Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

LIỀN vết THƯƠNG xong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (759.14 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
1
1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TẾ BÀO LYMPHO
Tế bào lymphô là loại tế bào duy nhất trong cơ thể có khả năng nhận diện một
cách đặc hiệu và phân biệt được các quyết định kháng nguyên. Chúng chịu trách
nhiệm về hai đặc điểm của đáp ứng miễn dịch thu được, đó là tính đặc hiệu và tính
nhớ miễn dịch. Có nhiều bằng chứng đã được đưa ra để chứng minh cho vai trò của
lymphô bào với tư cách là tế bào trung gian của miễn dịch thu được.
Hình thái học
Hình1. Hình thái học lymphô bào.
A. Hình ảnh kính hiển vi quang học của lymphô bào trên tiêu bản máu ngoại vi.
B. Hình ảnh kính hiển vi điện tử của tế bào lymphô nhỏ.
C. Hình ảnh kính hiển vi điện tử của tế bào lymphô lớn (nguyên bào lymphô).
Các tế bào lymphô nguyên vẹn, tức là các lymphô bào chưa từng tiếp xúc với
kháng nguyên trước đó được các nhà hình thái học gọi là tế bào lymphô nhỏ. Tế bào
này có đường kính 8-10μm, có nhân lớn, với chất nhiễm sắc đậm đặc và một vành bào
tương mỏng chứa một ít ti thể, ribosom và lysosom, nhưng không có các tiểu cơ quan
chuyên môn hoá (Hình 5.2). Trước khi có kích thích kháng nguyên, tế bào lymphô
nhỏ ở trạng thái nghỉ, hay còn gọi là trạng thái G0 của chu kỳ tế bào. Khi có kích
thích, lymphô bào nhỏ chuyển sang giai đoạn G1. Chúng trở nên lớn hơn (đường kính
2
10 - 12μm), có nhiều bào tương hơn, có tiểu cơ quan và gia tăng lượng RNA bào
tương; lúc này nó được gọi là tế bào lymphô lớn, hay nguyên bào lymphô.
Các loại tế bào lymphô
Tế bào lymphô bao gồm nhiều tiểu quần thể khác nhau khác biệt về chức năng,
về sản phẩm protein nhưng không phân biệt được về hình thái. Tính đa dạng của tế
bào lymphô đã được giới thiệu. Tế bào B là tế bào sản xuất kháng thể. Chúng có tên
như vậy là vì ở loài chim chúng được trưởng thành trong một cơ quan gọi là Bursa
Fabricius (túi Fabricius). Ở loài có vú, không có cơ quan tương đương với bursa và
giai đoạn đầu của sự trưởng thành tế bào B xảy ra trong tuỷ xương (bone marrow).
Như vậy gọi tên tế bào B là để chỉ rằng tế bào này xuất phát từ “bursa” hoặc “bone


marrow”. Tế bào T là tế bào trung gian của miễn dịch tế bào, nó được đặt tên như vậy
là vì các tế bào tiền thân của chúng sau khi được sinh ra trong tuỷ xương đã di cư đến
và trưởng thành tại tuyến ức (thymus). Tế bào T có hai tiểu quần thể chính, đó là tế
bào T giúp đỡ và tế bào T gây độc. Cả tế bào B và tế bào T đều có thụ thể kháng
nguyên phân bố theo clôn, có nghĩa là những clôn của những tế bào này mang tính
đặc hiệu kháng nguyên khác nhau, các tế bào trong mỗi clôn thì có thụ thể giống nhau
nhưng khác với thụ thể trên tế bào của clôn khác. Gen mã hoá cho thụ thể kháng
nguyên của tế bào B và tế bào T được hình thành bởi sự tái tổ hợp của các đoạn DNA
trong suốt thời kỳ phát triển của các tế bào này. Sự tái tổ hợp thân (somatic) tạo ra
hàng triệu gen thụ thể khác nhau và điều này đã dẫn đến hình thành một kho chứa rất
đa dạng của tế bào lymphô. Tế bào giết tự nhiên là quần thể thứ ba của lymphô bào,
có thụ thể khác với tế bào B và T và chức năng chủ yếu là trong miễn dịch bẩm sinh.
Protein màng tế bào lymphô có thể xem như là các dấu ấn kiểu hình
(phenotypic marker) để phân biệt các quần thể lymphô với chức năng khác nhau. Ví
dụ, đa số tế bào T giúp đỡ đều mang một protein bề mặt gọi là CD4, và đa số các tế
bào T gây độc đều mang phân tử bề mặt có tên là CD8. Người ta dùng kháng thể đặc
3
hiệu cho các phân tử đó để phát hiện chúng và phân biệt các quần thể lymphô. Nhiều
protein bề mặt ban đầu được phát hiện với tư cách là dấu ấn kiểu hình để phân biệt
các tiểu quần thể nhưng về sau người ta lại thấy chúng có thể mang những chức năng
khác. Người ta đã thống nhất với nhau dùng thuật ngữ CD để gọi tên các phân tử bề
mặt này. CD là viết tắt của “Cluster of Differentiation” có nghiã là nhóm biệt hoá; đây
là một từ lịch sử dùng để chỉ một nhóm các kháng thể đơn clôn đặc hiệu cho những
dấu ấn của quá trình biệt hoá lymphô bào. Hệ thống CD giúp chúng ta gọi tên một
cách đồng bộ các phân tử bề mặt của tế bào lymphô, tế bào trình diện kháng nguyên,
và nhiều loại tế bào khác trong hệ thống miễn dịch.
Sự phát triển của tế bào lymphô
Cũng như tất cả tế bào máu khác, tế bào lymphô xuất thân từ các tế bào mầm ở
tuỷ xương. Tế bào lymphô phải đi qua các bước trưởng thành phức tạp để cuối cùng
có được một bộ thụ thể kháng nguyên trên bề mặt và hình thành những đặc diểm chức

năng cũng như hình thái riêng cho mình. Tế bào B hoàn tất thời kỳ trưởng thành của
mình trong tuỷ xương, còn tế bào T thì trưởng thành trong tuyến ức. Sau khi trưởng
thành tế bào lymphô rời khỏi tuỷ xương và tuyến ức để vào hệ tuần hoàn và tập trung
thành từng đám ở các cơ quan lymphô ngoại biên. Những tế bào trưởng thành này
được gọi là tế bào lymphô nguyên vẹn (naive).
Quần thể tế bào lymphô nguyên vẹn được duy trì với số lượng ổn định nhờ sự
cân bằng giữa các tế bào mới đến từ tuỷ xương và tế bào chết do không tiếp xúc
kháng nguyên. Chức năng của tế bào lymphô nguyên vẹn là nhận diện kháng nguyên
và tạo ra đáp ứng miễn dịch thu được. Tế bào nào không tiếp xúc với kháng nguyên
thì sẽ chết theo phương thức “chết lập trình” (apoptosis). Thời gian nửa đời sống của
tế bào lymphô nguyên vẹn vào khoảng 3-6 tháng đối với loài chuột và 1 năm đối với
loài người. Người ta cho rằng sự sống còn của tế bào lymphô nguyên vẹn được duy trì
nhờ sự nhận diện yếu đối với kháng nguyên bản thân. Như vậy, những tế bào này đã
4
nhận những tín hiệu đủ để duy trì sự sống của chúng nhưng không đủ để kích thích
chúng biệt hoá thành tế bào hiệu quả. Bản chất của những tự kháng nguyên tham gia
vào sự sống còn của tế bào lymphô vẫn còn chưa biết rõ. Người ta chỉ biết rằng thụ
thể kháng nguyên trên tế bào lymphô nguyên vẹn không chỉ cần cho việc nhận diện
kháng nguyên lạ để biệt hoá thành tế bào hiệu quả mà còn cần cho sự tồn tại của tế
bào trong trạng thái nguyên vẹn. Ngoài ra, một số protein do tế bào tiết ra gọi là
cytokin cũng cần cho sự sống còn của tế bào lymphô nguyên vẹn.
Hình 2. Sự trưởng thành của tế bào lymphô.
Sự trưởng thành của tế bào lymphô từ tế bào mầm tuỷ xương xảy ra trong các
cơ quan lymphô trung ương và đáp ứng miễn dịch đối với kháng nguyên lạ xảy ra
trong các cơ quan lymphô ngoại biên
Sự hoạt hoá tế bào lymphô
Trong đáp ứng miễn dịch thu được, tế bào lymphô nguyên vẹn được hoạt hoá
bởi kháng nguyên hoặc những kích thích khác để biệt hoá thành tế bào hiệu quả hoặc
tế bào nhớ. (Hình 5.4). Sự hoạt hoá tế bào lymphô trải qua một loạt các bước nối tiếp
nhau.

Sinh tổng hợp protein mới
5
Ngay sau khi được kích thích, tế bào lymphô bắt đầu sao chép các gen mà trước
đây vốn yên lặng và tổng hợp một loạt các protein mới. Những protein này gồm: các
cytokin (trong tế bào T) là chất kích thích sự phát triển và biệt hoá của chính tế bào
lymphô và các tế bào hiệu quả khác; các thụ thể cytokin làm cho tế bào lymphô đáp
ứng tốt hơn với cytokin; và nhiều protein khác tham gia vào việc sao chép gen và
phân chia tế bào.
Tăng sinh tế bào
Hình 3. Các giai đoạn hoạt hoá lymphô bào.
Khi đáp ứng với kháng nguyên và các yếu tố tăng trưởng, các tế bào lymphô
đặc hiệu kháng nguyên sẽ chuyển sang thời kỳ phân bào và tạo nên sự tăng sinh mạnh
mẽ đối với clôn tế bào đặc hiệu kháng nguyên, hiện tượng này được gọi là phát triển
clôn (clonal expansion). Trong một số trường hợp nhiễm trùng virus cấp, số lượng tế
bào T đặc hiệu virus có thể tăng lên 50.000 lần, từ số lượng cơ bản (chưa kích thích)
6
là 1 phần triệu lymphô bào đến 1/10 vào thời điểm nhiễm trùng đỉnh cao. Đây là một
ví dụ điển hình về sự phát triển clôn trong đáp ứng miễn dịch chống vi sinh vật.
Tế bào lymphô B nguyên vẹn (hình trên) và tế bào lymphô T nguyên vẹn (hình
dưới) đáp ứng với kháng nguyên và tín hiệu thứ hai bằng cách tăng sinh và biệt hoá
thành tế bào hiệu quả và tế bào nhớ. Tình trạng cân bằng nội môi được duy trì khi
những tế bào đặc hiệu kháng nguyên bị chết do hiện tượng “chết lập trình”.
Sự biệt hoá thành tế bào hiệu quả
Một số tế bào lymphô được kháng nguyên kích thích sẽ biệt hoá thành tế bào
hiệu quả có chức năng loại bỏ kháng nguyên. Tế bào hiệu quả bao gồm tế bào T giúp
đỡ, tế bào T gây độc, và tế bào B tiết kháng thể. Các tế bào T giúp đỡ sau khi biệt hoá
sẽ mang trên bề mặt những phân tử protein dùng để tương tác với các đầu nối tương
ứng (ligand) trên các tế bào khác (như đại thực bào, tế bào B), đồng thời chúng cũng
tiết các cytokin để hoạt hoá các tế bào khác. Tế bào T gây độc sau khi biệt hoá sẽ
mang những hạt chứa các protein có thể giết virus và tế bào ung thư. Lymphô bào B

được biệt hoá thành những tế bào sản xuất và bài tiết kháng thể. Một số các tế bào tiết
kháng thể này được nhận diện là tương bào (plasma cell). Chúng có nhân đặc biệt,
bào tương lớn và chứa mạng lưới nội bào dày đặc, mang nhiều hạt; đây chính là nơi
tổng hợp kháng thể, protein màng và protein tiết. Tế bào này cũng có phức hợp Golgi
đặc biệt nằm quanh nhân là nơi các phân tử kháng thể được chuyển thành thể dạng
cuối cùng trước khi được bài tiết ra ngoài (Hình 5.5). Người ta ước tính rằng, khoảng
hơn một nửa số RNA thông tin (mRNA) trong tương bào chịu trách nhiệm mã hoá
cho protein kháng thể. Tương bào phát triển trong cơ quan lymphô, nơi đáp ứng miễn
dịch xảy ra và thường di chuyển đến tuỷ xương và ở đây một số tương bào sống rất
lâu kể cả sau khi kháng nguyên đã được loại bỏ. Phần lớn tế bào hiệu quả sau khi biệt
hoá có đời sống rất hạn chế và không tự đổi mới được.
7
Hình 4. Hình thái của tương bào.
A. Hình ảnh kính hiển vi quang học của tương bào trong mô.
B. Hình ảnh kính hiển vi điện tử của tương bào.
Sự biệt hoá thành tế bào nhớ
Một số tế bào lymphô B và T được biệt hoá thành tế bào nhớ có chức năng tạo
ra đáp ứng miễn dịch nhanh và mạnh hơn khi tiếp xúc lại với kháng nguyên lần thứ
hai trở đi. Tế bào nhớ có thể tồn tại một cách yên lặng trong nhiều năm sau khi kháng
nguyên được loại bỏ. Người ta đã chứng minh rằng có một số tế bào nhớ không cần
nhận diện kháng nguyên mà vẫn có thể tồn tại lâu dài in vivo.
Tế bào nhớ có mang trên bề mặt những protein giúp phân biệt chúng với tế bào
nguyên vẹn và tế bào hiệu quả mới được hoạt hoá mặc dù cho đến nay người ta vẫn
chưa rõ những protein bề mặt nào là dấu ấn của riêng tế bào nhớ.Tế bào B nhớ thể
hiện một số lớp (tức isotyp) Ig màng như IgG, IgE, hoặc IgA. Đây là kết quả của quá
trình chuyển đổi (switch) isotyp vì tế bào B nguyên vẹn chỉ có IgM và IgD. So với tế
bào T nguyên vẹn, tế bào T nhớ mang nhiều phân tử kết dính (adhesion molecule)
hơn, ví dụ integrin, CD44 là những phân tử thúc đẩy sự di chuyển của tế bào nhớ đến
8
nơi nhiễm trùng. Ở người, đa số tế bào T nguyên vẹn mang một dạng đồng phân 200

kD của phân tử bề mặt có tên CD45, phân tử này có chứa một đoạn protein được mã
hoá bởi một exon có tên gọi là A. Dạng đồng phân này của CD45 có thể nhận diện
được bằng kháng thể đặc hiệu đối với đoạn mã hoá A nên được gọi là CD45RAR
có nghĩa là hạn chế - restricted)
Ngược lại, đa số các tế bào T nhớ và T hoạt hoá thì mang một dạng đồng phân
180 kD của CD45 trong đó exon A của RNA đã bị cắt đi, do vậy dạng đồng phân này
có tên là CD45RO. Tuy nhiên, dùng cách này để phân biệt tế bào T nguyên vẹn với tế
bào T nhớ không được ổn lắm vì người ta đã thấy có sự chuyển đổi qua lại giữa
các quần thể CD45RA+ và CD45RO+. Tế bào nhớ hình như rất đa dạng xét về nhiều
khía cạnh. Một số có xu hướng di chuyển ra ngoại biên đến các hạch lymphô tạo nên
một kho chứa tế bào lymphô đặc hiệu kháng nguyên có thể được hoạt hoá nhanh để
tăng sinh và biệt hoá thành tế bào hiệu quả khi tiếp xúc trở lại với kháng nguyên. Các
tế bào nhớ khác có xu hướng tồn tại trong niêm mạc hoặc lưu thông trong máu để có
thể tập trung đến bất cứ vị trí nhiễm trùng nào trong cơ thể để nhanh chóng tạo ra tế
bào hiệu quả giúp loại bỏ kháng nguyên.
2. SINH LÝ QUÁ TRÌNH LIỀN VẾT THƯƠNG
Vết thương là các thương tổn gây rách, đứt da hoặc niêm mạc và các phần khác
của cơ thể. Các quá trình khác nhau diễn ra theo một trật tự nhất định sau khi bị
thương đều nhăm một mục đích chung là sửa chữa. Trong quá trình liền vết thương có
vật chất bị phá huỷ (giai đoạn dị hoá) và chất mới được tổng hợp (giai đoạn đông
hoá). Liền vêt thương có liên quan đến các tế bào, các điều kiện sinh hoá, thời gian
Sự liền vết thương là một quá trình phục hồi cơ bản trong bệnh lý ngoại khoa, phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, mức độ, tính chất thương tổn, sức chống đỡ của cơ thể và
cách xử trí.
Diễn biến của vết thương trải qua 2 quá trình: liền vết thương kỳ đầu và liền vết
thương kỳ hai.
9
2.1 Liền vết thương kỳ đầu.
Khi vết thương gọn sạch, được xử trí sớm và đúng nguyên tắc, đúng kỹ thuật,
được khâu kín kỳ đầu, hai bờ miệng vết thương áp sát vào nhau, không bị viêm

nhiễm, không có hoại tử tổ chức. Chất tơ huyết đọng ở 2 mép vết thương có tác dụng
như keo: kết dính. Các mô bào, nguyên bào sợi, bạch cầu tập trung lấp đầy khe giữa 2
mép vết thương và mô hạt được hình thành.
Quá trình tổng hợp chất collagen do nguyên bào sợi được tiến hành từ ngày thứ hai
sau khi bị thương, đạt cao điểm ở ngày thứ năm, thứ bảy sau khi bị thương.
Quá trình mô hoá ở lớp biểu bì hoặc ở lớp niêm mạc hoàn thành trong 6 đến 8 ngày,
như vậy vết thương liền ngay ở kỳ đầu. Mức độ liền chắc của 2 mép và vết thương
cũng đạt kết quả cao ở ngày thứ 5, thứ 7.
2.2 Liền vết thương kỳ hai
Khi vết thương tổn thương nhiều tổ chức, hai bờ miệng vết thương cách xa
nhau, bị nhiễm khuẩn thì quá trình liền vết thương sẽ diễn biến dài hơn, nếu thể tích
thương tổn lớn thì cơ thể phải huy động các nguồn dự trữ đến để bảo vệ và tái tạo vết
thương. Quá trình này trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn viêm, giai đoạn tăng sinh và giai
đoạn tái tạo.
2.2.1. Giai đoạn viêm (Giai đoạn tự tiêu, giai đoạn dị hoá, giai đoạn rỉ dịch)
Giai đoạn viêm diễn ra trong 3-5 ngày đầu với các triệu chứng được nhà danh y
cổ đại Celsus (25 trước CN-45 sau CN) mô tả: "đỏ, nóng, xưng, đau". Về sinh bệnh
học thể hiện bằng: rối loạn cục bộ tuần hoàn máu do các kích thích gây ra từ vết
thương. Trong thời gian này có sự hoạt hoá của hệ thống đông máu và sự giải phóng
các chất trung gian hoá học khác nhau từ tiểu cầu: yếu tô tăng cường nguồn gốc tiểu
cầu;yếu tố hoạt hóa tiểu cầu (PAF - Pletelet Acưivating Factor)\ Thromboxan,
serotonin, adrénalin là các yếu tô” bổ thể.
Đông máu: Mục đích đầu tiên của sửa chữa sinh học là chấm dứt chảy máu.
Tiểu cầu sẽ dính vào các thành phần của mô mới lộ ra như collagen và ngưng kết lại
dẫn đến đông máu ở một chừng mực nào đấy bằng việc tạo ra các cục nút. Tiểu cầu
10
và các tế bào bị tổn thương chê tiết các chất trung gian hoá học khác nhau hoạt hoá cả
chuỗi các yếu tô để cuối cùng biến đổi fibrinogen thành fibrin. Trong giai đoạn cuôi
cùng của đông máu có sự biến đổi fibrin dạng hoà tan thành dạng không hoà tan.
Thêm vào đó là việc gắn fibronectin vào các nguyên bào sợi fibroblasts) . Fibrin

monomer ngưng tập lại thành cấu trúc dạng lưới tạo ra chất căn bản theo sự di cư của
nguyên bào sợi. Yếu tô XIII là yếu tô liên kết giữa quá trình đồng máu và các quá
trình hình thành tê bào trong liền vêt thương. Để giữ đông máu và ngưng tập tiểu cầu
trong một giới hạn sinh lý, nội mô sản xuất các yếu tô" điều hoà như prostacyclin {ức
chê ngưng tập tiêu câu), protein c và chất hoạt hoá T- plasminogen (hoạt hoá phân
huỷ fỉbrin). Các tế bào viêm Từ 2 - 4 giò sau khi bị thương có sự xuất hiện của các tế
bào viêm và 32 giò sau có sự xuất hiện của nguyên bào sợi. Như các vệ tinh của hệ
miễn dịch, phân lớn các bạch cầu đa nhân trung tính và các đại thực bào xâm nhập
vào vêt thương. Chúng được lôi cuốn và hoá hướng động bởi các sản phẩm hoá từ
íìbrin và collagen giải phóng từ các cục máu.
Hình 5 : Giai đoạn viêm
11
Bạch cầu đa nhân trung tính: Trong 6 giờ đầu, các bạch cầu hạt thâm nhập
vào vết thương. Khoảng 1 giờ sau khi bị thương đã có sự tăng bám dính của bạch cầu
hạt vào các tế bào nội mô tại chỗ tổn thương. Nhò sự di cư giữa các tế bào nội mô và
sự vỡ màng đáy, chúng xâm nhập được vào vết thương, hơn thê chúng còn bị thu hút
bởi một số lượng lớn các chất hoá hướng động bắt nguồn từ sự ngưng tập tiểu cầu và
sự hoạt hoá của hệ thống đông máu: Kallikarein, fibrinopeptide, các yêu tô bô thê và
các protein màng ngoài vi khuẩn Trước hết các tế bào hạt tham gia vào dọn sạch
các chất hoại tử và đề kháng với vi khuẩn nhò chúng mang theo các hạt chứa đầy các
enzym thuỷ phân protein như elastase, hydrolase acid, lactoferin vào lysozym. Các
bạch cầu hạt đã phân giải kêt hợp với dịch vết thương dân đên lắng đọng mủ, vì thế
tình trạng mưng mủ là một hiện tượng xảy ra thường xuyên trong quá trình liền vết
thương. Thâm nhiễm bạch cầu sẽ hết sau vài ngày nếu vết thương không bị nhiễm các
vi khuẩn gây bệnh.
Trong các vết thương nhiễm khuẩn, bạch cầu hạt làm nhiệm vụ thực bào đóng
một vai trò rất quan trọng trong việc loại trừ vi khuẩn. Ngoài ra, sự có mặt của oxy
cũng hết sức quan trọng, nếu đóng kín vêt thương không thích hợp hoặc do tưới máu
kém dẫn đến thiếu oxy sẽ làm chậm quá trình liền vết thương do bị nhiễm khuẩn.
Chức năng của đại thực bào trong liền vết thương là rất cần thiêt. Một mặt, nó dọn

sạch tổ chức hoại tử, mặt khác, nó kích thích và điều chỉnh các quá trình sửa chữa
bằng việc chế tiết các cytokin. Vài tuần sau khi bị thương, vân có thể tìm thấy các đại
thực bào ở chỗ vết thương ban đầu
Trong giai đoạn này, môi trường vết thương toan hoá, pH: 5,4 - 7. Từ ngày thứ
2 đến ngày thứ 4 xuất hiện hiện tượng tân tạo mạch máu.
2.2.2 Giai đoạn tăng sinh (Giai đoạn đồng hoá, giai đoạn collagen)
Bắt đầu từ ngày thứ 6 đến khi vết thương liền khỏi hoàn toàn.
2.2.2.1 Về mặt sinh học:
Các mầm mao mạch được mọc lên thành các quai mao mạch có nội mạc tương
đối dày, phát triển mọc thẳng lên và song song với nhau từ các tế bào liên kết trẻ, đa
12
số là nguyên mô bào và mô bào (histioblast, histiocyt) rồi đến các bạch cầu đa nhân
trung tính, bạch cầu ái toan, các tương bào, các nguyên bào sợi. Giữa các tế bào liên
kết và các quai mao mạch có các sợi keo và các chất căn bản (dịch quánh gồm nước
80 - 90%, chất đạm 7 - 15%, chất mucopolysaccarit 3%).
2.2.2.2 Hình thành mô hạt:
Gồm các tế bào liên kết non mới được phân chia, các tơ, sợi liên kết và chất cơ
bản (có chứa nhiều glucoaminoglycan).
+ Các thành phần của mô liên kết đều có nhiệm vụ sinh học trong việc tái tạo tổ
chức, tỷ lệ tăng sinh các đại thực bào và nguyên bào sợi là sự phản ánh của sức đề
kháng và khả năng tái tạo thuận lợi của vết thương. Việc ngừng tăng sinh của nguyên
bào sợi là do mật độ của chúng ở trong vết thương quyết định; mật độ của chúng cao
nhất ở tuần lễ thứ tư.
+ Các nguyên bào sợi có chức năng tổng hợp các phần tử tạo keo protocollagen
và tiết chúng vào chất căn bản của mô liên kết. Các tơ collagen được tạo thành do quá
trình trùng hợp các phân tử protocollagen, lúc đầu được phân bố thành một lưới hỗn
độn giữa các quai mạch và các tế bào. Sau đó được định hướng thành 2 lớp:
- Lớp nông: xếp dọc thẳng đứng so với nền vết thương.
- Lớp sâu: xếp song song với nền vết thương.
Khi đã định hướng xong vị trí, các tơ collagen phát triển và hợp với nhau thành

các sợi collagen nhờ các mucopolysaccarit của chất căn bản trở thành bền dai và
không hoà tan. Tùy theo tính chất mô bị thương tổn mà có một sự chuyên biệt hoá các
nguyên bào sợi: nguyên bào sợi cơ (myofibroblast), nguyên bào sụn (chondroblast),
nguyên bào xương (osteoblast), sự sắp xếp các tơ và sợi collagen cũng phụ thuộc vào
tính chất mô.
Sự tổng hợp chất collagen của nguyên bào sợi đòi hỏi các điều kiện sau: môi
trường hơi axit và có chất khử và có phân áp oxy 10 - 20 torre.
Sự tổng hợp các chất glycoaminoglycan được tiến hành tại vết thương cùng với
sự tổng hợp chất collagen từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 16 sau khi bị thương.
13
Quá trình tổng hợp collagen từ dạng nguyên sinh đầu tiên đến dạng hoàn chỉnh cuối
cùng ở ngày thứ 40 - 50.
+ Mô hạt là hàng rào đề kháng; các tế bào liên kết giữ vai trò đội quân diệt các
vi khuẩn.
+ Hiện tượng biểu mô hoá từ các tế bào biểu mô của lớp biểu bì tăng sinh sẽ lan
phủ, che kín diện mô hạt và vết thương thành sẹo.
Nếu mô hạt không được che phủ bởi lớp biểu mô thì việc tiến triển liền sẹo của
vết thương sẽ không thuận lợi, kéo dài, mô hạt sẽ già, trở thành một khối xơ chắc
(fibrocyte), các quai mạch máu giảm dần, các sợi collagen xơ hoá.
2.2.2.3 Phù vết thương.
Đây là dấu hiệu khởi đầu cho nguyên bào sợi, việc kết dính của bạch cầu đã
được hoạt hoá vào các tế bào nội mô và sự giải phóng bradikinin từ các tế bào mast
dẫn đến hậu quả là thành mạch tăng tính thấm, các chất có trọng lượng phân tử lớn
(albumin, sibrimogen) khuếch tán ra gian bào đưa đến hiện tượng phù. Sự tích luỹ các
chất lỏng sẽ làm biến đổi các tế bào sợi thành nguyên bào sợi, kích thích tăng sinh tế
bào và nhanh chóng đưa đến sự hình thành mô hạt. Nó gồm các mầm mao mạch, các
mao mạch tân tạo và các nguyên bào sợi. Trong suốt quá trình liền vết thương, các
nguyên bào sợi di chuyển đến và tăng sinh sử dụng các acid amin được lấy từ các cục
máu bị phân huỷ ở trong vết thương.
2.2.2.4 Sự tạo mạch.

Các tế bào nội mô tĩnh mạch là các tế bào đầu tiên tạo mạch. Các giả túc của
bào tương chuyên động giữa các màng đáy bị gián đoạn, các tế bào nội mô sẽ đi theo
sau, 'sự ra đi của chúng được các tế bào nội mô bên trong mạch máu nguyên thủy bù
đắp vào. Ngày nay người ta đã có bằng chứng là fibrolectin được tổng hợp bởi các
mạch máu. Fibrolectin là chất rất cần thiết đối với kết quả của phase tăng sinh. Glyco
protein này được tìm thấy trên bề mặt tế bào, ở chất căn bản của mô liên kết và trong
dịch gian bào.
14
2.2.2.5 Các nguyên bào cơ:
Là các nguyên bào sợi đã biến đổi cấu trúc trông giống như các tế bào cơ trơn.
Chúng chứa đựng các sợi đàn hồi. Bề mặt của vết thương bị lõm xuống do các nguyên
bào cơ co lại. Sự thu nhỏ vết thương có phần đóng góp bởi sự phát triển của sợi
collagen. Tuy nhiên, sự thu nhỏ vết thương không đóng vai trò quyết định trong các
quá trình liền vết thương.
2.3. Giai đoạn tái tạo tổ chức (Giai đoạn tái lập mô collagen):
Là quá trình tái tạo tổ chức sẹo mới hình thành trong đó có sự tái lập và sự
giảm bớt mô tạo keo, sự tạo lại mô xơ thành lớp đệm mỡ.
+ Chất collagen được tái xây dựng bằng các quá trình phân nhỏ ở mức độ cao
nhất vào thời gian 40 - 60 ngày sau khi bị thương được sắp xếp một cách có thứ tự,
định hướng và kết hợp chặt chẽ với chất glycoaminoglycan để thành các bó mô tạo
keo và sẽ giảm dần trong tổ chức sẹo. Thời kỳ này tương ứng với các triệu chứng lâm
sàng. Trong thời gian đầu thể tích của sẹo lớn ra (ngày thứ 25 đến 50 sau khi thành
sẹo), sẹo hơi chắc, dày, bề mặt sẹo cao hơn mặt da, sẹo dính vào các tổ chức lân cận,
ít di động (2 - 3 tháng đầu). Nếu theo dõi sẽ thấy sau đó là thời kỳ sẹo co.
+ Dần dần các quai mao mạch trong sẹo giảm về số lượng, có sự tạo lại mô xơ
với sự xuất hiện tổ chức mỡ trong sẹo, các nguyên bào sợi còn rất ít, các bó xơ trở nên
dẹt và mỏng. Thời kỳ này tương ứng với trạng thái sẹo không co nữa khi theo dõi lâm
sàng. Lớp đệm mỡ được hình thành; tính đàn hồi được phục hồi, sẹo trở thành mềm
mại di động được.
Quá trình phục hồi cảm giác theo thời gian: từ 3 tháng trở đi có xu hướng phục

hồi xúc giác. Trong năm đầu có thể phục hồi 95% cảm giác đau. Cuối năm thứ hai
phục hồi cảm giác nhiệt. Sau 6 tháng đến 1 năm sẹo sẽ tiến triển theo hướng ổn định
hoặc hướng bệnh lý.
15
+ Sẹo ổn định: các bó sợi collagen được phân bố có trật tự sắp xếp theo các
hướng dọc, nghiêng nhất định có sự phát triển của các tế bào mỡ xen kẽ giữa các bó
sợi, làm cho tính di động và tính bền cơ học của sẹo được hình thành.
+ Sẹo phì đại: do sự phát triển không ổn định, không bình thường của chất tạo
keo và mô xơ. Sẹo trở nên dày chắc, gây cảm giác căng, cao hơn mặt da bình thường,
ít di động, diện sẹo thu hẹp lại so với khởi điểm (30% - 40%). Có nhiều khả năng tự
khỏi sau 3 - 4 tháng tiến triển. Nếu phẫu thuật lấy sẹo đi thì thường ít tái phát.
+ Sẹo lồi: do sự phát triển không ổn định, không bình thường của chất tạo keo
và mô xơ. Sẹo lồi phát triển to, dày, chắc, căng máu, tím đỏ, ngứa, có khi đau, không
thể tự khỏi, khi phát triển thì có tính chất lan sang các tổ chức da lân cận. Trên cơ thể
đã có sẹo lồi thì các nơi có sẹo đều phát triển thành sẹo lồi (bệnh sẹo lồi).
Nguyên nhân gây sẹo lồi đến nay vẫn chưa xác định được rõ rệt. Về tiến triển,
sẹo lồi không tự khỏi mà có su hướng phát triển, tỷ lệ tái phát cao sau mổ và điều trị
(tới trên 40 - 50%).
+ Sẹo bị loét lâu liền: do quá trình biểu mô hoá không hoàn chỉnh, từ các đám
mô hạt không được phủ kín, hoặc từ các sẹo bỏng đã liền nhưng bị chấn thương phụ,
bị căng nứt. Tiến triển của loét kéo dài nhiều năm có thể bị thoái hoá ung thư.
+ Sẹo bị ung thư hoá: thời gian chuyển sang ác tính có thể ngắn (vài tuần),
nhưng thường rất dài (vài năm đến hàng chục năm). Thường gặp thể ung thư biểu mô
dạng biểu bì, ít gặp thể ung thư biểu mô tế bào đáy.
Trên lâm sàng thấy vết loét có đáy sần sùi, cứng, bờ của loét nổi gờ cao, có
những nốt sần tròn nhỏ. Tiến triển dai dẳng, kéo dài, loét tiết dịch hôi, thường bị
nhiễm khuẩn, có khi thấy những kẽ nứt ở đám sẹo.
+ Sẹo co kéo: do quá trình tăng sinh các nguyên bào sợi cơ, các sợi tạo keo, dẫn
tới một quá trình giảm các thớ cơ, hình thành các dải xơ ở dưới sẹo, dưới lớp cân. Quá
trình co kéo có thể chỉ do sẹo da đơn thuần hoặc có thể co kéo cả lớp cân, gân, cơ, bao

khớp, dây chằng, do các dải xơ dưới sẹo gây nên. Sẹo co kéo không hồi phục lại
được.
16
+ Sẹo dính: khi có một diện mô hạt rộng ở các phần của cơ thể tiếp giáp nhau,
khi thay băng không để tách nhau ra, mà cứ để thành một khối. Diện mô hạt phát triển
thành một khối chung và được biểu mô che phủ khi hình thành sẹo, nên các phần cơ
thể này dính vào nhau.
3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH LIỀN VẾT THƯƠNG
3.1 Các yếu tố tai chỗ
- Nhiễm trùng vết thương: do vi khuẩn, nấm, virus
- Tưới máu kém: do đặc điểm vị trí bị tổn thương, do viêm mạch nói chung và
viêm mạng lưới mao mạch nói riêng dẫn đến lưu thông động mạch kém và ứ trệ máu
ở tĩnh mạch.
3.2 Các yếu tố toàn thân
Thiếu Protein:
Việc tái tạo mô đòi hỏi các acid amin tổng hợp protein cũng như làm nguồn
năng lượng tái tổng hợp glucose. Vì thế, thiêu protein sẽ dẫn đến hậu quả:
+ Giảm miễn dịch thể dịch và miễn dịch qua trung gian tế bào.
+ Giảm quá trình thực bào và tiêu diệt vi khuẩn khác.
+ Giảm tổng hợp collagen.
Thiếu Vitamin:
+ Thiếu vitamin A dẫn tổi: chậm biểu mô hoá, chậm tổng hợp collagen, giảm
tính ổn định của collagen
+ Thiếu vitamin c dẫn tới: giảm di chuyển và phân tán đại thực bào, giảm chức
năng của bạch cầu hạt, giảm tổng hợp bổ thể và các globulin miên dịch.
+ Thiếu vitamin K: sẽ ảnh hưởng đên quá. trình đông máu làm vêt thương
không tự cầm máu.
Ngoài ra các vitamin nhóm B, vitamin E cũng được đề cập có ảnh hưởng đến
quá trình liền vết thương nhưng cơ chê chưa được giải thích rõ.
17

Tăng bilirubin máu: Người ta thấy ở thí nghiệm tăng bilirubin máu trong Invitro và ở
động vật sẽ gây cản trở quá trình liền vết thương do nó làm giảm tăng sinh nguyên
bào sợi (fibroblasts).
Yếu tô XIII:
Các bệnh làm tiêu fibrin: viêm loét đại tràng, bỏng, viêm khổp dạng thấp, bệnh bạch
cầu cấp cũng làm chậm quá trình liền vết thương.
Một số thuốc ảnh hưởng đến tái tạo vết thương: Glucocorticoid, các thuốc ức chê tế
bào, cyalosporin, cholchicm, penicillamin, calcitonin.
Một số yếu tố khác:
+ Tuổi cao có ảnh hưởng đến tất cả các sửa chữa vết thương: Giảm co nhỏ vết
thương Giảm tăng sinh tế bào Giảm tân tạo mạch máu Giảm sô" lượng tế bào mast
Chậm biểu mô hoá Các tế bào sừng tăng sinh ít hơn sau khi có kích thích phân bào.
+ Các bệnh hiếm gặp của tổ chức liên kết: hội chứng Ehlers - Danlos và suy
giảm prolin hydroxylase dẫn tói chậm liền vêt thương.
4. VAI TRÒ CỦA BẠCH CẦU LYMPHO TRONG LIỀN VẾT THƯƠNG
Trước đây, các tế bào lympho đã thường được đề cập đến trong quá trình viêm
mãn tính và chỉ gần đây các thí nghiệm trên động vật đã cho thấy tế bào lympho còn
có vai trò trong sự lành vết thương. Các nghiên cứu mới nhất về vai trò của lympho
trong vết thương và sẹo trên người sử dụng kháng thể đơn dòng cho thấy tế bào
lympho T có thể đóng vai trò điều tiết quan trọng trong việc lành vết thương và hình
thành sẹo.
Trong nghiên cứu về sinh học tế bào trong quá trình liền vết thương của M.C.
Regan và A. Barbul, cả thí nghiệm in vitro và invivo đã chứng minh rằng sự hiện diện
của đại thực bào và tế bào lympho T ở vị trí vết thương là điều cần thiết để cho quá
trình lành vết thương thông thường xảy ra. Cả đại thực bào và tế bào lympho T có khả
năng điều chỉnh các bước cần thiết trong quá trình chữa lành vết thương. Sự hiện diện
của các đại thực bào là cần thiết cho sự khởi đầu và duy trì các hoạt động của nguyên
18
bào sợi tại vết thương. Tế bào T không xuất hiện để tạo sự khởi đầu của quá trình liền
vết thương, quá trình này có thể tiến triển ngay khi không có mặt tế bào lympho T,

tuy nhiên, sự hiện diện của một hệ thống miễn dịch tế bào T nguyên vẹn là điều cần
thiết để cho một kết quả bình thường. Điều này chỉ ra rằng các tế bào T có thể có ảnh
hưởng nào đó đối với hoạt động của đại thực bào. Cho đến khi chúng ta hiểu biết
hoàn toàn về cơ chế làm lành vết thương, nhiệm vụ của các nghiên cứu xa hơn sẽ là
tìm hiểu rõ hơn sự tương tác của các tế bào miễn dịch, sản phẩm tiết của chúng, và
các yếu tố khác liên quan đến vết thương.
Các bằng chứng về vai trò trung tâm của tế bào lympho T trong việc kiểm soát
quá trình lành vết thương được chỉ ra bởi các nghiên cứu xem xét sự tác động trên
invivo trong các dạng khác nhau của tế bào T trên các thông số khác nhau của quá
trình lành vết thương. Sử dụng các tác nhân gây tăng cường chức năng tế bào lympho
T , chẳng hạn như hormone tăng trưởng, vitamin A hoặc arginine, dẫn đến sự gia tăng
quá trình liền vết thương và lắng đọng collagen , trong khi các tác nhân ngăn chặn
chức năng tế bào lympho T, chẳng hạn như steroid, acid retinoic , citral và
cyclosporin A, làm giảm rõ rệt quá trình lành vết thương . Sửa đổi các tế bào lympho
T có chức năng bằng cách cắt bỏ tuyến ức ở người lớn nhằm ngăn chặn cảm ứng của
tế bào T ức chế , làm tăng sự tạo thành mủ ở vết thương. Ngược lại, sử dụng các
hormone tuyến ức tinh chế : thymulin ( FTS) , thymopoietin và thymosin phần V
( TF5 ) làm giảm quá trình lành vết thương do mất các yếu tố giúp lành vết thương và
lắng đọng collagen. Những dữ liệu này cho thấy tuyến ức gây sức ảnh hưởng ức chế
quá trình làm lành vết thương bình thường , có thể bằng cách tăng cường hoạt hóa tế
bào T ức chế sau khi bị chấn thương.
Bằng chứng trực tiếp cho sự tham gia của tế bào lympho trong việc kiểm soát
chữa lành vết thương được thể hiện trong nghiên cứu kiểm tra các thông số của quá
trình lành vết thương trên cơ thể suy giảm miễn dịch tế bào. Cạn kiệt tế bào T gây suy
giảm đáng kể sự lành vết thương và lượng hydroxyproline của miếng bọt biển tẩm
19
Polyivinyl Alcohol (PVA) được cấy dưới da, được sử dụng như một chỉ số của quá
trình lắng đọng collagen tại vết thương. Sự suy giảm có chọn lọc các tế bào T kiềm
chế / gây độc tế bào làm tăng đáng kể quá trình chữa lành vết thương ở thời điểm 2 và
4 tuần sau bị thương . Những phát hiện này gợi ý rằng các tế bào lympho T ức chế /

gây độc có thể có vai trò gì đó trong việc giảm hoạt động chữa lành vết thương . Đồng
thời cũng mở ra một giả thuyết rằng các tế bào T trợ giúp / hoạt hóa sẽ thúc đẩy hoạt
động liền vết thương. Tuy nhiên sự suy giảm có chọn lọc của tập hợp tế bào này,
không có tác dụng trên sức liền vết thương và lắng đọng collage vết thương. Sự suy
giảm đồng thời của tế bào T hoạt hóa và các tế bào T ức chế / T gây độc tế bào dẫn
đến tăng đáng kể trong cả sức liền vết thương và tổng hợp collagen tại vết thương .
Điều này cho thấy không phải tế bào T ức chế hay tế bào T hoạt hóa mà là một nhóm
tế bào T không đặc trưng mang dấu hiệu của tế bào T, chịu trách nhiệm cho việc thúc
đẩy chữa lành vết thương, và khi nhóm tế bào này bị loại bỏ sẽ làm giảm quá trình
chữa lành vết thương .
Hỗ trợ thêm cho những phát hiện nêu trên được cung cấp bởi nghiên cứu ở
chuột không có tuyến ức bẩm sinh. Những con vật này có hệ thống miễn dịch phụ
thuộc tế bào T bị suy giảm một cách rõ rệt và biểu hiện tăng cường đáng kể sức liền
vết thương và lắng đọng collagen để đáp ứng với chấn thương khi so sánh với động
vật bình thường. Sử dụng các kháng thể đơn dòng kháng lympho T trên những con vật
không tuyến ức để loại bỏ nốt lượng nhỏ các tế bào T nguồn gốc ngoại tuyến ức
không cho thấy ảnh hưởng gì đến các thông số của quá trình liền vết thươn, mà điều
này khẳng định sự giảm đáng kể sức liền vết thương và lắng đọng hydroxyproline khi
dùng khán thể đơn dòng với những con chuột bình thường trong các quan sát trước.
Phục hồi tế bào T của chuột không tuyến ức bẩm sinh bằng cách tiêm các tế bào
lympho T tự nhiên, dẫn đến hiện tượng giảm đáng kể sức liền vết thương so với chuột
bình thường.
20
Tế bào lympho gây ảnh hưởng thông qua các cytokine. Trong các nghiên cứu
trên invitro đã chỉ ra rằng lymphokines có khả năng điều chỉnh nhiều chức năng
nguyên bào sợi , bao gồm di chuyển , sao chép và tổng hợp collagen . Một số , chẳng
hạn như TGF-β, lymphotoxin hoặc γ - interferon ( IFN- γ ) được mô tả kỹ, trong khi
nhiều protein khác có thể điều chỉnh hoạt động nguyên bào sợi trên invitro chưa được
mô tả đầy đủ . Nhiều chức năng nguyên bào sợi của cả hai lymphokines ức chế và
kích thích đã được mô tả, tuy nhiên, chính xác làm thế nào những tín hiệu khác nhau

này tương tác với nhau trong cơ thể hiện nay vẫn chưa rõ.
5. ỨNG DỤNG NGOẠI KHOA
Trong ngoại khoa, việc giúp vết mổ mau lành là mục tiêu quan trọng trong thời
gian hậu phẫu. Ngoài các yếu tố như việc chuẩn bị bệnh nhân trước mổ, kỹ thuật vô
trùng, loại phẫu thuật và các yếu tố khác như tuổi, thể trạng, bệnh đi kèm của bệnh
nhân thì việc chăm sóc vết mổ trong thời gian hậu phẫu hết sức quan trọng. Hiểu rõ
và áp dụng các kiến thức về giải phẫu, mô học và sinh lý,miễn dịch của quá trình liền
vết thương sẽ giúp ích cho quá trình chăm sóc vết mổ rất nhiều.
5.1 Cơ sở giải phẫu và mô học
Phẫu thuật ngoại khoa gồm rất nhiều loại khác nhau, trong đó hay gặp nhất là
phẫu thuật vào ổ bụng.
5.1. Giải phẫu thành bụng
5.1.1. Lớp nông
Da, mô liên kết dưới da và mô mỡ tạo nên lớp nông của thành bụng. Các nếp
nhăn da bụng được sắp xếp theo chiều ngang, mặt hơi lõm hướng về phía trên. Mô
mỡ bao gồm các thùy và bè mỡ, tích tụ nhiều nhất ở lớp dưới da vùng bụng so với các
phần khác trên cơ thể. Đồng thời tụ mô mỡ nhiều ở bụng sẽ ảnh hưởng đến hình dáng
bụng, khả năng liền vết thương và khả năng bị nhiễm trùng vết mổ. Lớp mỡ dưới da
chia thành hai lớp khác nhau. Lớp nông bao gồm những thùy nhỏ ngăn cách nhau bởi
những vách thẳng đứng. Lớp sâu, còn gọi là mạc Gallaudet, bao gồm những thùy to
21
hơn, nằm trong khung liên kết lỏng lẻo. Bao liên kết ngăn cách hai lớp được biết với
tên gọi Scarpa đặc biệt vùng bụng dưới. Tại vùng bụng dưới lớp mỡ dưới da bám lỏng
lẻo vào lớp cân nhưng đi về phía ức hay phía bẹn, lớp mỡ dưới da bám khá chặt vào
lớp vân nên rất khó bóc tách.
Hình 6. Các lớp của thành bụng trước
5.1.2. Các cân cơ thành bụng
Bao cơ thẳng hình thành từ cân của ba cơ dẹt thành bụng. bao gồm cơ chéo
ngoài, cơ chéo trong và cơ ngang bụng. Ở 3/4 trên, cơ chéo trong và cơ ngang tách ra
làm hai lá cân bao lấy cơ thẳng. Ở 1/4 dưới, tất cả 3 cơ đi ra trước cơ thẳng. Mặt sau

cơ thẳng đoạn này chỉ có mạc ngang và phúc mạc. Ngăn cách giữa hai đoạn là cung
Douglas. Một điểm chú ý về bao cơ thẳng là ở nửa ngoài, bao cơ thẳng gồm hai lớp
cân do lá cân chéo ngoài và chéo trong chưa đan vào nhau. Chúng chỉ thật sự đan
chéo nhau thành một lá cân duy nhất ở nửa trong bao cơ thẳng. Sự đan chéo của các lá
cân tạo nên cân trắng giữa vững chắc. Nửa trên cân trắng giữa rộng hơn nửa dưới.
22
Hình7: Các lớp của thành bụng trước
5.1.3. Mạch máu và thần kinh chi phối thành bụng
Thành bụng được cấp máu bởi các bó mạch máu thượng vị dưới, thượng vị
trên, bó mạch mũ chậu sâu và mạch máu gian sườn. Cung cấp máu chủ yếu cho lớp
dưới da và da bụng từ các nhánh xuyên thành xuất phát từ các nhánh trên.
Vận động và cảm giác thành bụng được chi phối bởi năm dây thần kinh liên
sườn cuối cùng là 7,8,9,10 và 11. Các dây thần kinh chui ra từ mặt sâu của bờ sụn
sườn, tại nơi xuất phát của cơ ngang bụng và cơ hoành. Thần kinh thắt lưng cuối
cùng, thần kinh chậu-hạ vị, và thần kinh chậu bẹn đi phía sau thận và xuyên cơ ngang
bụng ra trước và tiếp tục đi xuống dưới. Các dây thần kinh trên đi giữa hai cơ ngang
bụng và cơ chéo bụng trong theo hướng ra trước và xuống dưới. Tất cả đều tiếp cận
bờ ngoài bao cơ thẳng, chỉ trừ dây chậu bẹn đi xuống dưới theo ống bẹn cùn với
23
thừng tinh. Các dây thần kinh tiếp cận cơ thẳng bụng từ bờ ngoài, sau đó đi ra sau cơ
thẳng rồi tận cùng ở khoang giữa cơ nơi ngăn cách nửa trong và nửa ngoài cơ thẳng.
5.2. Cấu trúc mô học của da
Hình 8 : Cấu trúc mô học của da
Da gồm 3 lớp: thượng bì, trung bì, hạ bì và các phần phụ của da.
Thượng bì.(còn gọi là biểu bì epidermis)
Trên các lát cắt mô học của da bình thường, ranh giới giữa thượng bì và trung
bì không bằng phẳng mà lồi lõm do có nhiều nhú của thượng bì như những ngón tay
ăn sâu vào trung bì. Những chỗ lồi lên của trung bì giữa các nhú thượng bì gọi là nhú
trung bì. Thượng bì chia ra thành năm lớp: lớp đáy, lớp gai, lớp hạt, lớp sáng và lớp
sừng.

Lớp đáy (basal stratum)
Ở lớp đáy có hai loại tế bào cùng nằm trên màng đáy là tế bào đáy (tế bào sinh
sản) và tế bào sắc tố.
24
Tế bào đáy có hình trụ, nằm vuông góc với đường phân cách giữa thượng bì và
chân bì (màng đáy). Chúng có bào tương bắt màu kiềm nhẹ, nhân hình bầu dục hay
dài chứa nhiều chất nhiễm sắc. Các tế bào này nằm sát nhau và dính với nhau bằng
các cầu nối bào tương. Trong một số tế bào thường thấy hình nhân chia.
Tế bào hắc sắc tố (các tế bào sáng hay các tế bào đuôi gai), có nguồn gốc thần
kinh, chúng có khả năng tổng hợp sắc tố melanin. Khi nhuộm muối bạc thấy tế bào có
nhiều nhánh bào tương dài, trong bào tương có những hạt sắc tố đen. Khi nhuộm
hematoxylin- eosin chúng là những tế bào sáng, nhân bắt màu sẫm, bào tương bắt
màu kiềm nhẹ.
Màng đáy không bắt màu thuốc nhuộm thông thường. Khi sử dụng thuốc
nhuộm acid schiff, màng đáy bắt màu đỏ-( là một vạch mỏng, đậm đặc, thuần nhất, vì
nó chứa một lượng khá lớn polysaccarid). Nó là một hàng rào để khuyếch tán các hạt
nhỏ như thuốc nhuộm lan vào chân bì.
Lớp gai(Stratum spinosum)
Các tế bào lớp gai có hình đa diện, nằm trên lớp đáy, có từ 5-10 hàng tế bào.
Các tế bào nằm sát nhau, nối với nhau bằng các cầu nối bào tương, rõ rệt hơn ở lớp
đáy. Dưới kính hiển vi điện tử các tế bào này không nối hẳn với nhau mà chỉ tiếp xúc
bằng các thể nốí (desmosome) chứa những hạt đậm đặc mà bản chất là phospholipid.
Khi tách các tế bào gai rời nhau ra thì thấy trên bề mặt có những nhú bào tương giống
như những cái gai. Trong bào tương có nhiều tơ trương lực qui tụ vào các cầu nối.
Chúng có thể hợp lại thành bó. Các tế bào gai cũng có khả năng sinh sản bằng gián
phân. Hoạt động gián phân của lớp đáy và lớp gai đều mạnh mẽ và liên tục. Khoảng
từ 19-20 ngày thượng bì của người lại được đổi mới một lần.
Lớp hạt:(Stratum glanulosum)
Các tế bào của lớp hạt gồm từ 3- 4 hàng, chúng có hình dẹt, nằm trên lớp gai.
Trong bào tương chứa các hạt sừng keratohyalin. Những hạt này xuất hiện chứng tỏ

quá trình sừng hoá bắt đầu. Keratin thuộc nhóm protein sợi có chứa nhiều gốc
aminoacid, arginin, lysin, cystidin chúng khá bền vững với những tác nhân hoá học
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×