Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

3 tình huống nghiên cứu và đề thi môn pháp luật y tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.42 KB, 23 trang )

BÀI TẬP NHÓM
TÌNH HUỐNG NGHIÊN CỨU SỐ 1:
Bác sỹ A là công chức và hiện đang làm việc tại một bệnh viện của Nhà
nước (bệnh viện N). Nay bác sỹ A muốn thành lập một cơ sở khám, chữa bệnh
chuyên khoa phụ sản. Hỏi:
1. Bác sỹ A có thể thành lập và đăng kí là người lãnh đạo một bệnh viện chuyên
khoa phụ sản hay không? Tại sao?
Trả lời:
* Về việc bác sĩ A có được thành lập bệnh viện chuyên khoa phụ sản hay không?
Căn cứ theo khoản 13 Điều 6 Luật khám, chữa bệnh 2009 thì một trong những
hành vi bị cấm là “Cán bộ, công chức, viên chức y tế thành lập, tham gia thành lập
hoặc tham gia quản lý, điều hành bệnh viện tư nhân hoặc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp và Luật hợp tác xã, trừ trường
hợp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cử tham gia quản lý, điều hành tại cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh có phần vốn của Nhà nước”.
Và theo quy định tại Điều 37 Luật phòng, chống tham nhũng thì “Cán bộ, công
chức và viên chức không được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý,
điều hành doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công
ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học
tư, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Như vậy, theo các quy định trên thì bác sỹ A không được thành lập bệnh viện
chuyên khoa phụ sản.
* Về việc bác sĩ A có thể đăng kí là người lãnh đạo bệnh viện chuyên khoa phụ sản hay
không?
Căn cứ theo khoản 5 Điều 11 Thông tư 41/2007 của Bộ y tế về nguyên tắc đăng
kí hành nghề thì “Người hành nghề tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước
không được đăng ký làm người đứng đầu của bệnh viện tư nhân hoặc cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp và Luật hợp tác xã, trừ
trường hợp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cử tham gia quản lý, điều hành tại
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có phần vốn của Nhà nước”.
1


Như vậy, bác sĩ A không được đăng kí là người lãnh đạo một bệnh viện chuyên
khoa phụ sản.
2. Bác sỹ A có thể góp vốn với một bác sỹ người nước ngoài để thành lập một cơ sở
khám, chữa bệnh chuyên khoa phụ sản hay không? Tại sao?
Trả lời:
Bác sỹ A có thể góp vốn với một bác sỹ người nước ngoài để thành lập một cơ
sở khám, chữa bệnh chuyên khoa phụ sản trừ bệnh viện tư nhân. Bởi vì căn cứ theo
quy định tại khoản 6 Điều 13 Luật Khám, chữa bệnh 2009 thì Luật chỉ cấm thành lập
cơ sở khám chữa bệnh được hoạt động theo Luật Doanh nghiệp hoặc Luật Hợp tác xã.
Như vậy, Luật không cấm công chức thành lập cơ sở khám, chữa bệnh được hoạt động
theo các văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên thành lập bệnh viện tư nhân thì không được
vì bệnh viện thì sẽ hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Và việc thành lập cơ sở khám chữa bệnh chuyên khoa phụ sản phải đủ các điều
kiện quy định tại Điều 25 Thông tư số 41/2011/TT-BYT về điều kiện cấp giấy phép
hoạt động đối với phòng khám chuyên khoa phải thỏa mãn:
Về cơ sở vật chất quy định tại khoản 1 Điều 25.
Về thiết bị y tế quy định tại khoản 2 Điều 25.
Về phạm vi hoạt động chuyên môn quy định tại khoản 4 Điều 25.
Về nhân sự quy định tại khoản 3 Điều 25.
=> Như vậy nếu thỏa mãn các điều kiện trên thì bác sỹ A và bác sỹ người nước ngoài
có thể thành lập một cơ sở khám, chữa bệnh chuyên khoa phụ sản.
3. Bác sỹ A có được phép thành lập phòng khám chuyên khoa phụ sản kế hoạch hoá
gia đình hay không? Tại sao? Nếu được thành lập thì phải đáp ứng được những
điều kiện nào?
Trả lời:
Bác sĩ A được phép thành lập phòng khám chuyên khoa phụ sản kế hoạch hoá
gia đình. Căn cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 13 Luật Khám, chữa bệnh 2009 thì
Luật chỉ cấm công chức y tế thành lập cơ sở khám chữa bệnh được hoạt động theo Luật
Doanh nghiệp hoặc Luật Hợp tác xã. Như vậy, Luật không cấm công chức thành lập cơ
sở khám, chữa bệnh được hoạt động theo các văn bản pháp luật khác. Từ những phân

2
tích nêu trên, kết luận: Ông A có thể thành lập phòng khám dưới hình thức hộ kinh
doanh.
* Điều kiện để ông A có thể thành lập phòng khám trên: Căn cứ theo quy định tại Điều
42 Luật Khám, chữa bệnh 2009 thì:
- Phải có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
- Bên cạnh giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì cơ sở của ông A cũng phải có giấy
phép hoạt động do Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hoặc Giám đốc Sở Y
tế cấp.
Để được cấp giấy phép hoạt động thì cơ sở khám chữa bệnh và người chịu trách
nhiệm chuyên môn kỹ thuật phải đáp ứng những điều kiện được quy định tại Điều 43
Luật Khám chữa bệnh 2009 và thông tư số 41/2011/TT-BYT:
Đáp ứng những quy định của quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành;
Có đủ người hành nghề phù hợp với phạm vi hoạt động chuyên môn;
Người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám, chữa bệnh có thời gian
hành nghề khám bệnh, chữa bệnh ít nhất là 54 tháng tại chuyên khoa đó;
Có cơ sở vật chất, thiết bị y tế và nhân sự phù hợp với quy định của thông tư số
41/2011/TT-BYT.
4. Sau khi đã thành lập phòng khám, bác sỹ A có được phép ký hợp đồng để tham
gia khám, chữa viện bệnh tại bệnh tư nhân M hay không? Tại sao?
Trả lời:
Sau khi đã thành lập phòng khám, bác sỹ A chỉ được phép ký hợp đồng để tham
gia khám, chữa bệnh tại bệnh viện tư nhân M nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
Bệnh viện tư nhân M phải nằm cùng địa bàn tỉnh với bệnh viện N, nơi A đang
công tác và phòng khám chữa bệnh chuyên khoa phụ sản do A thành lập. Tổng thời
gian làm ngoài giờ, tức là tổng thời gian A làm tại phòng khám cùng với thời gian A
tham gia hoạt động khám, chữa bệnh tại bệnh viện tư nhân M không được quá 200 giờ
theo quy định của Bộ luật Lao động.
Điều kiện trên được quy định rõ tại khoản 6 Điều 11 TT41/2011/TT-BYT,

"Người hành nghề đã đăng ký làm người chịu trách nhiệm chuyên môn của một cơ sở
3
khám bệnh, chữa bệnh được đăng ký làm việc ngoài giờ tại cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh khác trên cùng địa bàn tỉnh nhưng tổng thời gian làm ngoài giờ không quá 200
giờ theo quy định của Bộ luật lao động".
Với quy định trên, pháp luật không cấm các trường hợp người hành nghề đã
đăng ký làm người chịu trách nhiệm chuyên môn của một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
được làm ngoài giờ tại các cơ sở khám, chữa bệnh khác. Cũng như không quy định
người làm thêm ngoài giờ chỉ được làm thêm ở một hay nhiều cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh khác, mà chỉ cần đáp ứng đủ các điều kiện của pháp luật được nêu như trên. Như
vậy bác sỹ A trong trường hợp này nếu đáp ứng đủ điều kiện trên thì sẽ được phép ký
hợp đồng tham gia khám, chữa bệnh tại bệnh viện tư nhân M. Với các quy định trên
nhằm tạo sự ràng buộc, tăng tính trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của bác sỹ trong
công tác, nhiệm vụ được giao, cũng như trong các hoạt động chuyên môn làm thêm
ngoài giờ. Đảm bảo tính chính xác, nhất là trong vấn đề bảo đảm, chăm sóc sức khỏe
con người.
5. Giả sử có vợ chồng anh B đến phòng khám của bác sỹ A yêu cầu áp dụng những
biện pháp nhằm mục đích lựa chọn giới tính thai nhi thì phòng khám của bác sỹ A
có được thực hiện những công việc theo yêu cầu của vợ chồng chị B không? Tại
sao?
Trả lời:
Phòng khám của bác sĩ A không được thực hiện những công việc đó vì theo
Điều 10 Nghị định 104/2003 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh dân số thì:
Nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi, bao gồm:
1. Tuyên truyền, phổ biến phương pháp tạo giới tính thai nhi dưới các hình thức: tổ
chức nói chuyện, viết, dịch, nhân bản các loại sách, báo, tài liệu, tranh, ảnh, ghi hình,
ghi âm; tàng trữ, lưu truyền tài liệu, phương tiện và các hình thức tuyên truyền, phổ
biến khác về phương pháp tạo giới tính thai nhi.
2. Chẩn đoán để lựa chọn giới tính thai nhi bằng các biện pháp: xác định qua triệu
chứng, bắt mạch; xét nghiệm máu, gen, nước ối, tế bào; siêu âm,

3. Loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính bằng các biện pháp phá thai, cung cấp, sử
dụng các loại hóa chất, thuốc và các biện pháp khác.
Khoản 2 Điều 7 Pháp lệnh dân số quy định:“Nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới
tính thai nhi dưới mọi hình thức (tư vấn, chẩn đoán giới tính của thai nhi, phá thai ”
Như vậy hành vi này vừa làm mất cân bằng giới tính vừa là hành vi bị pháp luật
nghiêm cấm nên bác sĩ A không được thực hiện.
4
6. Giả sử, chị C yêu cầu phòng khám của bác sỹ A phá thai cho mình thì phòng
khám có được thực hiện hay không? Tại sao?
Trả lời:
Theo quy định tại điểm đ, khoản 4 Điều 25 Thông tư 41/2011/TT-BYT hướng
dẫn cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động đối
với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thì phạm vi hoạt động của Phòng khám chuyên khoa
phụ sản về nạo, hút thai thì chỉ được thực hiện: Hút thai, phá thai nội khoa đối với thai
≤ 06 tuần (từ 36 ngày đến 42 ngày, kể từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng) khi đáp
ứng các điều kiện quy định tại chuẩn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh
sản do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành.
Như vậy, trường hợp chị C yêu cầu phòng khám của bác sĩ A phá thai cho mình
thì cần phải xác định thai của chị C có đủ điều kiện để được phá thai mà pháp luật đã
quy định ở trên hay không. Nếu thai của chị C đã quá 6 tuần thì phòng khám của bác sĩ
A không được phép tiến hành phá thai cho chị C, bởi trường hợp này đã vượt quá phạm
vi hoạt động của phòng khám. Ngược lại, nếu đáp ứng đủ điều kiện như đã nói ở trên
thì phòng khám của bác sỹ A có thể tiến hành thực hiện phá thai cho chị C. Bên cạnh
các điều kiện về sức khỏe của chị C, thì phòng khám của bác sỹ A còn phải đáp ứng
các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế theo tiêu chuẩn quốc gia về dịch vụ
chăm sóc sức khỏe sinh sản do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành thì mới được tiến hành
thực hiện việc phá thai này.
7. Giả sử do công việc kinh doanh thuận lợi, bác sỹ A có thể thành lập thêm một
hoặc nhiều cơ sở khám, chữa bệnh chuyên khoa phụ sản, kế hoạch hóa gia đình
hay không? Tại sao?

Trả lời:
Giả sử do công việc kinh doanh thuận lợi, bác sỹ A có thể thành lập thêm cơ sở
khám, chữa bệnh chuyên khoa phụ sản, kế hoạch hóa gia đình trừ bệnh viện tư nhân.
Bởi vì căn cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 13 Luật Khám, chữa bệnh 2009 thì Luật
chỉ cấm thành lập cơ sở khám chữa bệnh được hoạt động theo Luật Doanh nghiệp hoặc
Luật Hợp tác xã. Như vậy, Luật không cấm công chức thành lập cơ sở khám, chữa
bệnh được hoạt động theo các văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên thành lập bệnh viện
tư nhân thì không được vì bệnh viện thì sẽ hoạt động theo quy định của Luật Doanh
nghiệp.
5
Tình huống số 2:
Ông A là người nước ngoài, hiện đang làm việc tại Việt Nam. Ông đã
được bác sỹ chỉ định cần phải được ghép thận. Ông B là người Việt Nam đã
đồng ý hiến thận của mình cho ông A.
1. Trong trường hợp này, cơ sở y tế Việt Nam có được phép lấy thận của ông B
ghép cho ông A không? Tại sao?
Trả lời:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 34 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
người và hiến, lấy xác thì: “Người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài được ghép bộ phận cơ thể của người Việt Nam tại Việt Nam trong trường
hợp có cùng dòng máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời với người
hiến hoặc trong trường hợp người hiến đã có đơn tự nguyện hiến mà không nêu
đích danh người được ghép”.
Như vậy, trong tình huống này, ta chia hai trường hợp:
+ Trường hợp một: ông A có cùng dòng máu về trực hệ hoặc có họ trong
phạm vi ba đời với ông B thì cơ sở y tế Việt Nam được phép lấy thận ông B ghép
cho ông A.
Giải thích: Vì theo Khoản 1 Điều 34 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ
thể người và hiến, lấy xác thì người nước ngoài được ghép bộ phận cơ thể của
người Việt Nam tại Việt Nam trong trường hợp có cùng dòng máu về trực hệ

hoặc có họ trong phạm vi ba đời với người hiến. Theo đề bài, ông A là người
nước ngoài cần ghép thận, ông B là người Việt Nam đồng ý hiến thận và việc lấy,
ghép thận được thực hiện tại Việt Nam nên nếu ông A và ông B có cùng dòng
máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời với nhau thì theo Khoản 1 Điều
34 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác, cơ sở y tế
Việt Nam được phép lấy thận ông B ghép cho ông A.
6
+ Trường hợp hai: ông A không có cùng dòng máu về trực hệ hoặc không
có họ trong phạm vi ba đời với ông B thì cơ sở y tế Việt Nam không được phép
lấy thận ông B ghép cho ông A.
Giải thích: Vì theo Khoản 1 Điều 34 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ
thể người và hiến, lấy xác: nếu giữa ông A và ông B không có cùng dòng máu về
trực hệ hoặc không có họ trong phạm vi ba đời thì cơ sở y tế chỉ được phép lấy
thận ông B ghép cho ông A khi ông B đã có đơn tự nguyện hiến mà không nêu
đích danh người được ghép (tức là ông A). Nhưng theo đề bài: “Ông B là người
Việt Nam đã đồng ý hiến thận của mình cho ông A”, có nghĩa là, ông B đã nêu
đích danh người được ghép là ông A. Do đó, cơ sở y tế không được phép lấy
thận ông B ghép cho ông A trong trường hợp này.
Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 34 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
người và hiến, lấy xác.
2. Nếu ông B cùng ông A ra nước ngoài để thực hiện việc lấy và ghép thì
có được hay không? Tại sao?
Theo Khoản 2 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy
xác: “Người Việt Nam chỉ được ra nước ngoài để hiến bộ phận cơ thể người
trong trường hợp có cùng dòng máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời
với người được ghép.”
Theo đó, ta chia hai trường hợp:
+ Trường hợp một: ông A và ông B có cùng dòng máu về trực hệ hoặc có
họ trong phạm vi ba đời với nhau thì ông B được phép cùng ông A ra nước ngoài
để thực hiện việc lấy và ghép thận.

Giải thích:Vì việc hiến thận thực hiện tại nước ngoài và người hiến thận là
ông B (người Việt Nam) nên theo Khoản 2 Điều 34 Luật Luật Hiến, lấy, ghép
mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác thì việc hiến thận này chỉ được thực
7
hiện khi ông A và ông B có cùng dòng máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi
ba đời với nhau.
+ Trường hợp hai: ông A và ông B không có cùng dòng máu về trực hệ hoặc
có họ trong phạm vi ba đời với nhau thì việc lấy và ghép thận giữa ông A và ông
B ở nước ngoài là không được phép.
Giải thích: Vì Khoản 2 Điều 34 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
người và hiến, lấy xác quy định thì người Việt Nam chỉ được ra nước ngoài để
hiến bộ phận cơ thể người khi giữa họ và người được ghép có cùng dòng máu về
trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời. Những trường hợp còn lại đều không
được phép. Luật quy định như vậy là nhằm mục đích bảo vệ công dân Việt Nam,
tránh tình trạng họ bị lợi dụng để bán nội tạng ở nước ngoài, đe dọa đến sức
khỏe, tính mạng bản thân, an ninh, trật tự xã hội. Do đó, trong trường hợp này,
ông A và ông B không được thực hiện việc lấy và ghép thận ở nước ngoài.
Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 34 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
người và hiến, lấy xác.
3. Điều kiện ông B có thể hiến thận để ghép cho ông A
Ông B phải có các điều kiện sau:
Thứ nhất, điều kiện chung: ông B phải thỏa mãn điều kiện chung đối với
người hiến mô, bộ phận cơ thể.
Một là, ông B phải đủ mười tám tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ. Vì theo Điều 5 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến,
lấy xác quy định về Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác: “Người
từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến
mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác”. Theo đó,
ông B có thể hiến thận cho người khác, tức hiến bộ phận cơ thể mình khi còn
8

sống cho người khác, nếu ông đủ mười tám tuổi trở lên và có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ.
Hai là, ông B không mắc các bệnh thuộc danh mục bệnh mà người mắc các
bệnh đó không đuợc lấy mô, bộ phận cơ thể để ghép cho người bệnh theo quy
định tại Thông tư 28/2012
Thứ hai, điều kiện đặc biệt: do ông A – người nhận thận là người nước
ngoài, do đó trường hợp này ông B cần đáp ứng thêm điều kiện quy định tại
Điều 34 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác. Điều 34
quy định như sau:
“1. Người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được ghép bộ
phận cơ thể của người Việt Nam tại Việt Nam trong trường hợp có cùng dòng
máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời với người hiến hoặc trong
trường hợp người hiến đã có đơn tự nguyện hiến mà không nêu đích danh người
được ghép.
2. Người Việt Nam chỉ được ra nước ngoài để hiến bộ phận cơ thể người
trong trường hợp có cùng dòng máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời
với người được ghép.”
Do đó:
+ Nếu ca ghép thận thực hiện tại Việt Nam thì ông B và ông A phải có cùng
dòng máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời, hoặc ông B đã có đơn tự
nguyện hiến mà không nêu đích danh người được ghép (tức là ông A).
+ Nếu ca ghép thận được thực hiện ở nước ngoài thì ông B và ông A phải có
cùng dòng máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời với nhau.
Thứ ba, ông A cũng cần phải thỏa mãn các điều kiện đối với người được
ghép mô, bộ phận cơ thể người, quy đinh tại Điều 30 Luật Hiến, lấy, ghép mô,
bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác:
9
+ Có chỉ định ghép của cơ sở y tế được ghép mô, bộ phận cơ thể người.
+ Có đơn tự nguyện xin ghép.
+ Phải được sự đồng ý bằng văn bản của Hội đồng tư vấn lấy, ghép bộ phận

cơ thể người quy định tại Điều 15 của Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
người và hiến, lấy xác.
Cơ sở pháp lý: Điều 4, Điều 30, Điều 34 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận
cơ thể người và hiến, lấy xác.
4.Nếu sau khi được ghép thận ông A muốn nhờ thân nhân ở nước ngoài
chuyển vào Việt Nam một số loại thuốc chưa được cấp số đăng ký lưu hành ở
Việt nam để điều trị cho mình có được không?
Sau khi ghép thận thì ông A có thể nhờ thân nhân ở nước ngoài chuyển vào
Việt Nam một số loại thuốc chưa được cấp số lưu hành tại Việt Nam để điều trị
cho mình.
Theo quy định tại Điểm g Khoản 2 Điều 20 Luật dược 2005 về những trường
hợp nhập khẩu thuốc chưa đăng kí số lưu hành, nếu thuốc được nhập khẩu thuộc
một trong các hình thức nhập khẩu phi mậu dịch với số lượng nhất định thì có
thể được nhập khẩu vào Việt Nam.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 1 Quyết định định 71/2002/QĐ-TTg, thuốc
chữa bệnh cho người theo đường xuất khẩu nhập khẩu phi mậu dịch là nguồn
thuốc chữa bệnh cho người do người Việt Nam định cư ở nước ngoài, công dân
Việt Nam đi hợp tác lao động, hợp tác chuyên gia, công tác, học tập ở nước
ngoài, du lịch; người nước ngoài xuất, nhập cảnh hợp pháp vào Việt Nam mang
theo khi vào Việt Nam hoặc gửi về Việt Nam và thuốc từ Việt Nam gửi ra nước
ngoài hoặc mang ra nước ngoài theo người (gọi là thuốc nhập khẩu, xuất khẩu
phi mậu dịch) chỉ được phép nhập khẩu, xuất khẩu để sử dụng cho bản thân và
10
gia đình. Từ đó có thể suy ra việc ông A nhờ người thân nhập khẩu thuốc vào
mục đích chữa bệnh cho bản thân ông là hành vi nhập khẩu mang tính phi mậu
dịch.
Tại Quyết định số 71/2002/QĐ-TTg về việc quản lý thuốc chữa bệnh cho
người theo đường xuất khẩu, nhập khẩu phi mậu dịch và Thông tư 01/2007/TT-
BYT thì thuốc mà thân nhân của ông A gửi về Việt Nam phải thoả mãn một số
điều kiện sau:

Thứnhất, thuốc đó chỉ được phép nhập khẩu để sử dụng cho bản thân ông A
và gia đình ông A, không được bán ra thị trường hay sử dụng cho bất kỳ mục
đích bất hợp pháp nào khác căn cứ theo khoản 1 Điều 1 quyết định 71/2002/QĐ-
TTg và khoản 3 mục 1 thông tư 01/2007.
Thứ hai, thuốc đó không thuộc danh mục thuốc cấm nhập khẩu vào Việt
Nam hoặc thuốc có chứa hoạt chất nằm trong danh mục hoạt chất cấm nhập khẩu
vào Việt Nam do Bộ y tế ban hành căn cứ theo Điều 3 Quyết định 71/2002/QĐ-
TTg, mục 2 thông tư 01/2007.
Thứ ba, nếu thuốc mà thân nhân ở nuớc ngoài của ông A gửi về để điều trị
có thuốc gây nghiện hoặc có thuốc hướng tâm thần hay tiền chất làm thuốc ( gây
nghiện, hướng tâm thần) thì khi nhập khẩu phi mậu dịch phải thực hiện theo quy
định của Bộ y tế Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của cơ quan có thẩm quyền Việt
Nam ví dụ như thuốc hướng tâm thần khi nhập khẩu phi mậu dịch thì phải kèm
theo đơn thuốc chuyên khoa căn cứ theo điều 2 Quyết định 71/2002, điểm b
khoản 2 mục 3 Thông tư 01/2007
Thứ tư, thuốc được gửi về chỉ với một số lượng nhất định theo định mức
căn cứ theo khoản 2 Điều 1 quyết định 71/2002 và khoản 3 mục 3Thông tư
01/2007 theo đó:
11
+ Số lượng các thuốc hướng tâm thần, thuốc có chứa tiền chất dùng làm thuốc
nhập khẩu theo đường phi mậu dịch không được quá số lượng ghi trong đơn của
thầy thuốc kèm theo và không được vượt quá số lượng chỉ định dùng cho 10
ngày.
+ Số lượng mỗi thuốc thành phẩm khác được phép nhập khẩu theo đường phi mậu
dịch không quá 30USD/lần, nếu có nhiều loại thuốc thì tổng trị giá không quá
100USD/lần. Số lần nhận thuốc tối đa không quá 3 lần trong một năm cho một
cá nhân.
+ Trường hợp các thuốc hướng tâm thần, thuốc có chứa tiền chất dùng làm thuốc
và các thuốc thành phẩm khác nhập khẩu phi mậu dịch có trị giá hoặc số lần
nhận thuốc để điều trị cần thiết lớn hơn mức qui định nêu trên, căn cứ vào những

quy định chuyên môn về y tế và các quy chế về dược có liên quan, Sở Y tế địa
phương sẽ xem xét cho phép nhận những thuốc là thuốc chuyên khoa đặc trị,
thuốc hiếm. Theo đo đối với những thuốc do ông A nhận từ nước ngoài gửi về,
Sở Y tế nơi ông A đang sinh sống hoặc tạm trú hợp pháp là cơ quan xem xét cho
phép nhận thuốc.
Cơ sở pháp lý: Điểm g Khoản 2 Điều 20 Luật dược 2005, Quyết định số
71/2002/QĐ-TTg, Thông tư 01/2007/TT-BYT
5.Nếu ông B đăng ký hiến thận thì phải đáp ứng những điều kiện và thủ
tục nào?
 Điều kiện:
Thứ nhất, ông B phải đủ 18 tuổi trở lên theo Điều 5 Luật hiến, lấy, ghép
mô,bộ phận cơ thể ngưòi và hiến, lấy xác.
Thứ hai, ông B phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ căn cứ theo điều 5
Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác.
12
Thứ ba, ông B không mắc các bệnh thuộc danh mục bệnh mà người mắc các
bệnh đó không đuợc lấy mô, bộ phận cở thể để ghép cho người bệnh theo quy
định tại Thông tư 28/2012.
Thứ tư, về nguyên tắc ông B chỉ được hiến thận khi đã đăng ký hiến thận,
trừ trường hợp cấp cứu mà cần phải ghép thận cho cha, mẹ, anh, chị, em ruột thì
được phép lấy thận của ông B dù ông B chưa đăng ký hiến nếu ông B đồng ý căn
cứ theo khoản 2 Điều 14 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến,
lấy xác.
 Thủ tục:
Theo Điều 12 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác
thì:
Thứ nhất, ông B phải bày tỏ nguyện vọng hiến thận của mình với cơ sở y tế.
Thứ hai, ông cần phải đăng ký hiến thận theo mẫu đơn dưới sự huớng dẫn
của cơ sở y tế sau khi được cơ sở y tế tư vấn về các thông tin liên quan đến việc
hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể người và kiểm tra sức khoẻ và các thông số sinh

học.
Thứ ba, sau khi hoàn thành mẫu đơn ông gửi đến cơ sở y tế và việc đăng ký
này có hiệu lực kể từ khi cơ sở y tế nhận đơn đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể
người.
Việc đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sống có hiệu lực kể từ khi cơ
sở y tế nhận đơn đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sống.
Bên cạnh đó, còn phải thực hiện theo các điều kiện và thủ tục quy đinh tại
Điều 15 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác về lấy
mô bộ phận cơ thể người sống không thể tái sinh thì việc lấy cũng chỉ được tiến
hành sau khi có ý kiến đồng ý bằng văn bản của Hội đồng tư vấn lấy, ghép bộ
13
phận cơ thể người, hội đồng nói trên phải có ít nhất là năm người, bao gồm các
chuyên gia về y tế, pháp luật và tâm lý.
Cơ sở pháp lý: Điều 5, Điều 12, Điều 15 Luật hiến, lấy, ghép mô,bộ phận cơ
thể người và hiến, lấy xác
6. Giả sử ông A đăng kí hiến bộ phận cơ thể của mình cho các cơ sở y tế ở
Việt Nam thì có được không?
Trả lời:
Theo quy định của Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy
xác năm 2006 thì ông A hoàn toàn có thể tự nguyện hiến mô, bộ phận cơ thể của
mình khi còn sống hoặc sau khi chết cho các cơ sở y tế ở Việt Nam.
Với quy định tại Điều 5 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và
hiến, lấy xác năm 2006 thì những người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống,
sau khi chết và hiến xác. Như vậy quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến
xác không giới hạn đối với người nước ngoài. Vì vậy, không chỉ người Việt Nam
mà bất kì cá nhân mang quốc tịch nào cũng đều có thể tự nguyện hiến mô, bộ
phận cơ thể người và hiến xác khi đáp ứng đầy đủ điều kiện được quy định của
luật này và các văn bản hướng dẫn.
Cơ sở pháp lý: Điều 5 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và

hiến, lấy xác năm 2006.
7. Điều kiện để một cơ sở y tế được phép thực hiện việc lấy, ghép mô và bộ
phận cơ thể con người?
Theo quy định tại Điều 16 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và
hiến, lấy xác năm 2006 thì chỉ những cơ sở y tế đáp ứng đủ các điều kiện dưới
đây mới được phép thực hiện việc lấy, ghép mô và bộ phận cơ thể con người:
14
+ Có đủ đội ngũ cán bộ y tế có năng lực, trình độ chuyên môn về lấy, ghép
bộ phận cơ thể người, gây mê, hồi sức sau ghép được cơ sở y tế hoặc cơ sở đào
tạo cấp giấy chứng nhận hoặc văn bằng chuyên khoa;
+ Có trưởng kíp ghép bộ phận cơ thể người là người đã trực tiếp thực hiện
ca ghép trên người;
+ Có ít nhất ba phòng liên hoàn khép kín, bố trí một chiều, bảo đảm vô
trùng, bao gồm phòng lấy, xử lý và bảo quản bộ phận cơ thể người, phòng ghép
và phòng hồi sức sau ghép;
+ Có phòng kỹ thuật dành riêng cho việc theo dõi, chăm sóc liên tục người
hiến hoặc người được ghép;
+ Có đơn vị ghép thực nghiệm;
+ Có phòng xét nghiệm;
+ Có đơn vị lọc máu, chạy thận nhân tạo đối với trường hợp ghép thận;
+ Có đủ trang thiết bị, dụng cụ y tế về thăm dò chức năng, huyết học, hóa
sinh, vi sinh, miễn dịch, giải phẫu bệnh, chẩn đoán hình ảnh, định lượng nồng độ
thuốc chống thải ghép để bảo đảm việc chẩn đoán và theo dõi người hiến, người
được ghép trước, trong và sau khi ghép;
+ Có đủ cơ số thuốc cần thiết đáp ứng yêu cầu thực hiện quá trình lấy, ghép
và phục hồi sau khi ghép.
Ngoài ra, cơ sở y tế đó còn phải đáp ứng các điều kiện theo quy định tại
Quyết định số 08/2008/QĐ-BYT, Bộ trưởng Bộ y tế quy định cụ thể các điều
kiện để một cơ sở y tế được thực hiện việc lấy, ghép mô ( tại Khoản I Quyết
định số 80/2008) và đối với cơ sở y tế thực hiện việc lấy, ghép bộ phận cơ thể ở

người sống ( tại Khoản II Quyết định số 08/2008). Bên cạnh đó, cở sở y tế cần
phải tuân thủ trình tự, thủ tục cho phép cơ sở y tế hoạt động lấy, ghép mô, bộ
phận cơ thể người theo quy định tại Mục B Quyết định số 08/2008/QĐ-BYT.
15
Cơ sở pháp lý: Điều 16 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và
hiến, lấy xác năm 2006, Quyết định số 08/2008/QĐ-BYT.
TÌNH HUỐNG NGHIÊN CỨU SỐ 3:
Tình huống 3: Bà Nguyễn Thị A đến bệnh viện chuyên khoa phụ sản M yêu cầu được
tiến hành thủ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Bệnh viện đã tiến hành lấy noãn của bà
A thụ tinh trong ống nghiệm với tinh trùng của ông B là người cùng thời điểm này
cũng tới bệnh viện để thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm với noãn của vợ mình.
Nhưng việc thụ tinh trong ống nghiệm của bà A đã không đem lại kết quả. Sau khi
tham khảo ý kiến và được sự đồng ý của bà A, bệnh viện đã lấy phôi của vợ chồng ông
B đưa vào cơ thể của bà A. Kết quả là bà A đã mang thai và sinh con.
Hỏi:
1. Anh (chị) có nhận xét gì về vụ việc trên?
2. Việc cho nhận tinh trùng, cho nhận phôi như trên là đúng hay sai? Tại
sao?
3. Đứa con mà bà A sinh ra, theo quy định của pháp luật, là con của bà A
hay của vợ chồng ông B?
4. Giả sử việc cho, nhận tinh trùng giữa ông A và bà B là hợp pháp và được
thực hiện thành công nhưng nếu sau này bà B sinh ra một đứa trẻ có khuyết tật
do di truyền thì bà B có thể kiện bệnh viện M hay không?
5. Giả sử ông B gửi tinh trùng của mình tại bệnh viện thì sau này, khi ông
lớn tuổi hoặc khi ông B chết, bệnh viện có được phép sử dụng tinh trùng của
ông B để thụ tinh với noãn của vợ ông B hay không? Tại sao?
Bài làm
1. Nhận xét:
Đầu tiên, việc bà A đến bệnh viện để tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm mà
không nêu rõ là bà A là người độc thân hay đã có chồng cũng như các điều kiện để

được nhận tinh trùng theo quy định của pháp luật như về độ tuổi, sức khỏe,… (Điều
8, NĐ12/2003/NĐ-CP).
16
+ Nếu bà A độc thân và đủ các điều kiện nhận tinh trùng theo quy định của
pháp luật thì bà A có thể nhận tinh trùng để tiến hành thụ tinh trong ống
nghiệm (Điều 9 NĐ12/2003/NĐ-CP).
+ Nếu bà A có chồng và chồng bà A bị vô sinh nhưng bà A đảm bảo được
các điều kiện về độ tuổi, sức khỏe theo quy định của pháp luật thì bà A có
thể nhận tinh trùng để tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm (Điều 9
NĐ12/2003/NĐ-CP).
+ Nếu bà A có chồng nhưng chồng bà A không bị vô sinh thì bà A không
thể nhận tinh trùng để tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm.
+ Nếu bà A không đảm bảo các điều kiện về sức khỏe, độ tuổi theo quy
định của pháp luật thì trong mọi trường hợp bà A không được nhận tinh
trùng để tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm.
− Tiếp theo, việc bệnh viện lấy tinh trùng của ông B để tiến hành thụ tinh trong
ống nghiệm cho bà A mà không nói rõ là ông B có tự nguyện cho tinh trùng hay
không, do vậy:
+ Nếu ông B tự nguyện cho tinh trùng của mình cho bệnh viện thì bệnh
viện có thể lấy tinh trùng của ông B để cho bà A.
+ Nếu ông B không tự nguyện cho tinh trùng của mình cho bệnh viện thì
bệnh viện không được phép lấy tinh trùng của ông B cho bà A.
− Hơn nữa, ở đây tình huống cũng không nêu ra là việc cho, nhận tinh trùng này
bệnh viện thực hiện có đảm bảo theo nguyên tắc bí mật hay không.
− Cuối cùng, việc bệnh viện lấy phôi của vợ chồng ông B cho bà A mà tình huống
không nói rõ là có hợp đồng tặng cho số phôi còn dư của vợ chồng ông B với
bệnh viện phụ sản M hay không cho nên điều này chỉ được phép khi vợ chồng
ông B thụ tinh trong ống nghiệm có phôi dư và được sự đồng ý của cả 2 vợ
chồng về việc tặng cho số phôi dư đó (điều 11 Nghị định 12/2003); Ở đây, tình
huống cũng chưa xác định bà A có đử điều kiện để nhận phôi theo khoản 3 Điều

9 Nghị định 12/2003 hay không.
2. Khi xem xét việc cho nhận tinh trùng, cho nhận phôi có hợp pháp hay không,
trước hết phải xét các điều kiện chung của người cho và người nhận, cụ thể đối với
17
ông B phải thỏa mãn các điều kiện chung theo quy định tại Điều 7 Nghị định
12/2003/NĐ-CP là từ đủ 20 tuổi đến 55 tuổi đối với người cho tinh trùng, có đủ sức
khỏe, không mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS, bệnh tâm
thần, bệnh truyền nhiễm hay các bệnh di truyền khác, tự nguyện, Không tìm hiểu về
tên, tuổi, địa chỉ và hình ảnh của người nhận. Với bà A là người nhận phải bảo đảm
các điều kiện như từ đủ 20 tuổi đến 45 tuổi, có đủ sức khỏe để thụ thai, mang thai
và sinh đẻ, không mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS, bệnh
tâm thần, bệnh truyền nhiễm hay các bệnh di truyền khác, không tìm hiểu về tên,
tuổi, địa chỉ và hình ảnh của người cho.
Sau khi các điệu kiện chung đã thỏa mãn, ta xem xét điều kiện riêng trong từng
trường hợp cụ thể như sau:
- Việc cho nhận tinh trùng:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Nghị đinh 12/2003/NĐ-CP: “Tinh trùng của
người cho chỉ được sử dụng cho một người. Người nhận tinh trùng phải là người vợ
trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do người chồng,
phụ nữ sống độc thân có nhu cầu sinh con đã được cơ sở y tế xác định có noãn bảo
đảm chất lượng để thụ thai.”
Như vậy, về chủ thể nếu bà Nguyễn Thị A là phụ nữ độc thân hoặc có chồng
nhưng người chồng vô sinh thì việc bà A nhận tinh trùng của ông B mới có thể đúng
theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, như đã phân tích ở câu 1, ông B phải tự nguyện
cho tinh trùng và bà A phải là người nhận đầu tiên số tinh trùng mà ông B cho thì việc
cho nhận này mới phù hợp pháp luật. Cũng cần nói thêm là sau này nếu có người khác
nhận tinh trùng của ông B thì việc nhận sau này không phù hợp với quy định của pháp
luật do tinh trùng của người cho chỉ được sử dụng một lần.
Ngược lại, nếu bà Nguyễn Thị A là người có chồng và chồng bà không bị vô
sinh, hoặc ông B không tự nguyện cho tinh trùng, hoặc trước bà A đã có người nhận

tinh trùng của ông B thì việc ho nhận này là không đúng quy định của pháp luật.
18
- Với trường hợp cho nhận phôi:
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 9 Nghị định 12/2003/NĐ-CP: “Phôi của người
cho có thể được sử dụng cho một người. Người nhận phôi phải là người vợ trong cặp
vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do cả người vợ và người
chồng.”
Trường hợp này, tuy bà A có noãn nhưng nguyên nhân vô sinh vẫn có thể là do
bà A khi noãn của bà không đảm bảo chất lượng để thụ thai (noãn bà A kết hợp với tinh
trùng của ông B không đem lại kết quả). Như vậy, chỉ khi bà A có chồng và cả 2 vợ
chồng bà đều vô sinh thì việc bà nhận phôi của vợ chồng ông B mới đúng theo quy
định của pháp luật. Ngoài ra cũng cần lưu ý theo khoản 1 Điều 11 Nghị định
12/2003/NĐ-CP quy định “Các cặp vợ chồng sau khi có con bằng phương pháp thụ
tinh trong ống nghiệm, nếu không có nhu cầu sử dụng số phôi còn dư thì có thể tặng
lại cho cơ sở y tế nơi lưu giữ số phôi đó với sự đồng ý của cả hai vợ, chồng thông qua
hợp đồng tặng, cho.”, như vậy chỉ khi vợ chồng ông B tặng số phôi đó cho cơ sở y tế
thông qua hợp đồng tặng cho thì cơ sở y tế mới được cho bà A nhận phôi. Cuối cùng,
một điều kiện cũng rất quan trọng là bà A phải là người đầu tiên nhận phôi của vợ
chồng ông B thì việc nhận phôi này mới phù hợp pháp luật. Cũng như việc cho nhận
tinh trùng, nếu sau này có người nhận phôi của vợ chồng ông B thì việc nhận phôi của
người này không phù hợp với quy định do phôi chỉ được cho một người.
Còn nếu bà A là phụ nữ độc thân, hoặc có chồng và người chồng không bị vô
sinh hoặc noãn của bà đáp ứng được chất lượng để thụ thai, hoặc số phôi trên không
không được ông vợ chồng ông B cho bệnh viện, hoặc phôi của vợ chồng ông B đã cho
một người nào trước đó thì việc bà nhận phôi của vợ chồng ông B là sai.
3. Theo tình huống này, bà A đã nhận phôi của vợ chồng ông B. Kết qua là bà A
đã mang thai và sinh con. Như vậy, đứa con được sinh ra từ bà A và bà A được xác định
là người mẹ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ sống độc thân (theo Khoản
19
1 Điều 20 Nghị định 12/2003/NĐ-CP). Theo Khoản 2 Điều 20 Nghị định 12/2003/NĐ-

CP, những người được xác định là cha, mẹ đối với trẻ sinh ra do thực hiện kĩ thuật hỗ
trợ sinh sản bao gồm:
- Cặp vợ chồng vô sinh mà người vợ là người đã sinh ra đứa trẻ.
- Người phụ nữ sống độc thân đã sinh ra đứa trẻ.
Như vậy, bà A được xác định là mẹ của đứa con do bà sinh ra.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Khoản 4 Điều 4 Nghị định 12/2003/NĐ-CP: “Việc
cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên nguyên tắc bí mật”. Do
đó, để đảm bảo nguyên tắc này, bà A không được biết về tên, tuổi, địa chỉ và hình ảnh
của người cho phôi. Như vậy, không có căn cứ để xác định vợ chồng ông B là cha, mẹ
của đứa con do bà A sinh ra.
4. Tình huống giả sử việc cho và nhận tinh trùng giữa ông B và bà A là hợp pháp và
được thực hiện thành công. Do đó nếu sau này bà A sinh ra đứa trẻ bị khuyết tật thì
quyền khởi kiện bệnh viện M của bà có được thực hiện hay không tùy thuộc vào việc
trước đó cán bộ y tế trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm cũng như cấy phôi của
vợ chồng ông B vào cơ thể bà A đã làm hết trách nhiệm của mình hay chưa. Cụ thể:
Nếu cơ sở y tế đã làm trọn trách nhiệm của mình theo quy định tại Điều 10,
Nghị định 12/2003/NĐ-CP được hướng dẫn tại điều 5 Thông tư 07/2003/TT-BYT như:
Xem xét trạng thái tâm lý của người cho và người nhận tinh trùng, noãn; Tư vấn đầy
đủ các rủi ro có thể xẩy ra trong quá trình lấy tinh trùng, noãn; Kiểm tra sức khỏe và
làm đầy đủ các xét nghiệm đối với người cho và người nhận tinh trùng, người cho
noãn và người nhận noãn, người nhận phôi; Ghi nhận đầy đủ các thông số về chất
lượng tinh trùng, chất lượng noãn của người cho; Thực hiện đúng quy trình kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản theo quy định của Bộ Y tế.
20
Trong trường hợp này nếu đứa trẻ sinh ra bị dị tật thì đó là rủi ro ngoài ý muốn,
cán bộ y tế đã làm tròn trách nhiệm do đó bà A không có quyền kiện bệnh viện M
(không có cơ sở để kiện).
Còn trong trường hợp trong quá trình thụ tinh trong ống nghiệm, cấy phôi của
vợ chồng ông B vào cơ thể bà A mà cán bộ y tế tắc trách, không tuân thủ quy trình
nghiệp vụ, nhất là khi lấy tinh trùng, cán bộ y tế không kiểm tra sức khỏe, thể trạng

cũng như không thực hiện đầy đủ các xét nghiệm mà nếu như làm những việc này sẽ
có thể biết được những rủi ro có thể xảy ra, hoặc đã thực hiện các xét nghiệm, kiểm tra
cần thiết, và có kết quả là không đủ điều kiện để cho, nhận tinh trùng, nhưng cơ sở y tế
không từ chối mà vẫn thực hiện việc cho nhận dẫn đến sau này đứa con bà A sinh ra bị
dị tật thì bà A có quyền khởi kiện bệnh viện M để đòi quyền lợi. Nghị định
12/2003/NĐ-CP quy định rất rõ tại điều 23: “Người nào vi phạm các quy định của
Nghị định này, tùy theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành
chính, truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại
theo quy định của pháp luật.”. Do đó, bà A hoàn toàn có quyền khởi kiện bệnh viện để
đòi bệnh viện bồi thường thiệt hại cho mình.
5. Ta xét hai trường hợp:
- Thứ nhất trong trường hợp ông B chết:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 18 Nghị định 12/2003/NĐ-CP: “Trong trường
hợp người gửi tinh trùng bị chết, cơ sở lưu giữ tinh trùng phải hủy số tinh trùng của
người đó”. Như vậy khi ông B chết thì bệnh viện không được phép sử dụng tinh trùng
của ông B để thụ tinh với noãn của vợ ông. Trong trường hợp này, bệnh viện phải hủy
số tinh trùng của ông B đang lưu giữ.
- Thứ hai trong trường hợp ông B lớn tuổi:
Pháp luật quy định việc lưu giữ tinh trùng trong hai trường hợp: Người chồng
trong những cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh, hoặc người có nguyện vọng muốn lưu
21
giữ cá nhân. Với mục đích để lưu giữ cá nhân thì khi lớn tuổi, ông B hoàn toàn có
quyền được sử dụng số tinh trùng đó để thụ tinh cho vợ mình.
Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng cũng như kết quả tốt nhất trong quá trình
thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, thực tiễn áp dụng, các cơ sở y tế nói chung, bệnh
viện nói riêng thường sử dụng tinh trùng của một người để thụ tinh trong vòng 2 năm
kể từ ngày gửi giữ tại cơ sở lưu giữ tinh trùng.
Đề thi Y tế khoa Quốc tế 35
Câu 1: 4 điểm
Bình luận về nguyên tắc tự nguyện và nguyên tắc bí mật trong việc áp dụng kỹ

thuật hỗ trợ sinh sản
Câu 2: 6 điểm
Ngày 02/10/ 2011, ông nguyễn văn A bị tai nạn giao thông, ông B là người đi
đường đã đưa ông tới bệnh viện N (là bệnh viện tư nhân) nhưng bệnh viện đã
không tiếp nhận với lý do không có người nhà đi cùng. Ông B tiếp tục đưa ông A
tới bệnh viện M là bệnh viện đa khoa, sau khi sơ cứu, bác sỹ khám bệnh đã
chuyển ông A tới khoa Ngoại Thần kinh để tiếp tục điều trị vì ông A có dấu hiệu
bị chấn thương sọ não. Khi người nhà ông A tới bệnh viện đã yêu cầu chuyển
ông A lên bệnh viện tuyến trên nhưng nhưng bệnh viện M không đồng ý.
Hỏi:
1. Anh chị có nhận xét gì về vụ việc nói trên?
2. Giả sử ông A chết và bệnh viện yêu cầu giải phẫu tử thi nhưng gia đình ông A
không đồng ý thì bệnh viện có được phép giải phẫu tử thi của ông A hay không?
3. Giả sử trước khi chết ông A đã đăng ký hiến bộ phận cơ thể, hiến xác thì cơ sở
y tế được phép lấy bộ phận cơ thể mà ông A đã hiến tại thời điểm nào?
4. Trong trường hợp thân nhân ông A không đồng ý thì cơ sở y tế có được lấy bộ
phận cơ thể và lấy xác của ông A? Tại sao?
22
23

×