Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Bước đầu đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của việc bảo vệ đa dạng sinh học cây dược liệu ở huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.23 KB, 64 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam là nước đang phát triển, tuy nhiên vẫn còn là nước nghèo,
sự phát triển giữa các vùng, các dân tộc còn có nhiều chênh lệch và không
đồng đều, các khu vực kém phát triển chủ yếu là các vùng có nhiều đồng
bào dân tộc sinh sống, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Mục
tiêu ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo luôn là
ưu tiên hàng đầu trong đường lối chiến lược, chính sách của Đảng và nhà
nước ta nhằm dần đưa đất nước đi lên, hướng tới sự phát triển bền vững.
Huyện Sa Pa là một huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai nằm trên dãy Hoàng
Liên Sơn. Trong những năm qua, nơi đây đã có những bước chuyển mình
mới trong phát triển kinh tế, đời sống đồng bào ngày càng được nâng cao và
đi vào ổn định. Với độ cao trung bình 1500 mét trên dãy Hoàng Liên Sơn,
nơi đây là một phần của Vườn quốc gia Hoàng Liên Sơn. Có khí hậu ôn đới
mát mẻ quanh năm, tính đa dạng sinh học rất cao nên huyện Sa Pa có lợi thế
đặc biệt trong việc phát triển du lịch. Tuy nhiên, để tận dụng tối đa lợi thế đó
phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế, huyện Sa Pa cần phải làm nhiều
việc nữa.
Là sinh viên chuyên ngành Kinh tế Quản lý Môi trường và Đô thị -
Đại học Kinh tế Quốc dân, khi thực tập tại Sở Khoa học Công nghệ và Môi
trường Lào Cai, tôi đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực bảo tồn và phát triển bền
vững ở huyện Sa Pa. Với đề tài tốt nghiệp “Bước đầu đánh giá hiệu quả
kinh tế xã hội của việc bảo vệ đa dạng sinh học cây dược liệu ở huyện Sa
Pa tỉnh Lào Cai ”, tôi cố gắng thiết lập cho mình một cái nhìn tổng quan về
một lĩnh vực rộng lớn và khó khăn này. Đây cũng là lĩnh vực mà chính
quyền địa phương đang rất quan tâm.
Vì thời gian hạn hẹp, trình độ phân tích và kiến thức còn nhiều hạn
chế, đề tài này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Với tinh thần cầu thị, rất
mong nhận được góp ý, chỉ dạy của các thầy cô và các bạn để tôi có thể tiến
bộ hơn.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu là các cây dược liệu tự nhiên đang
được khai thác, được trồng với mục đích thương mại, mục đích bảo tồn ở


huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai.
Để có được cái nhìn tổng quan về công tác dược liệu ở huyện Sa Pa,
kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, đề tài có bố cục như sau:
Chương I: Bảo tồn nguồn gen dược liệu là biện pháp bảo vệ tài
nguyên môi trường và phát triển kinh tế.
Chương II: Tình hình khai thác tài nguyên dược liệu ở huyện Sa Pa
trong thời gian qua.
Chương III: Bước đầu đánh giá hiệu quả khai thác, chế biến, sử dụng
tài nguyên dược liệu ở huyện Sa Pa.
Chương IV: Kết luận và một số kiến nghị.
Đề tài này được tôi hoàn thành với sự chỉ dạy tận tình của Thầy giáo
giảng viên của khoa và bà trưởng phòng Quản lý Môi trường - Sở Khoa học
Công nghệ và Môi trường Lào Cai. Tôi xin trân trọng cảm ơn những sự chỉ
dạy và giúp đỡ tận tình đó.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung báo cáo đã viết là do bản thân thực hiện,
không sao chép, cắt ghép các báo cáo hoặc luận văn của người khác. Nếu sai
phạm tôi xin chịu kỷ luật của nhà trường.
CHƯƠNG I
BẢO TỒN NGUỒN GEN DƯỢC LIỆU LÀ BIỆN PHÁP BẢO VỆ
TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. CÁC VẤN ĐỀ VỀ ĐA DẠNG SINH HỌC
Đa dạng sinh học là cơ sở của sự sống, sự thịnh vượng và bền vững
của loài người cũng như của trái đất nói chung. Tuy nhiên, con người đã và
đang khai thác nguồn tài nguyên này một cách quá mức và không khoa học
dẫn tới sự suy thoái các hệ sinh thái, làm nghèo kiệt nguồn đa dạng sinh học,
thậm chí huỷ diệt nguồn tài nguyên quý giá đó để đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng của mình. Ở Việt Nam, suy thoái đa dạng sinh học đã đến mức
báo động ở nhiều nơi và trên diện rộng. Bảo tồn đa dạng sinh học nhằm
phục vụ cho cuộc sống là trách nhiệm của mọi người và đã trở thành vấn đề

nóng bỏng trong xã hội, tác động trực tiếp đến từng cá nhân cũng như toàn
thể cộng đồng. Những vấn đề về đa dạng sinh học vừa mang tính nhà nước,
vừa mang tính xã hội. Việc giải quyết vấn đề này hiện nay cũng như trong
tương lai phụ thuộc vào trình độ nhận thức của các nhà hoạch định chính
sách, cũng như phụ thuộc vào trình độ dân trí, thái độ và hành vi của mọi
tầng lớp nhân dân trong xã hội. Vì vậy, mỗi người cần phải hiểu rõ về các
vấn đề liên quan đến đa dạng sinh học.
1. Khái niệm về đa dạng sinh học
Đa dạng sinh học được hiểu là sự phong phú về sự sống trên trái đất
với hàng triệu loài thực vật, động vât, vi sinh vật cùng nguồn gen của chúng
và các hệ sinh thái mà chúng là thành viên. Từ đó, đa dạng sinh học được
định nghĩa là sự đa dạng của các sinh vật từ tất cả các nguồn, trong đó bao
gồm các hệ sinh thái trên cạn, dưới biển, các thuỷ vực khác và các phức hệ
sinh thái mà chúng cấu thành, đa dạng sinh học bao gồm sự đa dạng của loài
giữa các loài và các hệ sinh thái.
Các nhà sinh học thường xem xét đa dạng sinh học ở 3 góc độ: Đa
dạng di truyền, đa dạng loài và đa dạng hệ sinh thái.
Đa dạng di truyền được hiểu là sự phong phú về số lượng và sự đa
dạng về các gen, bộ gen trong mỗi quần thể và giữa các cá thể.
Đa dạng loài là sự giàu có về số lượng và sự phong phú của các loài
trong hệ sinh thái.
Đa dạng hệ sinh thái là sự phong phú về trạng thái và loại hình của
các hệ sinh thái khác nhau.
Từ 3 góc độ này, ta có thể tiếp cận đa dạng sinh học ở 3 mức độ khác
nhau: Mức độ phân tử (gen), mức độ cơ thể và mức độ hệ sinh thái. Như
vậy, đa dạng sinh học bao gồm sự phong phú của tất cả thế giới sinh vật ở
tất cả các dạng, các bậc phân loại, các mức độ và sự tổ hợp của chúng. Đó
không chỉ là tổng số của các hệ sinh thái, các loài, các vật chất di truyền mà
còn bao gồm tất cả các mối quan hệ phức tạp bên trong và giữa chúng với
nhau, với thế giới vô sinh và với xã hội loài người. Vì vậy, cũng có thể nói

rằng đa dạng sinh học là kết quả của sự tương tác giữa hai hệ thống tự nhiên
và xã hội.
2. Tầm quan trọng của đa dạng sinh học
Đa dạng sinh học có một giá trị không thể thay thế được, trước tiên là
đối với sự tồn tại và phát triển của thế giới sinh học trong đó có con người,
tiếp đến là về mặt kinh tế xã hội, văn hóa và giáo dục. Nhưng quan trọng
hơn cả là đa dạng sinh học có một giá trị đặc biệt về khoa học và ứng dụng
trong thực tiễn thuộc các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, công
nghiệp, y tế và các lĩnh vực khác. Về giá trị của đa dạng sinh học có thể khái
quát như sau:
2.1. Giá trị kinh tế
Đa dạng sinh học là nguồn tài nguyên thiên nhiên đảm bảo cho loài
người tồn tại và phát triển. Từ khi xuất hiện trên trái đất, loài người hầu như
chỉ dựa hoàn toàn vào tài nguyên thiên nhiên (Thực vật và động vật hoang
dã làm thức ăn, hang động và sông suối để sinh sống). Trong quá trình hình
thành nên nền nông nghiệp, việc trồng cây lương thực và chăn nuôi động vật
xuất phát từ thực vật và động vật trong tự nhiên rồi thuần hoá dần dần nhằm
thích nghi với môi trường và điều kiện sống. Đối với sức khoẻ con người, đa
dạng sinh học là nguồn dược liệu quý giá và còn nhiều tiềm ẩn.
Các loài thực vật, động vật, vi sinh vật cung cấp một số lượng lớn các
sản phẩm phục vụ cho con người. Sự cung cấp này rõ ràng có ý nghĩa rất lớn
và nếu sự đa dạng sinh học càng phong phú thì lợi ích thu được từ đa dạng
sinh học càng nhiều và sẽ có nhiều khả năng được chia sẻ một cách công
bằng cho cộng đồng.
Ngày nay, các động thực vật hoang dã vẫn là một nguồn tài nguyên
quan trọng, một nguồn gen quý giá làm cơ sở tạo ra những giống vật nuôi và
cây trồng có năng suất cao, có các tính năng tốt phục vụ cho nông nghiệp và
đời sống. Có thể nói đa dạng sinh học đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong
việc lai tạo các giống mới có năng suất cao, có sức chống chịu được với các
điều kiện ngày càng khắc nghiệt của môi trường, là cơ sở đảm bảo cho một

nền nông nghiệp, kinh tế bền vững.
2.2. Giá trị sinh thái và môi trường
Các hệ sinh thái có giá trị quan trọng trong quá trình điều hoà khí hậu,
làm trong sạch môi trường không khí, nước, đảm bảo chu trình chất dinh
dưỡng trong thiên nhiên, bảo vệ đất, cân bằng nguồn nước và ngăn chặn
dịch bệnh. Sự đa dạng loài càng cao trong các quần xã sinh vật càng làm cho
quần xã đó có tính ổn định cao, ít bị xáo trộn. Mỗi khi sự đa dạng này bị
thay đổi thì các khả năng của hệ sinh thái cũng thay đổi theo, ví dụ khả năng
điều hoà quá trình trao đổi vật chất trong hệ sinh thái, khả năng hấp thụ các
chất ô nhiễm...
2.3. Giá trị về đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ, văn hoá, lịch sử, tín ngưỡng
và giải trí của con người
Các loài sinh vật cũng như các hệ sinh thái khác nhau cho con người
những hình ảnh độc đáo, những cảnh quan đẹp đẽ có giá trị về thẩm mỹ, văn
hoá, lịch sử, tín ngưỡng. Khám phá thiên nhiên hoang dã luôn là nguồn yêu
thích của hàng triệu người trên khắp thế giới. Ngày nay, du lịch sinh thái
luôn là một trong những tiềm năng kinh tế và giải trí đang được khai thác
mạnh mẽ.
3. Nguyên nhân làm suy thoái đa dạng sinh học
Trong lịch sử cận đại và hiện đại, suy thoái đa dạng sinh học đã xẩy ra
với một tốc độ khủng khiếp, trước đây ở các nước công nghiệp phát triển và
hiện nay ở các nước đang phát triển và kém phát triển. Sự suy thoái đa dạng
sinh học được thể hiện chủ yếu ở các mặt:
- Hệ sinh thái bị biến đổi dẫn đến mất nơi ở của loài.
- Mất loài.
- Mất đa dạng di truyền.
- Sự di nhập, xâm lấn của các loài sinh vật lạ.
Sự mất mát của các loài, sự sói mòn nguồn gen, sự di nhập xâm lấn
của các loài sinh vật lạ, sự suy thoái các hệ sinh thái tự nhiên nhất là rừng
nhiệt đới diễn ra một cách nhanh chóng chưa từng có mà nguyên nhân chủ

yếu là do tác động của con người, trong đó sự thiếu nhận thức là một nguyên
nhân quan trọng.
Nguyên nhân của sự suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam, cũng
như trên thế giới, được chia thành 2 nhóm:
• Do thiên nhiên như các biến cố địa chất, bão lụt, sự thay đổi khí hậu,
hoang mạc hoá, hạn hán.
• Do hoạt động của con người đã trực tiếp tác động đến môi trường tự
nhiên (Các nguyên nhân trực tiếp, các nguyên nhân sâu xa về kinh tế – xã
hội, và cả do chiến tranh). Do điều kiện không cho phép nên tôi không nêu
cụ thể.
4. Các biện pháp bảo tồn đa dạng sinh học
4.1. Biện pháp bảo tồn nguyên vị (In-situ)
Đây là hình thức bảo tồn loài, bảo tồn các sinh cảnh ngay tại chỗ và là
biện pháp bảo tồn mang lai hiệu quả cao nhất bằng cách thành lập các khu
bảo tồn. Đến thời điểm tháng 5/2002, Việt Nam có tổng số 16 vườn quốc
gia, 15 khu bảo tồn biển và 64 khu bảo tồn đất ngập nước đã được lập luận
chứng để trình Chính phủ, điều này cho thấy Việt Nam rất quan tâm đến vấn
đề bảo tồn nguyên vị.
4.2. Biện pháp bảo tồn chuyển vị (Ex-situ)
Biện pháp này sử dụng cách di chuyển để bảo tồn loài hoặc các vật
chất di truyền của chúng đến nơi không phải là nơi cư trú tự nhiên vốn có
của chúng mà là một môi trường mới. Biện pháp này có một số hình thức:
Trạm đa dạng sinh học, các vườn thực vật, vườn động vật, trạm cứu hộ động
vật, ngân hàng giống...
5. Đa dạng sinh học và vấn đề phát triển bền vững
Định nghĩa phổ biến nhất về phát triển bền vững là định nghĩa của Uỷ
ban thế giới về phát triển bền vững (WCED): Phát triển bền vững là sự phát
triển thoả mãn những nhu cầu trong hiện tại mà không xâm phạm đến khả
năng thoả mãn nhu cầu của thế hệ tương lai. Cơ sở của định nghĩa này là sự
công bằng trong các thế hệ, hiện tại và tương lai. Con người được sinh ra

đều có quyền như nhau. Điều kiện để phát triển bền vững là có sự chuyển
giao di sản tư bản. Điều này ngụ ý rằng thế hệ hiện tại phải đảm bảo để lại
cho thế hệ mai sau một trữ lượng tư bản không ít hơn những gì mà thế hệ
này đang có. Sự bền vững có hai dạng: sự bền vững thấp dựa trên giả thiết
cứng nhắc là có khả năng thay thế hoàn toàn các dạng tư bản; sự bền vững
cao thì không tin tưởng hoàn toàn vào khả năng đó vì có nhiều dạng tư bản,
ví dụ như tư bản tự nhiên là cái không dễ gì thay thế được.
Loài người từ xưa đến nay vẫn luôn bị phụ thuộc vào thiên nhiên dù ít
hay nhiều. Tài nguyên sinh vật cho chúng ta lương thực thực phẩm, quần áo,
nhà ở, thuốc men và các món ăn tinh thần. Nguồn tài nguyên ấy được tìm
thấy trong các hệ sinh thái tự nhiên của rừng, các vùng Savan, đồng cỏ và
đất rừng, sông, hồ, biển. Nguồn tài nguyên này cũng tìm thấy ở trên các
cánh đồng, trong các vườn nhà, trong các ngân hàng gen, trong các vườn
thực vật và bách thú.
Loài người đã có trong tay một khối lượng tư bản khổng lồ để để lại
cho thế hệ mai sau như các công trình xây dựng, các trí tuệ và tri thức nhân
loại, nhưng loài người cũng đã và đang là nguyên nhân của sự tuyệt chủng
và suy giảm của rất nhiều loài động vật, thực vật, các hệ sinh thái giàu có.
Để đảm bảo một sự phát triển bền vững, loài người cần có một sự
đảm bảo về sự an toàn cho giới sinh học - bảo vệ đa dạng sinh học.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐA DẠNG SINH HỌC VÀ ĐA DẠNG
NGUỒN GEN CÂY DƯỢC LIỆU
Cây dược liệu giữ một vị trí quan trọng trong việc xây dựng nền y học
Việt Nam. Từ lâu việc nghiên cứu, sử dụng và phát triển cây dược liệu đã
được khẳng định trong đường lối xây dựng nền y học dân tộc. Chỉ thị
210/TTg ngày 06/12/1966 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định vị trí và
giá trị của dược liệu: “Dược liệu ở nước ta rất nhiều, gồm các loài cây thuốc
và một số động vật có ở nước ta. Chẳng những là cơ sở của nền y học dân
tộc mà còn có vị trí trong nền y học hiện đại, Chẳng những là nguồn tự cung
tự cấp về thuốc Nam, thuốc Bắc và thuốc tây mà còn là loại hàng hoá xuất

khẩu có giá trị phải coi trọng dược liệu như cây công nghiệp cao cấp”.
Thực tế trong mấy thập kỷ qua, cùng với việc ứng dụng những thành
tựu y học hiện đại, cây thuốc đã góp phần không nhỏ trong lĩnh vực phòng
bệnh chữa bệnh, bồi bổ sức khoẻ cho nhân dân. Nhiều loài cây thuốc đã
được đưa vào trồng từ quy mô gia đình đến hợp tác xã, nông trường để sử
dụng trong y học cổ truyền, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp dược và
xuất khẩu.
Trong những kết quả mới công bố gần đây ở Việt Nam, chúng ta đã
biết khoảng 3200 loài thực vật bậc thấp cũng như bậc cao được sử dụng làm
thuốc. Trong số này có khoảng 300 loài thường xuyên được khai thác, sử
dụng trong y học dân tộc, hoặc làm nguyên liệu làm thuốc trong các xí
nghiệp dược phẩm. Rõ ràng rằng: từ nguồn cây dược liệu ở Việt Nam, đã
đáp ứng được một phần nhu cầu thuốc chữa bệnh, bảo vệ sức khoẻ nhân
dân, đặc biệt là trong những năm có chiến tranh và thiếu thuốc. Ngoài ra,
hàng năm còn có rất nhiều loài dược liệu và tinh dầu quý có giá trị kinh tế
cao đã được xuất khẩu, đem lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
Tuy nhiên, do việc khai thác liên tục, thiếu sự chú ý bảo vệ tái sinh
cùng một số nguyên nhân khác đã làm cho hầu như toàn bộ nguồn cây dược
liệu ngoài tự nhiên bị suy giảm nghiêm trọng, nhiều loài cây thuốc thuộc
diện quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Riêng về cây thuốc trồng, ngoại trừ
một vài loài cây đặc sản như: Quế, Hồi, Thảo Quả là còn được chú ý tới vì
nó là loại luôn có giá trị kinh tế cao. Nhìn chung, công tác trồng cây dược
liệu ở nước ta trong thời gian gần đây bị suy giảm rõ rệt. Hầu hết các loại
cây dược liệu bắc đầu vị, từ chỗ đã di thực thành công và đáp ứng thoả mãn
nhu cầu trong nước hoặc đã từng được tái xuất khẩu nay lại bị mai một dần
dẫn đến phải nhập khẩu nguồn nguyên liệu này và phụ thuộc vào nguồn
cung cấp từ nước ngoài.
Mặc dù vậy, trong bối cảnh chung của nền kinh tế thị trường, nguồn
cây dược liệu ở nước ta vẫn không ngừng được khai thác. Nhiều loài cây
thuốc Nam không thể thay thế vẫn được trồng ở nhiều nơi. Trên thực tế,

nhu cầu sử dụng dược liệu để chữa bệnh và bồi bổ sức khoẻ trong nhân dân
vẫn có xu thế gia tăng.
Hiện nay, trên thế giới các bệnh ung thư, AIDS ... hoặc các triệu
chứng về cảm xúc vẫn còn tồn tại và các bệnh gây nguy hiểm cho cộng đồng
vẫn là nguy cơ tiềm ẩn, do đó việc duy trì các cây dược liệu là rất cần thiết
và cần tiếp tục được ưu tiên, đầu tư nghiên cứu. Việc tìm kiếm các loại
thuốc mới không những từ trong phòng thí nghiệm mà chính là từ cây cỏ
trong tự nhiên đang được nhiều quốc gia, nhiều tập đoàn dược phẩm quan
tâm.
Việt Nam ta, trong chiến lược chăm sóc sức khoẻ cộng đồng của
ngành y tế đã đề ra mục tiêu phấn đấu từng bước để tự túc được khoảng
40% thuốc chữa bệnh vào khoảng những năm đầu của thế kỷ 21. Để thực
hiện mục tiêu này, bên cạnh sự quan tâm phát triển công nghiệp dược và
kháng sinh, một vấn đề vô cùng quan trọng là phải dựa vào thế mạnh về sự
đa dạng cây dược liệu trong nước. Hơn nữa, dược liệu là nguồn thuốc gần
như duy trì trong y học cổ truyền, là nguyên liệu trong công nghiệp dược và
xuất khẩu nhằm bù đắp một phần cho nhập khẩu.
III. TÀI NGUYÊN CÂY DƯỢC LIỆU VÀ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
ĐẾN TRI THỨC CỔ TRUYỀN
Cây dược liệu = Cây cỏ (đơn thuần như là một nguồn gen: một yếu tố
mang tính vật thể) + Cách dùng chúng để chữa bệnh (là tri thức: một yếu tố
phi vật thể).
Đây là công thức cơ bản phân biệt cây gọi là cây dược liệu với các
loại cây khác. Một loại cây chỉ được coi là cây dược liệu nếu nó hội tụ cả hai
yếu tố trên. Vậy để bảo vệ cây thuốc trước nguy cơ tuyệt chủng thì chúng ta
vừa phải bảo tồn mặt vật thể, vừa phải gìn giữ yếu tố phi vật thể.
Tri thức cổ truyền được hiểu là những thành tựu, những kết quả, kinh
nghiệm có được của cộng đồng, đã, đang đóng góp và có ích cho cuộc sống
của cộng đồng dân bản địa. Đó là những giống cây con, những phương pháp
thụ tinh, phương pháp nuôi trồng, cách chế biến, bảo quản, những kinh

nghiệm hay những bài thuốc quý.
Việc sở hữu sự đa dạng về tài nguyên sinh học cùng với những tri
thức cổ truyền mà những người bản địa nắm giữ là một tiềm năng lớn mà
Việt Nam ta có. Đặc biệt, trong khi nền kinh tế quốc dân còn phụ thuộc
nhiều vào vốn thiên nhiên, việc sử dụng tài nguyên sinh học đóng một vai
trò rất quan trọng trong Nông - Lâm - Ngư nghiệp để bảo đảm đời sống của
đa số nhân dân hiện đang lao động, sản xuất trong các ngành này và cho an
ninh lương thực của cả nước. Các cây trồng, vật nuôi, giống lai mới đã giúp
cho việc tăng sản lượng lương thực, tổng sản lượng đã đạt trên 35 triệu tấn,
đáp ứng yêu cầu trong nước và còn có thể xuất khẩu để thu ngoại tệ. Ngoài
ra, những bài thuốc cổ truyền còn giúp phòng và điều trị nhiều bệnh tật và
có ý nghĩa rất lớn trong vấn đề bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, đặc biệt là đối
với các đồng bào dân tộc vùng cao.
Thực tế cho thấy, việc sử dụng các giống cây trồng truyền thống và
việc thích nghi các giống nội thường dựa vào các thành tựu nghiên cứu khoa
học và tri thức bản địa. Trong khi dân tộc kinh là nhóm dân tộc lớn nhất,
chiếm 85% tổng dân số và phân bố trong cả nước, là lực lượng chủ yếu
trong việc phát triển và duy trì sự đa dạng phong phú về nông nghiệp (trồng
lúa nước), thì còn khoảng 53 dân tộc khác, chủ yếu sống ở miền núi cũng
được coi là những người đầu tiên sáng tạo và chăm sóc cho sự đa dạng nông
nghiệp. Cũng tương tự như vậy, đối với các loại cây dược liệu và các loại
sản phẩm thiên nhiên khác được phát triển từ tri thức của dân bản địa và các
cộng đồng địa phương. Hiện nay, ở nước ta có hàng ngàn loài cây được sử
dụng làm lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn gia súc, tơ sợi và
nguyên liệu.
Đa số các loài cây nông nghiệp đã được thuần hoá và trồng trọt từ
nhiều năm trước đây và rất quen thuộc đối với nhân dân. Tuy nhiên, một số
cây chưa được thuần hoá để trồng trọt mà chỉ mọc tự nhiên, hoang dại.
Việc bảo tồn, sử dụng, phát triển và thương mại hoá các giống cây là
dựa vào hoạt động nghiên cứu và thống kê, cũng như thực tiễn sản xuất của

nông dân, trong khi mà kiến thức truyền thống thì được sử dụng một cách
thông thường và một phần nào đó được thương mại hoá.
Các Viện nghiên cứu và Trường Đại học chuyên ngành thường có vai
trò chủ đạo trong việc hợp tác với các địa phương để thu thập các giống cây
trồng nhằm làm thích nghi các giống mới.
Những thí dụ đó cho thấy rõ rằng, chúng ta cần phải tạo lập mối quan
hệ đối tác giữa các cơ quan KHKT và nông dân. Việc nghiên cứu và phát
triển các giống mới hoặc giống lai, việc nhập nội và làm thích nghi các
giống từ bên ngoài, thường được tiến hành bởi các cơ quan này, cùng với sự
cộng tác chặt trẽ của các cộng đồng địa phương, họ sẽ là những người khảo
nghiệm, đánh giá và sử dụng. Quan hệ đối tác đó cũng cần thiết cho việc cải
tiến và phát triển kiến thức cổ truyền trên cơ sở phân tích khoa học.
Mặt khác, các cơ quan KHKT/Trường Đại học cũng thường được
hưởng thụ những kinh nghiệm và sự khéo léo của người dân bản địa trong
việc bảo tồn và sử dụng tài nguyên di truyền mà không cần phải trả lệ phí
hoặc đền bù gì rõ rệt cho các cộng đồng địa phương cả.
Cũng có vài quy định về việc chia sẻ lợi ích giữa những người có liên
quan, nhưng các quy định này thường có lợi cho người tạo giống, nhiều hơn
là cho các cộng đồng địa phương là người nắm giữ kiến thức cổ truyền.
Nói riêng về lĩnh vực tri thức cổ truyền, thì sử dụng và thương mại
hoá được thực hiện theo ba cách (kể cả trường hợp cây trồng, cây dược liệu
và các phương pháp thực tiễn):
a. Tri thức cổ truyền đã trở thành phổ biến và được sử dụng rộng rãi.
Thí dụ, đa số các phương pháp canh tác là phổ biến, vì các tri thức bản địa
thường được phát triển tăng tiến dần dần và do tập thể, cho nên thường khó
xác định rõ cá nhân nào hoặc nhóm người nào là tác giả sáng chế của một
bài thuốc cổ truyền hoặc một giống cây trồng có ích tuy rằng trong nhiều
trường hợp, cuối cùng chính các cộng đồng địa phương là người bảo vệ và
chăm sóc đa dạng sinh học.
Một nét có tính chất dân gian, nhất là ở các vùng nông thôn, nhiều

loài cây dược liệu được trồng trong vườn nhà và hàng ngày đuợc nhân dân
sử dụng như: mơ tam thể, gừng, hoè ...
Các loài cây thuốc khác đã được thuần hoá và trồng rộng rãi ở quy mô
sản xuất lớn như: Sâm đại hành, Ích mẫu, Xuyên tâm liên ...
Có khi, việc kết hợp giữa y học cổ truyền và y học hiện đại rất có ích
và có thể chữa các bệnh nghiêm trọng, như Thanh thảo chữa bệnh sốt rét,
Dừa cạn chữa bệnh ung thư máu... Những thành quả như vậy thường được
triển khai bởi các Viện KHKT và các Xí nghiệp dược phẩm, các sản phẩm
của họ được đăng ký với các nhãn hàng (Tên thương phẩm) của họ.
b. Việc nhân và sản xuất giống do nông dân thực hiện, phần lớn pgục
vụ cho nhu cầu của gia đình, một phần dùng để trao đổi. Họ có quyền mặc
nhiên giữ lại các hạt giống mới để tái tạo và dùng sau đó hoặc để trao đổi
với nhau, mà không trả bất cứ một khoản lệ phí nào cho người tạo giống.
c. Đối với trường hợp cây dược liệu và các phương pháp chữa bệnh
cổ truyền, có nhiều khi mà bí quyết vẫn được giữ như một bí mật riêng. Có
thể có một người nào đó nắm giữ được thông tin về một loài cây đặc thù nào
đó (nơi cây mọc, các đặc trưng, tác dụng chữa bệnh, cách chế biến, liều
lượng và cách dùng để chữa bệnh). Trong nhiều trường hợp, vì đơn thuốc
theo y học cổ truyền thường chứa nhiều vị, thay đổi tuỳ theo điều kiện cụ
thể của bệnh nhân, một cây thuốc có thể được dùng trong nhiều bài thuốc
với những liều lượng khác nhau, phối hợp với các cây khác, cho nên có
những bài thuốc được tổ tiên để lại và được coi là “những bí mật của gia
đình” được truyền từ đời này tới đời khác. Kiểu tri thức không Paten, không
chính thức, nhưng được thừa nhận đó đã giúp cho người ta có thu nhập và
không muốn truyền thụ. Người nắm được bài thuốc cũng không muốn đăng
ký xin bảo hộ vì họ sợ điều bí mật sẽ bị lộ cho người khác.
Nhân tiện cũng cần nêu nên rằng, những tri thức quý giá đó, cùng với
việc mất các giống cây địa phương và sự tàn phá những nơi cư trú, đang
biến dần với tốc độ đáng báo động. Sự suy giảm của các loài dược liệu nói
chung, và các loài quý nói riêng, là do phá rừng quy mô lớn và do thu hái

quá mức. Một bà lang người Mường ở Hoà Bình buồn rầu nhận xét rằng
“những cánh rừng mất đi thì cũng làm mất luôn nhiều loài cây thuốc không
thể tìm thấy tại những vùng trồng trọt lớn, nơi người ta trồng các loại cây
mọc nhanh”. Tri thức cổ truyền của bà cũng không thể truyền lại cho con
cháu được, vì chẳng còn cây thuốc mà dùng nữa . Sự việc này cũng cho
thấy, khiếm khuyết trong chính sách và luật pháp đã gây tổn thất cho tất cả
đa dạng sinh học và kiến thức cổ truyền.
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH KHAI THÁC TÀI NGUYÊN DƯỢC LIỆU
Ở HUYỆN SA PA TRONG THỜI GIAN QUA
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH HUYỆN SA PA
Sa Pa tên gọi này là từ tiếng Quan Thoại. Theo tiếng Quan Thoại,
”Sa” là cát, ”Pả” là bãi. Địa danh của “bãi cát” này ở bên phải cầu Km32 từ
thị xã Lào Cai vào Sa Pa. Ngày xưa chưa có thị trấn Sa Pa, cư dân của vùng
đất này đều họp chợ ở “bãi cát“ đó, do vậy, dân địa phương ai cũng nói là
”đi chợ Sa Pả”.
Từ hai chữ “Sa Pả”, người phương Tây phát âm không có dấu, nên
thành Sa Pa, họ đã viết bằng chữ Pháp hai chữ đó là “Cha Pa” và một thời
gian rất lâu người ta thường gọi là “Cha Pa” theo nghĩa của từ tiếng Việt.
Còn thị trấn Sa Pa ngày nay, trước kia có một mạch nước đùn lên đục
đỏ, nên dân địa phương gọi là “Hùng Hồ”, ”Hùng” là đỏ, ”Hồ” là hà, là suối
đỏ.
Huyện Sa Pa ngày nay có 37.816 người gồm 6 dân tộc cư trú là
Mông, Dao, Tày, Giáy, Xa Phó và Kinh ngoài ra còn có hai hộ người Hoa
cư trú ở thị trấn. Chạy dọc theo chân núi Hoàng Liên Sơn, từ phía Bắc dưới
chân Ngũ Chỉ Sơn giáp Mường Hum (Bát Xát) đến phía Nam giáp với xã
Nậm Chày, Nậm Mả (Văn Bàn)... với diện tích là 678 km
2
. Huyện Sa Pa có
17 xã và 1 thị trấn.

Sa Pa có đỉnh Phan-Xi-Phăng cao 3.143 mét, trên dãy Hoàng Liên
Sơn. Gọi là Hoàng Liên Sơn vì duy nhất trên dãy núi này có cây Hoàng
Liên, một loại dược liệu quý, hiếm, ngoài ra dãy Hoàng Liên còn là “mỏ”
của loài gỗ quý như thông dầu, của chim thú như gà gô, gấu, khỉ sơn dương
và của hàng ngàn loại cây dược liệu. Khu rừng quốc gia Hoàng Liên có 136
loài chim, 56 loài thú, 553 loài côn trùng. Có 37 loài thú được ghi trong
”sách đỏ Việt Nam”. Rừng Hoàng Liên có 2027 loài thực vật, trong đó có
328 loài cây thuốc.
Huyện Sa Pa có núi Hàm Rồng ở sát ngay thị trấn, bất kỳ du khách
nào cũng có thể lên đó để ngắm toàn cảnh thị trấn, thung lũng Mường Hoa,
Sa Pả, Tả Phìn ẩn hiện trong sương trong mây mà chỉ riêng thị trấn Sa Pa
mới có. Hiên nay, với bàn tay tôn tạo của con người, Hàm Rồng thực sự là
một thắng cảnh đầy hoa trái của Sa Pa. Và nếu ai đến Thạch Lâm (Vân
Nam, Trung Quốc ) thì Hàm Rồng cũng có thể giúp các bạn tưởng tượng ra
Thạch Lâm được. Lên Hàm Rồng, du khách như lạc vào vườn tiên, mây ùn
kín thân người, hoa rực rỡ mặt đất.
Huyện Sa Pa còn có nhà thờ cổ ở ngay thị trấn và từ thị trấn đi ngược
về phía Đông Bắc, trên đường đi tới động Tả Phìn lại có một tu viện được
xây gần như hoàn toàn bằng đá tại một sườn đồi quang đãng, thoáng mát.
Qua tu viện đi bộ 3 cây số theo hướng Bắc ta đến một hang động với độ
rộng có thể đủ chứa một trung đoàn người. Trong hang có nhiều nhũ đá tạo
nên những hình thù kỳ thú như hình tiên múa, đoàn tiên ngồi, cánh đồng xa,
rừng cây lấp lánh. Tại Tả Phìn này với 2 tộc người là Mông và Dao đã tạo
nên cơ sở sản xuất mặt hàng thổ cẩm khá nổi tiếng để bán cho du khách đến
Sa Pa.
II. ĐÁNH GIÁ CÁC NGUỒN TÀI NGUYÊN
1. Vị trí địa lý, kinh tế
Huyện Sa Pa là huyện vùng cao của tỉnh Lào cai có diện tích tự nhiên
là 67.905 ha, chiếm 8,44% diện tích toàn tỉnh.
• Toạ độ địa lý:

Vĩ độ Bắc: 22
o
00

00
’’
đến 22
o
10

00
’’
Kinh độ Đông : 102
o
51

105
’’
đến 103
o
92

00
’’
Huyện Sa Pa là huyện miền núi, có khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng. Và
trên trục kinh tế trọng điểm Sa Pa - Cam đường – Lào Cai nối liền Việt Nam
với Vân Nam, Trung quốc.
Có thể thấy đây là lợi thế rất quan trọng để giao lưu hàng hoá, phát
triển kinh tế, văn hoá, dịch vụ …Nền kinh tế Sa Pa có cơ cấu: Dịch vụ (du
lịch và dịch vụ), Nông nghiệp (cả lâm nghiệp) và Công nghiệp (chủ yếu là

tiểu thủ công nghiệp và sửa chữa nhỏ).

+ Huyện Sa Pa có dãy Hoàng Liên Sơn, là một phần mái nhà xanh có
vai trò rất quan trọng trong việc phòng hộ đầu nguồn sông Hồng và đồng
bằng Bắc Bộ.
+ Huyện Sa Pa cùng với huyện Bát xát, Phong thổ, thị xã Lào Cai là
vùng núi cao nhất của cả nước, nó có vị trí rất quan trọng đối với an ninh
quốc phòng trong việc bố trí xây dựng phòng tuyến biên giới phía bắc.
2. Đặc điểm địa hình, khí hậu
Sa Pa là huyện vùng cao của tỉnh Lao Cai, có độ cao trung bình 1.500
mét, cao nhất là đỉnh Phan Xi Păng 3.143 mét, thấp nhất tại suối Bo độ cao
200 mét.
Kết quả phân tích địa hình theo độ cao cho thấy:
- Đai độ cao dưới 300 m chiếm 17,1% diện tích.
- Đai độ cao từ 300 -700 m, chiếm 17,8% diện tích.
- Đai độ cao từ 700 - 1700 m, chiếm 41,5% diện tích.
- Đai độ cao trên 1.700 m chiếm 23.6% diện tích.
Do điều kiện địa hình dốc, chia cắt mạnh đã ảnh hưởng rất lớn đến
khả năng phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt đối với sản xuất Nông - Lâm
nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi... việc xây dựng các
vùng chuyên canh với quy mô tập trung bị hạn chế đặc biệt là việc sử dụng
các biện pháp kỹ thuật làm đất, tưới tiêu...
Do sự phân tầng theo độ cao của địa hình đa dạng, nên huyện Sa Pa
có nhiều khả năng bố trí hệ thống cây trồng đa dạng: từ tập đoàn cây nhiệt
đới đến ôn đới từ cây lương thực đến cây công nghiệp, cây ăn quả có các
nguồn gốc khác nhau, đặc biệt là các cây ưa lạnh cây dược liệu quý hiếm.
3. Tài nguyên đất
Bằng cách chọn: địa hình, khí hậu, độ dốc, độ dày tầng đất và loại đất
theo thành phần đá mẹ làm các yếu tố tham gia phân loại. Trên cơ sở hệ lưu
giữ thông tin địa lý, quá trình phân loại được tiến hàng bằng phương pháp

chồng sếp các bản đồ đơn tính để xây dựng bản đồ lập địa.
* Địa hình, khí hậu.
Đặc điểm nổi bật đất đai huyện SaPa là địa hình chia cắt phức tạp, chi
phối mạnh mẽ chế độ khí hậu, không chỉ theo quy luật đai cao mà còn đưa
đến sự phân hoá cục bộ chế độ nhiệt, ẩm do sườn có hướng phơi chắn hay
khuất gió.
BẢNG 1: DIỆN TÍCH CÁC KIỂU ĐỊA HÌNH, KHÍ HẬU HUYỆN SAPA
TT Kiểu địa hình - Khí hậu Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
Tổng 67.905,00 100
1 Núi cao - Á nhiệt đới ẩm 16.009,00 23,60
2 Núi trung bình - Á nhiệt đới ẩm 28.192,00 41,50
3 Núi thấp - Á nhiệt đới ẩm 12.103,00 17,8
4 Đồi – Nhiệt đới ẩm 3.581,00 5,30
5 Phù sa suối - Đất dốc tụ nhiệt đới ẩm 1.381,00 2,00
6 Núi đá - Đất khác 6.639,00 9,80
* Núi cao - Á nhiệt đới ẩm
Kiểu địa hình, khí hậu này phân bố hầu hết các xã miền Tây của
huyện. Địa hình chia cắt phức tạp, thảm thực vật phát triển, còn nhiều rừng
thực vật nguyên sinh trong khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên Sơn, còn
tiềm chứa nguồn đa dạng sinh học phong phú, dân cư phân bố thưa thớt, chủ
yếu là người H’Mông. Là địa hình chỉ nên phát triển thuần tuý Lâm nghiệp
bảo vệ rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn.
* Núi thấp - Á nhiệt đới ẩm
Phân bố hầu hết các xã trong huyện. Ở đây, trước kia rừng còn tốt,
hiện đã bị tác động của tự nhiên và con nguời một số nơi chỉ còn lại rừng
nghèo và đồi núi trọc. Dân cư tập trung chủ yếu là người H’Mông, Dao là
địa hình cần được khoanh nuôi, tái sinh và bảo vệ rừng song song với phát
triển kinh tế để cải thiện đời sống cho nhân dân thông qua các mô hình
Nông - Lâm kết hợp.
* Đồi – Nhiệt đới ẩm

Phân bố hầu hết ở các xã, nhất là các xã trong vùng hạ huyện. Với đặc
điểm nổi bật là có diện tích đất trống, đồi núi trọc chiếm tỷ lệ lớn, đang
được phân hoá thành:
- Khu vực khoanh nuôi phục hồi rừng.
- Đất sản xuất Nông - Lâm của các hộ gia đình.
- Tiếp đến là đất trống đồi núi trọc.
Đây là địa bàn sinh sống của các dân tộc H’Mông, Dao, Xạ Phó, Thái,
Tày, Kinh,... cần có chính sách khuyến nông, khuyến lâm tích cực để nông
dân có đủ khả năng phát triển kinh tế vườn, trang trại, kinh tế R-VAC vốn
rất phù hợp với điều kiện tự nhiên và nguyện vọng của nông dân trong vùng.
* Phù sa suối - Đất dốc tụ nhiệt đới ẩm
Phần lớn là đất sản xuất lương thực (lúa nước, màu), cây công nghiệp,
cây ăn quả, rau màu... Đất được sử dụng tương đối triệt để, ổn định. Nhiều
mô hình Nông - Lâm nghiệp kết hợp xuất hiện và đã cho hiệu quả kinh tế.
Tóm lại : Tài nguyên đất của huyện Sa Pa đa dạng và phong phú, đất
còn tốt và phù hợp với nhiều loại cây trồng, song vẫn có những khó khăn
như điều kiện địa hình chia cắt phức tạp, độ dốc lớn, độ mưa trong năm cao,
tỷ lệ che phủ của rừng thấp. Chính vì vậy, một số đất đai bị sói mòn, rửa trôi
dẫn đến nghèo kiệt, bạc màu. Để bảo về và phát huy tiềm năng đất đai của
Sa Pa có hiệu quả, việc bảo vệ, phát triển rừng và phương thức canh tác bền
vững trên đất dốc với hệ thống cây trồng hợp lý là vấn đề cần quan tâm hàng
đầu hiện nay. Kết quả phân tích cho thấy ở huyện Sa Pa có 6 loại hình sử
dụng đất:
- Phát triển rừng và cây dược liệu có diện tích 23.394 ha.
- Phát triển rừng cộng Nông Lâm kết hợp có diện tích 22.619 ha.
- Nông Lâm kết hợp cộng dược liệu có diện tích 323 ha.
- Nông Lâm kết hợp và trồng cây ăn quả có diện tích 13.172 ha.
- Cây công nghiệp cộng cây ăn quả có diện tích 377 ha.
- Cây lương thực và rau màu có diện tích 1.381 ha.
Còn việc chọn cây cụ thể là tuỳ thuộc vào đặc điểm của đất đai, ở đây

tôi chưa có điều kiện để nghiên cứu chi tiết.
4. Tài nguyên rừng.
• Diện tích các loại rừng
Tổng diện tích tự nhiên huyện Sa Pa là 67.905 ha, trong đó;
- Diện tích có rừng là 22.618 ha chiếm 33,3%.
- Rừng tự nhiên là 20.543 ha, chiếm 30,3% diện tích tự nhiên của
huyện và chiếm 90,8% diện tích có rừng, trong đó:
- Rừng gỗ: 19.679 ha chiếm 95,8% diện tích rừng tự nhiên.
+ Rừng giàu: 1.482 ha, trữ lượng bình quân 197 m
3
/ha.
+ Rừng trung bình: 3.607 ha, trữ lượng bình quân 147 m
3
/ha.
+ Rừng nghèo: 5.068 ha trữ lượng bình quân 77 m
3
/ha.
+ Rừng phục hồi: 9522 ha, trữ lượng bình quân 44 m
3
/ha.
Rừng che lứa, vầu chiếm 4,2% diện tích rừng tự nhiên.
Rừng trồng: 2075 ha chiếm 3% diện tích toàn huyện, tổng trữ lượng
57.828 m
3
. Bao gồm các loại cây Sa mộc, tống quán sủi, bồ đề, trẩu....
Ngoài ra, dưới tán rừng hiện nay có khoảng 1.400 ha thảo quả và các
loại dược liệu khác.
Như vậy, độ che phủ của rừng Sa Pa thấp, 33,3% . Trong đó rừng giàu
chỉ còn 7,2% diện tích rừng tự nhiên, còn lại rừng đã bị tác động, đặc biệt là
diện tích rừng nghèo, rừng phục hồi, chiếm 71% diện tích rừng tự nhiên.

Rừng trồng chiếm tỷ lệ thấp, trong đó diện tích đất trống đồi núi trọc
còn rất lớn; 34.641 ha, nó phản ánh tiềm năng lớn về đất đai song cũng là
thách thức lớn trong công tác trồng rừng, phục hồi rừng ở Sa Pa.
• Tài nguyên thực vật:
Đặc điểm khu hệ thực vật rừng Sa Pa: Do tính chất khí hậu thổ
nhưỡng như đã trình bày, nên rừng của Sa Pa pha trộn giữa nhiệt đới, á nhiệt
đới, và ôn đới núi cao với 6 kiểu rừng.
- Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới.
- Rừng kín thường xanh cây lá rộng nhiệt đới gió mùa núi thấp.
- Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới gió mùa trên mức
trung bình.
- Rừng kín thường xanh hỗn giao cây lá rộng, lá kim.
- Rừng lá kim nhiệt đới núi cao (rừng rêu).
- Rừng cây lùn đỉnh núi.
• Tài nguyên động vật rừng
Huyện Sa Pa có hệ động vật rừng phong phú, kết quả điều tra động
vật rừng của vườn quốc gia Hoàng Liên có 37 loài động vật quý hiếm được
ghi trong sách đỏ Việt Nam, bao gồm: 15 loài thú, 5 loài chim, 16 loài bò
sát lưỡng cư.
Trong đó có các loài như : Hổ, Báo, Vượn, Lợn rừng, Công, Trăn,…
Chính vì vậy, khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên Sơn đã được Nhà
nước ra Quyết định 194 - CT/1986 là một trong 87 khu bảo tồn quốc gia.
Ngày 11/1/1994, UBND tỉnh Lao Cai có Quyết định số 25 - QĐUB v/v phê
chuẩn dự án khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên Sơn rộng 29.831 ha, trong
đó huyện Sa Pa có 22.281 ha chiếm 74,7% diện tích khu bảo tồn. Và năm
1998 Chính phủ đã có Quyết định nâng khu bảo tồn lên thành vườn quốc
gia Hoàng Liên Sơn.
5. Tài nguyên nhân lực
Huyện Sa Pa có 7 dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó: người
H’Mông chiếm 53%. Dao 26%. Kinh 12,8%, Dáy 2,5%, Sa phó, Tày, Thái

5,7%. Tỷ lệ trong đó các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Mèo - Dao chiếm
97,9% Mường - Kinh chiếm 12,8%, các nhóm khác 8,2%.
Thực tế cho thấy mỗi dân tộc thường cư trú trên từng địa bàn nhất
định với phong tục tập quán riêng biệt thể hiện bản sắc văn hoá của dân tộc
mình. Căn cứ vào địa bàn cư trú, phong tục tập quán của từng dân tộc có thể
chia làm 2 nhóm:
Nhóm người Tày, Thái, Kinh sống ở vùng thấp, gần nguồn nước có
điều kiện giao thông thuân lợi, sản xuất lúa nước là chủ yếu, kết hợp làm
nương rẫy cố định, và phát triển chăn nuôi, một bộ phân đồng bào người
Kinh kết hợp buôn bán, kinh doanh nghề phụ, dịch vụ du lịch. Nhìn chung
nhóm đồng bào này có tổ chức buôn làng và gia đình khá chặt chẽ, đồng bào
có cuộc sống ổn định, trình độ dân trí khá.
Nhóm ngưòi H’Mông, Sa Phó, Dao, Dáy; họ thường sinh sống ở vùng
cao, vùng sâu, nơi gần rừng có nguồn nước, giao thông đi lại khó khăn. Kinh
tế nương rẫy là nguồn sống chính, ngoài ra, còn kết hợp chăn nuôi, thu lượm
sản phẩm có trong rừng, sản xuất và đời sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên
nên mùa màng bấp bênh, đồng bào thường xuyên thiếu đói và phải nhận sự
trợ giúp từ phía Nhà nước.
Tổng số lao động của huyện Sa Pa (1999) là 14.466 người chiếm
42,2% dân số, trong đó: Lao động nông nghiệp chiếm 95%, còn lại 5% là
khối cán bộ CNV Nhà nước, dịch vụ, sản xuất, buôn bán. Trong 95% lao
động nông nghiệp thì trồng trọt là chủ yếu với một vụ sản xuất. Do đó thời
gian dành cho sản xuất nông nghiệp chỉ chiếm 1/3 – 1/2 trong năm thời gian
còn lại không có việc làm. Nguồn lao động này nếu được tổ chức và biết
khai thác sử dụng hợp lý sẽ phát triển thêm nhiều ngành nghề khác tạo thêm
nhiều sản phẩm cho xã hội. Ngoài lực lượng lao động trong độ tuổi của
huyện còn có nguồn lao động phụ có khả năng tham gia lao động với
khoảng 3.000 người.
Như vậy, nếu tính cả lao động phụ thì tổng số lao động có thể chiếm
tới 50% dân số đây là nguồn lao động lớn, ngoài sản xuất nông nghiệp, có

thể tham gia phát triển các ngành thủ công, du lịch, lâm nghiệp cũng như
trồng và chế biến dược liệu.
6. Tài nguyên du lịch Sa Pa:
“Sa Pa thác bạc, cầu mây
Đào lê táo mận ngất ngây lòng người”
“Sa Pa hè mát hơn thu
Chỉ làn gió nhẹ cũng ru lòng người”...
Đó là những câu thơ mà bất cứ người con của huyện Sa Pa nào cũng
như người Lào Cai nào cũng có thể lấy làm câu mời mọc thân tình bạn bè
gần xa lên thăm quê hương mình. Sa Pa là nơi được thiên nhiên ban phú cho
một vùng tiểu khí hậu “Hè mát hơn thu”, với cảnh trí tuyệt vời, có núi cao
trùng điệp, khí hậu mát mẻ, không khí trong lành, không gian yên tĩnh.
Đồng bào dân tộc Sa Pa tuy trải qua nhiều bước thăng trầm của lịch sử
nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hoá riêng của mình. Sự hoà đồng giữa thiên
nhiên và con người Sa Pa đã tạo ra những sản phẩm du lịch đa dạng của địa
phương như du lịch văn hoá, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch
thể thao, du lịch mạo hiểm, du lịch nghiên cứu khoa học... Đây cũng là lợi
thế so sánh vượt trội so với nhiều địa phương khác trong cả nước. Tất cả đã
tạo cho Sa Pa thành một điểm du lịch ngày càng hấp dẫn du khách trong và
ngoài nước.
7. Tài nguyên dược liệu
7.1. Quá trình hình thành vùng dược liệu của Sa Pa
Sa Pa là một huyện vùng cao của Lào Cai, lại nằm trên dãy núi
Hoàng Liên Sơn chạy xuyên suốt tử Tây Bắc xuống Tây Nam, có đỉnh
Fanxipăng cao 3.143 mét, do đó ảnh hưởng lớn đến việc chi phối đặc điểm
địa hình cũng như khí hậu của Sa Pa. Đó là điều kiện thiên nhiên đặc biệt
của huyên, tạo cho Sa Pa một thế mạnh về tiềm năng cây thuốc. Theo những
kết quả điều tra đã được công bố trong thành phần tài nguyên thực vật
phong phú ở Lào Cai, có tới vài trăm loài cây được sử dụng làm thuốc. Dãy
Hoàng Liên Sơn có khoảng 2.027 loài cây trong đó khoảng 328 loài có công

dụng làm thuốc. Đặc biệt là sự hiện diện phong phú của nhiều loài cây thuốc
quý á nhiệt đới và ôn đới như Hoàng Liên chân gà, Tam thất, Sâm trúc tiết,
Hoàng Liên ô rô, Hoàng Liên gai, Kim tuyến, Bảy lá một hoa, Đồng thời do
có khí hậu á nhiệt đới núi cao, lại là huyện nằm trong tỉnh có đường biên
giới với Trung Quốc nên có khả năng trồng được một số loài cây thuốc bắc
đầu vị di thực từ Trung Quốc có giá trị như: Đương quy, Bạch truật, Mộc
hương, Xuyên khung, Bạch chỉ, Đẳng sâm, Đỗ trọng, Hoàng Bá. Đại diện
cho sự phong phú về cây thuốc của Lào Cai chính là Sa Pa.
Từ những năm 1960 đến nay, nguồn cây dược liệu mọc tự nhiên cũng
như cây dược liệu trồng ở Sa Pa thường xuyên được khai thác, thu mua,
cung cấp một số lượng lớn các dược liệu quý phục vụ cho nhu cầu làm thuốc
trong nước và xuất khẩu. Song bên cạnh đó, do khai thác dược liệu nhiều
năm liên tục, cộng với sự suy giảm nơi cư trú truyền thống, dẫn đến tình
trạng cạn kiệt nguồn nhiên liệu thiên nhiên, nhiều loài cây thuốc quý hiện
nay trữ lượng bị giảm sút nghiêm trọng và có nguy cơ tuyệt chủng. Mặt
khác, rừng thường xuyên bị chặt phá do nhiều nguyên nhân: khai thác gỗ,
lấy củi làm chất đốt, phá rừng làm nương dẫy làm cho môi trường sống của
cây dược liệu bị thu hẹp. Thêm vào đó, một nguyên nhân hết sức quan trọng
là do cơ chế thị trường (tính bất ổn), công tác dược liệu ở Sa Pa có nhiều sự
thay đổi không ổn định có lúc thừa, có lúc thiếu, sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm dược liệu mang tính tự phát không có kế hoạch làm cho cây dược liệu
nói chung và cây dược liệu được trồng nói riêng chưa phát huy được thực sự
trong lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội, vai trò xoá đói giảm nghèo ở Sa Pa.
Hiện nay, việc quy hoạch bảo tồn và phát triển cây dược liệu là nhiệm
vụ chiến lược đã được xác định trong chính sách quốc gia về cây thuốc của
Việt Nam. Nghị định số 37/CP ngày 20/6/96 của Chính phủ cũng nêu rõ:
”Chọn lọc, bảo tồn, phát triển nguồn gen và giống cây thuốc. Kế hoạch hóa

×