ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong kinh doanh rừng làm sao rút ngắn được chu kỳ kinh doanh, nhanh
mang lại hiệu quả mà vẫn đảm bảo yêu cầu sinh thái và môi trường chính là mục
tiêu mà con người hướng tới. Hàng loạt các biện pháp được đưa ra thảo luận.
Từ xa xưa chọn giống cây trồng vẫn luôn là biện pháp đi đầu trong công
tác khôi phục, trồng, bảo vệ và phát triển rừng. Keo là một trong những loài cây
mọc nhanh nhất trong số các loài cây gỗ đang được sử dụng trồng rừng ở nước
ta hiện nay. Với đặc tính sinh trưởng nhanh, gỗ mềm dễ gia công chế biến là
nguồn nguyên liệu lớn cho các ngành công nghiệp như: công nghiệp sản xuất
giấy, chế biến ván nhân tạo, chế biến đồ mộc xuất khẩu, gỗ bao bì, gỗ xây
dựng Do đó, chu kỳ kinh doanh đã được rút ngắn dẫn đến hiệu quả kinh tế
không ngừng được nâng lên đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của con
người.
Xã Dũng Phong – Cao Phong – Hòa Bình là một trong những địa phương
đi đầu trong công tác trồng, bảo vệ và phát triển rừng cho chương trình trồng
mới 5 triệu ha rừng của Chính phủ và nhiều các dự án khác. Cây trồng chính ở
đây được chọn là Keo (bao gồm Keo tai tượng và Keo lai). Đây là hai loài có
biên độ sinh thái rộng, chúng có thể mọc được ở nơi có độ pH thấp, đất nghèo
dinh dưỡng, có khả năng cạnh tranh với nhiều loài cỏ dại, khả năng chống chịu
với điều kiện thời tiết bất lợi. Chính vì vậy, nó đã được đưa vào trồng phổ biến ở
cả rừng phòng hộ và rừng sản xuất. Thực tế công tác trồng rừng ở địa phương
cho thấy, phần lớn diện tích ở đây chủ yếu người dân tập trung vào sản xuất
nông nghiệp (nhất là cây mía) hình thức sản xuất độc canh đã làm cho đất ở khu
vực ngày càng trở nên thoái hóa; họ ít chú trọng đến sản xuất lâm nghiệp (do
chu kỳ kinh doanh dài, hiệu quả chưa được thống kê). Do vậy, diện tích rừng
trồng ở đây rất hạn chế. Vậy làm thế nào để nâng cao diện tích và hiệu quả rừng
trồng Keo mang lại đảm bảo mục tiêu lâu dài vẫn đang là một bài toán khó với
nhà nước, cán bộ và nhân dân nơi đây.
1
Chính vì lý do trên tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Bước đầu đánh giá
hiệu quả kinh tế mô hình rừng trồng Keo lai và Keo tai tượng tại xã Dũng
Phong, huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình” nhằm lựa chọn loài cây trồng phù
hợp và đem lại hiệu quả cao nhất phục vụ cho công tác trồng rừng ở địa phương.
Đồng thời làm cơ sở nâng cao độ che phủ của rừng, phủ xanh đất trống đồi núi
trọc, đem lại thu nhập, giải quyết công ăn việc làm cho người dân, đáp ứng nhu
cầu sản xuất gỗ của quốc gia.
2
Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chi Keo (Acacia) có khoảng 1200 loài mọc tự nhiên ở nhiều châu lục
nhưng nhiều nhất ở Australia với khoảng 850 loài. Trong vòng 30 – 40 năm gần
đây đã có hàng chục loài Keo được dẫn giống và gây trồng thành công với quy
mô lớn ở các nước nhiệt đới Châu Á, đặc biệt là các nước ở vùng Đông Nam Á.
Acacia được Philip Miller mô tả đầu tiên vào năm 1754 trên cơ sở loài
keo A. nilotica. Năm 1860 Willdenaw đã liệt kê 102 loài trong bảng phân loại.
Bentham (1942) đã xây dựng bảng phân loại cho 300 loài với 6 dãy. Trên cơ sở
đề xuất của Bentham (1875) và nhiều nhà phân loại khác, ngày nay chi Acacia
được chia thành 3 chi phụ là:
- Aciliferum Vasal,
- Haterophyllum Vasal,
- Acacia [13].
Nguyễn Hoàng Nghĩa (2003), khẳng định các loài Keo được du nhập vào
nước ta từ giữa thế kỷ trước. Ở nước ta hiện tại diện tích rừng trồng bạch đàn và
Keo khoảng 576.000 ha (Tổng cục thống kê, 2005) chiếm 46% tổng diện tích
rừng trồng tại Việt Nam (Nguyễn Huy Sơn và Đặng Thịnh Triều, 2004). Tổng
diện tích các rừng trồng Keo đã lên tới 400.000 ha gồm cả 150.000 ha Keo lai
(Hà Huy Thịnh, 2005).
1.1. Những nghiên cứu về Keo lai (Acacia mangium x Acacia auriculiformis)
1.1.1. Giới thiệu chung
Keo lai (Acacia mangium x Acacia auriculiformis) là giống lai tự nhiên
giữa Keo tai tượng (Acacia mangium Willd) và Keo lá tràm (Acacia
auriculiformis Cunn). Chúng được phát hiện tự nhiên ở Việt Nam, Thái Lan,
Malaysia, Indonesia, nam Trung Quốc và một số nơi vùng Châu Á – Thái Bình
Dương. Ở nước ta Keo lai mọc ở các khu vực rừng trồng hỗn loài Keo tai tượng
và Keo lá tràm, được phát hiện lần đầu tiên tại Ba Vì – Hà Nội (Lê Đình Khả,
3
1993) [8]. Khảo nghiệm tại trung tâm giống cây rừng đã xác định được một số
đặc điểm của Keo lai, nó mang nhiều ưu điểm của loài cây bố mẹ.
- Khả năng sinh trưởng, phát triển tốt thích nghi với điều kiện khí hậu
nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều ở nước ta.
- Keo lai mang đặc điểm trung gian giữa hai loài cây bố mẹ, có thân
thẳng, tròn, tán dày lá, kích thước lá trung bình (lá nhỏ hơn lá Keo tai tượng, lớn
hơn lá Keo lá tràm) lá có 4 gân chính, cây tỉa cành tự nhiên tốt.
- Là cây xanh quanh năm, tán lá khá dày, rễ có nhiều nốt sần Rhizobium
có khả năng cố định đạm, cây có khả năng sống trên các vùng đất đai nghèo kiệt
và khô hạn, do đó có thể trồng được trên đất khô và đất kiềm. Chính vì vậy, hiện
nay nó là một trong những loài cây chính được chọn trong công tác trồng rừng
để cải tạo đất phủ xanh đất trống, đồi trọc và chống xói mòn.
- Keo lai có tiềm năng bột giấy, làm nguyên liệu ván dăm và đóng đồ gia
dụng. Ngoài ra trồng Keo lai còn cung cấp chất đốt phục vụ cho cuộc sống con
người.
1.1.2. Trên thế giới
Keo lai được Messrs Hepbum và Shim phát hiện năm 1972 trong những
hàng cây trồng ven đường. Năm 1978 khi xem xét các mẫu tiêu bản thực vật ở
Queensland (Australia) Pedkey đã xác nhận đó là giống lai tự nhiên giữa Keo tai
tượng và Keo lá tràm. Ngoài ra nó cũng được phát hiện trong tự nhiên ở Papu
New Guinea (Turn bull, 1986; Grinfin, 1988), dẫn theo Lê Đình Khả (1997) [6].
Theo Rufels (1987), cho thấy tại miền Bắc Sabal – Malaisia Keo lai xuất
hiện tại rừng Keo tai tượng 3 – 4 cây/ha; còn Wong thì thấy xuất hiện tỷ lệ 1/500
cây.
Tại Thái Lan (Kij Kar, 1992), Keo lai được tìm thấy ở vườn ươm Keo tai
tượng (lấy giống từ Malaisia) tại trạm nghiên cứu Jon – pu của Viện nghiên cứu
Lâm nghiệp Đài Loan (Kiang Tao et al, 1989). Trong giai đoạn vườn ươm Keo
lai hình thành lá giả (Phylod) sớm hơn Keo tai tượng và muộn hơn Keo lá tràm,
dẫn theo Lê Đình Khả (1997) [6].
4
Năm 1992 ở Indonesia, bắt đầu có thí nghiệm trồng Keo lai bằng cây con
được nhân giống từ nuôi cây mô phân sinh cùng Keo tai tượng và Keo lá tràm
(Umbohetal,1993) [23].
Brown & Pearce (1994) [21], đưa ra các số liệu đánh trữ lượng Carbon và
lượng phát thải từ rừng nhiệt đới. Nghiên cứu cho rằng trữ lượng Carbon của
1ha rừng nguyên sinh là khoảng 280 tấn và nó sẽ phát thải 200 tấn Carbon nếu
bị chuyển thành đất nương rẫy và lượng phát thải sẽ cao hơn nếu bị chuyển
thành đất đồng cỏ hay đất nông nghiệp. Rừng trồng có thể hấp thụ khoảng 115
tấn Carbon và trữ lượng Carbon của rừng sẽ giảm từ 1/3 – 1/4 khi rừng chuyển
sang đất canh tác nông nghiệp.
Trên thế giới con người vẫn đang tiếp tục nghiên cứu nhất là trong việc
định giá rừng nhằm giải quyết vấn đề toàn cầu đó là sự biến đổi khí hậu đang
gây ra những hậu quả không thể đoán trước được.
1.1.3. Ở Việt Nam
Tại Việt nam, Keo lai xuất hiện lác đác một số nơi ở Nam Bộ như Tân
Tạo, Trảng Bom, Song Mây và ở Ba Vì (Hà Nội), Phú Thọ, Hòa Bình và Tuyên
Quang….(Lê Đình Khả, 1999) [7]. Những cây lai này đã xuất hiện trong rừng
Keo tai tượng với những tỷ lệ khác nhau. Ở các tỉnh Miền Nam là 3 – 4%, còn ở
Ba Vì là 4 – 5%. Riêng giống lai tự nhiên tại Ba Vì được xác định là Acacia
mangium (xuất xứ Daitree thuộc bang Queensland) với Acacia auriculiformis
(xuất xứ Darwin thuộc bang Northern Territoria) của Australia.
Keo lai được phát hiện và khảo nghiệm đợt 1 từ năm 1993 – 1995, đến
năm 1996 Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng đã phối hợp với các đơn vị
khác tiếp tục nghiên cứu về Keo lai. Các nghiên cứu này là chọn lọc thêm các
cây trội Keo lai tự nhiên, xây dựng khảo nghiệm các dòng vô tính, tiến hành
đánh giá tiềm năng bột giấy của Keo lai cũng như tiến hành khảo nghiệm các
dòng Keo lai được chọn ở các vùng sinh thái khác nhau (Lê Đình Khả, Phạm
Văn Tuấn, Nguyễn Văn Thảo và các cộng sự, 1999; Lê Đình Khả, 1999) [7].
Kết quả cho thấy Keo lai có ưu thế lai rõ rệt về sinh trưởng so với Keo tai tượng
và Keo lá tràm và có nhiều đặc điểm hình thái trung gian giữa hai loài này. Khi
5
cắt cây để tạo chồi thì Keo lai cho rất nhiều chồi (trung bình 289 hom/gốc). Các
hom này có tỷ lệ ra rễ trung bình 47% trong đó có 11 dòng cho ra rễ từ 57 –
85%. Sai khác giữa các dòng về sinh trưởng là khá rõ. Một số dòng sinh trưởng
rất nhanh nhưng các chỉ tiêu về chất lượng lại không đạt yêu cầu, một số dòng
vô tính vừa sinh trưởng nhanh lại vừa có chất lượng rất tốt có thể nhân giống
nhanh và số lượng nhiều đưa vào sản xuất như các dòng BV5, BV10, BV16,
BV29, BV32.
Giá trị sử dụng về tiềm năng bột giấy cây Keo lai đã được Lê Đình Khả,
Lê Quang Phúc (1995 - 1999) [9] nghiên cứu cho thấy: Keo lai có tỷ trọng gỗ
trung gian giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm, tỷ trọng gỗ của Keo lai trung bình
khoảng 0,455 g/cm
3
ở giai đoạn 4 tuổi, trong khi đó Keo tai tượng là 0,414 cm
3
,
Keo lá tràm là 0,469 cm
3
. Giấy được sản xuất từ các dòng Keo lai được chọn có
độ dai và độ chịu gấp cao hơn rõ rệt so với 2 loài Keo bố mẹ.
Khảo nghiệm một số dòng vô tính mới được chọn 1996 ở (Cẩm Quỳ) đã
xây dựng ngay tại nơi chọn lọc cây mẹ. Nguồn Keo lai được lựa chọn là từ các
rừng Keo tai tượng được lấy giống từ Đồng Nai, thấy nổi lên một số nét chính
các cây trội Keo lai mới được chọn mặc dù ban đầu khá lớn, song qua khảo
nghiệm đều thấy sinh trưởng kém hơn các dòng Keo lai cũ là BV5, BV10.
Trong 14 dòng được đưa vào khảo nghiệm có 10 dòng vượt các loài Keo có bố
mẹ được trồng làm đối chứng. Trong đó có 8 dòng có độ vượt lớn hơn 25% so
với các loài cây bố mẹ (Lê Đình Khả và các cộng sự, 1997 – 1999). Hệ số biến
động về đường kính và chiều cao của Keo lai cũng luôn nhỏ hơn Keo tai tượng
và Keo lá tràm, nghĩa là Keo lai có ưu điểm đường kính và chiều cao đồng đều
hơn Keo tai tượng (Lê Đình Khả và các cộng sự, 1997) [6].
Thời vụ giâm và nồng độ các chất kích thích ra rễ cũng được Phạm Văn
Tuấn, Lưu Bá Thịnh, Phạm Văn Chiến tiến hành khảo nghiệm trên loài này, thời
gian khảo nghiệm qua các năm (1995, 1998, 1999) [8]. Kết quả cho thấy hom
chồi ra rễ cao nhất được giâm hom từ tháng 5 – 7 và xử lý bằng IBA dạng bột
nồng độ 0,7 và 1%; trong đó các cá thể Keo lai khác nhau có tỷ lệ ra rễ khác
nhau. Đồng thời khảo nghiệm còn cho thấy các dòng Keo lai có sinh trưởng
6
nhanh hơn Keo lá tràm và Keo tai tượng từ đó chọn được các dòng BV3, BV5,
BV6, BV12 có sinh trưởng nhanh để nhân giống đại trà cho rừng trồng sản xuất
ở Đông Nam Bộ và các địa phương có lập địa tương tự.
Nghiên cứu khả năng cải tạo đất của Keo lai và hai loài bố mẹ của Lê
Đình Khả, Ngô Đình Quế, Nguyễn Đình Hải (1999) [7] cho thấy ở giai đoạn
vườn ươm 3 tháng tuổi các dòng Keo lai đã được lựa chọn có số lượng nốt sần
từ 39,9 – 80,3 cái/cây, gấp 2,5 – 13 lần các loài bố mẹ. Khối lượng tươi của các
nốt sần ở các dòng Keo lai từ 0,39 – 0,47 g/cây, trong khi đó của các loài bố mẹ
là 0,075 – 0,15 g/cây. Còn khối lượng khô các nốt sần ở các dòng Keo lai là 0,08
– 0,13 g/cây, gấp 5 – 12 lần các loài Keo bố mẹ (0,011 – 0,017 g/cây).
Nghiên cứu khả năng chịu hạn của một số dòng Keo lai được lựa chọn tại
Ba Vì, Lê Đình Khả, Đoàn Thị Mai, Nguyễn Thiên Hương (1999) [7] trong các
dòng Keo lai được lựa chọn có sự khác nhau về cường độ thoát hơi nước, áp
suất thẩm thấu, độ ẩm cây héo và thể hiện tính chịu hạn cao hơn bố mẹ. Trong
đó dòng BV32 có sức chịu hạn khá nhất, tiếp theo là các dòng BV5, BV10,
BV16.
Các dòng Keo lai tốt nhất thể hiện tính ưu trội về sinh trưởng hơn nhiều
hai loài bố mẹ và trong tất cả các khảo nghiệm tại vùng thấp miền Bắc, miền
Trung và miền Nam. Trong hầu hết các điều kiện lập địa phù hợp tại miền Nam
và miền Trung, thâm canh cao các dòng Keo lai có thể đạt tăng trưởng MAI từ
35 – 40 m
3
/ha/năm sau luân kỳ kinh doanh 5 – 7 năm (Lê Đình Khả, 2001) [10].
Nghiên cứu của Đoàn Ngọc Dao (2003) [2] cho thấy khảo nghiệm tại Ba
Vì (Hà Nội) ở phương thức thâm canh Keo lai 78 tháng tuổi chiều cao vút ngọn
trung bình 15m, đường kính trung bình D
1.3
là 14,3cm, thể tích thân cây Keo lai
đạt 172,2 dm
3
/cây gấp 1,42 – 1,48 lần Keo tai tượng và gấp 5,6 – 10,5 lần thể
tích Keo lá tràm. Khảo nghiệm tại Bình Thanh (Hòa Bình) ở công thức thâm
canh 7 tuổi chiều cao trung bình Keo lai là 22,3m, đường kính trung bình D
1.3
là
20,7cm, ở công thức quảng canh Keo lai có chiều cao 22,9m, đường kính D
1.3
là
19,3cm, thể tích thân cây Keo lai đạt 383,1 dm
3
/cây ở công thức thâm canh, còn
thể tích thân cây công thức quảng canh là 344,2 dm
3
/cây.
7
Khảo nghiệm tại Đại Lải (Vĩnh Phúc) ở đất đồi lateritic nghèo dinh
dưỡng, mùa đông lạnh sau 6 năm tuổi ở công thức thâm canh H
vn
trung bình đạt
15,5m; D
1.3
trung bình 11,7cm; thể tích thân cây đạt 86,2 dm
3
/cây, còn thể tích
thân cây Keo tai tượng là 16,2 – 31,3 dm
3
/cây. Khảo nghiệm tại Long Thành
(Đồng Nai) ở giai đoạn 5 tuổi Hvn trung bình đạt 21,6m, D
1.3
đạt 13,6cm, thể
tích thân cây là 189,7 dm
3
/cây.
Để đánh giá sản lượng rừng trồng Keo lai, Phạm Thế Dũng và Hồ Quang
Phúc (2004) [4] tiến hành nghiên cứu trên các lập địa khác nhau và thấy rằng
Keo lai cho năng suất tương đối cao, cao nhất là 33 m
3
/năm (bình quân 7 năm)
trên đất feralit đỏ vàng trên sa thạch ở trạm Phú Bình và thấp nhất 25 m
3
/năm
(bình quân sau 6 năm), trên đất xám phù sa cổ ở trạm Bàu Bàng.
Nghiên cứu công nghệ uốn gỗ keo lai tạo chi tiết cong cho đồ mộc xác
định được khả năng uốn gỗ của keo lai là 1/6 và xây dựng được quy trình công
nghệ uốn gỗ cong có kích thước: chiều dày 25mm, chiều rộng 30mm, với bán
kính R = 200mm tương đương với tỷ số uốn là 1/8 [15].
Vũ Tấn Phương, Nguyễn Viết Xuân (2008) [17], khi nghiên cứu xây dựng
mô hình tính toán Carbon trong rừng Keo lai đưa ra kết quả: Sinh khối và trữ
lượng Carbon trong rừng trồng Keo lai tỷ lệ thuận với tuổi rừng và sinh trưởng
rừng, cao nhất ở miền Nam, tiếp đến là miền Trung và thấp nhất là ở miền Bắc.
Lượng Carbon do rừng Keo lai hấp thụ Từ 7 – 10 tấn Carbon/ha/năm (tương
đương với 26 – 36 tấn CO
2
/ha/năm).
Như vậy, ở nước ta những nghiên cứu về Keo lai cũng đang dần đáp ứng
được khả năng mở rộng gây trồng của loài này trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên
hiện nay hòa chung với tình hình của thế giới các nhà khoa học Việt Nam vẫn
đang tiếp tục nghiên cứu nhằm phát triển, mở rộng và ổn định để đưa loài cây
này lên một tầm cao mới.
1.2. Những nghiên cứu về Keo tai tượng (Acacia mangium)
1.2.1. Đặc điểm chung
Keo tai tượng (Acacia magium Wild) thuộc họ đậu (Fabacea) họ phụ trinh
nữ (Minosacea), là cây gỗ nhỡ, lá rộng thường xanh, mọc nhanh, chiều cao có
8
thể tới 30m, đường kính đạt 60cm. Đời sống của Keo tai tượng khoảng từ 30 –
50 năm. Chúng phân bố tự nhiên ở một số nơi thuộc Queensland (Australia) là
vùng duyên hải thấp với độ cao từ mực nước biển dưới 800m. Keo tai tượng còn
phân bố kéo dài tới các tỉnh miền tây Papua New Guinea (Western Province) và
tỉnh Irian Taya thuộc Indonesia (Awang and Taylor, 1993). Vùng sinh thái Keo
tai tượng thường là nhiệt đới ẩm, với mùa khô ngắn (4 – 6 tháng), lượng mưa
trung bình từ 1446 – 2970mm. Nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất là 13 – 21
o
C,
nhiệt độ trung bình tháng cao nhất trung bình từ 25 – 32
o
C. Cây có thể sinh
trưởng thích hợp ở những nơi có biên độ pH từ 4,5 – 6,5. Cây từ 4 tuổi có thể
bắt đầu cho hạt, vỏ hạt cứng do vậy có thể bảo quản trong vài năm. Hiện nay
Keo tai tượng đã được trồng rất phổ biến với nhiều phương thức trồng khác
nhau như: hạt, hom, nuôi cấy mô…
1.2.2. Trên thế giới
Từ năm 1980, các loài Keo đã được đưa vào thử nghiệm ở nhiều nước vì
những khả năng tốt của chúng, nhất là khả năng cải tạo đất, chống xói mòn,
năng suất cao. Khảo nghiệm ở Philippin với 7 loài, cho thấy Keo tai tượng có
chiều cao đứng thứ 3 ở cả hai điểm thí nghiệm (HaVmoller, 1989, 1991) [23].
Năm 1986, trên đảo Hải Nam Trung Quốc, một khảo nghiệm với 20 xuất
xứ của 8 loài Keo đã được thực hiện, ở tuổi thứ 2, thứ tự xếp hạng của các xuất
xứ như sau (Minquan, Ziayu and Yutian, 1989).
Loài Xuất xứ H
vn
(m) D
1,3
(cm)
A.crassicarpa Orioma RiVer 6,0 7,8
A.crasicarpa Weroi Wimpim 5,7 8,0
A.auriculifosmis IoKWa 5,3 7,8
A.aulacocarpa Orioma RiVer 4,9 6,9
A.crascarpa Shoteel la 4,7 7,4
15 xuất xứ còn lại, bao gồm các xuất xứ Keo lá tràm, Keo tai tượng,
A.cincinnata, A.melanoxylon, A.oraria, A.confusa, như vậy Keo tai tượng không
nằm trong nhóm loài và xuất xứ dẫn đầu, tức là sau 2 tuổi sinh trưởng D <
7,4cm, H < 4,7m.
9
R.pasad (1992) [24], nghiên cứu sinh trưởng của loài Keo và một số các
loại cây khác trên các loại đất hoang hóa tại nhiều khu vực khác nhau ở Ấn Độ,
kết quả khẳng định được tính trội về khả năng chịu hạn của một số loài Keo sinh
trưởng trên đất bạc màu như: A.Leptocarpa, A.Torulosa, A.LongisPicata.
1.2.3. Ở Việt Nam
Keo tai tượng được đưa vào miền Bắc nước ta từ năm 1981 (Bộ lâm
nghiệp, 1990). Là một trong những loài cây chủ yếu được giới thiệu để trồng
rừng thâm canh ở các vùng đất thấp của khu vực nhiệt đới ẩm. Ở Việt Nam, nhất
là các tỉnh phía Nam Keo tai tượng chiếm một tỷ trọng khá lớn và có rất nhiều
những nghiên cứu cụ thể về loài này.
Trong công tác chọn giống, nhiều xuất xứ Keo tai tượng đã được khảo
nghiệm. Theo Giang Văn Thắng (1995) [19] với mật độ 1250 cây/ha, lượng tăng
trưởng Keo tai tượng đạt cao nhất và cho trữ lượng cao nhất.
Nghiên cứu về tăng trưởng của rừng Keo tai tượng, Ngô Đình Quế và Đỗ
Đình Sâm (1998) [18] cho rằng Keo tai tượng ở Đông Nam Bộ cho tăng trưởng
đường kính từ 2,7 – 3,2 cm/năm và chiều cao có thể đạt được 3,0 – 3,5 m/năm.
Hà Quang Khải (1999) [11], nghiên cứu quan hệ sinh trưởng và tính chất
đất của Keo tai tượng trồng thuần loài tại Núi Luốt, Xuân Mai – Hà Tây, kết quả
Keo tai tượng 8 tuổi trồng thuần loài trên đất feralit nâu vàng, đá mẹ Poocphyrit
tại Núi Luốt, Xuân Mai – Hà Tây đạt các chỉ tiêu sinh trưởng D
1.3
= 12,6cm, H
vn
= 12,7m. Dưới rừng Keo tai tượng, đất xung quanh rễ ở vùng gần gốc và vùng
xa gốc có sự khác nhau, trong 13 chỉ tiêu nghiên cứu, thì 10 chỉ tiêu khác biệt về
trị số giữa vùng xa gốc và vùng gần gốc. Những chỉ tiêu sinh trưởng H
vn
, D
1.3
có
tương quan với các chỉ tiêu độ phì của đất trong khu vực nghiên cứu một cách
tổng hợp chứ không phải riêng lẻ từng chỉ tiêu một. Chỉ tiêu D
1.3
của Keo tai
tượng có tương quan với những tính chất đất chặt hơn so với H
vn
.
Nghiên cứu các loài sâu có ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng rừng Keo tai
tượng, Nguyễn Thế Nhã (2001) [16], thống kê có tới 30 loài sâu thuộc 14 họ và
3 bộ ăn lá Keo tai tượng. Trong các bệnh hại Keo tai tượng thì bệnh có ảnh
10
hưởng nghiêm trọng gây hậu quả lớn nhất là bệnh phấn hồng gây ra tỷ lệ cụt
ngọn 92%, tỷ lệ cây chết 15 – 20%.
Trong công trình nghiên cứu chọn giống và nhân giống cho một số loài
cây trồng rừng ở Việt Nam (Lê Đình Khả và cộng tác viên, 2003) [10] đã kết
luận Keo tai tượng sinh trưởng nhanh hơn Keo lá tràm, Keo nâu, Keo xoắn. Tuy
nhiên, chúng cũng chỉ có thể sinh trưởng nhanh ở một số vùng nhất định.
Nghiên cứu về khả năng tái sinh tự nhiên của rừng Keo tai tượng, Nguyễn
Quang Dương (2007) [5] đã thu được kết quả như sau: sau 10 năm sinh trưởng
đường kính D
1.3
đạt 18,7cm, chiều cao vút ngọn (Hvn) đạt 13,3m, đường kính
tán (D
t
) đạt 4,2m, số lượng quả trên một cây là 650 quả, số lượng hạt bình quân
trên 1 quả là 5,9 hạt trong đó 80% hạt có chất lượng tốt, sản lượng hạt giống trên
một cây là 0,052 kg/cây. Như vậy, khả năng tái sinh của loài này là rất lớn. Đây
là một trong những điểm mấu chốt quan trọng để có thể áp dụng các biện pháp
thúc đẩy quá trình tái sinh tự nhiên của chúng.
Mật độ trồng rừng có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh trưởng, khả
năng cải tạo đất, khả năng lợi dụng không gian dinh dưỡng của một cây. Vấn đề
này đã được Trần Hữu Chiến nghiên cứu tại trạm Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang
trên đối tượng là loài Keo tai tượng thuần loài (7 tuổi). Kết quả cho thấy ở mật
độ 1250 cây/ha D
1.3
đạt 14,6cm, H
vn
đạt 16,3m, trữ lượng đạt 171,2 m
3
/ha; còn ở
mật độ 2000 cây/ha trữ lượng đạt 168 m
3
/ha và trữ lượng ở mật độ 1250 cây chỉ
đạt 157,9 m
3
/ha [1].
Để đánh giá khả năng cải tạo môi trường rừng trồng, Phạm Ngọc Mậu
(2007) [12] đã tiến hành theo phương pháp trọng số điểm 100 với Keo tai tượng
trồng tại Đoan Hùng, Phú Thọ 8 tuổi kết quả đạt được 87 điểm, nghĩa là rừng
trồng này có ảnh hưởng tốt tới môi trường.
Những nghiên cứu này đã và đang từng ngày, từng giờ góp phần vào thúc
đẩy quá trình chọn giống, trồng, chăm sóc thúc đẩy quá trình trồng rừng trên
khắp cả nước tạo ra những quả đồi xanh trù phú, đóng góp vào hoàn thành
nhiệm vụ, kế hoạch chung của quốc gia.
11
1.3. Nghiên cứu đánh giá hiệu quả rừng trồng Keo lai và Keo tai tượng
Khi nghiên cứu về phương diện kinh tế của rừng trồng cũng được nhiều
người quan tâm. Theo CAB.International for Asia, từ năm 1939 đến năm 1995
có 48 công trình đánh giá hiệu quả kinh tế trong Lâm nghiệp, trong đó có 9 công
trình đánh giá hiệu quả kinh tế của rừng trồng và chủ yếu tập trung đánh giá
hiệu quả của các biện pháp kỹ thuật lâm sinh.
HansM - Gregersen và AmldoH. Contresal (1979) [22], trong cuốn “Phân
tích kinh tế các dự án trong Lâm nghiệp” đã đưa ra các phương án tính hiệu quả
kinh tế rừng trồng với các nội dung cơ bản về lãi suất, cơ sở tính lãi suất, các chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, vấn đề trồng rừng và kinh doanh
rừng trồng ngày càng được quan tâm. Bên cạnh những cây bản địa được gây
trồng thành công, như Mỡ, Tre, Luồng, Thông nhựa… thì một số cây mọc nhanh
như Keo, Bạch đàn, với nhiều xuất xứ cũng được tham gia vào cơ cấu cây trồng
trong Lâm nghiệp.
Về dự tính hiệu quả kinh tế cho 1 ha rừng trồng Keo tai tượng theo các
mật độ nghiên cứu với chu kỳ kinh doanh là 7 năm tại Hàm Yên, Tuyên Quang
[22], đều có khả năng sinh lời. Mật độ trồng rừng 1250 cây/ha có hiệu quả kinh
tế cao nhất có giá trị hiện tại thuần NPV = 10.369.548 đồng, tỷ lệ thu nhập trên
chi phí BCR = 2,37; tỷ lê thu hồi vốn nội bộ IRR = 15,14%.
Theo Nguyễn Văn Thắng, Ngô Đình Quế (2008) [20] về phân hạng đất
cấp vi mô cho trồng rừng Keo tai tượng cho thấy:
+ Rừng trên hạng đất 1: Cho doanh thu trung bình xấp xỉ 34.400.000
đồng/ha, lợi nhuận dòng trung bình là 2.500.000 đồng/ha/năm, tỷ lệ hoàn vốn
IRR là 5,23%, hiệu suất đầu tư là 2,46 lần và số năm hoàn vốn là 4,32 năm,
nghĩa là sau 4 năm trồng rừng có thể hoàn vốn đầu tư ban đầu và bắt đầu có
lãi.
+ Rừng trên hạng đất 2: Doanh thu là 24.700.000 đồng/ha, lợi nhuận dòng
là 1.670.000 đồng/ha/năm, tỷ lệ hoàn vốn là 15,3% và hiệu suất đầu tư là 2,2
lần.
12
+ Rừng trên hạng đất 3 và 4: Các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận dòng, tỷ lệ
hoàn vốn và hiệu suất đầu tư đều giảm so với rừng trên hạng đất 1 và 2.
Nghiên cứu và đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội của việc trồng Keo lai
làm nguyên liệu giấy tại Đăk Lăk và Đăk Nông, Đặng Văn Dung (2008) [3] cho
thấy lượng tăng trưởng bình quân năm đạt 21,39 – 30,77 m
3
/ha/năm. Sau 6 năm
trữ lượng rừng Keo lai đạt bình quân từ 128,36 – 184,66 m
3
/ha cho lợi nhuận từ
14.832.098 – 32.124.063 đồng/ha.
Tóm lại, Keo tai tượng và Keo lai đóng vai trò quan trọng trong công tác
trồng rừng. Với chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng trong đó có 3 triệu ha
rừng sản xuất thì Keo tai tượng và Keo lai là một trong số ít loài hiện đang được
chọn làm cây trồng với quy mô lớn. Những nghiên cứu về hai loài cây này
tương đối phong phú, được tiến hành trên các điều kiện khác nhau và ở mỗi điều
kiện cho kết quả khác nhau. Tuy nhiên, những nghiên cứu cụ thể nhằm có được
cơ sở khoa học cũng như thực tế để phát triển rừng Keo tại khu vực xã Dũng
Phong là chưa có. Vì vậy nghiên cứu về hiệu quả rừng trồng hai loài Keo này là
thực tế cần thiết hiện nay.
13
Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu chung
Đánh giá được hiệu quả của mô hình rừng trồng Keo lai và Keo tai tượng
tại xã Dũng Phong, huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình nhằm lựa chọn loài cây
trồng phù hợp và đem lại hiệu quả cao nhất phục vụ cho công tác trồng rừng ở
địa phương.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được sinh trưởng của Keo lai và Keo tai tượng trồng tại khu
vực nghiên cứu.
- Đánh giá được chất lượng của các mô hình.
- Đánh giá được trữ lượng của các mô hình.
- Bước đầu đánh giá được hiệu quả kinh tế của mô hình rừng trồng Keo
lai và Keo tai tượng tại xã Dũng Phong, huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Rừng trồng Keo tai tượng (Acacia mangium) và Keo lai (Acacia mangium
x Acacia auriculiformic) thuần loài, đều tuổi (4 tuổi) tại xã Dũng Phong, huyện
Cao Phong, tỉnh Hòa Bình.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu hai mô hình rừng trồng là Keo lai và
Keo tai tượng tại khu vực xã Dũng Phong, huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình.
Trên hai mô hình đó thực hiện nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh trưởng, dự
đoán trữ lượng và tính toán hiệu quả kinh tế.
2.4. Nội dung nghiên cứu
- Điều tra một số chỉ tiêu sinh trưởng của Keo lai và Keo tai tượng.
+ Sinh trưởng đường kính thân cây (D
1.3
).
+ Sinh trưởng chiều cao vút ngọn (H
vn
).
+ Sinh trưởng đường kính tán cây (D
t
).
14
- Đánh giá và dự tính trữ lượng rừng trồng của hai mô hình rừng trồng
keo.
- So sánh chất lượng rừng trồng Keo lai và Keo tai tượng.
- Bước đầu đánh giá hiệu quả kinh tế của hai mô hình rừng trồng Keo lai
và Keo tai tượng.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Quan điểm và phương pháp luận
Thực chất đánh giá hiệu quả ở đây nhằm thúc đẩy quá trình trồng rừng,
phục vụ vào mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. Đồng thời góp phần vào
gìn giữ giá trị sinh thái, môi trường của địa phương; nhất là cải tạo và bảo vệ
diện tích đất canh tác nông nghiệp đang bị thoái hóa nghiêm trọng. Công việc đó
tiến hành thông qua đánh giá các chỉ tiêu sinh trưởng, dự đoán trữ lượng từ đó
tính năng suất thu được sau một chu kỳ kinh doanh.
Hiệu quả không chỉ xét riêng về mặt đem lại thu nhập trước mắt, hơn thế
nữa trồng rừng chính là biện pháp kinh doanh lâu dài đảm bảo ổn định cuộc
sống của người dân. Phần lớn những diện tích khó canh tác không thể làm nông
nghiệp, đất đai bị bỏ hoang đều có thể đưa vào sử dụng cho mục đích lâm
nghiệp. Đây chính là điểm nhấn tạo tiền đề cho quá trình trồng rừng phát triển.
Tiến trình nghiên cứu được thể hiện theo sơ đồ sau:
15
Khung phân tích nghiên cứu
So Sánh
Đánh giá hiệu quả kinh tế
của hai mô hình rừng
Tính toán trữ lượng ở thời điểm
hiện tại và dự đoán trữ lượng ở
cuối chu kỳ kinh doanh
Đề xuất khuyến nghị
16
Thu thập thông tin và tài
liệu đã có
Đánh giá sinh trưởng và
năng suất rừng Keo tai
tượng
Đánh giá sinh trưởng và
năng suất rừng Keo lai
Xử lý thông tin đã thu thập
2.5.2. Phương pháp kế thừa số liệu
- Các tài liệu về điều kiện tự nhiên, dân sinh – kinh tế xã hội.
- Lịch sử rừng trồng của các mô hình Keo tai tượng và Keo lai.
- Bản đồ hiện trạng, các tài liệu khác có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
2.5.3. Phương pháp thu thập số liệu
Toàn bộ số liệu được thu thập theo phương pháp điều tra lâm học.
Bước 1: Điều tra sơ bộ
Khảo sát toàn bộ đối tượng nghiên cứu thông qua đó đánh giá sơ bộ về sự
sinh trưởng của đối tượng nghiên cứu và lựa chọn các OTC.
Bước 2: Điều tra ô tiêu chuẩn
Ở mỗi mô hình rừng trồng tiến hành lập 3 OTC, OTC dạng hình chữ nhật,
diện tích mỗi ô là 500m
2
(20 x 25m).
Cách lập OTC: Dùng thước dây lập các góc vuông (Áp dụng định lý
Pitago) với sai số chiều dài cho phép là 1/200*L (L là tổng chiều dài 4 cạnh
trong OTC).
Trên mỗi OTC ta tiến hành đo đếm các chỉ tiêu:
- Đường kính ngang ngực (D
1.3
): Dùng thước kẹp kính đo đường kính ngang
ngực theo hai chiều ĐT - NB, sau đó tính trị số trung bình.
- Chiều cao vút ngọn (H
vn
): Dùng thước đo cao Blumleiss (độ chính xác của
thước đến 0,1m), tùy theo địa hình mà đứng cách cây theo các khoảng cách của
thước.
- Đo đường kính tán cây (D
t
): Bằng cách đo gián tiếp thông qua hình chiếu của
nó, bằng thước dây có độ chính xác 0,1m đo theo hai hướng ĐT – NB của tất cả
các cây trong OTC, sau đó lấy trị số trung bình.
- Điều tra chất lượng cây rừng: Dựa vào các chỉ tiêu D
1.3
, H
vn
, độ thẳng thân, khả
năng tỉa cành, độ lệch tán, tình hình sâu bệnh Để đánh giá chất lượng theo 3
cấp:
Cây sinh trưởng tốt (T): Là những cây sinh trưởng khỏe mạnh, thân thẳng,
tán lá cân đối, không bị sâu bệnh.
17
Cây sinh trưởng trung bình (TB): Là những cây có hình thái trung gian,
sinh trưởng trung bình.
Cây sinh trưởng xấu (X): Là những cây cong queo, sâu bệnh, cụt ngọn,
nhiều u bướu.
- Toàn bộ số liệu điểu tra được ghi vào biểu:
Biểu 01: Biểu điều tra tầng cây cao
- Loài cây: - Độ dốc:
- Tuổi cây: - Người điều tra:
- Diện tích OTC: - Ngày điều tra:
STT D
1.3
H
vn
H
dc
D
t
ĐT NB TB ĐT NB TB
1
2
3
● Dự tính trữ lượng trên 1ha của các mô hình ở cuối chu kỳ kinh doanh (7 năm)
theo hai phương pháp:
* Phương pháp 1: Phỏng vấn người trồng rừng về trữ lượng trên 1ha của mỗi mô
hình ở cuối chu kỳ kinh doanh.
* Phương pháp 2: Dựa vào biểu quá trình sinh trưởng đã được lập sẵn.
+ Keo tai tượng: Dựa vào biểu quá trình sinh trưởng và sản lượng cho
rừng trồng Keo tai tượng của TS.Đào Công Khanh (đề tài thực hiện 1991 –
2001).
+ Keo lai: Dựa vào biểu quá trình sinh trưởng của Keo lai do thầy Nguyễn
Trọng Bình lập năm 2004.
Từ việc tính được trữ lượng ở thời điểm hiện tại (tuổi 4) so với biểu quá
trình sinh trưởng nếu gần với trữ lượng ở tuổi 4 ở cấp đất nào nhất thì chọn biểu
cho cấp đất ấy và dựa vào đó để dự tính trữ lượng cho tuổi 7.
• Tính toán chi phí và hiệu quả của các mô hình
18
Chi phí được tính bằng tổng vốn đầu tư trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng
trong cả chu kỳ kinh doanh. Kết quả được tính theo biểu 02:
Biểu 02: Chi phí trồng và chăm sóc 1ha rừng trồng
Loài
Chỉ tiêu
Keo tai tượng (đ) Keo lai (đ)
Trồng rừng
Chăm sóc và bảo vệ năm 1
Chăm sóc và bảo vệ năm 2
Chăm sóc và bảo vệ năm 3
Bảo vệ năm 4
Tổng chi phí (đ/ha/cả chu kỳ)
Lợi ích là tổng thu nhập từ việc khai thác cuối chu kỳ kinh doanh. Kết quả tính
toán theo biểu 03.
Biểu 03: Tổng thu nhập thực tế từ các mô hình
Chỉ tiêu
Loài
Chu kỳ kinh
doanh (năm)
Sản lượng
cuối chu kỳ
(m
3
/ha)
Đơn giá
(đ/ha)
Thành
tiền (đ/ha)
Keo lai
Keo tai tượng
2.5.4. Phương pháp xử lý số liệu
Từ số liệu thu được trên OTC ta tiến hành chỉnh lý, tính toán số liệu dựa
trên phần mềm Excel, SPSS.
• Tính các đại lượng sinh trưởng
Trường hợp mẫu lớn (n> 30) các đại lượng được tính toán theo công thức sau:
- Tính số trung bình mẫu:
X
=
∑
Xifi
n
**
1
(2.1)
- Tính phương sai và sai tiêu chuẩn:
S
2
=
1−n
Qx
; S =
S
2
(2.2)
19
∑
∑
−=
n
xf
xfQ
ii
iix
2
2
)(
(2.3)
- Tính hệ số biến động:
S% =
100*
X
Sx
(2.4)
Sử dụng tiêu chuẩn U của Mann - Whitney để kiểm nghiệm sự thuần nhất
của hai mẫu với công thức:
2
2
2
1
2
1
21
n
S
n
S
XX
U
+
−
=
(2.5)
Trong đó:
1
X
,
2
X
: Là số trung bình của các mẫu đem so sánh.
S
1
, S
2
: Là sai tiêu chuẩn của các mẫu 1 và 2.
n
1
, n
2
: Dung lượng quan sát của các mẫu 1 và 2.
+ Nếu |U| > 1,96 Kết luận hai mẫu không thuần nhất với nhau.
+ Nếu |U| < 1,96 Kết luận hai mẫu thuần nhất với nhau. Nghĩa là không có sự sai
khác giữa điều kiện địa hình trong một loài. Ta tiến hành gộp các OTC thành
một OTC lớn, tính các đặc trưng mẫu và so sánh sinh trưởng giữa hai loài keo
đã trồng ở khu vực nghiên cứu.
- So sánh sự khác nhau giữa hai mẫu:
Chất lượng
Loài
Tốt Trung bình Xấu Tổng
Keo tai tượng T
a1
Keo lai T
a2
Tổng số T
b1
T
b2
T
b3
Tổng
Áp dụng công thức tính:
+ Sử dụng tiêu chuẩn χ2 để kiểm tra sự thuần nhất về chất lượng:
20
−
×
=
∑∑
= =
c
i
r
i
bjai
ij
sn
TT
f
T
1 1
2
2
1
χ
(2.6)
Trong đó:
fij: Tần số quan sát của mẫu i và từng cấp chất lượng j.
T
ai
là tồng tần số quan sát mẫu thứ i.
T
bj
là tồng tần số quan sát mẫu thứ j.
TS là tổng tần số quan sát của toàn thí nghiệm.
So sánh χ
2
n
tính toán với χ
2
05
tra bảng với bậc tự do K= (a-1) x (b-1)
Trong đó: a là số cấp chất lượng, b là số loài keo đưa vào nghiên cứu.
+ Nếu χ
2
n
> χ
2
05
tra bảng thì kết luận có sự sai khác rõ rệt về chất lượng rừng giữa
các đối tượng nghiên cứu.
+ Nếu χ
2
n
≤ χ
2
05
tra bảng thì kết luận không có sự sai khác rõ rệt về chất lượng
rừng giữa các đối tượng nghiên cứu.
- Tính tỷ lệ % cây tốt, trung bình, xấu theo công thức:
P%=
N
n
Χ
100 (2.7)
Trong đó:
P%: Tỷ lệ tương ứng của số cây tốt, xấu, trung bình (%).
n: Số cây tốt, xấu, trung bình tương ứng (cây).
N: Tổng số cây (cây).
• Tính trữ lượng lâm phần và dự tính trữ lượng lâm phần ở cuối chu kỳ kinh
doanh (7 năm)
- Tính trữ lượng trên 1ha của các mô hình tại thời điểm ta quan sát theo công
thức:
M= ∑Vi (2.8)
Trong đó:
V
: là thể tích trung bình của một cây (m
3
)
Với
V
= g*h*f (2.9)
g: tổng tiết diện ngang của thân cây (g= ח/4 * D
2
)
f: là hình số (f = 0,5)
21
• Tính toán một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của các mô hình
1. Giá trị hiện tại thuần túy (NPV)
Chỉ tiêu này được tính bằng giá trị hiện tại của tất cả các thu nhập trừ đi
giá trị hiện tại của tất cả các chi phí theo công thức:
NPV =
∑
=
+
−
n
t
t
r
CtBt
0
)1(
(2.10)
Trong đó:
NPV: Giá trị hiện tại thu nhập dòng (đ).
Bi: là thu nhập năm thứ i (đ).
Ci: là giá trị chi phí năm thứ i (đ).
r: là tỉ lệ lãi suất/ năm.
∑
=
n
i 0
: Tổng giá trị hiện tại của lợi nhuận ròng từ năm 0 đến năm i.
n: thời gian (số năm của cả chu kỳ kinh doanh).
+ Nếu NPV > 0 thì kinh doanh có lãi, mô hình được chấp nhận.
+ Nếu NPV < 0 thì kinh doanh bị thua lỗ, mô hình không được chấp nhận.
2. Tỷ lệ thu nhập trên chi phí (BCR)
BCR là hệ số tương quan giữa giá trị hiện tại của tổng thu nhập so với giá
trị hiện tại của tổng chi phí của các mô hình theo công thức:
BCR =
∑
∑
=
=
+
+
n
t
t
n
t
t
r
Ct
r
Bt
0
0
)1(
)1(
=
CPV
BPV
(2.11)
Trong đó:
BCR: Là tỷ suất giữa lợi nhuận và chi phí (lần).
BPV: Giá trị hiện tại của thu nhập (đ).
CPV: Giá trị hiện tại của chi phí (đ).
+ Nếu BCR > 1 thì kinh doanh có lãi, mô hình được chấp nhận.
+ Nếu BCR < 1 thì kinh doanh bị thua lỗ, mô hình không được chấp nhận.
3. Tỷ lệ hoàn vốn nội tại (IRR)
22
IRR là chỉ tiêu đánh giá khả năng thu hồi vốn. IRR là tỷ lệ chiết khấu khi
tỷ lệ này làm cho NPV = 0 tức là:
0
)^1(
0
=
+
−
∑
=
n
i
tr
CtBt
thì r = IRR (2.12)
+ Nếu IRR > r, phương án có khả năng hoàn trả vốn và được chấp nhận.
+ Nếu IRR< r, phương án không còn khả năng hoàn trả vốn nên không chấp
nhận.
Chương 3
ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý
Xã Dũng Phong là một xã nằm ở trung tâm Mường thành và nằm ở phía
tây nam của thành phố Hòa Bình. Vị trí địa lý và địa hình của xã được phân chia
làm hai vùng, đó là vùng đồng bằng và vùng đồi núi.
23
- Phía Bắc giáp xã Tân Phong,
- Phía Nam giáp xã Nam Phong,
- Phía Đông giáp xã Yên Lập,
- Phía Tây giáp xã Tây Phong,
Dũng Phong nằm cách trung tâm thành phố Hòa Bình 21km và cách trung
tâm huyện Cao Phong 8km. Xã có tuyến đường giao thông chính là trục đường
chạy từ xã Tây Phong đi vào trung tâm xã dài 3km, từ trung tâm xã đi Yên Lập
dài 5km, đi xã Tân Phong dài 1,5km và đi xã Nam Phong dài 4km. Ngoài ra xã
còn có các tuyến đường liên thôn với chiều dài tổng số 12km. Đây là điều kiện
thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng; đặc biệt như:
nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3.1.2. Địa hình
Dũng Phong là một xã miền núi thuộc huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình,
với dạng địa hình chủ yếu là đồi núi, dạng địa hình núi thấp bị chia cắt bởi các
dải núi. Độ cao tuyệt đối trung bình là 300m, độ dốc bình quân 25
o
, độ cao tuyệt
đối thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam.
3.1.3. Khí hậu thủy văn
♦ Khí hậu
Nằm trong vùng khí hậu chung của toàn huyện, xã Dũng Phong thuộc
vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có hai mùa rõ rệt. Nóng ẩm về mùa
mưa, lạnh và khô về mùa khô.
- Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, lượng mưa bình quân từ 1600 –
1800mm, chiếm 80% lượng mưa cả năm.
- Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, lượng mưa bình quân từ
400mm, chiếm 20% lượng mưa cả năm.
- Nhiệt độ không khí bình quân từ 21 – 24
o
C, cao nhất là 40
o
C (tháng 6,
tháng 7), thấp nhất 2
o
C (tháng 12 và tháng 1 năm sau).
- Độ ẩm không khí trung bình là 86%, cao nhất là 89% (tháng 7, 8, 9),
thấp nhất 79% (tháng 1, 2).
24
- Gió: xã Dũng Phong, huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình chịu ảnh hưởng
của hai loại gió chính là: gió Đông Nam thổi vào mùa hè, gió mùa Đông Bắc
thổi vào mùa đông, xuất hiện thành từng đợt, mỗi đợt kéo dài 3 – 5 ngày, gây rét
đậm, rét hại ảnh hưởng tới cây trồng và vật nuôi trong toàn xã.
♦ Thủy văn
Hệ thống các con suối nhìn chung đều nhỏ và hẹp, do vậy lưu lượng nước
nhỏ không phục vụ vận chuyển thủy được, chủ yếu là phục vụ nước tưới cho
nông nghiệp là chủ yếu.
3.1.4. Đất đai
Tổng diện tích tự nhiên toàn xã là: 1070,78ha, trong đó:
- Đất nông nghiệp là: 585,84ha.
- Đất phi nông nghiệp là: 196,21ha.
- Đất chưa sử dụng là: 288,7ha.
Qua kết quả điều tra, khảo sát thực địa đất đai của khu vực nghiên cứu ta
thấy rằng: Đất ở đây chủ yếu là đất Feralit màu xám nhạt phát triển trên đá vôi,
độ dày tầng đất > 80cm, đất ẩm, thành phần cơ giới thịt nhẹ là điều kiện thuận
lợi để nhiều loài cây trồng phát triển.
3.2. Điều kiện dân cư, kinh tế - xã hội
3.2.1. Điều kiện dân cư
Theo số liệu điều tra dân số năm 2010, toàn xã có 791 hộ với 3364 nhân
khẩu, gồm 2 dân tộc chính:
- Dân tộc Mường chiếm 90% dân số toàn xã.
- Dân tộc Kinh chiếm 10% dân số toàn xã.
- Tỷ lệ tăng dân số 1,5%/năm.
- Mật độ dân số bình quân 171 người/km
2
, dân cư phân bố không đồng đều tập
chung ở gần các khu chợ nông sản. Việc phân bổ lao động chủ yếu là lao động
nông nghiệp, chiếm đến 80%; còn lại là lao động các ngành nghề khác.
3.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
♦ Về kinh tế:
- Sản xuất nông nghiệp:
25