Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Những can thiệp của chính phủ đến độc quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.67 KB, 14 trang )

Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: Nguyễn Dụng Tuấn
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế - kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp,
lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của
những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của
cả dân tộc Việt Nam. Hơn 10 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được
nhiều kết quả và thành tựu đáng mừng, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế
ra khỏi tình trạng khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của
cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hóa ngày càng phong phú. Đời sống nhân dân từng
bước được cải thiện. Đất nước chẳng những giữ vững được ổn định chính trị trước
những chấn động lớn trên thế giới mà còn có bước phát triển đi lên. . Hệ thống kết cấu
hạ tầng được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát triển. Quan
hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế không ngừng được mở rộng,… Tuy nhiên,
cũng có nhiều vấn đề mới đặt ra cần được tiệp tục nghiên cứu và giải quyết.
Nhìn chung, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới
được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao.
Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn
nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường
quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường
chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu
cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông
thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ động hội nhập thị trường quốc
tế, hạn chế và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh.
Nhằm hiểu rõ hơn về những biện pháp của Nhà nước và Chính phủ trong việc
hạn chế và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, nhóm em đã chọn đề tài: “Những
can thiệp của Chính phủ đến độc quyền”.
Nhóm 12 - Lớp CDKT13DTH - 1 -
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: Nguyễn Dụng Tuấn
NỘI DUNG
1. Khái niệm độc quyền


Độc quyền là một tình huống trong đó một công ty hoặc một tập đoàn, một nhóm
các công ty chiếm lĩnh gần như toàn bộ thị trường đối với một loại hàng hóa hoặc dịch
vụ nào đó. Thị trường độc quyền là thị trường không có sự cạnh tranh do đó dẫn đến
một hệ quả tất yếu là mức giá cao hơn và sản phẩm chất lượng thấp hơn. Đây là một
trong những dạng của thất bại thị trường, là trường hợp cực đoan của thị trường thiếu
tính cạnh tranh.
Độc quyền là một ví dụ điển hình khi nhắc tới chủ nghĩa tư bản. Phần lớn mọi
người đều tin rằng thị trường sec không hoạt động nếu chỉ có một người duy nhất cung
cấp hàng hóa và dịch vụ vì họ sẽ không có động lực để tự hoàn thiện và đáp ứng tốt
nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên độc quyền vẫn sẽ tồn tại vì sẽ vẫn có nhu cầu về
loại hàng hóa, dịch vụ đó. Ví dụ như trên thị trường có sự độc quyền về mặt xăng dầu,
cho dù giá xăng có đắt và chất lượng không tốt thì chúng ta vẫn phải mua nó với mục
đích của mỗi người. Như việc cấp các bằng phát minh sáng chế, viêc đó sẽ tạo ra sự
độc quyền đối với sản phẩm trí tuệ đó trong một thời hạn nhất định. Tuy độc quyền
cũng có những ưu điểm trong một số lĩnh vực, nhưng nó có những tác động tiêu cực
đến nền kinh tế và gây thiệt hại cho xã hội nên chính phủ luôn nỗ lực để năng ngừa
độc quyền bằng các đạo luật chống độc quyền.
- Phân loại độc quyền:
+ Độc quyền hoàn toàn (thị trường độc quyền hoàn toàn)
+ Độc quyền nhóm (thị trường cạnh tranh không hoàn toàn)
2. Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng độc quyền
- Đạt được tính kinh tế của quy mô: chi phí bình quân dài hạn (LAC) sẽ giảm
xuống, dễ mở rộng sản lượng, dễ loại bỏ đối thủ, Một hãng mới muốn gia nhập kiể
thị trường này phải có quy mô sản xuất lớn để giữ cho chi phí của hãng thấp như chi
phí của hãng có quy mô lớn hay các hãng hiện đang hoạt động trên thị trường.
- Bằng phát minh sáng chế (bản quyền): những đạo luật, quy định về các bằng phát
minh, sáng chế khiến cho một người có thể nộp đơn và có được toàn quyền sản xuất
một hàng hóa nhất định, hoặc sản xuất một loại hàng hóa theo một quy trình đặc biệt
mà chính quy trình này sẽ tạo ra lợi thế về chi phí tuyệt đối.
Nhóm 12 - Lớp CDKT13DTH - 2 -

Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: Nguyễn Dụng Tuấn
- Kiểm soát các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất: một lý do quan trọng mà các
hãng có sức mạnh thị trường là nó kiểm soát được việc cung ứng các nguyên liệu thô.
Nếu một hãng (hoặc một vài hãng) kiểm soát tất cả các nguồn cung đã được biết đến
của một nguyên liệu cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa nhất định, thì hãng (hay các
hãng) có thể từ chối bán các nguyên liệu đó cho các hãng khác với một mức giá đủ
thấp để các hãng đó có thể cạnh tranh. Khi không một hãng nào có thể sản xuất sản
phẩm, độc quyền là kết quả tất yếu.
- Do quy định của chính phủ: việc cấp phép và quyền được phép kinh doanh là
những cách mà độc quyền được tạo ra bởi các quy định của chính phủ. Ví dụ những
giấy phép chính phủ cấp cho các trạm phát thanh và truyền hình, và chỉ những trạm có
giấy phép mới được phép hoạt động.
- Sự gia nhập hay sự gia nhập tiềm năng của các hãng mới vào thi trường có thể làm
suy yếu sức mạnh thị trường của các hãng đang hoạt động trên thị trường khi nó làm
tăng số lượng hàng hóa thay thế. Do vậy, như trong các trường hợp thông thường, một
hãng có thể có sức mạnh thị trường cao chỉ khi có những rào cản mạnh mẽ ngăn cản
sự gia nhập của các hãng mới. Rào cản lớn ngăn cản gia nhập thị trường sẽ cản trở
việc giới thiệu các sản phẩm mới, thay thế và bảo vệ lợi ích của các hãng đang hoạt
động trên thị trường.
- Sự trung thành với thương hiệu: xét về khía cạnh cầu, các hãng đang hoạt động có
thể xây dựng được, cùng với thời gian, lòng trung thành của khách hàng của họ. Các
hãng mới gia nhập sẽ phải rất khó khăn khi muốn vượt qua sự trung thành đó.
- Trói buộc người tiêu dùng: đối với nhiều hàng hóa và dịch vụ, người tiêu dùng có
thể thấy việc chuyển sang sử dụng các nhãn hiệu khác là rất tốn kém - cả chi phí cho
nhã hiệu đang sử dụng và nhãn hiệu mới. Một trong số những loại chi phí chuyển đổi
người tiêu dùng phải gánh chịu bao gồm những chi phí như chi phí cài đặt hay phí sử
dụng lần đầu, chi phí cho việc tìm kiếm để biết về sự sãn có và giá cả của các sản
phẩm thay thế, và chi phí để học cách sử dụng sản phẩm hoặc dịch vụ mới. Khi chi phí
chuyển đổi cao khiến cho việc thay đổi các quyết định tiêu dùng trước kia trở nên tốn
kém, các đối thủ không tin rằng họ có thể thuyết phục nhiều người tiêu dùng, nếu có,

tháy đổi quyết định tiêu dùng của họ, thì đó gọi là sự trói buộc người tiêu dùng. Việc
trói buộc người tiêu dùng có thể tạo ra một rào cản gia nhập cao, nhưng lợi nhuận độc
quyền cao sẽ tạo ra sự khuyến khích mạnh mẽ những người gia nhập tiềm năng tìm
Nhóm 12 - Lớp CDKT13DTH - 3 -
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: Nguyễn Dụng Tuấn
cách vượt qua rào cản hạn chế khả năng chuyển đối (trói buộc).
- Hiệu ứng mạng lưới: hiệu ứng mạng lưới có thể tạo ra khó khăn cho hãng mới gia
nhập thị trường khi mà những hãng đang hoạt động đó thiết lập được một mạng lưới
những khách hàng đông đảo. Hiệu ứng mạng lưới xảy ra khi giá trị một sản phẩm đối
với người tiêu dùng càng tăng khi số lượng người mua và sử dụng sản phẩm đó càng
nhiều.
3. Những đặc điểm của thị trường độc quyền
3.1.Thị trường độc quyền hoàn toàn
Chỉ có một người bán duy nhất và rất nhiều người mua. Do đó người bán có thể
ảnh hưởng đến giá bán bằng cách điều chỉnh lượng sản phẩm cung ứng. Trong thị
trường độc quyền không có đường cung, không có quan hệ một - một giữa giá cả và
sản lượng cung ứng, tuỳ theo mục tiêu của mình mà xí nghiệp độc quyền quyết định
mức giá và sản lượng bán ra.
Xí nghiệp độc quyền sản xuất ra một loại sản phẩm riêng biệt, không có sản
phẩm thay thế. Do đó, sự thay đổi giá cả của các sản phẩm kháckhông ảnh hưởng gì
đến giá cả và sản lượng của sản phẩm độc quyền,ngược lại giá cả và sản lượng độc
quyền cũng không ảnh hưởng tới giácả của các sản phẩm khác.
Trong thị trường độc quyền, lối gia nhập ngành hoàn toàn bị phong toả.Các rào
cản có thể là luật định, kinh tế, tự nhiên. Do đó tạo ra các dạng độc quyền:
 Độc quyền về tài nguyên chiến lược.
 Độc quyền về bằng phát minh sáng chế do nhà nhà nước bảo hộ. Các chính phủ
đều có chính sách bảo hộ các quyền này nhằm nhằm mục đích khuyến khích các phát
minh sáng chế. Đây là việc làm đúng, tuy nhiên hậu quả xấu của nó là làm phát sinh
độc quyền khai thác kỹ thuật sản xuất; công nghệ và kiểu dáng công nghiệp của sản
phẩm. Ngoài ra thời gian bảo hộ quyền sở hữu phát minh sáng chế cũng ảnh hưởng

đến tốc độ phát triển khoa học - kỹ thuật - công nghệ. Do vậy biện pháp tốt nhất ở đây
là phải dung hoà mục tiêu kích thích phát minh sáng chế và các hậu quả xấu nêu trên
bằng cách đưa ra một mức thời lượng thích hợp của việc bảo hộ các quyền nói trên.
 Độc quyền do luật định: Đây là dạng độc quyền được hình thành hầu hết không
vì lý do kinh tế đơn thuần. Chính phủ trong những trường hợp cụ thể có thể hình thành
các doanh nghiệp độc quyền nhằm thực hiện các mục tiêu về chính trị, văn hoá, hay
quản lý trật tự xã hội.
Nhóm 12 - Lớp CDKT13DTH - 4 -
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: Nguyễn Dụng Tuấn
 Độc quyền tự nhiên: có những ngành càng mở rộng qui mô càng hiệu quả, chi
phí trung bình càng giảm, do đó chỉ có một xí nghiệp hoạt độn glà có hiệu quả tạo ra
độc quyền tự nhiên.Chúng ta sẽ đi vào phân tích những vấn đề đặt ra đối với một
doanh nghiệp độc quyền và những biện pháp mà chính phủ có thể sử dụng để quản lý
và điều tiết độc quyền.
 Đặc điểm doanh nghiệp độc quyền hoàn toàn
Đường cầu của doanh ngiệp cũng đồng thời là đường cầu của thị trường. Do đó,
đường cầu này có dạng dốc xuống. Doanh nghiệp có khả năng rất lớn trong việc tác
động vào giá cả thị trường của các sản phẩm và có thể tác động bằng một trong hai
cách sau đây:
 Doanh nghiệp ấn định mức giá, sau đó thị trường (tức những người tiêu
thụ) sẽ quyết định mức sản lượng tiêu thụ.
 Doanh nghiệp ấn định mức sản lượng phải tiêu thụ, thị trường sẽ quyết
định mức giá mà doanh nghiệp có khả năng bán được hết sản lượng. Điều này được
minh hoạ bởi đồ thị sau:
Hình 1
Trên đồ thị, đường cầu (D) biểu diển đường cầu thị trường đồng thời là đườngcầu
của doanh nghiệp có dạng dốc xuống. Khi doanh nghiệp ấn định mức giá P
0
thị trường
sẽ chấp nhận tiêu thụ Q

0
sản phẩm. Ngược lại khi doanh nghiệpmuốn tiêu thụ hết Q
1
sản phẩm, nó phải chấp nhận mức giá là P
1
.
 Trong thị trường độc quyền không hình thành đường cung sản phẩm vì doanh
nghiệp toàn quyền quyết định mức cung theo các mục tiêu của mình. Nói đúng hơn,
Nhóm 12 - Lớp CDKT13DTH - 5 -
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: Nguyễn Dụng Tuấn
đường cung của thị trường đồng thời là đường cung của doanh nghiệp có dạng thẳng
đứng phản ánh mức sản lượng mà nó muốn cung ứng vì những mục tiêu đã xác định
trước.
 Doanh nghiệp hoàn toàn có đủ khả năng để đưa ra một chính sách giá cả thích
hợp nhằm thực hiện các mục tiêu riêng của doanh nghiệp. Ví dụ như mục tiêu lợi
nhuận, doanh thu, sản lượng… Tuy nhiên, dù là mục tiêu nào, doanh nghiệp cũng luôn
hướng đến lợi ích của riêng mình và điều đó thường dẫn đến những thiệt hại về lợi ích
của người tiêu dùng và xã hội. Hầu hết chúng ta ít nhiều không hài lòng khi tiếp xúc
với các sản phẩm độc quyền vì giá cả cao, vì thái độ phục vụ của người bán hàng…
Tuy nhiên sự tồn tại trong tình trạng độc quyền vẫn là hiển nhiên và có các lý do của
nó.
3.2. Thị trường độc quyền nhóm
Trong thị trường độc quyền nhóm chỉ có một số ít người bán, thị phầncủa mỗi xí
nghiệp là khá lớn và có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, nghĩa là khi một xí nghiệp tiến
hành chiến lược thay đổi giá cả, sản lượng, quảng cáo …ảnh hưởng bất lợi đến các xí
nghiệp còn lại, lập tức các xí nghiệp này sẽ phản ứng đối phó lại nhằm bảo vệ thị phần
của mình.
 Trên thị trường độc quyền nhóm, sản phẩm có thể là đồng nhất (thép, nhôm, xí
nghiệp măng, hóa đầu ) hay phân biệt (ngành sản xuất ôtô, thiết bị điện và máy tính)
và các sản phẩm có khả năng thay thế lẫn nhau.

 Các xí nghiệp mới (tiềm tàng) khó hoặc không thể gia nhập ngành vì có những
rào chắn lối vào như: độc quyền về bằng sáng chế hay quy trình công nghệ, có ưu thế
về qui mô lớn, uy tín tiếng tăm của các xí nghiệp hiện có …. Ngoài ra các xí nghiệp
lớn có thể tiến hành những chiến lược để ngăn chặn những xí nghiệp mới đi vào thị
trường bằng cách xây dựng khả năng sản xuất còn thừa, dọa sẽ bán phá giá và làm tràn
ngập thịtrường sản phẩm nếu có xí nghiệp mới gia nhập vào ngành.
 Đường cầu thị trường có thể thiết lập dễ dàng, nhưng rất khó thiết lập đường
cầu của từng xí nghiệp vì phải dự đoán chính xác lượng cầu thị trường và số lượng
cung ứng của các đối thủ ở mỗi mức giá, mới thiết lập được đường cầu sản phẩm của
xí nghiệp xác đáng.
 Phân lo ạ i th ị tr ườ ng
Quản lý một xí nghiệp độc quyền nhóm rất phức tạp, khó khăn, phải cẩn trọng
Nhóm 12 - Lớp CDKT13DTH - 6 -
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: Nguyễn Dụng Tuấn
xem xét và dự đoán chính xác các phản ứng đối phó hợp lí của các đối thủ cạnh tranh.
Khi xí nghiệp quyết định các chiến lược về giá cả, sản lượng, về chi tiêu cho quảng
cáo, về đầu tư mới … Đồng thời phải biết rằng các quyết định, các phản ứng đối phó
giữa các xí nghiệp đều năng động và tiến hóa theo thời gian.Có thể phân các xí nghiệp
độc quyền nhóm thành hai loại :
+ Các xí nghiệp độc quyền nhóm hợp tác với nhau: khi các xí nghiệp có thểthương
lượng với nhau và có những hợp đồng ràng buộc để đưa ranhững chiến lược chung.
+ Các xí nghiệp độc quyền nhóm không hợp tác: khi các xí nghiệp khôngliên lạc,
không thương lượng nhau, không có những hợp đồng ràng buộ cmà cạnh tranh với
nhau.
4. Tác động của độc quyền đến xã hội
4.1. Độc quyền hoàn toàn
Do tối đa hóa lợi nhuận nên doanh nghiệp độc quyền sẽ sản xuất hàng hóa ở mức
sản lượng mà tại đó chi phí biên bằng với doanh thu biên thay vì sản xuất ở mức sản
lượng mà ở đó giá sản phẩm bằng chi phí biên như trong thị trường cạnh tranh hoàn
hảo (cân bằng cung cầu). Khác với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nơi mà giá bán sản

phẩm không phụ thuộc vào số lượng sản phẩm do một doanh nghiệp sản xuất ra, trong
tình trạng độc quyền giá bán sẽ giảm xuống khi doanh nghiệp độc quyền tăng sản
lượng. Vì thế doanh thu biên sẽ nhỏ hơn giá bán sản phẩm và cứ một đơn vị sản phẩm
sản xuất thêm doanh nghiệp độc quyền sẽ thu thêm được một khoản tiền nhỏ hơn giá
bán sản phẩm đó. Điều này có nghĩa là nếu cứ sản xuất thêm sản phẩm thì doanh thu
thu thêm được không đủ bù đắp tổn thất do giá bán của tất cả sản phẩm giảm xuống.
Mặt khác, nếu áp dụng nguyên tắc biên của tính hiệu quả nghĩa là sản xuất sẽ đạt hiệu
quả khi lợi ích biên bằng chi phí biên, tất nhiên lợi ích biên và chi phí biên ở đây xét
trên góc độ xã hội chứ không phải đối với doanh nghiệp độc quyền ta thấy rằng: ở mức
sản lượng mà doanh nghiệp độc quyền sản xuất thì lợi ích biên (chính là đường cầu)
lớn hơn chi phí biên đồng nghĩa với tình trạng không hiệu quả. Tóm lại, doanh nghiệp
độc quyền sẽ sản xuất ở sản lượng thấp hơn và bán với giá cao hơn so với thị trường
cạnh tranh. Tổn thất mà xã hội phải gánh chịu do sản lượng giảm sút trừ đi tổng chi
phí biên để sản xuất ra phần sản lượng đáng lẽ nên được sản xuất ra thêm đó chính là
tổn thất do độc quyền.
Nhóm 12 - Lớp CDKT13DTH - 7 -
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: Nguyễn Dụng Tuấn
4.2. Độc quyền nhóm
Là một trạng thái thị trường mà ở đó chỉ tồn tại một người mua trong khi có
nhiều người bán (một số doanh nghiệp sản xuất toàn bộ hay hầu hết sản lượng thị
trường) . Khác với độc quyền hoàn toàn, trong trường hợp độc quyền nhóm, các doanh
nghiệp độc quyền sẽ gây sức ép để làm giảm giá mua sản phẩm từ những người bán.
Các doanh nghiệp độc quyền bán có thể đồng thời là độc quyền mua và trong trường
hợp này lợi nhuận siêu ngạch của nó rất lớn vì bán sản phẩm với giá cao hơn và mua
yếu tố đầu vào thấp hơn mức cân bằng của thị trường cạnh tranh. Các doanh nghiệp
độc quyền bán có điều kiện thuận lợi để trở thành độc quyền mua vì nó sản xuất ra sản
phẩm không có sản phẩm thay thế gần gũi và do đó một vài yếu tố đầu vào của nó có
thể là duy nhất, kể cả trong trường hợp yếu tố đầu vào không duy nhất thì doanh
nghiệp độc quyền bán cũng có khả năng chi phối mạnh giá các yếu tố đầu vào nếu nó
có quy mô lớn.

5. Phân tích sự can thiệp của chính phủ đến độc quyền tại Việt Nam
Dưới chế độ định giá độc quyền, các doanh nghiệp độc quyền vì lợi ích riêng có
thể gây ra thiệt hại cho xã hội khi đưa ra mức giá quá cao hoặc sản xuất một sản lượng
quá ít không đủ đáp ứng cho cầu thị trường. Do đó chính phủ cần phải can thiệp vào
thị trường này bằng các chính sách, các quy định dành cho doanh nghiệp độc quyền.
5.1. Độc quyền hoàn toàn
 Đánh giá về tình trạng độc quyền.
Độc quyền hoàn toàn có những ảnh hưởng không tốt đối với nền kinh tế. Trong
những ngành sản xuất những sản phẩm độc quyền có sự hạn chế về sản lượng và giá
cả cao. Trong cạnh tranh hoàn toàn, những xí nghiệp sản xuất theo qui mô sản xuất tối
ưu nên chi phí sản xuất thấp còn trong điều kiện độc quyền thì trái lại, do sử dụng quy
mô sản xuất không tối ưu nên chi phí sản xuấtcao hơn. Trên đồ thị dưới, nếu thị trường
là cạnh tranh hoàn toàn, đường cung và đường cầu của thị trường là S và D, giá cả và
sản lượng là P
1
và Q
1
. Nếu chỉ một xí nghiệp độc quyền cung cấp sản phẩm, thì đường
cung thị trường là đường chi phí biên MC của xí nghiệp độc quyền. Đường cầu của thị
trường là đường cầu đứng trước xí nghiệp độc quyền và đường doanh thu biên của xí
nghiệp độc quyền là đường MR nằm dưới đường D. Để đạt lợi nhuận tối đa xí nghiệp
độc quyền sản xuất ở Q
2
thoả điều kiện: MCT= MR, ấn định giá độc quyền là P
2
.
Nhóm 12 - Lớp CDKT13DTH - 8 -
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: Nguyễn Dụng Tuấn

Hình 2

Thặng dư tiêu dùng trong thị trường độc quyền giảm so với thị trường cạnh tranh
hoàn toàn là diện tích A và diện tích B, thặng dư sản xuất là phần diện tích A và giảm
diện tích C: ΔCS = - A - B
ΔPS = A – C
Phần thặng dư bị giảm so với trước là diện tích B và C và được gọi là tổn thấtvô
ích. Đây là lượng tổn thất do xí nghiệp độc quyền gây ra, là cái giá xã hội phải trả cho
thế lực độc quyền do giá bán độc quyền cao hơn giá cạnh tranh và sản lượng độc
quyền nhỏ hơn sản lượng cạnh tranh.Nhà độc quyền ngăn chặn sự gia nhập để bảo
đảm lợi nhuận độc quyền, do đócác yếu tố sản xuất không được sử dụng để sản xuất
sản phẩm đáp ứng nhu cầu. Như vậy, người tiêu dùng vừa phải trả giá cao hơn để mua
sản phẩm đồngthời nhu cầu được thoả mãn ít hơn khả năng thực sự. Ngoài ra, thị
trường độc quyền hoạt động kém hiệu quả hơn so với thị trường cạnh tranh hoàn toàn,
bởi vì xí nghiệp độc quyền luôn thiết lập được qui mô sản xuất tối ưu nên chi phí sản
xuất cao hơn thị trường cạnh tranh hoàn toàn. Lợi nhuận chỉ tập trung vào một số ít
người, tạo ra chênh lệch thu nhập ngày cànglớn giữa các thành phần dân cư.Xí nghiệp
độc quyền không có áp lực cạnh tranh để thúc đẩy đổi mới kỹ thuật, tuy nhiên có khả
năng tài chính dồi dào để đầu tư cho việc nghiên cứu và phát triển, cải tiến kỹ thuật và
công nghệ. Từ những phân tích trên, để điều tiết lợi nhận của nhà độc quyền và giảm
bớt những thiệt hại đối với người tiêu dùng và xã hội, nhà nước cần có những biện
pháp can thiệp như quy định mức giá tối đa, đánh thuế, đưa ra các luật chống độc
quyền.
 Định giá tối đa
Giá các sản phẩm độc quyền trên nền kinh tế thị trường thường chịu sự can thiệp
Nhóm 12 - Lớp CDKT13DTH - 9 -
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: Nguyễn Dụng Tuấn
của nhà nước. Thông thường, bằng việc xác định giá nhà nước muốn có được sản xuất
nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu xã hội. Tuy nhiên, giá cả như thế nào để người sản xuất
có thể cung cấp lượng sản phẩm nhiều nhất trong mối tương quan giữa chi phí và nhu
cầu tiêu thụ sản phẩm này.


Hình 3
Trước khi có sự can thiệp của nhà nước, đường cầu và đường doanh thu biên của
xí nghiệp là (D) và (MR) (như hình 6.25). Để tối đa hoá lợi nhuận, xí nghiệp độc
quyền sẽ sản xuất ở sản lượng Q
1
(tại Q
1
: MC = MR), ấn định giá bán là P
1
. Tổng lợi
nhuận là diện tích hình chữ nhật P
1
C
1
BA. Khi nhà nước ấn định giá tối đa là P
max
.
Nguyên tắc là giá tối đa phải thấp hơn giá độc quyền P
1
và cao hơn chi phí trung bình
AC, thường nhà nước qui định giá tối đa bằng chi phí biên P
max
= MC, đường cầu của
xí nghiệp trở thành đường gấp khúc P
max
CD, đường doanh thu biên tương ứng là
P
max
CFG (không liên tục tại Q
2

). Để tối đa hoá lợi nhuận, xí nghiệp độc quyền sẽ sản
xuất ở sản lượng Q
2
( tại Q
2
: MC = MR = P
max
). Tổng lợi nhuận đạt được là diện tích
P
max
C
2
EC. Như vậy, giá tối đa làm cho người tiêu dùng được lợi hơn so với trước, mua
được sản phẩm với giá thấp hơn và mua được số lượng sản phẩm nhiều hơn và lợi
nhuận độc quyền vẫn còn nhưng ít hơn so với trước. Tuy nhiên, chính sách giá tối đa
cũng có những giới hạn của nó. Vượt giới hạn này chính sách sẽ tạo ra những hậu quả
xấu. Giới hạn cao nhất của mức giá tối đa là mức giá cân bằng tự do của doanh nghiệp.
Giới hạn này bảo đảm tác dụng của chính sách. Giới hạn thấp nhất của giá tối đa là
Nhóm 12 - Lớp CDKT13DTH - 10 -
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: Nguyễn Dụng Tuấn
mức giá tại đó đường chi phí biên cắt đường cầu. Vi phạm giới hạn này, chính sách sẽ
tạo ra chênh lệch giá giữa mức giá nhà nước ấn định và mức giá thị trường chấp nhận.
Chênh lệch giá này là điều kiện để hình thành thị trường chợ đen.
 Đánh thuế.
Có hai cách đánh thuế là đánh thuế theo sản lượng và đánh thuế không theo sản lượng.
• Đánh thuế theo sản lượng.
Thuế theo sản lượng là một loại chi phí biến đổi. Trước khi có thuế điều kiện sản
xuất của xí ngiệp được thể hiện bằng đường AC
1
và MC

1
. Để tối đa hoá lợi nhuận, xí
nghiệp sẽ sản xuất ở mức sản lượng Q
1
, ấn định giá bán là P
1
, tổng lợi nhuận là diện
tích P
1
C
1
BA. Nếu thuế tính trên mỗi đơn vị sản phẩm là t đồng thì chi phí trung bình
và chi phí biên ở tất cả các mức sản lượng tăng thêm t.
Trên đồ thị đường AC và đường MC dịch chuyển lên trên một đoạn t thành các
đường AC
2
và MC
2
: AC
2
= AC
1
+ t.MC
2
= MC
1
+ t
Hình 4

Để tối đa hoá lợi nhuận, xí nghiệp sẽ sản xuất ở mức sản lượng Q

2
, tại đó MC
2
=
MR, ấn định giá bán là P
2
, tổng lợi nhuận là diện tích P
2
C
2
FE. Như vậy, sau khi có
thuế theo sản lượng người tiêu dùng bị thiệt vì giá bán tăng lên, sản lượng giảm xuống
so với trước khi có thuế. Lợi nhuận của xí nghiệp cũng bị giảm.
• Đánh thuế không theo sản lượng.
Thuế không theo sản lượng còn gọi là thuế khoán hay thuế cố định, nó là một
Nhóm 12 - Lớp CDKT13DTH - 11 -
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: Nguyễn Dụng Tuấn
loại chi phí cố định. Như trên, trước khi có thuế, chi phí sản xuất của xí nghiệp thể
hiện qua đường AC
1
và MC
1
, xí nghiệp sẽ sản xuất ở sản lượng Q
1
, ấn định giá bán là
P
1
, tổng lợi nhuận tối đa đạt được là diện tích P
1
C

1
BA.
Hình 5
Sau khi chính phủ khoán một mức thuế là T trong một đơn vị thời gian, thì chi
phí biên không đổi vẫn là MC
1
, còn chi phí trung bình tăng lên AC
2
(với AC
2
=AC
1
+
T/Q). Xí nghiệp sản xuất ở sản lượng Q
1
, giá bán vẫn là P
1
, tổnglợi nhuận là P
1
C
2
CA.
Như vậy, khi chính phủ áp dụng thuế khoán người tiêu dùng không bị ảnh hưởng vì
giá cả và sản lượng không thay đổi, nhưng lợi nhuận của xí nghiệp bị giảm xuống
đúng bằng khoản thuế (T).
5.2. Độc quyền nhóm
 Thi hành các chính sách chống độc quyền: chính phủ ban hành các đạo luật
nhằm ngăn ngừa một số hành vi dẫn đến độc quyền như các doanh nghiệp cấu kết với
nhau để nâng giá bán sản phẩm hay hạn chế một số cơ cấu thị trường nhất định.
 Khuyến khích cạnh tranh: chính phủ thi hành các chính sách khuyến khích cạnh

tranh bằng cách phá bỏ những rào cản để các doanh nghiệp mới dễ xâm nhập thị
trường hơn hoặc khuyến khích sự hình thành của các doanh nghiệp mới.
 Điều tiết việc định giá của các doanh nghiệp độc quyền: trái với các điều luật
chống độc quyền trong đó quy định các hành vi doanh nghiệp không được làm, chính
phủ có thể đề ra các quy định cưỡng chế doanh nghiệp phải định giá như thế nào. Đây
là biện pháp phổ biến để kiểm soát các công ty thuộc sở hữu nhà nước.
Nhóm 12 - Lớp CDKT13DTH - 12 -
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: Nguyễn Dụng Tuấn
 Kiểm soát giá cả đối với doanh nghiệp độc quyền: chính phủ quy định giá trần
để doanh nghiệp độc quyền bán sản phẩm ở mức giá của thị trường cạnh tranh nhằm
đạt mức sản lượng hiệu quả. Tuy nhiên biện pháp này có một khó khăn cơ bản là chính
phủ rất khó xác định mức giá của thị trường cạnh tranh và do vậy có thể dẫn đến tình
trạng khan hiếm hàng hóa khi mức giá trần quá bất hợp lý.
 Đánh thuế: việc sử dụng chính sách thuế có thể làm giảm bớt lợi nhuận siêu
ngạch của doanh nghiệp độc quyền, phân phối lại của cải xã hội. Thế nhưng trong thị
trường độc quyền gánh nặng thuế nói chung sẽ dồn vào người tiêu dùng nhiều hơn và
vì thế cần phải được áp dụng một cách hết sức thận trọng.
Nhóm 12 - Lớp CDKT13DTH - 13 -
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: Nguyễn Dụng Tuấn
KẾT LUẬN
Các doanh nghiệp trong các ngành cạnh tranh luôn chịu áp lực từ đối thủ. Điều
này yêu cầu các doanh nghiệp phải tăng cường hiệu quả để tồn tại. Nhưng các doanh
nghiệp độc quyền được bảo vệ bởi rào cản xâm nhập. Chính vì vậy, họ không chịu áp
lực đổi mới công nghệ, thậm chí chi phí sản xuất lớn hơn mức chi phí thấp có thể.
Trong tình trạng độc quyền, các doanh nghiệp mới rất khó xâm nhập vào thị trường
khiến kinh tế xã hội chậm phát triển. Tuy nhiên, độc quyền cũng có ưu điểm của nó
như cấp bằng phát minh sáng chế và chính phủ cũng đã có những chính sách, biện
pháp nhằm hạn chế và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh.
Nhóm 12 - Lớp CDKT13DTH - 14 -

×