng thay đối đế
thích nghi với đời sống ký sinh.
Nhũng bộ phận không cần thiết đã thoái hoá hoặc biến đi hoàn toàn như giun đũa không
có cơ quan vận động. Nhung một số cơ quan thực hiện chức năng tìm vật chủ, bám vào vật

chủ, chiếm thức ăn của vật chủ rất phát triển như bộ phận phát hiện vật chủ của muồi, ấu
trùng giun móc. Cơ quan sinh sản cũng rất phát triển.
2. Đặc điếm sinh sản: ký sinh trùng có nhiều hình thức sinh sản phong phú, sinh sản
nhanh và nhiều. Các hình thức, các kiểu sinh sản của ký sinh trùng:
Sinh sản vô giới: từ một ký sinh trùng nhân và nguyên sinh chất phân chia, số lượng
phân chia nhiều ít là tuỳ vào từng loại ký sinh trùng đế tạo ra những ký sinh trùng mới.
Sinh sản hữu giới: có nhiều loại sinh sản hừu giới như:
Sinh sản lưỡng giới: có thế thực hiện giao hợp chéo giữa hai bộ phận sinh dục đực và
cái trên cùng một cơ thế.
Sinh sản hữu giới giữa các thể đực và cá thế cái như giun đũa, giun tóc
Việc ký sinh trùng sinh sản rất sớm, rất nhanh, rất nhiều làmột trongnhững nguyên
nhân gây ô nhiễm mầm bệnh, tăng khả năng nhiễm và tái nhiễmmầm bệnh ký sinh trùng
cho người và động vật.
3. Đặc điểm sống, phát triển và phân bố.
Đời sống của ký sinh trùng cũng như mọi sinh vật khác liên quan mật thiết tới môi
trường tụ’ nhiên, môi trường xã hội, các quần thế sinh vật khác.
Tuổi thọ ký sinh trùng rất khác nhau có loại chỉ sống vài tháng như giun kim, có loại
sống hàng năm như giun tóc, giun móc, sán dây.
Các yếu tố ảnh hưởng tới sự sống, phát triển và phân bố của ký sinh trùng: sinh cảnh,
thố nhưỡng, thời tiết khí hậu, quần thế và lối sống của con người.
4. Phân loại ký sinh trùng: nhìn chung có thế chia thành 4 ngành:
• Ngành đơn bào: lớp chân giả, lớp trùng roi, lóp trùng lông, lớp trùng bào tủ’.
• Ngành giun sán: ngành giun tròn, ngành phụ giun dẹt, ngành giun đốt
• Ngành chân đốt: lớp nhện, lớp côn trùng.
• Ngành nấm: lớp nấm tiếp hợp, lớp nấm túi, lớp nấm đảm và lớp nấm bất toàn.
5. Tác hại của ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng
• Tác hại về dinh dưỡng, sinh chất.
ô nhiễm ký sinh trùng trong đất 7
• Tác hại tại chỗ, tại vị trí ký sinh.
• Tác hại do nhiễm các chất gây độc.

Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
• Tác hại trong việc vận chuyển mầm bệnh.
• Tác hại làm thay đổi thành phần và các bộ phận khác của cơ thể.
• Gây nhiều biến chứng nội ngoại khoa khác.
6. Diễn biến của hiện tượng ký sinh trùng
Khi hiện tượng ký sinh mới xảy ra thường có phản ứng mạnh với vật chủ chống lại ký
sinh trùng và phản ứng tự vệ của ký sinh trùng đế tồn tại nhưng diễn biến này có thế dẫn tới
một số hậu quả sau:
• Ký sinh trùng chết.
• Ký sinh trùng tồn tại nhung không phát triến.
• Ký sinh trùng phát triển hoàn tất chu kỳ hoặc một sổ giai đoạn của chu kỳ và tiếp tục
phát triển trong cơ thể vật chủ.
• Vật chủ ký sinh không bị bệnh, chưa bị bệnh hoặc đã bị bệnh với mức độ nặng nhẹ
khác nhau.
7. Đặc điểm chung của bệnh ký sinh trùng
Ngoài những quy luật chung của bệnh học như có thời gian ủ bệnh, thời kỳ bệnh phát,
thời kỳ bệnh lui và sau khi khỏi bệnh, bệnh ký sinh trùng có một số tính chất riêng:
• Diễn biến dần dần tuy nhiên có thể có cấp tính và ác tính.
• Gây bệnh lâu dài.
• Bệnh thường mang tính chất vùng (vùng lớn hoặc vùng nhỏ) liên quan mật thiết tới
các yếu tố địa lý hoặc thổ nhường.
• Bệnh ký sinh trùng thường gắn chặt với điều kiện kinh tế - xã hội.
8. Dịch tễ học bệnh ký sinh trùng
Nguồn mang mầm bệnh: có thế có trong vật chủ, sinh vật truyền bệnh, các ổ bệnh hoang
dại, xác súc vật, phân, chất thải, đất nước rau cỏ thực phẩm
Con đường lây truyền
Ký sinh trùng ra ngoại cảnh, môi trường hoặc vào vật chủ khác bằng nhiều cách.
• Qua phân như nhiều loại giun sán.
• Qua chất thải như đờm.
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM

• Qua da như nấm gây bệnh hắc lào.
• Qua máu, tù’ máu qua sinh vật trung gian như ký sinh trùng sốt rét, giun chỉ.
• Qua dịch tiết từ vết lở loét như ấu trùng giun chỉ.
• Qua nước tiểu như trứng sán máng.
TTĨ.Một số loại bệnh ký sinh trùng đường ruột thường gặp ở Việt Nam
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới với khá đầy đủ về đặc điểm địa hình, thời tiết, khí
hậu nhiệt đới, hệ động thực vật rất phong phú, về mặt kinh tế xã hội cũng là nước đang
phát triển, dân trí nói chung còn thấp ở nhiều bộ phận dân chúng, phong tục tập quán ở
nhiều vùng còn lạc hậu nên nhìn chung ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng vẫn còn khá
phổ biến.
Việt Nam có hầu hết các loại ký sinh trùng đã được mô tả trên thế giới, mức phố biến
khác nhau. Hàng đầu là các bệnh giun sán, giun đũa, giun móc, giun tóc, giun kim, sán lá
gtan, sán dây, sán lá phổi, giun chỉ. Khoảng 70 -80% người dân nhiễm ít nhất một loại sán
nào đó. Hai phần ba diện tích đất đai, trên một phần ba dân số nằm trong vùng sốt rét lun
hành làm cho nước ta nằm trong vùng sốt rét nặng của thế giới, hàng năm vẫn có rất nhiều
người bị bệnh sốt rét. Các bệnh đơn bào như amip, trùng roi đường tiêu hoá, sinh dục cũng
phổ biến tại một số nơi.
1. Vị trí ký sinh
Mỗi loại ký sinh trùng nói chung thường ký sinh ở một số cơ quan, một số bộ phận nhất
định của cơ thể vật chủ. Ví dụ:
Ký sinh ở tá tràng: giun móc, giun mỏ.
Ký sinh ở ruột non: giun đũa, sán dây lợn và sán dây bò trưởng thành.
Ký sinh ở ruột già, vùng manh tràng: giun tóc, giun kim.
Ký sinh ở góc hồi manh tràng, đại tràng Sigma và trực tràng: amip.
2. Diễn biến chu kỳ của một số giun sán đường ruột
a. Chu kỳ giun đũa:
• Giun đũa đực và cái trưởng thành ký sinh ở ruột non, sau khi giao hợp giun cái sẽ đẻ
trứng. Trứng theo phân ra điều kiện ngoại cảnh, gặp điều kiện thuận lợi trứng giun
sẽ phát triến thành trúng mang ấu trùng.
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM

• Người bị giun đũa là do ăn uống phải trứng giun đũa có mang ấu trùng. Khi vào dạ
dày, ấu trùng giun đũa thoát khỏi vở trong nhờ sức co bóp của dạ dày và tác động
của dịch vị. Âu trùng xuống ruột non, chui qua các mao mạch ở ruột vào tĩnh mạch
mạc treo đế đi vào gan. Thời gian qua gan sau 3-7 ngày. Sau đó ấu trùng đi theo
tĩnh mạch trên gan đế vào tĩnh mạch chủ và vào tim phải. Từ tim phải, ấu trùng
theo động mạch phổi để vào phổi. Tại phổi, ấu trùng tiếp tục phát triển tới giai đoạn
4 rồi di chuyển theo các nhánh phế, khí quản đế tới vùng hầu họng, khi người nuốt
ấu trùng sẽ rơi xuống đường tiêu hoá và dừng lại ở ruột non đế phát triến thành giun
đũa trưởng thành.
• Thời gian hoàn thành giai đoạn chu kỳ trong cơ thế mất khoảng 60-75 ngày.
Chu kỳ giun đũa ở người
b. Chu kỳ giun móc / mỏ:
• Giun móc / mỏ đực, cái trưởng thành ký sinh ở tá tràng, sau khi giao hợp. Giun cái
sẽ đẻ trứng. Trứng theo phân ra ngoại cảnh gặp điều kiện thuận lợi trứng giun sẽ
phát triển thành ấu trùng.
• Ấu trùng ăn các chất hữu cơ có trong đất để phát triển. Phát triển đến một giai đoạn
nào đó, ấu trùng có khả năng xuyên qua da, niêm mạc đế xâm nhập vào cơ thể
người.
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
http:tf*ww dpd cdc gov/dpd*
• Sau khi xuyên qua da, ấu trùng theo đường tĩnh mạch về tim phải. Từ tim phải, ấu
trùng theo động mạch phối tới phổi. Từ phế nang ấu trùng di chuyển theo các nhánh
phế quản tới khí quản rồi lên vùng hầu họng và được nuốt xuống ruột. Âu trùng
dùng lại ở tá tràng và phát triến thành giun móc / mỏ trưởng thành.
Đầu con giun móc và chu kì giun móc ở người
c. Chu kỳ giun tóc:
• Giun tóc đực và cái trưởng thành ký sinh ở đại tràng chủ yếu là vùng manh tràng.
Sau khi giao hợp, giun cái sẽ đẻ trứng. Trứng theo phân ra ngoại cảnh gặp điều kiện
thuận lợi trứng giun sẽ phát triển thành trúng mang ấu trùng.
• Người ăn phải trứng giun tóc mang ấu trùng lẫn trong rau, quả tươi, nước lã trứng

qua miệng, thực quản tới dạ dày. Nhờ sức bóp cơ học và tác dụng của dịch vị làm
cho ấu trùng thoát khỏi vỏ trứng. Âu trùng di chuyển thẳng tới manh tràng đế phát
triến thành giun tóc trưởng thành.
• Thời gian hoàn thành giai đoạn chu kỳ trong cơ thể mất khoảng 30 ngày.
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
d. Chu kỳ giun kim:
• Giun kim đực và giun kim cái trưởng thành ký sinh ở manh tràng. Sau khi giao hợp,
giun kim đực bị chết và bị tống ra ngoài theo phân. Giun kim cái di chuyển theo đại
tràng đế tới hậu môn và di chuyển đến các nếp nhăn của hậu môn. Giun kim thường đẻ
về đêm. Sau khi đẻ hết trứng, giun kim cái teo lại và chết.
• Khoảng 6-8 giờ sau khi đẻ, gặp điều kiện thuận lợi ấu trùng bụ sẽ chuyến thành ấu trùng
thanh. Ngay ở hậu môn có đầy đủ nhũng điều kiện thuận lợi cho ấu trùng phát triển. Vì
vậy, người nhiễm giun kim dễ tự tái nhiễm nếu dùng tay gãi hậu môn có trứng giun sau
đó đưa trực tiếp vào miệng hoặc cầm vào thức ăn, nước uống gián tiếp đưa trứng giun
vào miệng.
• Khi ăn phải trứng giun kim có ấu trùng, vào đường tiêu hoá, ấu trùng thoát khỏi vở
và di chuyến đến manh tràng rồi dừng lại ở đó đế phát triển thành giun kim trưởng
thành sau 2-4 tuần.
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
Chu kỳ giun kim ở người
Sinh chất của giun đường ruột.
Trong quá trình ký sinh ở người, giun đường ruột chiếm các chất dinh dưỡng của vật
chủ. Các chất dinh dưỡng cần thiết cho giun sán truyền qua đất chủ yếu là các sinh chất,
máu, tố chức của cơ thế. Ví dụ giun đũa sử dụng các sinh chất ở ruột non; giun móc / mở
lấy dinh dưỡng bằng cách ngậm miệng vào niêm mạc ruột đế hút máu; giun tóc cắm phần
đầu vào niêm mạc của đại tràng để hút máu; giun kim sử dụng các sinh chất từ thức ăn đã
được tiêu hoá ở ruột.
e. Chu kỳ của sán dây lợn:
• Sán trưởng thành không đỏ trứng. Trứng sán nằm trong các đốt già. Đốt già rụng ra
khỏi thân sán rồi theo phân ra ngoài. Bệnh nhân thường không dễ nhận ra là

Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
mình bị bệnh. Các đốt già của sán dây bò thường tụ' động chui ra hậu môn đế ra ngoài
vào bất cứ thời điểm nào trong ngày nên bệnh nhân dễ phát hiện mình bị mắc bệnh.
• Khi lợn hoặc bò ăn phải trứng sán dây lợn hoặc sán dây bò phát tán ở ngoại cảnh khi
vào tới dạ dày, ấu trùng thoát vỏ xuyên qua thành ruột theo tuần hoàn bạch huyết hoặc
xuyên tổ chức để tới cư trú ở tổ chức da, cơ vân, các nội tạng phát triển thành nang ấu
trùng.
• Người ăn phải ấu trùng sán dây lợn hoặc sán dây bò có trong thịt lợn hoặc thịt bò chưa
được nấu chín, khi tới ruột non, ấu trùng sán sẽ phát triển thành sán trưởng thành sau
2,5 - 4 tháng.
• Người sẽ mắc bệnh ấu trùng sán dây lợn do ăn phải trứng sán dây lợn có lẫn trong rau
quả tươi hoặc uống nước lã có trứng sán, khi trứng sán vào tới dạ dày, ấu trủng thoát vỏ
xuyên qua niêm mạc ruột theo tuần hoàn bạch huyết hoặc xuyên tố chức để tới cư trú
dưới da, tổ chức cơ vân hay cơ quan nội tạng khác.
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
Chu kỳ sán dây lợn và sán dây bò ở người
Oncospheres hatch
penetrate intestinal
wall, and circulate
to musculature
AIL On cospheres develop
into cysttcerci in muscle
Humans infected by ingesting
raw or undercooked infected
meat
Cattle (T saginato) and pigs (T
so/ium) become infected by
ingesting vegetation contaminated by eggs
Of gravid proglottids
A - Infective Stage A=

Diagnostic Stage
Eggs or gravid progiottids in feces
and passed into environment
http7/WWW dpd cdc gov/dpdx
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
Tuối thọ của giun sán khác nhau tuỳ theo tùng loại:
• Giun đũa có đời sống ngắn thường dài từ 13 - 15 tháng. Quá thời gian này, giun
đũa thường bị nhu động ruột đấy ra ngoài theo phân.
• Đời sống của giun móc / mỏ dài hơn: giun móc khoảng 4-5năm còn giun mỏ
khoảng 10- 15 năm.
• Tuổi thọ của giun tóc trung bình khoảng 5-6 năm.
• Đời sống của giun kim rất ngắn khoảng 1 -2 tháng.
• Sán dây lợn, sán dây bò trưởng thành có thể sống tới hàng chục năm. Àu trùng sán
dây lợn cũng có thế sống trong cơ thế vài chục năm.
Sự sống, phát triển và phân bố của giun sán ký sinh đường ruột chịu ảnh hưởng của các
yếu tố: thới tiết, khí hậu, môi trường, thức ăn, tác nhân sinh học, thổ nhường, hành vi và tập
quán của con người.
3. Số liệu thực tế về tình hình nhiễm giun trong đất ở Việt Nam
Điều tra sự ô nhiễm trứng giun đũa ngoại cảnh ở miền Bắc của Viện sốt rét - Kýsinh
trùng và Côn trùng Hà Nội (1998) cho thấy lOOg đất có tù'1,4 - 127 trúng,lOOgrau có
1, 8 trứng, 1 lít nước ao có 0,2 trứng.
Điều tra sự ô nhiễm ấu trùng giun móc / mỏ ở ngoại cảnh miền Bắc:
• Vùng đồng bằng: 100 - 140 ấu trùng/ lOOg đất.
• Vùng trung du: 8 - 35 ấu trùng/ 1 OOg đất
• Vùng núi: 0,2 - 0,7 ấu trùng/ lOOg đất.
Điều tra sự ô nhiễm trúng giun tóc ở ngoại cảnh miền Bắc có 6,8 - 33,5 trúng/ lOOg đất
Khả năng phát tán của mầm bệnh giun sán đường ruột ra môi trường lớn, mặt khác trứng
giun sán đường ruột có thế tồn tại lâu ở ngoại cảnh. Ví dụ ở điều kiện thích hợp về mặt
nhiệt độ, ẩm độ, trứng giun đũa có thể tồn tại lâu ở ngoại cảnh đến vài năm mà vẫn có khả
năng lây nhiễm cao.

Tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm giun sán đường ruột thay đối theo tuối: trẻ em là lứa
tuổi có tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm giun đũa cao do chưa có ý thức vệ sinh tốt.
Đặc điểm dịch tễ học của giun sán đường ruột liên quan mật thiết tới thời tiết, khí hậu,
vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân, nghề nghiệp, sinh cảnh, tập quán nên sự phân bổ tình
hình nhiễm giun sán đường một cũng thay đổi tuỳ theo miền, vùng địa lý. Theo số liệu điều
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
tra của Viện sốt rét - Ký sinh trùng và Côn trùng Hà Nội (1998) về tình hình nhiễm giun
truyền qua đất ở Việt Nam:
Tỷ lệ giun đũa:
o Miền Bắc: vùng đồng bằng 80 - 95%, vùng trung du 80 - 90%, vùng núi 50 - 70%,
vùng ven biển 70%.
o Miền Trung: vùng đồng bằng 70,5%, vùng núi 38,4%, vùng ven biển 12,5%.
o Miền Nam: vùng đồng bằng 45 - 60%, vùng Tây Nguyên 10 - 25%.
Tỷ lệ nhiễm giun móc / mỏ:
o Miền Bắc: vùng đồng bằng 3 - 60%, vùng trung du 59 - 64%, vùng núi 61%, vùng ven
biển 67%.
o Miền Trung: vùng đồng bằng 36%, vùng núi 66%, vùng ven biến 69%.
o Miền Nam: vùng đồng bằng 52%, vùng Tây Nguyên 47%, vùng ven biển 68%.
Tỷ lệ nhiễm giun tóc:
o Miền Bắc: vùng đồng bằng 58 - 89%, vùng trung du 38 - 41%, vùng núi 29 - 52%,
vùng ven biển 28 - 75%.
o Miền Trung: vùng đồng bằng 27 - 47%, vùng núi 4,2 - 10,6%, vùng ven biến 12,7%.
o Miền Nam: vùng đồng bằng 0,5 - 1,2%, vùng Tây Nguyên 47%, vùng ven biển 68%.
Giun kim có chu kỳ phát tiến trực tiếp, không phụ thuộc vào những yếu tố địa lý, khí hậu
nên bệnh giun kim phân bố rộng khắp mọi nơi. Mức độ phân bố của bệnh giun kim chủ yêu
tuỳ thuộc vào trình độ vệ sinh, nếp sinh hoạt. Trẻ em là lứa tuối dễ mắc bệnh. Bệnh giun
kim thường mang tính tập thế nhỏ và gia đình.
Trứng và ấu trùng giun kim có thể khuếch tán ở mọi chỗ: ở chăn chiếu và mọi vật dụng
khác như ghế ngồi. Đổi với trẻ em nhiễm giun kim có the thấy trứng giun kim ở móng tay.
Theo kết quả điều tra tại một số vùng của Viện sốt rét - Ký sinh trùng và Côn trùng Hà

Nội tỷ lệ nhiễm giun kim như sau: miền Bắc 29 -43%, miền Trung 7,5%, Tây Nguyên 50%
và đồng bằng Nam Bộ 16 - 47%.
Người mắc sán dây phần nhiều là nam giới ở tuối 21-40 tuối (nam mắc 75%, nữ mắc
25%). Khả năng phát triển của trứng và ấu trùng sán dây: ở ngoại cảnh sau 1 tháng, trứng
mất khả năng sống. Nhiệt độ 50 - 60°c, ấu trùng sán dây lợn chết sau 1 giờ. Bệnh sán dây
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
phân bổ khắp nơi, tuỳ thuộc vào tập quán, vệ sinh ăn uống. Ớ Việt Nam bệnh sán dây lợn
thường gặp nhiều ở miền núi 6%. Tỷ lệ bệnh sán dây lợn (22%) ít hơn sán dây bò là 78%.
4. Tác hại của một số loại giun sán đường ruột
Bệnh giun sán đường ruột gây tác hại đáng kể đến sức khoẻ cộng đồng và kinh tế. Tác
hại của các loại giun sán này đối với vật chủ khác nhau tuỳ thuộc vào từng loại ký sinh
trùng, tuỳ mức độ nhiễm và thời gian nhiễm.
a. Tác hại tại vị trí ký sinh
Các biểu hiện tác hại tại vị trí ký sinh khác nhau tuỳ thuộc vào loại giun sán đường ruột.
Đối với giun đũa, đa số lượng giun nhiều, do pH ruột bị rối loạn có thể gây ra tình trạng
tắt ruột. Giun chui vào ống mật lên gan, chui vào ống tuỵ, vào ruột thừa gây các biến chứng
viêm đường mật, túi mật cấp, áp xe đường mật, áp xe gan, viêm tuỵ cấp, viêm ruột thừa
Giun móc/ mỏ bám vào niêm mạc tá tràng và gây hiện tượng viêm loét thành tá tràng.
Trường hợp nhiễm nhiều giun tóc có thể gây tốn thương niêm mạc đại tràng đáng kế. Giun
tóc kích thích các tổn thương ở ruột già gây hội chứng giống lỵ.
Triệu chứng thường gặp khi bị nhiễm giun kim là ngứa hậu môn, thường xuất hiện vào
buổi tối tương ứng với thời gian giun kim cái đẻ trứng. Ruột bị nhiễm giun kim có thể bị
viêm kéo dài, phân thường lỏng, đôi khi có lẫn máu và chất nhầy. Những thương tổn ruột
có thế dẫn tới tình trạng chán ăn, buồn nôn, đau bụng âm ỉ, ỉa chảy kéo dài. Việc ỉa chảy
kéo dài có thế dẫn tới tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ nhỏ.
Sán dây trưởng thành gây tác hại cơ giới dáng kể: gây đau bụng, đau chủ yếu ở vùng hối
tràng đôi khi giống như cơn đau ruột thừa. Đôi khi cơ thể sán gây tắc hoặc bán tắc ruột.
b. Tác hại về dinh dưỡng, sinh chất
Giun sán dường ruột chiếm một phần sinh chất, máu của cơ thế vật chủ, nếu số lượng
giun sán nhiều thì lượng sinh chất và máu của cơ thế bị mất càng lớn. Đây là một trong

những nguyên nhân gây suy dinh dường, gây thiếu máu.
Khả năng chiếm chất dinh dưỡng của giun sán đường ruột rất lớn:
Giun đũa là loại giun lớn, ký sinh ở ruột, thường giun đũa ký sinh với số lượng lớn nên
tác hại chiếm thức ăn là tác hại lớn nhất của giun đũa đối với cơ thế người. Bên cạnh chiếm
thức ăn, giun đũa còn chiếm Vitamin đặc biệt là Vitamin A và Vitamin D. Neu nhiễm nhiều
giun và tình trạng nhiễm giun kéo dài có thể dẫn tới suy dinh dưỡng, chậm phát triến về cả
thế chất lẫn tinh thần. Triệu chứng nối bật của giun đũa là toàn thân gầy còm, rối loạn tiêu
hoá.
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
Giun móc / mỏ sống ở vùng tá tràng và phần đầu của ruột non là vùng giàu mạch máu,
hơn nữa phương thức hút máu của giun móc / mỏ lại lãng phí nên vật chủ mất nhiều máu.
Một giun móc / mỏ trong một ngày hút khoảng 0,07 - 0,26ml máu. Như vậy với người
nhiễm 500 giun móc mỗi ngày có thể mất từ 40 - 80ml máu. Ngoài tác hại hút máu, giun
móc / mỏ tiết ra chất chống đông máu và chất ức chế cơ quan tạo máu nên gây nên tình
trạng thiếu máu của cơ thể.
Giun tóc ký sinh ở đại tràng và hút máu của vật chủ. số lượng giun tóc nhiễm nhiều có
thế gây thiếu máu, nhược sắc kèm theo tiếng thối của tim và phù nhẹ.
Sán dây lợn, sán dây bò trưởng thành ký sinh ở ruột non, lấy dinh dường bằng thẩm thấu
dinh dưỡng ở trong ruột. Bệnh nhân sẽ suy dinh dưỡng do sán chiếm thức ăn.
c. Tác hại do nhiễm các chất gây độc
Giun sán đường ruột tiết ra những chất độc hoặc những sản phẩm chuyến hoá gây độc
cho cơ thể vật chủ. Các chất này có thế gây chán ăn, buồn nôn, mất ngủ, hoặc có thế gây
viêm, phù nề, dị ứng, nhiễm độc tại chỗ hoặc toàn thân.
Giun đũa có chất độc vì vậy có người tuy nhiễm giun đũa ít nhưng rất đau bụng và
ngứa. Trong huyết thanh của những người nhiễm giun đũa cũng có những chất gây dị ứng.
Các chất gây dị ứng này gây hiện tượng tăng bạch cầu ái toan và gây hội chứng Loeffler.
Giun móc tiết ra chất độc ức chế cơ quan tạo máu.
Sản phẩm chuyến hoá và các chất tiết của sán dây gây độc cho hầu hết các hệ thống và
tố chức của cơ thể. Thực nghiệm cho thấy dịch tiết từ sán gây tốn hại hệ thống tim mạch,
cơ quan tạo máu, hệ thống thần kinh và các tuyến nội ngoại tiết.

d. Tác hại trong việc vận chuyển mầm bệnh
Giun sán đường ruột có thế mở đường cho các mầm bệnh khác xâm nhập vào cơ thế vật
chủ.
Giun đũa trong khi di chuyển sẽ mang mầm bệnh (virus, vi khuẩn, nấm) từ ruột tới cơ
quan khác (gan, đường mật, túi mật, tuỵ).
Âu trùng giun móc / mỏ, giun lươn khi xâm nhập qua da có thể mang vi khuẩn ở ngoại
cảnh gây viêm nhiễm tại chồ hoặc ấu trùng mang theo vi khuẩn vào mạch máu, mô
IV. Phòng chống ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng
1. Nguyên tắc
• Phòng chống trên quy mô rộng lớn vì đa số là bệnh xã hội, phố biến, nhiều người
mắc, dễ lây lan.
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
• Phòng chống trong thời gian lâu dài, có các kế hoạch nối tiếp nhau, vì các bệnh ký
sinh trùng thường kéo dài, tái nhiễm liên tiếp.
• Ket hợp nhiều biện pháp.
• Lồng ghép việc phòng chống bệnh ký sinh trùng với các hoạt động, các chương
trình, các dịch vụ y tế sức khoẻ khác.
• Xã hội hoá công việc phòng chống, lôi cuốn cộng đồng tự giác tham gia.
• Ket hợp phòng chống bệnh ký sinh trùng với việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu nhất
là ở tuyến cơ sở.
• Lựa chọn vấn đề ký sinh trùng ưu tiên để giải quyết trước.
• Phòng chống bệnh ký sinh trùng ở người kết hợp chặt chẽ với việc phòng chống
bệnh ký sinh trùng thú y - vật nuôi và chống ký sinh trùng ở môi trường.
2. Biện pháp chủ yếu:
• Diệt ký sinh trùng: phát hiện và điều trị triệt đế cho những người bệnh và những
người mang ký sinh trùng. Diệt ký sinh trùng ở vật chủ trung gian hoặc ở sinh vật
trung gian truyền bệnh. Diệt ký sinh trùng ở ngoại cảnh bằng nhiều biện pháp.
• Làm tan vỡ, cắt đút chu kỳ của ký sinh trùng.
• Chổng ô nhiễm mầm bệnh ở ngoại cảnh.
• Quản lý và xử lý phân.

• Phòng chổng côn trùng đốt.
• Chỉ dùng nước sạch, thực phẩm sạch để ănuống.
• Vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân, vệ sinh tập thể.
• Kiếm tra sát sinh chặt chẽ.
• Giáo dục sức khoẻ để thay đổi hành vi có hại cho sức khoẻ, tạo hành vicó lợi cho
sức khoẻ (không dùng phân tươi đế bón cây trồng, không ăn tiết canh, ngủ màn).
• Phát triến kinh tế - xã hội.
• Nâng cao trình độ giáo dục, dân trí.
• Phát triển mạng lưới y tế công cộng tới tận thôn bản.
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
V. Biện pháp xử ký ô nhiễm đất do ký sinh trùng đế trồng cây
Ký sinh trùng được truyền vào đất qua trứng giun sán, ấu trùng của chúng, sau thời gian
ủ bệnh tương đối sẽ trở thành tác nhân gây bệnh cho người. Haynói cách khác, đất
chỉ là môi trường trung gian đế ký sinh trùng có thế hoàn tất chu kỳ của mình vàtruyền
bệnh sang người. Đa số ấu trùng không thế tồn tại quá lâu trong môi trường đất mà không
có vật chủ cho nên biện pháp xử lý khi đất bị ô nhiễm ấu trùng của ký sinh trùng tương tự
như xử lý đất ô nhiễm do vi sinh vật. Ta có thể áp dụng một số biện pháp sau:
1. Dùng hơi nước nóng đế xông hoi khử trùng đất
Nước nóng có ý nghĩa quan trọng trong việc khử trùng đất. Nước ở 95°c sẽ được đưa
vào đất từ độ sâu 20 - 25 cm trở lên. Phương pháp này được áp dụng vào thời điểm trước
khi trồng cây ở một số khu vục nhỏ. Phương pháp này cần có nồi hơi đế làm nóng hơi nước.
Tại Nhật Bản, họ đã áp dụng phương pháp này và khẳng định rằng đất khử trùng có thế kéo
dài đến ba năm.
Hạn chế của phương pháp này là không có sự đồng nhất về nhiệt độ trong đất ở các độ
sâu cần thiết. Phương pháp này cần nhiều nước và nhiên liệu. Hơi nước là phương pháp khử
trùng đất chủ yếu ở nhà kính công nghiệp trước khi có phương pháp xông hơi đất bằng hoá
chất. Sử dụng hơi nước sẽ có hiệu quả cao và đặc biệt là an toàn với môi trường.
Có nhiều phương pháp xông hơi khác nhau ví dụ như tạo ra những đụn đất và dẫn ống
chứa hơi nước vào đế sưởi ấm và khử trùng ở độ sâu 30 cm; bơm hơi nước vào đường ống
bên dưới mặt đất để khử trùng ở độ sâu 45cm. Phương pháp đầu tiên được áp dụng tại Ý và

một số nước khác trong việc sản xuất rau nhà kính có giá trị kinh tế cao. Ngoài ra ở Ý họ
còn kết hợp hơi nước với Kali hydroxyt đế tạo ra phản ứng toả nhiệt với nước ở một số
cánh đồng mở và kết quả là phương pháp này giảm tỉ lệ mắc Fusarium đến 77 - 96% so với
chỉ sử dụng hơi nước là 77 - 86%. Sử dụng hơi nước cần phài có nồi hơi và nhiên liệu tuy
nhiên có thế thay thế cho những tấm bạt. Phương pháp này có khả năng chọn lọc thấp.
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
Máy khử trùng đất bằng hơi nước
2. Khử trùng đất bằng phương pháp sinh học
Khử trùng sinh học dựa trên việc đưa chất hữu cơ vào đất. Trong điều kiện kỵ khí các chất
hữu cơ này sẽ được lên men tạo ra các chất khí tiêu diệt ký sinh trùng gây bệnh.
Nhiều trang trại rau chỉ trồng một số loại rau nhất định nên vấn đề luân canh là không thế.
Các loại rau này rất dễ bị bệnh truyền qua đất như tuyến tùng, nấm ký sinh và côn trùng
làm giảm đáng kể năng suất cây trồng. Có một số giải pháp cho vấn đề này như
ô nhiễm ký sinh trùng trong đất 23
dùng hoá chất hay khử trùng hơi nước và phát triến hệ thống Hydroponics. Khử trùng đất
bằng phương pháp sinh học thì rất hữu ích đối với những trang trại trồng rau, chỉ cần đất đủ
ấm đế thực hiện quá trình lên men. Nhiệt độ cao thì cần thiết với phương pháp này vì thế nó
được thực thực hiện chủ yếu vào mùa hè. Khử trùng đất bằng phương pháp sinh học sẽ
trồng được 40 tấn/ha đổi với cỏ ryegrass ở Ý hoặc áp dụng cho một số cây trổng ở nhũng
nơi khác. Ngoài ra ở đây người ta có thể thay thế cỏ ryegrass bằng cúc vạn thọ như là một
tác nhân sinh học chống lại bệnh giun tròn.
stripping Pollutants with steam
Steam
injectio
n
well
Steam input
Steam
penetrates
porous soils and

well-fractured
bedrock?*
Optional cover (for shallow projects)
Extraction
well
up to 30 meters
Pollutants mixed with
vapor and liquid are
collected for
treatment.
Sand
Xử lý ký sinh trùng trong đât băng phương pháp xông hơi
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
Giun tròn và bệnh hại cây do giun tròn gây ra
Cắt cỏ và xới đất ở độ sâu 30 - 40cm. Neu sản xuất nhiều hơn thì xới sâu hơn. Sau đó
nén đất lại và phủ lên một tấm bạt đế tạo môi trường kỵ khí. Sáu tuần sau, quá trình lên men
đã hoàn thành. Quá trình này sẽ giết chết nấm và vi sinh vật gây bệnh trong đất mặc dù quá
trình này còn lệ thuộc nhiều vào bệnh có mặt trong đất.
Ket quả rất tốt đổi với một sổ loại ký sinh trùng như giun tròn và nấm cụ thể là
Verticilium. Các ảnh hưởng lên côn trùng và cỏ dại thì không rõ ràng. Thu thập dữ liệu cho
vấn đề này thì tương đối khó khăn. Tuy nhiên khử trùng bằng phương pháp sinh học ít gây
ra sự tác động đến cuộc sổng trong đất như là phương pháp sử dụng hơi nước.
Nhược điếm của phương pháp sử dụng hơi nước là nó sẽ giết chết gần như tất cả mọi thứ
trong đất.
Phủ những tấm phim lên đất sau khi cày xới đế tạo môi trường kỵ khí
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
Sau quá trình khử trùng này người ta sẽ trồng một số loại cây như cải bắp, cải bông
xanh, cây mù tạc hay Rhaphanus sativus. Những cây trồng này sẽ phóng thích ra một loại
chất độc gọi là “isothiocyanate” khi chúng chết đi. Hoá chất này có liến quan đến methan
sodium và giết chết một số mầm bệnh trong đất. Một cây trồng khác cũng thích hợp đó là

Sorghum (cây lúa miên). Loại cây này sẽ phóng thích cyanides trong suốt quá trình phân
huỷ giết chết giun tròn và một sổ loại nấm như Verticillum. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng
phương pháp khử trùng này sẽ ngăn chặn được sự ô nhiễm của một số tuyến trùng. Ngoài
ra, nấm còn được kiểm soát tốt: Vertillum bị giết khoảng 90% so với phương pháp khử
trùng đất bằng hoá chất.
3. Khử trùng đất bằng hơi Methyl Bromide
Methyl bromide là khí không màu, cực kỳ dễ bay hơi, điểm sôi là 4 - 6 °c. Trong tự
nhiên methyl bromide được tạo ra tù' biến, rừng, núi lửa và cở cháy. Methyl bromide là hoá
chất quan trọng đế bảo vệ thân gỗ, bảo quản thực phấm sau khi thu hoạch đế chổng lại các
loại ký sinh trùng cũng như côn trùng khác.
Methyl bromide cũng như các loại hoá chất nông nghiệp khác, chỉ được sử dụng bởi
những người có trình độ cao, được đào tạo rộng rãi trong việc kiểm soát dịch hại và cách sử
dụng hoá chất. Methyl bromide làm tăng nguồn cung cấp, chất lượng, chất dinh dưỡng và
an toàn thực phấm đổi với một sổ loại cây, rau, quả, hạt, ngũ cốc
Methyl bromide có độc tính cao sử dụng bằng cách xông hơi đế chống lại động vật gậm
nhấm, côn trùng, ve và một loạt các ấu trùng của ký sinh trùng gây bệnh trong đất. Người ta
khử trùng đất nhà kính bằng methyl bromide ở dạng hơi và thổi lên trên mặt đất dưới một
bao polyethylene. Khí này nặng gấp ba lần không khí và dễ dàng xâm nhập vào đất.
Br
I I
n
Mô hình phân tử của Methyl bromide (CH
3
-Br)
Trước đây, một số máy móc được sử dụng đế tiêm trực tiếp methyl bromide vào trong
đất. Trong quá trình này, ít nhất bổn công nhân phải cùng làm và họ chỉ được cung cấp một
mặt nạ với nồng độ khí tại đây là trên 1000 ppm. Trong suốt quá trình này, nồng độ có thế
dao động tù’ 30 - 3000ppm. Năm ngày sau khi phun, nồng độ trong không khí sẽ giảm
4ppm, đến ngày thứ chín thì nồng độ methyl bromide giảm 15ppm và đến ngày mười một
thì không còn methyl bromide trong không khí.

4. Sử dụng tác nhân sinh học là nấm Trichodermar đế tiêu diệt nấm ký sinh trên rễ cây
(nấm ký sinh trên thực vật là một loại của ký sinh trùng)
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM
Nấm Trichoderma spp. hiện diện gần như trong tất cả các loại đất và trong một số môi
trường sống khác. Chúng là loại nấm được nuôi cấy thông dụng nhất. Chúng hiện diện với
mật độ cao và phát triến mạnh ở vùng rễ của cây, một số giống có khả năng phát triến ngay
trên rễ. Những giống này có thể được bổ sung vào trong đất hay hạt giống bằng nhiều
phương pháp. Ngay khi chúng tiếp xúc với rễ, chúng phát triến trên bề mặt rễ hay vỏ rễ phụ
thuộc vào từng giống.
Ngoài sự hình thành khuẩn lạc trên rễ, nấm Trichoderma còn tấn công, ký sinh và lấy
chất dinh dường từ các loài nấm khác. Bởi vì nơi Trichoderma phát triển tốt nhất là nơi có
nhiều rễ khỏe mạnh, vì Trichoderma sở hữu nhiều cơ chế cho việc tấn công các loài nấm
gây bệnh cũng như cơ chế cho việc nâng cao sự sinh trưởng và phát triển của cây. Nhiều
phương pháp mới trong kiểm soát sinh học và nâng cao sự sinh trưởng của cây hiện nay đã
được chứng minh rõ ràng. Quá trình này được điều khiển bởi nhiều gen và sản phâm từ gen
khác nhau. Sau đây là một số cơ chế chủ yếu: Kỷ sinh nấm, kháng sinh, cạnh tranh chất
dinh dưỡng và không gian; sự chịu đựng các điều kiện bất lợi bằng việc gia tăng sự phát
triến của cây và rễ; làm hòa tan và cô lập chất dinh dưỡng vô cơ, cảm ứng sự kháng bệnh,
bất hoạt enzyme gây bệnh.
Hình thái nấm Trichoderma và sản phấm Tricô - ĐHCT cuả trường đại học cần Thơ
Hầu hết các giống Trichoderma không sinh sản hữu tính mà thay vào đó là cơ chế sinh
sản vô tính. Tuy nhiên, có một số giống sinh sản hữu tính đã được ghi nhận nhung những
giống này không thích hợp đế sử dụng trong các phương pháp kiểm soát sinh học. Phương
pháp phân loại truyền thống dựa trên sự khác nhau về hình thái chủ yếu là ở bộ phận hình
thành bào tử vô tính, gần đây nhiều phương pháp phân loại dựa trên cấu trúc phân tử đã
được sử dụng. Hiện nay, nấm Trichoderma ít nhất 33 loài.
Rất nhiều giống Trichoderma có khả năng kiểm soát tất cả các loài nấm ký sinh gây
bệnh khác. Tuy nhiên một số giống thường có hiệu quả hơn những giống khác trên một số
Trường Đại Học Công Nghiệp TP HCM

×