Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúcvà sinh trưởng của rừng Cao su (Hevea brasiliensis) trồng thuần loài tạitỉnh Bình Phước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.54 KB, 81 trang )

LỜI CẢM ƠN
Luận văn tốt nghiệp với đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc
và sinh trưởng của rừng Cao su (Hevea brasiliensis) trồng thuần loài tại
tỉnh Bình Phước” được hoàn thành trong chương trình đào tạo Đại học chính
quy khóa 53 (2008 – 2012) tại Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam.
Trong quá trình học tập và thực hiện Luận văn, tôi nhận được sự quan
tâm và sự giúp đỡ của Ban Giám hiệu Nhà trường, Khoa Lâm học, Khoa Kinh
tế và quản trị kinh doanh và các thầy cô giáo Trường Đại học Lâm nghiệp.
Nhân dịp này cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành
đến Ban Giám hiệu, Khoa Lâm học, Khoa Kinh tế và quản trị kinh doanh, các
thầy cô giáo Trường Đại học Lâm nghiệp và đặc biệt là T.S Cao Danh Thịnh,
Th.S Lương Thị Phương – những người hướng dẫn khoa học – đã tận tình truyền
đạt kiến thức chuyên môn và những kinh nghiệm quý báu cùng những tình cảm
tốt đẹp nhất dành cho tôi trong quá trình hoàn thành Luận văn này.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn các anh chị, bạn bè, người thân đã
giúp đỡ, động viên tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thành Luận văn.
Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù bản thân đã có nhiều cố
gắng nhưng chắc chắn còn nhiều thiếu sót, hạn chế. Rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo, các nhà khoa học để
Luận văn được hoàn thiện hơn cũng như nâng cao kiến thúc phục vụ cho
những nghiên cứu sau này.
Tôi xin cam đoan số liệu thu thập, kết quả tính toán trong Luận văn là
trung thực và được trích dẫn rõ ràng.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, Ngày 20 tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Hoàng Văn Hùng
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu Tên gọi Đơn vị
D
1.3


Đường kính ngang ngực thân cây cm
D
t
Đường kính tán lá cây M
E
x
Độ nhọn
H
vn
Chiều cao thân cây vút ngọn M
H
dc
Chiều cao thân cây dưới cành M
N Dung lượng mẫu Cây
OTC Ô tiêu chuẩn
P% Hệ số chính xác
r Hệ số tương quan
R
2
Hệ số xác định
S Độ lệch chuẩn
S% Hệ số biến động %
S
2
Phương sai mẫu
S
k
Độ lệch
Trung bình mẫu m/ cm…
MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC BIỂU
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 4.1: Phân bố thực nghiệm và lý thuyết N/D
1.3
dạng Weibull 46
Hình 4.2: Phân bố thực nghiệm và lý thuyết N/H
vn
dạng Weibull 47
Hình 4.3: Phân bố thực nghiệm và lý thuyết N/D
t
dạng Weibull 48
Hình 4.4: Biểu đồ tương quan H
vn
/D
1.3
theo dạng phương trình H
vn
= a.D
1.3
b
. 54
Hình 4.5: Biểu đồ tương quan D
t
/D
1.3
theo dạng phương trình D
t
= a +b.D
1.3
.57

Hình 4.6: Biểu đồ tương quan H
dc
/D
1.3
theo dạng phương trình H
dc
= a.b
D
62
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cây Cao su chiếm vị trí quan trọng trong nền nông-lâm nghiệp nước ta,
là một trong những cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Mới đây, ngày
17-9-2008, Bộ NN-PTNT đã ban hành Quyết định 2855 QĐ/BNNPTNT-
KHCN, theo đó cây Cao su được xác định là loài cây đa mục đích, có thể sử
dụng cả cho các mục đích nông nghiệp và lâm nghiệp. Ngoài sản phẩm chính
là mủ, mỗi ha Cao su hàng năm còn có thể cung cấp khoảng 450kg hạt, có thể
ép được 56kg dầu phục vụ cho công nghệ chế biến sơn, xà phòng, thức ăn
chăn nuôi và làm phân bón rất tốt. Sau chu kì kinh doanh mủ, thân cây được
chặt lấy gỗ với trữ lượng bình quân từ 130 – 258 m
3
/ha phục vụ cho chế biến
đồ gỗ gia dụng và xuất khẩu. Gỗ Cao su được đánh giá cao vì có thớ gỗ dày,
ít co, màu sắc hấp dẫn, được đánh giá như loại gỗ “thân thiện với môi trường”
Cây Cao su đã được trồng ở Việt Nam hơn 100 năm nay và trải qua 100
năm, diện tích cây Cao su ở Việt Nam đã tăng lên rõ rệt. Hiện tại Việt Nam là
nước sản xuất cao su đứng thứ 5 và đứng thứ 3 về lượng xuất khẩu trên thế giới.
Ngoài ra, năng suất khai thác đứng thứ 4 trong 9 nước thành viên của Hiệp hội
các quốc gia sản xuất cao su thiên nhiên (ANRPC) và khoảng cách với 3 nước
đứng đầu không quá xa. Tại Việt Nam, cây Cao su được trồng nhiều ở các tỉnh
miền Đông Nam Bộ, chủ yếu là Bình Phước, Bình Dương, Tây Ninh, Vũng Tàu.

Khu vực này có điều kiện khí hậu và đất đai phù hợp cho cây Cao su phát triển.
Hiện tại, diện tích trồng cao su ở nước ta là 780,000ha, chiếm 34% tổng diện tích
cây công nghiệp lâu năm và cũng là cây công-lâm nghiệp có diện tích trồng lớn
nhất cả nước. Trong đó diện tích khai thác khoảng gần 500,000 ha. Trong
khoảng 5 năm năm trở lại đây, nhờ vào giá trị xuất khẩu mang lại, được chính
phủ quan tâm nên cây cao su được trồng tái canh luân phiên, nhờ vậy mà năng
suất khai thác được cải thiện đáng kể. Nếu như trong những năm 2001, năng suất
chỉ ở mức 1.3 tấn/ha thì đến năm 2010, con số này tăng lên 1.689 tấn/ha và đứng
thứ 4 trong 9 nước thành viên ANRPC. Bên cạnh việc trồng tái canh, diện tích
6
Cao su còn được mở rộng tại các tỉnh Tây Nguyên như KonTum, Gia Lai, Đăk
Lắc và miền núi Phía Bắc như Lào Cai.
Có nền tảng là đất nước có lịch sử trồng Cao su lâu đời với điều kiện tự
nhiên, đất đai rất phù hợp để phát triển cây Cao su và tính đến cuối năm 2010,
diện tích khai thác cao su chỉ chiếm 62% tổng diện tích trồng cao su, do đó
tiềm năng khai thác còn khá lớn. Kỳ vọng về một tương lại không xa, cây Cao
su sẽ góp phần đưa kinh tế nông-lâm nghiệp nước ta giàu mạnh, đưa nước ta
trở thành cường quốc về công nghiệp Cao su thiên nhiên.
Để làm được những điều đó, cần nhiều hơn nữa những sự quan tâm từ
ban ngành, các đơn vị kinh tế và quan trọng nhất vào lúc này là cần có nhiều
hơn nữa những công trình nghiên cứu, những ý tưởng khoa học thực tế, có
chất lượng để hoàn thiện hơn các nghiên cứu về cây Cao su, góp phần phát
triển cây Cao su một cách tốt nhất. Tính đến thời điểm cuối năm 2010 thì các
nghiên mới chỉ đề cập đến việc trồng, chăm sóc, khai thác, chế biến gỗ và tính
chất cơ lý gỗ, mà chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện và đầy đủ về
cấu trúc và sinh trưởng cây Cao su. Nhằm góp phần bổ sung và hoàn thiện
hơn các công trình nghiên cứu về cây Cao su, đề tài “ Nghiên cứu một số đặc
điểm cấu trúc và sinh trưởng của rừng Cao su (Hevea brasiliensis) trồng
thuần loài tại tỉnh Bình Phước” được thực hiện. Với mục tiêu xây dựng các cơ
sở dữ liệu về cấu trúc rừng, các quy luật cấu trúc được mô phỏng bằng các dạng

hàm phân bố, các mối tương quan cơ bản của các chỉ tiêu sinh trưởng được biểu
thị bằng các phương trình toán học đơn giản, làm cơ sở tài liệu cho công tác điều
tra rừng, giúp rút ngắn thời gian và công sức điều tra thực tế, tiết kiệm chi phí,
điều này có ý nghĩa rất lớn cho công tác điều tra rừng hiện nay.
7
PHẦN 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan đối tượng nghiên cứu.
1.1.1. Trên thế giới
Cây Cao su có nguồn gốc từ Nam Mỹ, sau này được đưa đi trồng ở các
nước Châu Á, Châu Phi. Cây Cao su có khả năng thích ứng rộng, tính chống
chịu cao, là cây công nghiệp có giá trị kinh tế lớn. Vì vậy những công trình
nghiên cứu về cây Cao su đã được nhiều tác giả đề cập.
Năm 1873, những cố gắng thử nghiệm đầu tiên trong việc trồng cây
Cao su ra ngoài phạm vi Brazin đã được tiến hành. Sau một thời gian, 12 hạt
giống đã nảy mầm tại Vườn thực vật Hoàng gia Kew. Những cây con này đã
được gửi tới Ấn Độ để gieo trồng nhưng chúng đều đã chết. Đến năm 1975,
sau những nghiên cứu tiếp theo đã có khoảng 70.000 hạt giống được gửi tới
Kew trong đó có khoảng 4% hạt giống đã nảy mầm. Năm 1876, những cây
giống đã được gửi tới Ceylon và các Vườn thục vật tại Singapo. Sau đó, cây
Cao su đã có mặt tại các vườn thực vật ở Buitenzorg, Malaysia vào năm 1893.
Năm 1898, một đồn điền Cao su đã được thành lập tại Malaysia. Đến nay
phần lớn diện tích trồng Cao su nằm tại Đông Nam Á và một số tại khu vực
Châu Phi nhiệt đới.
Bên cạnh những mục tiêu tạo tuyển giống cây Cao su có năng suất mủ
cao, khả năng chống chịu bệnh tốt và thích nghi với môi trường thì tiêu chí
năng suất gỗ cao cũng trở thành tiêu chí quan trọng trong chọn giống Cao su
vì gỗ nhu cầu gỗ Cao su ngày càng cao. Để đáp ứng được mục tiêu đó,
Malaysia đã đặt mục tiêu tạo tuyển giống Cao su đạt năng suất bình quân 3,5
tấn mủ/ha/năm và năng suất gỗ toàn cây đạt 1,5m
3

/cây vào cuối chu kì kinh
doanh.
Hiện nay, Indonesia là nước trồng Cao su lớn nhất Thế giới. Tại nước
này người ta thành lập các tổ chức hỗ trợ cho việc phát triển Cao su như: NES
(Nuclear Eatate Schemes – Kế hoạch đại điền hạt nhân ) nhằm hỗ trợ sự phát
8
triển diện tích canh tác mới của cây Cao su cho thành phần nông dân nghèo
không có đất. Tổ chức này ký hợp đồng với nhà nước và sử dụng đại điền làm
hạt nhân để hỗ trợ sự phát triển tiểu điền xung quanh như xây dựng cơ sở hạ
tầng, hỗ trợ trồng và chăm sóc vườn cây cho tới khi khai thác.
Năm 1899, Thái Lan cho nhập Cao su từ Java thuộc Indonesia về trồng
tại tỉnh Trang, vùng Tây Nam, sau đó cây Cao su đã lan sang phía Nam và
phía Đông của nước này. Ngày nay, Thái Lan đã phát triển nhân giống Cao su
ra phía Bắc và Đông Bắc. Thái Lan cũng có các tổ chức hỗ trợ cho việc phát
triển Cao su tiểu điền như ORRAF (Office of the Rubber Auction Market –
Chợ đấu giá trung tâm)…(Nuchanat Na – Ranong), 2006 [27]
Trước năm 1990, Malaysia là nước trồng và sản xuất cao su thiên nhiên
hàng đầu thế giới, sản lượng Cao su đạt cao nhất là 1,,661,000 tấn vào năm
1988. Malaysia là một điển hình trong nghiên cứu chọn lọc và khuyến cáo
giống Cao su thích nghi theo điều kiện sinh thái của môi trường để tối ưu hóa
tiềm năng của giống cây. Việc phân vùng chủ yếu dựa trên mức độ gây hại
Cao su như bệnh Nấm hồng, bệnh rụng lá phấn trắng, bệnh héo đen đầu lá và
bệnh rụng lá Corynesposa.
Ấn Độ cũng đã nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật canh tác thích hợp
để phát triển cây Cao su ở ngoài vùng thyền thống ( từ vĩ độ 15
0
– 20
0
Bắc ),
kết quả đạt được rất khả quan và năng suất cây Cao su có thể đạt được trên

1,5 tấn/ha/năm (S.K.Dey và T.K.Pal, 2006) [28]
Trung Quốc là nước trồng Cao su rất đặc thù so với các nước khác. Các
yếu tố bất lợi cơ bản đối với cây Cao su ở Trung Quốc là khí hậu mùa đông
lạnh, đối với một số vùng như đảo Hải Nam thì thường xuyên đối diện với sự
gây hại của gió bão, để hạn chế tác hại của các yếu tố không thuận lợi, Trung
Quốc đã nghiên cứu và áp dụng những biện pháp kỹ thuật canh tác và tạo
hình thích hợp đối với từng vùng trồng Cao su cụ thể. Kết quả là năng suất
của một số vùng như XishuaBana thuộc tỉnh Vân Nam năng suất mủ đạt bình
quân trên 2 tấn/ha/năm với các giống PR 107, RRIM 600 và GT1. Hai giống
9
mới có khả năng chống chịu lạnh và khô hạn tốt là Vân Nghiên 77-2, Vân
Nghiên 77-4 (Xiong Daiqun và Jiang Jusheng, 2006) [29]
Ngày nay, trên thế giới đã có xu hướng phát triển Cao su mới đó là
trồng Cao su theo mô hình nông lâm kết hợp để thay thế dần cho mô hình
trồng Cao su độc canh (Laxman Joshi, Eric Penot, 2006) [26]
1.1.2. Ở Việt Nam
Năm 1897, bác sỹ Yersin đã du nhập thành công cây Cao su vào Việt
Nam và vườn Cao su đầu tiên được ông trồng tại Suối Dầu – Nha Trang. Đầu
thế kỷ XX, cây Cao su được trồng tại Đông Nam Bộ và đến đầu thập kỷ 50
được trồng tại một số vùng Tây Nguyên, miền Trung và một số vùng phía
Bắc (Đặng Văn Vinh, 2000) [24]
Vào năm 1976, diện tích Cao su nước ta có khoảng 76.600 ha cho sản
lượng chỉ khoảng 40.200 tấn ( năng suất bình quân là 0,52 tấn/ha ). Hơn 30
năm phát triển với chính sách và đầu tư đúng đắn của Nhà Nước, kết hợp với
sự đóng góp của các thành phần kinh tế khác nhau và các tiến bộ khoa học kỹ
thuật, đến năm 2003 diện tích Cao su thuộc Tổng công ty Cao su Việt Nam là
215.610 ha, đưa vào khai thác 173,14 ha với năng suất bình quân 1,51
tấn/ha/năm (Lê Hồng Tiễn, 2006). Đến cuối năm 2007, tổng diện tích cả nước
đã đạt 549.000 ha, cho tổng sản lượng 601.700 tấn, đạt năng suất bình quân
1,612 tấn/ha/năm. Năng suất trên diện tích do Tập Đoàn Công nghiệp Cao su

Việt Nam quản lý đạt 1,716 tấn/ha/năm, cao hơn năng suất các nước sản xuất
cao hàng đầu như Thái Lan, Indonesia, Malaysia vốn có điều kiện tự nhiên
thuận lợi hơn Việt Nam. Song năng suất Cao su tiểu điền tại Việt Nam vẫn
còn thấp, bình quân đạt 1,44 tấn/ha/năm. Giá trị xuất khẩu của Cao su Việt
Nam không những tăng về số lượng mà còn tăng đáng kể về mặt chất lượng.
Trong năm 2007, Việt Nam đã xuất khẩu 741.000 tấn Cao su với 15 chủng
loại khác nhau mang về nguồn ngoại tệ gần 1,4 tỷ USD (Trần Thúy Hoa,
2008) [25]
10
Sau 110 năm cây Cao su được du nhập, hiện nay nước ta đang đứng thứ
6 trên Thế giới về sản lượng Cao su thiên nhiên và thứ 4 về xuất khẩu Cao su
thiên nhiên. Trong các vùng trồng Cao su chính ở Việt Nam thì Đông Nam
Bộ chiếm 67,4 % về diện tích nhưng đóng góp đến 78,55% về sản lượng,
đồng thời cũng là vùng đạt mức năng suất cao nhất nước. Tây Nguyên và
miền Trung là vùng có điều kiện khí hậu ít thuận lợi song cây Cao su vẫn phát
triển tương đối tốt và đạt sản lượng bình quân tương ứng là 1,36 tấn/ha/năm
và 1,172 tấn/ha/năm.
Tuy nhiên, có thể thấy rõ có sự chênh lệch khá lớn giữa năng suất vườn
Cao su giữa các đơn vị sản xuất thuộc Tập Đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam
(VRG), là đơn vị có năng lực và tích cực áp dụng kịp thời các tiến bộ các tiến bộ
kỹ thuật trong canh tác cây Cao su, với năng suất đạt trên 1,7 tấn/ha trong năm
2007. VRG đã thành lập câu lạc bộ 2 tấn để khuyến khích các đơn vị thành viên
nâng cao sản lượng. Tính đến cuối năm 2007 với 6 công ty gồm 61 nông trường
đã đạt năng suất bình quân trên 2 tấn/ha (VRG, 2007) [17]
Tác giả Tống Viết Thịnh đã có công trình nghiên cứu về đánh giá phân
hạng sử dụng đất trồng Cao su. Theo tác giả căn cứ vào mức độ hạn chế của
chỉ tiêu khí hậu (chế độ mưa, cân bằng nước, chế độ nhiệt, sương mù và tốc
độ gió) và 10 chỉ tiêu đất (tầng dày, thành phần cơ giới, độ phì, sỏi đá và độ
dốc). Áp dụng nguyên tắc của FAO để phân hạng sử dụng đất trồng Cao su
gồm 3 hạng đất phù hợp và 2 hạng đất không phù hợp. Từ năm 1990 đến nay,

tại các công ty Cao su Đông Nam Bộ và Tây Nguyên đã ứng dụng thành công
trên diện tích rộng. Trên các diện tích áp dụng phân hạng đất trồng Cao su
theo FAO, các cơ sở áp dụng để định suất đấu và khoán vườn cây hợp lý và
hiệu quả hơn, không còn hiện tượng vườn Cao su bị thanh lý do trồng trên đất
kém. Tiến bộ này được Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) chính
thức đưa vào áp dụng trong toàn nghành ( Tống Viết Thịnh, 2008 )[18]
Ngoài ra tác giả Tống Viết Thịnh cũng đã nghiên cứu về kỹ thuật bón
phân cho cây Cao su theo phương pháp chuẩn đoán dinh dưỡng. Căn cứ vào
11
mức độ thiếu hụt, thặng dư và tỷ lệ cân đối của từng nguyên tố dinh dưỡng
qua viêc phân tích và đánh giá hàm lượng dinh dưỡng trong đất và lá trên
vườn cây Cao su theo các thang chuẩn và căn cứ vào hiện trạng vườn cây
(giống, năng suất, sinh trưởng và lịch sử chăm sóc, bón phân vườn cây) để đề
xuất liều lượng và tỷ lệ các nguyên tố dinh dưỡng hợp lý, tạo ra sinh trưởng
và năng suất mủ vườn cây đạt hiệu quả kinh tế - kỹ thuật tối ưu.Từ năm 2002
đến nay, đã ứng dụng thành công trên diện rộng tại các công ty Cao su Đông
Nam Bộ và Tây Nguyên. Trên các diện tích bón phân theo chuẩn đoán dinh
dưỡng đã mang lại hiệu quả: tiết kiệm phân bón, gia tăng và ổn định sinh
trưởng và sản lượng mủ trong nhiều năm. Với các kết quả trên, từ năm 2004,
VRG đã chính thức đưa kỹ thuật bón phân theo chuẩn đoán dinh dưỡng vào
quy trình của ngành ( Tống Viết Thịnh, 2008)[19]
Về kỹ thuật khai thác, chăm sóc cây Cao su cũng có nhiều tác giả
nghiên cứu. Năm 2004, VRG đã xuất bản Quy trình kỹ thuật cây Cao su.
Trong quy trình này đã quy định rõ các biện pháp kỹ thuật trong quy trình sản
xuất, quy trình khai thác mủ và chăm sóc cây Cao su, quy trình bảo vệ thực
vật, phân hạng đất trồng cây Cao su. Những năm tiếp theo các nhà nghiên cứu
đã không ngừng đưa ra các cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất và sản
lượng cây Cao su. Tác giả Hà Văn Khương (2006) đã nghiên cứu để áp dụng
các tiến bộ khoa học – kỹ thuật vào vườn Cao su của Tổng công ty Cao su
Việt Nam [13].

Ở Việt Nam cây Cao su được phát triển trên nhiều vùng khác nhau,
ngoài Đông Nam Bộ thì còn có cả Tây Nguyên, duyên hải miền Trung và Tây
Bắc. Theo Nguyễn Thị Huệ (1997), Cao su là loài cây dài ngày, được độc
canh trên vùng có khí hậu nóng ẩm nên đã có nhiều bệnh xuất hiện và gây hại
làm ảnh hưởng không nhỏ đến sinh trưởng và sản lượng của cây Cao su. Tác
giả Phan Thành Dũng đã theo dõi trong thời gian từ năm 1996 - 2005, có 7
loại bệnh gây hại chính đến sinh trưởng và sản lượng cây Cao su, trong đó có
3 loại mới xuất hiện là nứt vỏ do nấm Botrydiplodia theobromae Pat (1998),
12
bệnh rụng lá Corynespora (1999) và rễ nâu do nấm Phellinus (Corner) G.H.
Cunn (2002). Các loại bệnh gây hại cho cây Cao su tại nước ta chủ yếu là do
nấm và một số tác nhân không truyền nhiễm khác, không có Mycoplasma, vi
rút, vi khuẩn, tuyến trùng (theo Phan Thành Dũng, 2006)[2]
Với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của phong trào trồng Cao su nên
diện tích đất thuộc vùng Đông Nam Bộ (vốn là vùng truyền thống trồng cây
Cao su của nước ta) đã không còn đáp ứng được, đã có nhiều nghiên cứu để
đưa Cao su ra ngoài vùng truyền thống. Năm 1994, Viện nghiên cứu Cao su
phối hợp với Trung tâm Cây ăn quả Phú Hộ (nay thuộc Viện KHKT nông lâm
nghiệp miền núi phía Bắc) đã đưa vào khảo nghiệm hàng chục giống Cao su
tại Phú Hộ (Phú Thọ, vĩ độ 21,27
0
B)[8]. Qua kết quả theo dõi cho thấy tại Phú
Hộ với điều kiện khí hậu môi trường đặc trưng cho vùng trung du miền núi
phía Bắc (khí hậu lạnh, mùa đông kéo dài, gió lốc…) ảnh hưởng xấu đến cây
Cao su. Nhưng hiện cây Cao su tại đây vẫn sinh trưởng tương đối tốt và hiện
tại đang cho khai thác mủ với năng suất tương đối ổn định, đạt 60 – 70% năng
suất bình quân Cao su của Đông Nam Bộ[10]
Năm 1996, Nguyễn Hải Đường có công trình “Phòng trừ sâu bệnh và
cỏ dại cho cây Cao su”
Năm 1997, Nguyễn Khoa Chi có công trình “Kỹ thuật trồng, chăm sóc

và chế biến Cao su”
Năm 2001, Phạm Ngọc Nam có công trình “Nghiên cứu cơ sở khoa học
và công nghệ chế biến gỗ Cao su”
Năm 2001, Trần Ngọc Kham có công trình “Đánh giá hiệu quả kinh tế
của mô hình trồng Cao su phủ xanh đất trống sau nương rẫy ở Đăk Lắc”. Kết
quả cho thấy về lâu dài cây Cao su mang lại lợi ích tư nhân và lợi ích xã hội
lớn hơn hệ thống nương rẫy truyền thống. Bên cạnh đó còn cho thấy được
triển vọng kết hợp các nông hộ vào các chương trình phủ xanh đất trống sau
nương rẫy bằng cây Cao su.
13
Sau này các tác giả như: Trần Hợp, Ngô Văn Hoàng, Đặng Đình Bôi,
Nguyễn Thị Vinh…cũng đã đưa ra một số công trình nghiên cứu về cây Cao su.
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu về mô hình cấu trúc và sinh trưởng rừng đã được nhiều tác
giả trên Thế giới và Việt Nam đề cập từ những năm đầu thế kỷ XX. Những
nghiên cứu này đều có xu hướng xây dựng cơ sở có tính khoa học và lý luận
phục vụ công tác kinh doanh rừng hiệu quả. Bước đầu đi từ định tính đến định
lượng với quy luật tự nhiên, góp phần giải quyết nhiều vấn đề trong kinh
doanh rừng.
Sinh trưởng cây rừng và lâm phần là trọng tâm của sản lượng rừng, nó
có tính chất nền tảng để nghiên cứu các phương pháp dự đoán sản lượng cũng
như hệ thống các biện pháp tác động nhằm nâng cao năng suất của rừng. Có
nhiều hướng, nhiều phương pháp khác nhau khi nghiên cứu cấu trúc và sinh
trưởng của lâm phần. Ở châu Âu vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vấn đề
quy luật phân bố số cây ổn định theo tần số và tần suất ở các cỡ tự nhiên về
chiều cao, đường kính, thể tích… đã được nhiều tác giả công bố. Nhiều vấn
đề nghiên cứu cấu trúc và sản lượng rừng trước đây còn nặng về nghiên cứu
định tính, mô tả thì nay đã được nghiên cứu định lượng. Định hướng nghiên
cứu cấu trúc và sản lượng rừng đã được các nhà khoa học khái quát dưới dạng
các mô hình toán học từ đơn giản đến phức tạp nhằm định lượng các quy luật

của tự nhiên, nhờ đó đã giải quyết được nhiều vấn đề trong kinh doanh rừng,
đặc biệt trong lĩnh vực lập biểu chuyên dụng phục vụ công tác điều tra dự
đoán sản lượng cũng như xây dựng hệ thống các biện pháp kinh doanh, nuôi
dưỡng rừng cho từng đối tượng cụ thể.
Cho đến nay, các thành tựu trong nghiên cứu về cấu trúc, sinh trưởng
rừng của nhân loại là rất đồ sộ. Vì thế, trong khuôn khổ một đề tài luận văn
tốt nghiệp, tôi chỉ khái quát một số công trình tiêu biểu trong và ngoài nước
có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài làm cơ sở cho việc lựa chọn
phương pháp nghiên cứu.
14
1.2.1. Trên thế giới
1.2.1.1. Nghiên cứu quy luật cấu trúc đường kính thân cây (N/D
1.3
)
Quy luật phân bố số cây theo cỡ đường kính (N/D) là một trong các chỉ
tiêu quan trọng nhất của cấu trúc rừng và đã được nghiên cứu khá đầy đủ từ
cuối thế kỷ trước. Để nghiên cứu mô tả quy luật này, hầu hết các tác giả đã
dùng phương pháp giải tích, tìm các phương trình toán học dưới dạng nhiều
phân bố xác suất khác nhau. Các công trình tiêu biểu về lĩnh vực này có kể
đến các công trình sau:
Balley (1973) sử dụng hàm Weibull, Schifel (theo Phạm Ngọc
Giao(1995)[4]), Naslund (1936, 1937) xác lập quy luật phân bố Charlier cho
phân bố N/D của lâm phần thuần loài, đều tuổi sau khép tán (theo Phạm Ngọc
Giao (1995)[4]). Drachenko, Svalov sử dụng phân bố Gamma biểu thị phân
bố số cây theo đường kính lâm phần Thông ôn đới.
Đặc biệt để tăng tính mềm dẻo, một số tác giả đã dùng họ hàm khác
nhau như: Loetch (1973) (theo Phạm Ngọc Giao (1995)[4]) dùng họ hàm
Beta; Roemisch, K (1975) nghiên cứu khả năng dùng hàm Gama mô phỏng
sự biến đổi của phân bố đường kính cây rừng theo tuổi. Lembeke, Knapp và
Ditima (theo Phạm Ngọc Giao (1975)[4]) sử dụng phân bố Gamma với các

tham số thông qua các phương trình biểu thị mối tương quan giữa tuổi và
chiều cao tầng trội như sau:
b = a
0
+ a
1
. +a
2
. (1.1)
P = a
0
+ a
1
.A + a
2
.A
2
(1.2)
α = a
0
+a
1
.h
100
+ a
2
.A +a
3
.A.h
100

(1.3)
Clutter, J.L và Allison, B.J (1973) (theo Phùng Nhuệ Giang (2003)[3])
dùng đường kính bình quân cộng, sai tiêu chuẩn đường kính và đường kính
nhỏ nhất để tính các tham số của phân bố Weibull với giả thiết các đại lượng
này quan hệ với tuổi, mật độ lâm phần.
1.2.1.2. Nghiên cứu quy luật quan hệ giữa chiều cao với đường kính thân cây
15
Đây cũng là một trong những quy luật cơ bản và quan trọng trong hệ
thống các quy luật cấu trúc lâm phần.
Qua nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy, chiều cao tương ứng với
mỗi cỡ kính luôn tăng theo tuổi, đó là kết quả tự nhiên của sinh trưởng. Trong
mỗi cỡ kính xác định, ở các cấp tuổi khác nhau cây rừng sẽ thuộc các cấp sinh
trưởng khác nhau. Khi nghiên cứu sự biến đổi theo tuổi của quan hệ giữa
chiều cao và đường kính ngang ngực, Tiourin, A.V (1972) (theo Phạm Ngọc
Giao (1975)[4]) đã rút ra kết luận: “ Đường cong chiều cao thay đổi và luôn
dịch chuyển lên phía trên khi tuổi tăng lên”. Kết luận này cũng được Vagui,
A.B (1955) khẳng định. Pordan, M (1965) ; Haller, K.E (1973) cũng phát hiện
ra quy luật: “Độ dốc đường cong chiều cao có chiều hướng giảm dần khi tuổi
tăng lên”. Critis, R.O (1967) đã mô phỏng quan hệ giữa chiều cao và đường
kính theo dạng phương trình:
logh = d +b
1
. +b
2
. + b
3
. (1.4)
Kelen, R (1971) kiến nghị: Để mô phỏng sự biến đổi của quan hệ giữa
chiều cao và đường kính theo tuổi trước hết phải tìm phương trình thích hợp
cho lâm phần, sau đó xác lập mối qua hệ của các tham số theo tuổi.

Một số tác giả như: Tovstolesse, D.I (1930) sử dụng cấp đất và cấp tuổi làm
cơ sở để nghiên cứu tương quan giữa chiều cao với đường kính ngang ngực.
Naslund, M (1929); Asamann, E (1936); Hohenald, W (1936);
Michailov, F (1934, 1952); Pordan, M (1944); Krenn, K (1946); Mayer, H.A
(1952)…dùng phương pháp giải tích toán học và đề nghị các dạng phương
trình dưới đây:
h = a +b
1
.d + b
2
.d
2
(1.5)
h = a +b
1
.d + b
2
.d
2
+b
3
.d
3
(1.6)
h - 1,3 = (1.7)
h = a +b.logd (1.8)
h = a +b
1
.d + b
2

.logd (1.9)
h = k.d
b
(1.10)
16
h – 1,3 = a.e
-b/d
(1.11)
Như vậy, để biểu thị tương quan giữa chiều cao với đường kính có thể
sử dụng nhiều dạng phương trình khác nhau. Việc sử dụng phương trình thích
hợp nhất cho đối tượng nào đó thì cần được nghiên cứu cụ thể. Nhìn chung,
để biểu thị đường cong chiều cao thì phương trình Parabol và phương trình
Logarit được sử dụng nhiều nhất.
1.2.1.3. Nghiên cứu quy luật quan hệ giữa đường kính tán với đường kính ngang ngực
(D
t
/D
1.3
)
Tán cây thể hiện sức sống, khả năng sinh trưởng, tăng trưởng nên nó có
quan hệ mật thiết với sinh trưởng đường kính ngang ngực. Nghiên cứu của
nhiều tác giả đã khẳng định điều đó như : Zieger; Erich (1928); Cromer,
O.A.N; Ahken, JD (1948); Feree, Miller.J (1953); Hollerwoger.F (1954)…
Tùy theo loài cây và các điều kiện khác nhau, mối liên hệ này được thể hiện
khác nhau nhưng phổ biến nhất là dạng phương trình đường thẳng:
D
t
= a + b.D
1.3
(1.12)

1.2.1.4. Nghiên cứu sinh trưởng, tăng trưởng
Nghiên cứu sinh trưởng và dự đoán sản lượng rừng là nội dung chính
của khoa học sản lượng rừng được hình thành và phát triển đầu tiên ở Châu
Âu từ thế kỷ XIX. Sự phát triển của khoa học sản lượng rừng gắn liền với tên
tuổi của các nhà khoa học như : Oettlt, G. Baur, Borggreve, Breymann, H.
Cotta, Draudt, M. Hartig, E. Weise, H. Thomasius… [7]
Nhìn chung những nghiên cứu về sinh trưởng của cây rừng, lâm phần,
được xây dựng thành các mô hình toán học và được công bố trong các công
trình nghiên cứu của Mayer, H.A và D.D Stevenson (1943), Schumacher, F.X
và Coil, T.X (1960), Alder (1980), Clutter, J,L; Allison, B.J (1973)…
Vì vậy có thể khái quát quá trình phát triển của môn khoa học tăng
trưởng, sản lượng rừng thành 2 phương hướng:
- Đo đạc lặp lại nhiều năm các chỉ tiêu sinh trưởng trong các ô định vị đại diện
cho các lâm phần nghiên cứu để biết cả quá trình phát sinh, phát triển, già cỗi
17
và tiêu vong. Phương hướng này đòi hỏi quá nhiều thời gian nên sau này được cải
tiến bằng cách lựa chọn những lâm phần có cùng hoàn cảnh sinh trưởng nhưng
khác nhau về tuổi gọi là nằm trong một “dãy phát triển tự nhiên”.
- Giải tích thân cây đại diện mỗi lâm phần khác nhau về các nhân tố cần nghiên
cứu, để có số liệu tăng trưởng đầy đủ từ khi bắt đầu tròng hoặc tái sinh.
Sau đó áp dụng kỹ thuật phân tích thống kê toán học, phân tích tương
quan và hồi quy để xác định sản lượng gỗ của lâm phần. Trên thế giới số
lượng các hàm toán học mô tả quá trình sinh trưởng cũng rất phong phú như
hàm: Gompertz (1825), Verhulst (1845), Mitscherlich (1919), Kovessi (1929),
Pettrrson (1929), Levacovic (1935), Korsun (1935), Peshel (1938), Korf
(1930), Verkbulet (1952), Michailov (1953), Drakin (1957), Richards
(1959),Thomasius (1965), Simes (1966), Sless (1970),Sloboda (1971),
Schumacher (1980). Hàm sinh trưởng là mô hình sinh trưởng đơn giản nhất
mô tả quá trình sinh trưởng của cây rừng cũng như lâm phần. Dựa vào hàm
sinh trưởng có thể biết trước được giá trị lớn nhất của đại lượng sinh trưởng ở

tuổi cuối cùng và tính trước được tốc độ sinh trưởng cực đại.
Dạng hàm sinh trưởng của Gompertz (1825):
y = m. (1.13)
Trong đó: y: hàm sinh trưởng của nhân tố điều tra
A: tuổi cây (hay tuổi rừng)
m,b,c: những tham số của phương trình
Tiếp sau đó là các hàm sinh trưởng của các tác giả như: Korsun,
Assamann Frane, Schumacher, Korf…
Năm 1973, Wenk chứng minh hàm Gompertz là kết quả của một giả
thuyết vi phân đơn giản về tốc độ sinh trưởng tương đối:
(1.14)
Từ đó, có thể đi tới phương trình biểu thị tốc độ sinh trưởng tương đối
của hàm Gompertz như sau:
= b.c
1
. (1.15)
18
Các hàm dùng để mô phỏng quy luật sinh trưởng đều có dạng phức tạp,
biểu diễn quá trình sinh học phức tạp của cây rừng hoặc lâm phần. dưới sự chi
phối tổng hợp của các nhân tố nội tại và ngoại cảnh [3].
Tổng kết các công trình trên có thể nhận xét rằng: bằng phương pháp
nghiên cứu từ mô tả định tính chuyển dần sang định lượng dưới dạng các mô
hình toán học là một trong những hướng nghiên cứu thể hiện sự phát triển
vượt bậc trong nghiên cứu các quy luật sinh học của cây rừng hoặc lâm phần.
Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu sự thay đổi về số lượng của đại lượng sinh
trưởng theo thời gian của mỗi tác giả đều có những hướng nghiên cứu giải
quyết vấn đề đều khác nhau.
1.2.2. Ở Việt Nam
1.2.2.1. Nghiên cứu quy luật cấu trúc đường kính thân cây
Tác giả Đồng Sỹ Hiền (1974)[8] đã chọn hàm Pearson với 4 họ đường

cong khác nhau để biểu diễn phân bố số cây theo cỡ đường kính rừng tự
nhiên. Nguyễn Hải Tuất (1975, 1982, 1990) sử dụng hàm Mayer, khoảng cách
biểu diễn cấu trúc rừng thứ sinh. Nguyễn Văn Trương (1983)[20] sử dụng
phân bố Poisson nghiên cứu, mô phỏng quy luật cấu trúc đường kính thân cây
cho đối tượng rừng hỗn giao khác tuổi.
Nghiên cứu của Vũ Văn Nhâm (1988)[15] và Vũ Tiến Hinh (1990)[6]
cho thấy, có thể dùng phân bố Weibull với hai tham số để biểu thị phân bố
N/D cho những lâm phần thuần loài, đều tuổi như Thông đuôi ngựa (Pinus
masoniana), Thông nhựa (Pinus merkusii), Mỡ (Manglietia glauca) và Bồ đề
(Styrax tonkinensis).
Phạm Ngọc Giao (1995)[4] khi nghiên cứu quy luật N/D cho Thông
đuôi ngựa vùng Đông Bắc đã chứng minh tính thích ứng của hàm Weibull và
xây dựng mô hình cấu trúc đường kính cho lâm phần Thông đuôi ngựa.
Nguyễn Ngọc Lung (1999) đã thử nghiệm 3 hàm phân bố: Poisson,
Charlier, Weibull khi nghiên cứu số cây theo cỡ đường kính cho rừng Thông ba
19
lá ở Việt Nam đã rút ra kết luận: Hàm Charlier, là hàm phù hợp nhất, tính toán
đơn giản hơn.
1.2.2.2. Nghiên cứu quy luật quan hệ giữa chiều cao với đường kính thân cây
Phạm Ngọc Giao (1995)[4] sử dụng phương trình Logarit một chiều để
mô tả quan hệ H/D của các lâm phần Thông đuôi ngựa.
h = a + b.log d (1.16)
Tác giả Bảo Huy (1993) đã thử nghiệm bốn phương trình tương quan
H/D cho từng loài ưu thế là: Bằng lăng, Cẩm xe, Kháo và Chiêu liêu ở rừng
rụng lá và nửa rụng lá. Phương trình như sau:
h = a + b.d
1.3
(1.17)
h = a + b.log d
1.3

(1.18)
log h = a + b.d
1.3
(1.19)
log h = a + b.log d
1.3
(1.20)
Tác giả chọn được phương trình thích hợp nhất là: log h = a + b.log d
1.3
1.2.2.3. Nghiên cứu quy luật quan hệ giữa đường kính tán với đường kính ngang ngực
Vũ Đình Phương (1985) (theo Phùng Nhuệ Giang (2003)[3]) đã khẳng
định mối liên hệ mật thiết giữa đường kính tán và đường kính ngang ngực tồn
tại ở dạng phương trình đường thẳng. Tác giả đã thiết lập phương trình tương
quan D
t
/D
1.3
cho một số loài cây lá rộng như : Ràng ràng, Lim xanh, Vạng
trứng, Chò chỉ ở lâm phần hỗn giao khác tuổi phục vụ công tác điều chế rừng.
Phạm Ngọc Giao (1995[4]) đã xây dựng mô hình động thái tương quan
D
t
và D
1.3
để xác lập phương trình D
t
= a + b.D
1.3
tại một thời điểm nào đó với
tham số b của phương trình là một hàm của chiều cao tầng trội với lâm phần

Thông đuôi ngựa khu Đông Bắc.
Ngoài ra còn nhiều tác giả khác cũng đã đề cập tới việc nghiên cứu quy
luật này như: Vũ Tiến Hinh, Trần Cẩm Tú, Ngô Kim Khôi, Lê Sáu, Nguyễn
Ngọc Lung…
1.2.2.4. Nghiên cứu sinh trưởng, tăng trưởng
20
Nghiên cứu sinh trưởng và tăng trưởng quần thể cây rừng đã được tác
giả Phùng Ngọc Lan khảo nghiệm bằng một số phương trình sinh trưởng đã
sử dụng ở Châu Âu, áp dụng cho một số loài cây như Mỡ, Thông nhựa, Bồ
đề, Bạch đàn và rừng tự nhiên trong nước. Tác giả cho thấy đường cong sinh
trưởng thực nghiệm và đường cong sinh trưởng lý thuyết cắt nhau tại một
điểm.
Tác giả Nguyễn Trọng Bình (1996), thông qua cơ sở lý thuyết của hàm
ngẫu nhiên đã nghiên cứu mối quan hệ kỳ vọng toán và phương sai của biến
ngẫu nhiên ba loài Thông đuôi ngựa, Thông nhựa và Mỡ cho từng đại lượng
sinh trưởng (D
1.3
, H
1.3
) ở các thời điểm khác nhau là một trong những cơ sở
quan trọng để xem xét vấn đề phân cấp năng suất các lâm phần thuần loài [1].
Phạm Ngọc Giao (1986, 1989), với việc mô phỏng động thái cấu trúc
đường kính lâm phần Thông đuôi ngựa ở các cấp kính khác nhau làm cơ sở
cho lập biểu sản lượng cho rừng Thông đuôi ngựa ở khu Đông Bắc.
Vũ Tiến Hinh (1993), đã thử nghiệm các dạng hàm sinh trưởng: Korf,
Schumacher, Gompertz để mô tả quy luật sinh trưởng chiều cao ưu thế cho
các lâm phần Thông đuôi ngựa. Tác giả đã đưa ra nhận xét hàm Korf là hàm
thích hợp nhất. Kết quả là sử dụng hàm Korf là cơ sở để phân chia cấp đất và
sử dụng phương pháp Affill để lập biểu cấp đất cho rừng Thông đuôi ngựa .
Nguyễn Thị Bảo Lâm (1996) đã sử dụng hàm Korf mô phỏng sinh

trưởng chiều cao tầng trội và thay đổi đồng thời hai tham số để xác định
đường cong chỉ thị cấp đất cho rừng Thông đuôi ngựa [14].
Trịnh Đức Huy (1988) đã phân tích những quy luật sinh trưởng Bồ đề
theo các điều kiện sinh thái khác nhau bằng các phương trình định lượng toán
học, trong đó các biến sinh thái đã được “số hóa”. Kết quả nghiên cứu là
những quy luật chung của lâm phần, cho một vùng nghiên cứu tương đối
rộng, chứ không phải cho từng cây rừng hay địa phương cụ thể [11].
Hoàng Xuân Y (1997) đã tiến hành phân chia cấp đất bằng chiều cao cây
có tiết diện bình quân (Hg). Tác giả thử nghiệm các hàm Korf, Schumacher,
21
Gompertz và chọn hàm Schumacher để mô phỏng sinh trưởng chiều cao cho
rừng Mỡ (M.glauca) trồng tại Trung tâm nghuyên liệu giấy.
Phạm Xuân Hoàn (2001) đã sử dụng hàm Gompertz để nghiên cứu quá
trình sinh trưởng của các lâm phần Quế ở Yên Bái [9].
Ngoài ra, nhiều tác giả khác như: Vũ Văn Nhâm, Bảo Huy, Trần Văn
Con, Hoàng Văn Dưỡng…đã nghiên cứu sinh trưởng cây rừng theo xu hướng
toán học hóa. Việc mô phỏng mang tính chất định lượng cho quá trình sinh
trưởng của cây rừng hay lâm phần là không thể thiếu trong khoa học hiện nay,
nhằm đưa ra được những cơ sở thực tiễn trong kinh doanh rừng hợp lý.
22
PHẦN 2: MỤC TIÊU – NỘI DUNG – PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu.
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá được tình hình sinh trưởng và đặc điểm cấu trúc rừng Cao su
trồng thuần loài đều tuổi, từ đó làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất một số
biện pháp kỹ thuật lâm sinh
2.1.2. Mục tiêu cụ thể:
- Nghiên cứu được cấu trúc rừng trồng Cao su tại khu vực nghiên cứu
- Nghiên cứu được các chỉ tiêu sinh trưởng chủ yếu của rừng trồng Cao

su tại khu vực nghiên cứu.
- Đề xuất được một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh tác động.
2.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là rừng trồng Cao su thuần loài, đều tuổi.
- Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu một số đặc điểm sinh trưởng và cấu trúc của rừng Cao su
thuần loài tại tỉnh Bình Phước.
2.3. Nội dung nghiên cứu:
Căn cứ vào mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài, nội dung được
xác định như sau:
2.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc
2.3.1.1. Nghiên cứu quy luật phân bố số cây theo cỡ đường kính (N/D
1.3
)
2.3.1.2. Nghiên cứu quy luật phân bố số cây theo chiều cao (N/H
vn
)
2.3.1.3. Nghiên cứu quy luật phân bố số cây theo đường kính tán (N/D
t
)
2.3.1.4. Nghiên cứu quan hệ tương quan giữa chiều cao vút ngọn và
đường kính thân cây (H
vn
/ D
1.3
)
23
2.3.1.5. Nghiên cứu tương quan giữa đường kính tán với đường kính ngang
ngực (D

t
/D
1.3
)
2.3.1.6. Nghiên cứu tương quan giữa chiều cao dưới cành với đường kính
ngang ngực (H
dc
/D
1.3
)
2.3.2. Nghiên cứu các chỉ tiêu sinh trưởng.
2.3.2.1. Nghiên cứu sinh trưởng đường kính ngang ngực (D
1.3
)
2.3.2.2. Nghiên cứu sinh trưởng chiều cao cây (H
vn
)
2.3.2.3. Nghiên cứu sinh trưởng đường kính tán (D
t
)
2.3.3. Đặc điểm và giá trị sử dụng cây Cao su
2.3.4. Đề xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh tác động
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Quan điểm và phương pháp luận
Sinh trưởng của cây rừng và quần thể rừng chịu tác động tổng hợp của
nhiều nhân tố sinh thái khác nhau như: điều kiện khí hậu, địa hình, thổ
nhưỡng, loài cây, tuổi cây, cấu trúc hình thái và biện pháp kỹ thuật tác động.
Trong một khu vực hẹp, khi điều kiện ngoại cảnh tương đối đồng nhất và với
biện pháp kỹ thuật chăm sóc tương tự thì nhân tố quan trọng có tác động phân
hóa sức sinh trưởng của rừng là nhân tố mật độ. Đây là một nhân tố nội tại,

một nhân tố cấu trúc hình thái có ảnh hưởng xuyên suốt trong toàn bộ đời
sống của rừng. Vì vậy, việc điều tiết nhân tố này sẽ kéo theo sự thay đổi sức
sản xuất của rừng và chất lượng rừng theo chiều hướng tốt lên hay xấu đi.
Cấu trúc lâm phần là cơ sở khoa học chủ yếu của các phương pháp thống
kê dự đoán trữ lượng. sản lượng rừng và tính toán các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật
trong kinh doanh, điều chế rừng. Đồng thời là cơ sở định hướng cho việc đề
xuất các biện pháp lâm sinh thích hợp. Việc nghiên cứu tìm hiểu các quy luật
cấu trúc rừng nhằm xây dựng cấu trúc rừng hợp lý. Tận dụng tối đa các tiềm
năng của điều kiện lập địa, phân phối hài hòa giữa các nhân tố cấu trúc để tiến
tới tạo nên một quần thể rừng có sản lượng. tính ổn định và chức năng phòng
24
hộ cao nhất. Như vậy. việc nghiên cứu cấu trúc rừng không chỉ có ý nghĩa về
mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
Cấu trúc lâm phần là một lĩnh vực tổng hợp rất phong phú và đa dạng.
bao gồm nhiều quy luật tự nhiên mang tính khách quan phản ánh trung thực
diện mạo rừng với bản chất của nó ( đối với rừng không bị tác động ), song nó
cũng phản ánh chân thực mức độ cũng như hướng tác động của con người
vào lâm phần ( đối với những lâm phần đang bị tác động ).
Sinh trưởng cây rừng là sự tăng lên về kích thước của cây rừng theo thời
gian và không gian và không gian có chiều ngược lại. Nói cách khác. Sinh
trưởng của cây rừng là sự tăng lên về kích thước của đường kính, chiều cao
Như vậy, khi nghiên cứu. đánh giá về sinh trưởng của cây rừng chúng ta phải
tiến hành một cách tổng hợp các bộ phận của cây như: Đường kính, chiều cao,
đường kính tán… theo thời gian phát triển của cây rừng. Sinh trưởng của cây
cá lẻ là một bộ phận trong sinh trưởng của lâm phần. Vì vậy đánh giá sinh
trưởng cây rừng đơn lẻ là xem xét trong một mối quan hệ khăng khít giữa các
cây này cũng chính là đánh giá sinh trưởng của cả lâm phần. Có thể nói, sinh
trưởng chính là nguồn gốc của phát triển. Đối với cây rừng cũng vậy, trong
một giai đoạn nhất định cây rừng liên tục sinh trưởng, khi đạt được một lượng
về chất nhất định cây rừng có sự thay đổi về chất và bước sang một giai đoạn

phát triển khác. Vì vậy, khi đánh giá sự phát triển của cây rừng cần phải thực
hiện trong nhiều giai đoạn khác nhau và xem xét trong mối liên hệ mật thiết
với sự sinh trưởng của cây.
2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu.
2.4.2.1. Phương pháp kế thừa:
Đề tài đã kế thừa và sử dụng một số tài liệu liên quan như:
- Sử dụng số liệu thu thập được từ đề tài cấp bộ: Lập biểu thể tích thân
cây Cao su trồng thuần loài tại Đông Nam Bộ (Chủ nhiệm đề tài: TS. Cao
Danh Thịnh)
- Những tài liệu về điều kiện tự nhiên, khí hậu thủy văn, tài nguyên rừng
25

×