Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Tìm hiểu tác nhân gây bệnh lở loét trên cá chẽm (Lates calcarifer) nuôi lồng biển tại Nha Trang – Khánh Hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.78 MB, 67 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN




VIÊN ĐẠI PHÚC






TÌM HIỂU TÁC NHÂN GÂY BỆNH LỞ LOÉT TRÊN

CÁ CHẼM (Lates calcarifer) NUÔI LỒNG BIỂN TẠI
NHA TRANG - KHÁNH HÒA





Chuyên ngành: Vi sinh vật học
Mã số: 60 42 40



LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC







NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

Ts. LÊ THỊ THÚY ÁI
Ths. NGUYỄN THỊ THANH THÙY





Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và tri ân sâu sắc
nhất tới:
Ban giám hiệu Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Tp. Hồ Chí Minh, Khoa
Sinh học, Phòng Đào tạo Sau đại học, Bộ môn Vi sinh vật đã tạo mọi điều kiện tốt
nhất để tôi hoàn thành khóa học và luận văn tốt nghiệp của mình.
Quý Thầy Cô trong Khoa Sinh học đã tận tình giảng dạy, trang bị cho tôi
những kiến thức quý báu trong những năm học vừa qua.
Cô Lê Thị Thúy Ái và Chị Nguyễn Thị Thanh Thùy là những giáo viên hướng
dẫn đã luôn ân cần chỉ dạy và tận tình giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành luận văn
này.
Ban lãnh đạo Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 3, Giám đốc Trung tâm
Quốc gia Quan trắc cảnh báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh thủy sản khu

vực miền Trung đã tạo điều kiện và thời gian để tôi có thể tham gia và hoàn thành
khóa học.
Các anh chị và các bạn đồng nghiệp ở Trung tâm Quốc gia Quan trắc cảnh
báo môi trường và phòng ngừa dịch bệnh thủy sản khu vực miền Trung, Dự án
NUFU, Tổ phân tích và kiểm nghiệm thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản
3 đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Gia đình, người thân, bạn bè đã luôn dõi theo, động viên và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn những sự giúp đỡ quý báu đó!

Viên Đại Phúc

1
MỞ ĐẦU
Cá chẽm (Lates calcarifer, Bloch 1790) hay còn gọi là cá vược, là một loài
cá có giá trị kinh tế quan trọng ở vùng Nhiệt đới và Cận nhiệt đới thuộc châu Á -
Thái Bình Dương. Với đặc tính dễ nuôi và thời gian sinh trưởng nhanh, sau một
năm thả nuôi từ cá giống cỡ 4 - 5cm, cá có thể đạt trọng lượng từ 1,5 - 3kg. Hơn
nữa, thịt cá chẽm thơm ngon, giá thành khá cao nên loài này đã được nuôi phổ biến
ở nhiều nước trên thế giới như Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan, Philippin,
Indonesia, Australia….
Ở nước ta, sau khi trường Đại học Nha Trang sản xuất nhân tạo thành công
giống cá chẽm (năm 2006) và chuyển giao công nghệ sản xuất giống cho các tỉnh
thì nghề nuôi cá chẽm đã phát triển mạnh mẽ ở các tỉnh ven biển, đến nay cá chẽm
trở thành đối tượng nuôi xóa đói giảm nghèo, thay thế các đối tượng nuôi khác đang
bị suy thoái.
Trong thời gian gần đây, cá chẽm nuôi thương phẩm ở vùng biển Vũng Ngán
- Nha Trang bị bệnh lở loét trên thân và chết (tỷ lệ mắc bệnh khoảng 30 - 40% cá
thể trong đàn), bệnh xảy ra ở tất cả các cỡ cá nuôi, từ cá mới thả nuôi cho đến cá đã
nuôi lớn (2 - 3kg). Tuy nhiên, nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa được xác định và

cách phòng trị bệnh vẫn chưa có giải pháp hiệu quả. Xuất phát từ tình hình đó, việc
tìm ra tác nhân gây bệnh để đưa ra cơ sở cho việc phòng và trị bệnh lở loét trên cá
chẽm là vấn đề khá cần thiết và cấp bách hiện nay.
Đề tài “Tìm hiểu tác nhân gây bệnh lở loét trên cá chẽm (Lates calcarifer)
nuôi lồng biển tại Nha Trang – Khánh Hòa” được thực hiện với mục tiêu “xác định
được tác nhân gây bệnh lở loét và đề xuất được biện pháp phòng trị bệnh cá hiệu
quả”.
Các nội dung nghiên cứu gồm:
- Phân tích tác nhân vi khuẩn, ký sinh trùng và vi nấm trên cá chẽm (Lates
calcarifer) biểu hiện lở loét.
2
- Phân tích sự biến đổi mô học tại vết loét, gan và thận của cá bệnh.
- Thử nghiệm cảm nhiễm tác nhân gây bệnh có tần số bắt gặp cao để làm cơ sở
xác định đúng tác nhân gây bệnh lở loét.
- Đề xuất biện pháp phòng trị bệnh lở loét ở cá chẽm.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Kết quả của đề tài sẽ bổ sung vào nguồn tư liệu nghiên
cứu dịch bệnh trên cá chẽm nuôi ở nước ta.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ làm cơ sở để phòng và trị
bệnh trên cá chẽm, góp phần phát triển nghề nuôi cá chẽm ở nước ta.















i

MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cảm ơn Trang
Mục lục i
Danh mục các ký hiệu, các từ viết tắt iv
Danh mục các bảng v
Danh mục các biểu đồ và hình ảnh vi
Mở đầu
1
Chương 1 - Tổng quan tài liệu
3
1.1. Tổng quan về cá chẽm 3
1.1.1. Tên gọi và hệ thống phân loại 3
1.1.2. Hình thái, đặc điểm nhận dạng và cỡ 3
1.1.3. Vùng phân bố 4
1.1.4. Đặc điểm môi trường sống 4
1.1.5. Vòng đời sinh sản 4
1.1.6. Tính ăn 4
1.2. Tổng quan về tình hình nuôi cá chẽm ở Việt Nam và trên thế giới 5
1.2.1. Tình hình nuôi cá chẽm trên thế giới 5
1.2.2. Tình hình nuôi cá biển ở Việt Nam 7
1.3. Các nghiên cứu về bệnh cá chẽm trên thế giới 7
1.3.1. Bệnh do vi khuẩn 8

1.3.2. Bệnh do ký sinh trùng 10
1.3.3. Bệnh do nấm 13
1.3.4. Bệnh do virus 13
1.4. Các nghiên cứu về bệnh cá biển ở Việt Nam 14
Chương 2 - Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
17
2.1. Phương pháp thu mẫu cá 17
2.2. Phương pháp xử lý mẫu tại phòng thí nghiệm 17
ii

2.3. Phương pháp phân tích các yếu tố hóa lý trong môi trường nước 17
2.4. Phương pháp định lượng vi khuẩn trong nước 18
2.5. Phương pháp nghiên cứu bệnh do vi khuẩn 19
2.6. Phương pháp nghiên cứu bệnh do ký sinh trùng 22
2.7. Phương pháp nghiên cứu bệnh do nấm 23
2.8. Phương pháp nghiên cứu mô học 23
2.9. Phương pháp cảm nhiễm vi khuẩn lên cá khỏe 24
2.10. Phương pháp thử độ nhạy kháng sinh (kháng sinh đồ) 26
2.11. Phương pháp xử lý số liệu 27
Chương 3 - Kết quả nghiên cứu và thảo luận
28
3.1. Kết quả kiểm tra các yếu tố môi trường nước tại thời điểm thu
mẫu cá bệnh 28
3.1.1. Kết quả phân tích các chỉ tiêu hóa lý nước nuôi 28
3.1.2. Kết quả định lượng vi khuẩn vibrio tổng số và vi khuẩn
hiếu khí tổng số trong nước tại vùng nuôi 31
3.2. Kết quả phân tích tác nhân gây bệnh 33
3.2.1. Kết quả phân lập và định danh vi khuẩn trên cá chẽm bị
bệnh lở loét 33
3.2.2. Kết quả phân lập nấm trên cá chẽm bị bệnh lở loét 39

3.2.3. Kết quả kiểm tra cứu ký sinh trùng ngoại ký sinh trên cá chẽm bị
bệnh lở loét 40
3.3. Kết quả kiểm tra mô cá bị bệnh bằng phương pháp mô học 43
3.4. Kết quả cảm nhiễm chủng Vibrio alginolyticus (CH3G-TCBSVN) phân lập
từ cá chẽm bị bệnh lên cá chẽm khỏe 45
3.4.1. Kết quả cảm nhiễm lần 1 45
3.4.2. Kết quả cảm nhiễm lần 2 (lặp lại) 47
3.5. Kết quả thử nghiệm kháng sinh đồ chủng Vibrio alginolyticus (CH3G-
TCBSVN) phân lập từ cá chẽm bị bệnh lở loét 50
3.6. Đề xuất phương pháp phòng trị bệnh cho cá chẽm bị bệnh lở loét 51
iii

3.6.1. Xử lý bằng Tetracycline 52
3.6.2. Xử lý bằng Nalidixic acid 53
Chương 4 - Kết luận và kiến nghị
54
4.1. Kết luận 54
4.2. Kiến nghị 54
Tài liệu tham khảo
56
Phụ lục
65

















3
Chương 1 - TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan về cá chẽm
[1],[22]
1.1.1. Tên gọi và hệ thống phân loại
[1]
Tên khoa học: Lates calcarifer (Bloch, 1790)
Tên tiếng Anh: Sea bass, barramundi.
Tên tiếng Việt: Cá chẽm, cá vược.
Hệ thống phân loại
[22]
:

Giới: Động vật (Animalia)
Ngành: Có dây sống (Chordata)
Ngành phụ: Có xương sống (Vertebrata)
Lớp: Cá (Pisces)
Lớp phụ: Cá xương (Teleostomi)
Bộ: Cá vược (Perciformes)
Họ: Cá vây tia (Centropomidae)
Chi: Cá chẽm (Lates)
Loài: Cá chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790)

1.1.2. Hình thái, đặc điểm nhận dạng và cỡ
Cá chẽm có thân dài, cuống đuôi khuyết sâu, đầu nhọn, nhìn bên lõm phía
lưng (hình dạng lưng lõm) và lồi ở phía trước vây lưng. Miệng rộng, hơi so le, hàm
trên kéo dài tới tận mắt, răng dạng lông nhung, không có răng nanh. Vây lưng có 7 -
9 gai và 10-11 tia mềm. Vây hậu môn tròn, có 3 gai, 7 - 8 tia mềm, vây đuôi tròn,
vảy dạng lược rộng (xù xì hay nhẵn)
[22]
. Chiều dài tối đa 200cm, nặng tối đa 60kg
[1]
.
4
Màu sắc: Giai đoạn cá giống có màu nâu ô-liu ở phía trên và màu bạc hoặc
nâu vàng ở phần bên và phần bụng, giai đoạn trưởng thành cá có màu xanh lục hay
vàng nhạt ở phần trên và màu trắng bạc ở phần bụng
[22]
.
1.1.3. Vùng phân bố
Cá chẽm phân bố rộng ở các vùng Nhiệt đới và Cận nhiệt đới thuộc Tây Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương, giữa kinh tuyến 50
0
Đông - 160
0
Tây; vĩ tuyến 26
0

Bắc - 25
0
Nam. Cá còn tìm thấy ở khắp phần Bắc châu Á, phía Nam kéo dài đến
Queensland (Australia), phía Tây đến Đông châu Phi. Ở nước ta, cá chẽm phân bố ở
dọc bờ biển từ bắc đến nam

[1],[22]
.
1.1.4. Đặc điểm môi trường sống
Cá chẽm sinh trưởng và phát triển tốt ở điều kiện môi trường nhiệt độ: 15 -
28
0
C, độ mặn: 2 - 35
00
0
, độ sâu: 5 - 20m. Chúng thường sống tập trung ở vùng
nước ven bờ, cửa sông, rừng ngập mặn và phân bố cho tới độ sâu 40m
[1]
.
1.1.5. Vòng đời và sinh sản
Cá chẽm trải qua phần lớn thời gian sinh trưởng (2 - 3 năm) trong các thủy
vực nước ngọt như sông, hồ. Cá có tốc độ tăng trưởng nhanh, thường đạt cỡ 3 - 5kg
sau 2 - 3 năm. Cá trưởng thành (3 - 4 tuổi) di cư từ vùng nước ngọt về vùng cửa
sông và ra biển, nơi có độ muối từ 30 - 32
00
0
để phát triển tuyến sinh dục và đẻ
trứng sau đó. Cá đẻ đồng thời với thủy triều lên và theo chu kỳ trăng
[22]
. Cá đẻ
quanh năm, mùa đẻ rộ từ tháng 3 - 5 và 7 - 8. Thời gian ấp nở 18 giờ trong điều kiện
nhiệt độ từ 28 - 30
0
C và 12 - 17 giờ trong điều kiện nhiệt độ 29 - 32
0
C, độ mặn từ

30 – 32
00
0
. Loài cá này chưa phân ra giới tính khi còn nhỏ
[1]
.
1.1.6. Tính ăn:
Cá chẽm trưởng thành là loài cá dữ, phàm ăn, thức ăn ưa thích của chúng là
các loài cá tạp, tôm, chúng không ăn thực vật và các loài giáp xác khác như cua,
cáy Cá sinh trưởng nhanh, sau 1 năm, từ cỡ cá giống 4 - 5cm có thể đạt trọng
lượng từ 1,5 - 3kg
[1],[22]
.
5
1.2. Tổng quan về tình hình nuôi cá chẽm ở Việt Nam và trên thế giới
1.2.1. Tình hình nuôi cá chẽm trên thế giới
Do giá trị dinh dưỡng cao, nhu cầu thị trường ngày càng mở rộng và là loài
phân bố rộng, dễ nuôi đã làm cho cá chẽm trở thành một trong những đối tượng
được lựa chọn để phát triển nuôi chính cho ngành nuôi trồng thủy sản. Kỹ thuật
nuôi cá chẽm được phát triển lần đầu tiên ở phòng thí nghiệm Songkhla Marine
(Thái Lan) từ những năm đầu của thập niên 1970 và sau đó phát triển rộng ra các
nước trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Phillipines,
Singapore, Đài Loan, Việt Nam và Australia, và gần đây ở một số quốc gia như Mỹ,
Hà Lan, Anh và Israel
[38]
.
Từ năm 1997 đến năm 2006, sản lượng cá chẽm hàng năm ở khu vực châu Á
- Thái Bình Dương luôn ở trong khoảng từ 20.000 - 27.000 tấn, phần lớn cá chẽm
được nuôi hồ hoặc lồng ở vùng nước lợ cửa sông hoặc bờ biển
[39]

. Năm 2004, sản
lượng cá chẽm khoảng 25.399 tấn, năm 2005 khoảng 26.584 tấn
[50]
và năm 2006
tăng lên 27.522 tấn
[51]
.










Bi
ểu đồ
1.1.
Sản lượng cá chẽm (Lates calcarifer) theo quốc gia (cột) và
giá trị (đường) ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương từ năm 1997 đến 2006.
(Nguồn
Mike Rimmer (2008))
[50]
.

6
Thái Lan: Là nước dẫn đầu về sản lượng nuôi cá chẽm trong khu vực Châu
Á - Thái Bình Dương. Năm 2004, giá trị sản lượng cá chẽm của Thái Lan là 65,08

triệu USD, năm 2005 là 68,52 triệu USD với giá bán khá ổn định, trung bình mỗi kg
cá thương phẩm dao động trong khoảng 2,50 - 2,60 USD
[51]
. Theo FAO (2006)
(trích dẫn bởi Halwart, 2007), sản lượng cá chẽm nước mặn và lợ của Thái Lan tăng
hằng năm, từ 3.884 tấn (năm 1995) và tăng lên 14.550 tấn (năm 2004)
[39]
.
Malaysia: Cá chẽm là loài được nuôi truyền thống, đến năm 2007 vẫn là loài
nuôi dẫn đầu trong nghề nuôi cá lồng ở Malaysia. Theo thống kê của FAO (2006)
(trích dẫn bởi Halwart, 2007), sản lượng cá chẽm của Malaysia là 4.003,73 tấn (năm
2002), 4.210,93 tấn (năm 2003), và 4.000,54 tấn (năm 2004)
[39]
.
Indonesia: Là quốc gia có sản lượng cá có vảy (finfish) biển lớn nhất trong
khu vực Đông Nam Á. Trong đó cá chẽm cũng là một trong những loài nuôi chính
của nước này với sản lượng năm 2004 vào khoảng 2.900 tấn
[39]
.
Singapore: Dự tính đến năm 2012 sản lượng cá chẽm là 3.000 tấn và đến
năm 2020 sản lượng sẽ tăng lên 20.000 tấn
[74]
.
Hàn Quốc: Tổng sản lượng cá nuôi của Hàn Quốc năm 2003 khoảng 72.393
tấn, trong đó cá chẽm khoảng 2.778 tấn
[39]
.
Australia: Cá chẽm được nuôi ở hầu hết các bang của Australia (ngoại trừ
bang Tasmania)
[39],[73]

, nhưng sản lượng cá chẽm tập trung chủ yếu ở Queensland
(phần lớn là nuôi nước ngọt), Northern Territory (nuôi lồng biển và nuôi ao nước
lợ) và Nam Australia (nuôi nước ngọt)
[35]
. Cá chẽm được nuôi công nghiệp bắt đầu
từ những năm 1980, hiện nay có khoảng 100 trang trại được cấp phép nuôi
[73]
. Theo
dữ liệu của FAO năm 2004 (trích dẫn bởi Halwart M., 2007), sản lượng cá chẽm
khoảng 1.600 tấn, giá trị đạt 9,9 triệu USD. Theo báo cáo của O’Sullivan và ctv
(2005) (trích dẫn bởi Halwart M., 2007), niên vụ 2003/2004 sản lượng cá chẽm
khoảng 2.800 tấn, đạt giá trị 17,6 triệu USD
[39]
. Niên vụ 2008/2009 sản lượng cá
chẽm cả nước ước khoảng 6.000 tấn và sẽ tăng lên 7.000 tấn trong niên vụ
2009/2010
[73]
.
7

.







1.2.2. Tình hình nuôi cá biển ở Việt Nam
Ở nước ta, cá biển được nuôi chủ yếu ở 3 vùng là vùng biển phía Bắc, vùng

Nam Trung Bộ và vùng phía Nam. Năm 2001, sản lượng cá nuôi biển cả nước
khoảng 2.600 tấn, năm 2002 sản lượng tăng lên 5.000 tấn, ước tính năm 2010 sẽ đạt
20.000 tấn. Các loài nuôi chính là các loài cá mú (Epinephelus), cá giò
(Rachycentron canadum), cá chẽm (Lates calcarifer), cá vược mõm nhọn
(Psammoperca waigensis), cá hồng đỏ (Lutjanus erythropterus), cá tráp đen
(Rhabdosargus sarba) và cá đù đỏ (Sciaenops ocellatus)
[39]
. Cá chẽm được xem như
là vật nuôi xóa đói giảm nghèo và là đối tượng nuôi thay thế cho diện tích nuôi tôm
không hiệu quả ở một số địa phương ven biển ở nước ta. Hiện nay chưa có số liệu
thống kê cụ thể về sản lượng cũng như diện tích nuôi cá chẽm ở nước ta, nhưng qua
tìm hiểu thông tin từ các báo cho thấy cá chẽm đã nuôi thành công ở một số nơi như
ở Cam Ranh, Vạn Ninh (Khánh Hòa)
[77],[78],[79]
, Hương Trà (Thừa Thiên Huế)
[80]
, Hà
Tĩnh
[81]
, Đồng Nai, Bình Định
[82]
, Cà Mau
[76]

1.3. Các nghiên cứu về bệnh cá chẽm trên thế giới
Cá biển được nuôi lồng thành công đầu tiên ở Nhật Bản từ những năm 1950
và ở Đông Nam Á từ những năm 1970. Hiện nay đã có rất nhiều loài cá đã được
Bi
ểu đồ 1.2.
Sản lượng cá chẽm (cột) và giá trị (đường) của cá chẽm nuôi ở

Australia từ năm 1986 đến năm 2004 (nguồn FAO, 2006 được trích dẫn bởi
Halwart M., 2007)
[39]
.

8
nuôi thành công. Tuy nhiên, các loại bệnh và sự nghiêm trọng của bệnh đã ảnh
hưởng đến các loài cá nuôi. Cá nuôi lồng sẽ trở nên dễ mắc bệnh khi mà các thông
số môi trường như nhiệt độ, độ mặn, nồng độ oxy hòa tan và các chất lơ lửng thay
đổi nhiều hoặc đột ngột. Chỉ cần một điều kiện thích hợp cho bệnh cũng có thể tạo
điều kiện cho bệnh phát triển, quá trình dẫn tới bệnh ở môi trường nước xảy ra rất
nhanh. Việc xác định sớm sự thay đổi hoạt động và dấu hiệu của bệnh ở cá nuôi là
rất quan trọng để chẩn đoán bệnh
[69]
.
1.3.1. Bệnh do vi khuẩn
Bệnh vibriosis: Vibriosis là bệnh gây nên bởi các vi khuẩn thuộc giống
Vibrio, gây bệnh trên rất nhiều loài cá biển và cửa sông, chúng thường xuất hiện khi
môi trường nước xấu, cá bị sốc và thiếu dinh dưỡng
[38]
. Khi nhiễm Vibrio, thường
màu cơ thể cá trở nên tối, lờ đờ, chán ăn, có các vết loét đỏ trên cơ thể, tích dịch ở
bụng
[36]
, bơi bất thường, mắt đục, bụng có màu đỏ. Bên trong, có thể thấy các vùng
hoại tử và xuất huyết ở thận, gan và lách
[38]
.
Nghiên cứu của Renaul T. và ctv (1994) cho thấy Vibrio damsela là nguyên
nhân gây chết hàng loạt ở cá chẽm con nuôi ở Tahiti (nằm ở khu vực Thái Bình

Dương, thuộc Pháp), dấu hiệu chính của bệnh là cá lờ đờ, xuất huyết ở gốc đuôi và
lở loét lan rộng ra
[60]
.
Bệnh vi khuẩn nhiễm trùng máu xuất huyết: Gây ra bởi Aeromonas
hydrophila, Aeromonas sorbia, Aeromonas caviae, Aeromonas spp., pseudomonas
sp. Các vi khuẩn này thường nhiễm ở cá chẽm nuôi nước ngọt, làm cho cá bị xuất
huyết đỏ ở da, lờ đờ, cá biếng ăn, tích dịch ở bụng, mang nhợt nhạt. Bệnh thường
xuất hiện khi môi trường xấu, da bị tổn thương
[36]
. Theo Kumaran S. (2009),
Pseudomonas sp. KUMS3 là tác nhân gây nên bệnh mòn vây ở cá chẽm nuôi ở Ấn
Độ, làm cá xuất huyết ở gốc vây, miệng và mất sắc tố da
[43]
.
Bệnh vi khuẩn ở da: Do Aeromonas sorbia, Aeromonas hydorphila, Vibrio
harveyi, Vibrio alginolyticus gây nên, làm cá bị lở loét không đều, mất vảy. Bệnh
thường xảy ra khi môi trường xấu, da bị tổn thương
[36]
.
9
Bệnh streptococcusis: Streptococcusis là bệnh rất nghiêm trọng, tác nhân
chính là Streptococcus iniae. Bệnh có thể xảy ra ở cả cá chẽm nuôi nước ngọt lẫn
nước mặn và kết quả là làm cho cá chết với tỷ lệ cao. Bệnh này được ghi nhận là tác
nhân gây bệnh trên cá chẽm nuôi lồng biển ở Northern Territory (Australia) năm
2005. Trong trường hợp cấp tính, cá có thể gần chết hoặc chết với một vài dấu hiệu
bên ngoài và trong các nội tạng. Trong trường hợp ít trầm trọng hơn thì cá bị nhiễm
bệnh có thể bơi nhấp nhô gần mặt nước, có thể bị mù và không đáp ứng với sự kích
thích bên ngoài, xuất huyết có thể thấy ở da và đặc biệt ở chân vây. Cầu mắt bị lồi
và xuất huyết bên trong mắt, mang bị xung huyết. Bên trong, sự xuất huyết nhiều có

thể thấy ở bề mặt của các nội quan lớn, thường thì cơ xương có màu đỏ hồng
[38]
.
Các báo cáo của Alicia E. và ctv (2005), Bromage E.S. và ctv (1999) cũng cho thấy
Streptococcus iniae là tác nhân chính gây bệnh trên cá chẽm ở Australia với liều
gây chết LD
50
là 2,5 x 10
5
CFU/g trong 2 ngày và 3,2 x 10
4
CFU/g trong 10
ngày
[25],[32]
.
Bệnh columnaris: Nguyên nhân gây bệnh là Flavobacterium columnare;
Flavobacterium johnsoniae và Flavobacterium sp. ở cá chẽm nước ngọt và
Tenacibaculum marinimum ở cá chẽm nước mặn, khi nhiễm bệnh, cá xuất hiện các
đám nhợt nhạt trên bề mặt lưng, phần sau vây lưng và cuống đuôi, cá lờ đờ. Phần
lớn bệnh xảy ra khi cá mới đẻ, trong giai đoạn muộn của cá ấu niên có sự ăn mòn da
xung quanh miệng. Bệnh thường xảy ra do bị sốc môi trường, vệ sinh kém, da bị
tổn thương
[36]
.
Bệnh vi khuẩn mang: Các vi khuẩn khác nhau gây ra như Flavobacterium
spp., Cytophaga spp Khi bị bệnh, cá thường bơi nổi trên bề mặt, mang hoạt động
đóng mở nhanh và có nhiều dịch nhầy, có các mảng trắng trên mang. Kiểm tra
mang đang còn tươi ở dưới kính hiển vi cho thấy một số lượng lớn vi khuẩn có hình
que dài ở biểu mô của mang. Bệnh phần lớn xảy ra ở giai đoạn cá nhỏ
[36],[38]

.
Bệnh vi khuẩn viêm màng bụng: Các vi khuẩn gây bệnh là các vi khuẩn
Gram (-) và Gram (+) khác nhau trong đó có Vibrio harveyi, Aeromonas
10
hydrophila. Các dấu hiệu bệnh chính là cơ thể cá có màu đen, cá lờ đờ, bụng sưng
phồng, có dịch keo và mùi khó chịu ở bụng, bệnh hay gặp trên cá nuôi ở hệ thống
tuần hoàn
[36]
.
Bệnh hoại tử viêm ruột và mưng mủ: Hội chứng hoại tử viêm ruột mưng
mủ, thường gọi là “sưng”, xuất hiện một cách định kỳ ở các trại nuôi cá chẽm. Hội
chứng này ảnh hưởng đến cá cỡ nhỏ tới các cá thể thành thục, gặp cả ở cá chẽm
nuôi nước ngọt và nước mặn. Người ta đã phân lập được Vibrio harveyi và
Photobacterium damselae subspecies damselae trên cá bị bệnh này. Cá bị bệnh
thường bụng phình, hôn mê và chết. Điểm đặc trưng của bệnh là mùi của cá sắp
chết hoặc mới chết giống với mùi cá đã chết 1 ngày, khoang bụng bị sưng phồng
bởi một lượng lớn dịch phân hủy. Trường hợp bệnh ở giai đoạn sớm có sự xuất hiện
của tơ huyết bện lại với nhau, nối các cơ quan nội tạng và mô. Ở trường hợp muộn
hơn, ở các nội quan bên trong bị hoại tử và hóa lỏng
[38]
.
Bệnh epitheliocystis: Là bệnh gây ra bởi sự xâm nhiễm vào mang của
Chlamydial, cá ấu niên bị nhiễm nặng ở mang có thể chết với tỷ lệ cao. Cá bị nhiễm
bệnh có thể không thấy dấu hiệu rõ ràng, mang có thể trở nên đỏ và cá bơi gần với
mặt nước, tỷ lệ chết có thể cao. Ở dưới kính hiển vi có thể thấy một số lượng lớn
các nang nằm trong biểu mô
[38]
.
1.3.2. Bệnh do ký sinh trùng
Theo báo cáo của FAO và Glenn Schipp (2007), trên cá chẽm có các bệnh ký

sinh trùng sau
[36],[38]
:
Bệnh cryptocaryonosis: Nguyên nhân gây bệnh là Cryptocaryon irritans.
Đây là động vật đơn bào, có lông, sống ký sinh và không có vật chủ chuyên biệt. Là
nguyên nhân gây ra rất nhiều bệnh trên cá nuôi biển, đặc biệt ở vùng Nhiệt đới
[38]
.
Cá bị nhiễm bệnh thường cọ vào đáy hoặc thành của lồng nuôi, cá biếng ăn và trở
nên lờ đờ. Nếu sau đó không chữa trị kịp thời thì mắt cá trở nên đục và có các đốm
trắng cũng như những chỗ lở loét nhỏ có thể xuất hiện trên vảy. Sự tiến triển của
bệnh sẽ nhanh, cá có thể chết trong vòng 2 đến 3 ngày
[38]
.
11
Bệnh trypanosomosis: Là bệnh gây ra bởi Trypanosoma sp Dấu hiệu bệnh
là cá bị hôn mê, mất tập trung, mù mắt và chết. Mắt cũng có thể bị lồi và bị xuất
huyết bên trong, đồng thời xuất hiện vùng lở loét xuất huyết và vùng ăn mòn trên
da. Bên trong, thận căng to và tình trạng thiếu máu xảy ra, kết quả làm cho cá chết
với tỷ lệ cao. Khi kiểm tra bằng kính hiển vi thấy rất nhiều Trypanosoma sp. trong
máu và mô
[38]
.
Bệnh oodiniosis: Gây ra bởi Oodinium sp., ký sinh trùng này nhiễm vào
mang và da ở cá nước mặn làm cho cá chết ở mức thấp. Khi bị nhiễm Oodinium sp.,
cá hay cọ vào thành hoặc đáy lồng nuôi. Nếu bị nhiễm nhiều, cá chết với sự sung
huyết và dịch nhầy ở mang
[36]
.
Bệnh trichodiniasis: Do nhóm Trichodina spp. gây nên. Cá bị bệnh này có

các dấu hiệu bệnh như cá bơi ở bề mặt, nắp mang đóng mở nhanh, dịch nhầy ở
mang tiết ra nhiều. Bệnh thường xảy ra khi nhiệt độ môi trường nước thấp, chất hữu
cơ lơ lửng nhiều và nuôi cá với mật độ dày
[36]
.
Bệnh chilodonelliasis: Gây ra bởi Chilodonella spp. và Chilodonella
hexasticha. Khi nhiễm ký sinh trùng này, cá thường bơi trên bề mặt, nắp mang đóng
mở nhanh và mở rộng. Môi trường nước xấu và cá bị ốm yếu là điều kiện thuận lợi
để ký sinh trùng này xâm nhập và gây bệnh
[36]
.
Bệnh Ichthyobodosis (costiasis): Ichthyobodo necator là nguyên nhân
chính gây bệnh. Cá bị bệnh thường cọ lên thành lồng, xuất hiện các vết sẫm màu
trên da, tróc vảy, bơi trên bề mặt, nắp mang mở to và hoạt động đóng mở nhanh
[36]
.
Bệnh piscinoodiniasis: Nguyên nhân gây bệnh là Piscinoodiniasis sp., bệnh
thường gặp ở cá chẽm nuôi nước ngọt. Bệnh xảy ra ở cá nhỏ thì có các vết mờ hoặc
màu xanh bạc trên da, ở cá lớn hơn thì có các mảng nổi lên trên bề mặt da và có các
vết lở loét, nắp mang hoạt động mạnh, mang tiết nhiều dịch và có màu xanh đen
[36]
.
Bệnh Amyloodiniasis: Nguyên nhân chính là do Amyloodinium ocellatum.
Thường gặp ở cá chẽm nuôi biển, xuất hiện các vết mờ hoặc mất màu trên da ở cá
nhỏ. Cá lớn hơn thường có các vết lở loét, nắp mang đóng mở nhanh, dịch tiết từ
12
mang nhiều, mang có màu xanh đen. Bệnh thường xuất hiện khi nhiệt độ thấp và
nhiệt độ giảm đột ngột
[36]
.

Bệnh mụn đỏ: Gây ra bởi Epistylis sp. Bệnh này xảy ra ở cá chẽm nước
ngọt, gây nên lở loét trên da và làm cho vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể cá gây
bệnh
[36]
.
Bệnh sán lá mang: Tác nhân chính gây bệnh là Diplectanum sp.,
Dactylogyrus sp Cá bị bệnh thường đóng mở nắp mang nhanh, biếng ăn, có các
vùng trắng trên mang
[36]
.
Bệnh sán lá da: Gây ra bởi Neobenedinia melleni, Gyrodactylus spp Dấu
hiệu chính của bệnh là mắt mờ, xuất hiện các mảng trắng trên da, lở loét trên da.
Bệnh thường xảy ra ở điều kiện độ mặn cao và nhiệt độ nước thấp
[36]
.
Bệnh myxosporidiosis: Nguyên nhân gây bệnh là Henneguya sp., Kudoa
sp., bệnh này không thường xuyên xảy ra. Kiểm tra mô học thấy có bào tử của
chúng ở tơ mang (Henneguya sp.) và trong não (Kudoa sp.)
[36]
.
Bệnh microspridiosis: Nguyên nhân là do Peistophora sp Khi nhiễm bệnh,
thường có các khối u nổi lên trên da, có các u mềm màu trắng ở cơ
[36]
.
Theo báo cáo của Rückert S. và ctv (2008), khi nghiên cứu ký sinh trùng ký
sinh trên cá chẽm nuôi tại vịnh Lampung, Indonesia đã ghi nhận được 19 loài ký
sinh trùng trên cá chẽm nuôi lồng và tất cả cá đều nhiễm từ 2 đến 10 loài ký sinh
trùng. Trong đó, nhóm protozoan (1 loài), myxozoans (1 loài), digeneans (3 loài),
monogenean (5 loài), cestodes (3 loài), nematodes (5 loài) và acanthocephalans (1
loài)

[62]
. Theo Rajkumar M. và ctv (2005), khi nuôi cá chẽm trong phòng thí nghiệm
được 14 ngày, nhóm nghiên cứu đã phát hiện thấy Cymothoa indica xuất hiện ở
vùng mang và trước lưng, tạo thành các vết tổn thương có màu đỏ, xuất huyết mà
không có hiện tượng tiết nhớt nhiều. Tỷ lệ cá chết sau 3 tuần nuôi là 16,54%. Ký
sinh trùng này đã được truyền vào theo con đường thức ăn của cá và gây bệnh
[59]
.
Báo cáo của Saugata Basu và Durga P. Haldar (2003) cho thấy, cá chẽm nuôi ở
13
vùng Đông Bengal, Ấn Độ phát hiện thấy có nhiễm loài ký sinh trùng Myxobolus
calcariferum sp. n. ở mang cá, gây bệnh và làm chết cá
[63]
.
1.3.3. Bệnh do nấm
Bệnh chấm đỏ: Bệnh chấm đỏ hay hội chứng lở loét (EUS) đã được báo cáo
trên rất nhiều loài cá, trong đó có cá chẽm. Tuy nhiên bệnh chỉ xảy ra ở cá nuôi
nước ngọt, chưa thấy có báo cáo trên cá nuôi biển. Nguyên nhân gây bệnh là nấm
Aphanomyces invadens. Dấu hiệu của bệnh là có các vết lở loét sâu màu đỏ hoặc
xuất huyết trên da, hiện tượng lở loét có thể lan đến mắt. Khi bị bệnh, cá trở nên
hôn mê và dễ trở thành con mồi cho những loài khác
[38]
.
Bệnh nấm da: Do nấm Saprolegnia spp., Achlya spp. gây ra. Bệnh thường
làm cho cá nổi cục và phát triển thành dạng như múi bông trên da và vây. Bệnh
thường xảy ra khi nhiệt độ thấp và cá bị tổn thương ở da
[36]
.
Bệnh branchiomycosis: Do nấm Branchiomyces sp. và Achlya spp. gây ra.
Biểu hiện của bệnh là cá bơi nổi trên mặt nước, nắp mang đóng mở liên tục, có các

vết đỏ và trắng (xuất hiện lốm đốm) ở mang. Bệnh thường xuất hiện khi nhiệt độ
nước thấp, chất hữu cơ tập trung trong nước nuôi nhiều
[36]
.
1.3.4. Bệnh do virus
Bệnh virus ở cá biển nuôi lồng đã được báo cáo ở Đông Á từ những năm
1980 và các nước Đông Nam Á từ những năm 1990
[69]
. Ở cá chẽm, đã phát hiện
được 2 virus gây bệnh chính là:
Bệnh virus gây hoại tử thần kinh VNN (Viral Nervous Necrosis):
Tác nhân gây bệnh là nhóm Nodavirus cá. Bệnh VNN trên cá chẽm lần đầu
tiên được báo cáo từ những năm 1980 ở Australia khi gây bệnh trên cá chẽm ấu
niên. Ngày nay, VNN là nguyên nhân gây chết ở cá hương và cá ấu niên ở các trại
giống cá chẽm
[38]
. Đặc điểm của bệnh là virus làm thoái hóa các nơron thần kinh và
sinh không bào trong hệ thần kinh trung ương và võng mạc. Vì vậy, khi bị nhiễm
virus, cá ở trạng thái mất cân bằng, cơ không kiểm soát được và loạn chức năng thị
14
giác
[36]
. Hiện nay, bệnh này đã được báo cáo ở hơn 30 loài cá biển trên thế giới.
Bệnh thường xảy ra ở giai đoạn cá hương từ 15 đến 24 ngày tuổi, còn có thể xuất
hiện cho tới khi cá được 7 tuần tuổi
[38]
. Khi mắc bệnh, cá bị nhạt hoặc sẫm màu, bơi
xoắn ốc, choáng, có sự phồng và các không bào lớn ở não và dây sống
[36]
.

Theo báo cáo của Azad IS và ctv (2005), ở Ấn Độ, VNN gây bệnh ở các trại
giống cá chẽm ở giai đoạn cá hương làm cá chết từ 60 - 90%. Khi bị bệnh, cá hương
có màu đen, khi kiểm tra không thấy có dấu hiệu bị nhiễm vi khuẩn hay ký sinh
trùng. Dựa vào các lát cắt mô ở não và tủy sống người ta đã thấy rất rõ các vùng bị
hoại tử, qua kiểm tra bằng kỹ thuật RT-PCR, người ta đã phát hiện được
Nodavirus
[28]
. Một nghiên cứu khác ở Chennai và Nagapattinam thuộc Tamilnadu,
Ấn Độ cũng cho thấy, VNN là nguyên nhân gây chết hàng loạt cá hương ở các trại
giống với các dấu hiệu như cá biếng ăn, da có màu tái nhợt, mất trạng thái cân bằng,
bơi xoắn hay bơi vòng trước khi chết
[57]
.

Bệnh lymphocytis: Do Iridovirus gây nên. Bệnh làm cho cá xuất hiện các
mụn cóc trên da, vây, thông thường chỉ gây chết nếu xâm nhiễm nhiều và kết hợp
với điều kiện môi trường xấu
[36]
, giai đoạn cá ấu niên thường dễ mắc bệnh hơn cá
trưởng thành
[69]
.
1.4. Các nghiên cứu về bệnh cá biển ở Việt Nam
Ở nước ta hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào cụ thể về bệnh lở loét trên cá
chẽm. Tuy nhiên, trên cá biển nói chung thì cũng đã có khá nhiều các công trình
nghiên cứu như:
Theo Đỗ Thị Hòa và ctv (2008), cá biển nuôi tại Khánh Hòa có 10 bệnh
thường gặp trên cá biển nuôi là
[5]
:

+ Bệnh vibriosis: Gây bệnh xuất huyết lở loét trên cá mú, cá hồng, cá chẽm.
thời gian xuất hiện bệnh chính là mùa khô.
+ Bệnh mòn vây và đuôi: Nguyên nhân gây bệnh có thể là vi khuẩn Gram
(-), có đặc điểm gần giống với Flexibacter maritimus, bệnh xuất hiện quanh năm và
15
gây chết rải rác tới hàng loạt cá nuôi lồng, đặc biệt là giai đoạn cá con. Các loài cá
hay gặp là cá mú, cá hồng, cá chẽm.
+ Bệnh sán lá da (bệnh mè cá): Nguyên nhân gây bệnh thường là sán lá đơn
chủ (monogenea) dạng hạt mè trên bề mặt cơ thể. Bệnh làm cho cá có thể đục mắt,
ngứa ngáy, giai đoạn cuối nổi lờ đờ trên mặt nước, nếu bị nhiễm nặng, cá có thể bị
chết. Bệnh thường xuất hiện vào thời gian giao mùa giữa mùa mưa và mùa khô, các
loài cá thường bị bệnh là cá mú, cá hồng, cá chẽm, cá giò.
+ Bệnh sán lá mang (bệnh sưng mang, hay bệnh mủ mang): Làm cá hoạt
động yếu, bỏ ăn, khi bơi nắp mang thường phồng lên, mang tiết nhiều dịch nhầy
(mủ mang). Trường hợp bị bệnh nặng có thể gây chết cá từ rải rác đến hàng loạt.
Nguyên nhân gây bệnh là các loài sán lá đơn chủ ký sinh khác nhau như loài
Pseudorhabdosynochus spp., Diplectanum spp. và Haliotrema spp Các loài cá
thường gặp là cá mú, cá hồng, cá chẽm.
+ Bệnh rận cá: Làm cá kém ăn, chậm lớn, khi cảm nhiễm với mức độ cao
gây chết cá rải rác. Nguyên nhân gây bệnh là một số loài giáp xác bậc thấp thuộc
giống Caligus spp., Parapetalus sp. và Lepeophtheirus sp Cá nuôi hay gặp là cá
mú, cá giò, cá chẽm.
+ Bệnh hoại tử thần kinh (bệnh bơi xoắn): Khi nhiễm bệnh này, cá thường
có các dấu hiệu như: màu sắc cá đen sậm, bơi lội không định hướng, bơi xoắn ốc,
đuôi cong và liệt cứng, bụng chướng to do bong bóng cá căng phồng, ruột không có
thức ăn nhưng thấy có chứa chất dịch màu xanh lá cây. Nguyên nhân gây bệnh là
virus gây hoại tử thần kinh VNN. Các loài cá hay nhiễm bệnh là cá mú, cá chẽm, cá
giò.
+ Bệnh đỉa cá: Làm cá gầy yếu, suy kiệt sức khỏe, chết rải rác do mất máu
hoặc do nhiễm khuẩn cơ hội. Nguyên nhân gây bệnh là ký sinh trùng thuộc họ đỉa

Hirunidae. Các loài cá thường bị bệnh là cá mú, cá chẽm và cá hồng.
+ Bệnh đốm trắng ở thận: Thường gặp ở cá giò nuôi lồng ở Vạn Ninh,
Khánh Hòa. Với các biểu hiện bệnh như cá kém ăn, chậm lớn. Ở thận, gan, tụy xuất
16
hiện các đốm trắng dạng hạt. Trên cá bị bệnh này, người ta đã phân lập được vi
khuẩn Photobacterium damselae.
+ Bệnh lymphocystic (bệnh u sần): Cá bị bệnh này thường xuất hiện các u
nhỏ có màu trắng hay hồng trên vây, lưng, đầu. Bệnh này chỉ gây chết rải rác nhưng
ảnh hưởng tới sinh trưởng và giá trị thương phẩm của cá nuôi. Các loài cá thường
gặp là cá giò và cá chẽm.
+ Hội chứng dị dạng ở cá biển: Cá có hình dạng không bình thường, cột sống
bị ưỡn cong và bụng cá hóp lại như bị đói lâu ngày và không lâu sau thì cá sẽ chết.
Bệnh này hay gặp trên cá mú.
Nguyễn Thị Thanh Thùy và ctv (2008), khi nghiên cứu về bệnh lở loét trên
cá mú cho thấy hai loài vi khuẩn là Vibrio alginolyticus và Vibrio parahaemolyticus
là tác nhân chính gây nên bệnh lở loét ở cá mú nuôi tại Khánh Hòa. Trên các mẫu
bệnh còn phân lập được 7 loài ký sinh trùng là Pseudorhabdosynochus epinepheli,
Benedenia sp., Caligus sp., Trichodina sp., Apiosoma sp., Ampiphrya sp.,
Zeylanicobdella sp., và nấm thuộc giống Aspergillus. Tuy nhiên theo tác giả thì các
loài ký sinh trùng và nấm chỉ là tác nhân cơ hội hoặc là tác nhân mở đường cho vi
khuẩn xâm nhập và gây bệnh cho cá
[20]
. Võ Thế Dũng và ctv (2005) nghiên cứu về
thành phần loài ký sinh trùng trên cá mú (Epinephelus spp.) tự nhiên, nuôi ao, nuôi
lồng tại Khánh Hòa, đã phát hiện thấy có 22 loài ký sinh trùng thuộc 7 giống, 12 họ,
11 bộ, 9 lớp, 8 ngành. Trong đó, Trichodina chiếm tỷ lệ cao nhất (74,2%), các loài
monogenea ký sinh ở mang và da với tỷ lệ cảm nhiễm 31,9%
[67]
. Nghiên cứu của
Đỗ Thị Hòa và ctv (2007) về sán lá đơn chủ (monogenean) trên cá mú (Epinephelus

sp.) và cá chỉ vàng (Lutjanus argentimaculatus) nuôi tại Khánh Hòa cho thấy, cá bị
nhiễm monogenea thường bơi lờ đờ, ăn kém, tiết nhiều dịch nhờn từ chỗ da và
mang bị tổn thương. Nếu nhiễm monogenea ở da với cường độ cao sẽ gây nên lở
loét trên da ở giai đoạn cuối của bệnh. Nếu cường độ cảm nhiễm của ký sinh trùng
ở mang cao, thì nắp mang bị căng ra, tiết rất nhiều dịch nhầy, da cá bị sậm đen và
có thể làm cá chết rải rác
[34]
.
17
Chương 2 - VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Phương pháp thu mẫu cá
Mẫu được thu chọn lọc tại thời điểm cá mắc bệnh lở loét, mẫu thu phải là cá
còn sống và được vận chuyển về phòng thí nghiệm bằng thùng xốp có sục khí. Khi
thu mẫu, ghi thông tin về ngày tháng, tình trạng của cá.
2.2. Phương pháp xử lý mẫu tại phòng thí nghiệm
Mẫu cá đem về phòng thí nghiệm, trước hết cần đo chiều dài, cân trọng
lượng, quan sát bằng mắt thường về các biểu hiện bệnh lý bên ngoài.
Nhớt ở thân, vết loét, vây, phiến mang được lấy bằng dao đã vô trùng để
kiểm tra ký sinh trùng. Tơ mang, vây, mẫu cơ ở vết loét được thu để phân lập nấm.
Sát trùng toàn bộ cơ thể cá bằng cồn 70
0
, sau đó giải phẩu quan sát các biểu
hiện của nội quan bên trong như gan, thận, lách, dạ dày, bóng bơi, xoang bụng. Thu
mẫu bệnh phẩm gan, thận, lách vào các ống nghiệm vô trùng để phân lập vi khuẩn
và nấm.
Thu mẫu cơ ở vết loét để phân lập vi khuẩn, nấm và kiểm tra ký sinh trùng.
Thu mẫu gan, thận, cơ ở vết loét… tất cả được cố định bằng dung dịch Bouin
để kiểm tra mô học bằng phương pháp cắt mô.
2.3. Phương pháp phân tích các yếu tố hóa lý môi trường nước

pH: Sử dụng máy đo pH; Độ mặn: Sử dụng khúc xạ kế; Nhiệt độ nước: Sử
dụng nhiệt kế thủy ngân có chia độ từ 0 – 100
0
C.
Độ kiềm: Xác định bằng phương pháp chuẩn độ axít.
Oxy hòa tan trong nước (Dissolved Oxygen - DO): Xác định bằng phương
pháp Winkler.
Nhu cầu oxy hóa học (Chemical Oxygen Demand - COD): Xác bằng
phương pháp KMnO
4
trong môi trường kiềm.
18
Nhu cầu oxy sinh hóa (Biochemical Oxygen Demand – BOD
5
): Xác định
bằng phương pháp nuôi cấy và pha loãng.
Amoni (NH
4
+
-N): Xác định theo phương pháp Salicylate, đo quang trên máy
DR2010 ở bước sóng 655nm.
Nitrite (NO
2
-
-N): Thực hiện với thuốc thử axit sunphanilic và α-napthylamin,
đo quang trên máy DR2010 ở bước sóng 507nm
Nitrate (NO
3
-
-N): Dùng cột khử cadimi để chuyển nitrate về nitrite, sau đó xác

định nitrite bằng thuốc thử sunphanilic và α-napthylamin, đo quang trên máy
DR2010 ở bước sóng 507nm.
Sulfide (S
2-
): Sử dụng phương pháp đo quang với thuốc thử N,N-Dimethy-1-4-
Phenylendiamin tạo phức màu xanh và đo trên máy DR2010 ở bước sóng 665nm.
Phosphat (PO
4
3-
-P): Thực hiện bằng thuốc thử molipdate và đo quang trên
máy DR2010 ở bước sóng 680nm.
2.4. Phương pháp định lượng vi khuẩn trong nước
+ Môi trường nuôi cấy cần thiết:
- Môi trường định lượng vi khuẩn hiếu khí tổng số: TSA (Tryptone Soya
Agar) + 2%NaCl.
- Môi trường định lượng Vibrio tổng số: TCBS (Thiosulfat Citrat Bile salts
Sucrose agar).
- Nước muối vô trùng 2% NaCl dùng để pha loãng mẫu nếu cần thiết.
+ Phương pháp thực hiện:
Định lượng Vibrio tổng số và vi khuẩn hiếu khí tổng số trong nước theo
phương pháp đếm khuẩn lạc.
- Mẫu đưa về phòng thí nghiệm phải được phân tích ngay, tùy thuộc mẫu mà
chọn 2 - 3 nồng độ pha loãng liên tiếp để cấy. Tương ứng với mỗi nồng độ pha
loãng cấy ít nhất 2 - 3 đĩa và một pipet vô trùng riêng.
19
- Hút 0,1ml mẫu ở các nồng độ pha loãng khác nhau vào trong các đĩa petri
đã chứa môi trường thạch TCBS và TSA (2%NaCl), dùng que trang thủy tinh tráng
đều cho đến khi mặt thạch khô, lật úp đĩa petri, nuôi cấy ở 29 - 31
0
C từ 24 - 72 giờ

lấy ra đọc kết quả.
- Chọn tất cả các đĩa có không quá 300 khuẩn lạc để tính kết quả. Sự phân bố
của các khuẩn lạc trên các đĩa nuôi cấy phải hợp lý: độ pha loãng càng cao thì số
khuẩn lạc càng ít. Nếu kết quả không hợp lý, phải tiến hành lại các bước nuôi cấy.
- Cách tính kết quả: Chọn những đĩa không quá 300 khuẩn lạc ở 3 nồng độ
pha loãng liên tiếp, tính số khuẩn lạc vi khuẩn cho 1ml bằng cách tính trung bình
cộng tổng số khuẩn lạc của các đĩa trên theo công thức:

( 1 0,1. 2 ).
C
N
n n d


 

Trong đó, C là số khuẩn lạc đếm được trên các đĩa đã chọn; n1, n2, là số
đĩa ở 3 nồng độ pha loãng liên tiếp đã chọn, d là hệ số pha loãng tương ứng với độ
pha loãng thứ nhất.
2.5. Phương pháp nghiên cứu bệnh do vi khuẩn
Tham khảo các công trình của Đỗ Thị Hòa (2005)
[3]
, Austin B. và ctv
(2007)
[29]
, và Nicky B. Buller (2004)
[54]
.
+ Môi trường nuôi cấy và hóa chất cần thiết:
- Môi trường tổng hợp: TSA +2% NaCl.

- Môi trường nuôi cấy chọn lọc cho vi khuẩn Vibrio: TCBS.
- Môi trường nuôi cấy chọn lọc cho vi khuẩn Pseudomonas: CA (Cetrimid
Agar) + 2% NaCl.
- Môi trường nuôi cấy tăng sinh (nếu cần thiết): TSB (Tryptone Soya Broth).
- Nước muối vô trùng 2% NaCl dùng để rửa và pha loãng mẫu.
20
- Bộ test kit API 20E của hãng Biomerieux với các phản ứng sinh hóa:
ONPG (o-nitrophenyl-D-galactopyranosid), ADH (arginine hidrolase), LDC (lysine
decarboxylase), ODC (ornithine decarboxylase), CIT (sử dụng citrate làm nguồn
carbon duy nhất), H
2
S (sinh H
2
S), URE (thử nghiệm urease), TDA (thử nghiệm
tryptophan deaminase), IND (khả năng sinh Indol), VP (Voges-Proskauer), GEL
(thử nghiệm gelatinase), GLU (lên men glucose), MAN (lên men manose), INO (lên
men inositol), SOR (lên men sorbitol), RHA (lên men rhamnose), SAC (lên men
sucrose), MEL (lên men melibiose), AMY (lên men amygladin), ARA (lên men
arabinose), NO
2
(khử nitrate), McC (phát triển trong môi trường MacConkey), OX
(oxidase), MOB (khả năng di động), O/F (khả năng oxi hóa - lên men). Ngoài ra
còn thực hiện thêm các phản ứng catalase, thử khả năng phát triển trong các nồng
độ muối khác nhau, vibriostat (0/129)
+ Phương pháp thực hiện:
Vết loét và các nội quan (tim, gan, thận, lách…) được chú trọng phân tích
tính nhiễm khuẩn. Các mẫu này được đồng nhất và dùng làm nguồn phát hiện vi
khuẩn gây bệnh trên các môi trường chọn lọc (TSBS, CA), không chọn lọc (TSA),
hay tăng sinh trong môi trường TSB. Dựa vào đặc tính khuẩn lạc ưu thế trên các
môi trường chọn lọc và kết quả thử nghiệm sinh hóa làm tiêu chí định danh nhanh

vi khuẩn. Quy trình nghiên cứu vi khuẩn gây bệnh trên cá được tóm tắt qua sơ đồ
hình 2.1:
- Tần số bắt gặp các loài vi khuẩn được tính theo công thức:

TSBG =




Số cá có xuất hiện loài vi khuẩn cần tính
Tổng số cá kiểm tra
×100 (%)

×