ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TẠ ĐỨC TRỌNG
TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC THEO HƯỚNG PHÁT HUY
NĂNG LỰC TƯ DUY SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRƯỜNG
CHUYÊN KHI DẠY CHƯƠNG “CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN”
VẬT LÝ 10 NÂNG CAO
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Thái Nguyên - 2012
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TẠ ĐỨC TRỌNG
TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC THEO HƯỚNG PHÁT HUY
NĂNG LỰC TƯ DUY SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRƯỜNG
CHUYÊN KHI DẠY CHƯƠNG “CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN”
VẬT LÝ 10 NÂNG CAO
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học vật lý
Mã số: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS.
Tô Văn Bình
Thái Nguyên - 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố trong
một công trình nào khác.
Thái nguyên, tháng 8 năm 2012
Tác giả
Tạ Đức Trọng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Tô Văn Bình, người
đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Khoa sau đại học, Ban
chủ nhiệm Khoa Vật lý trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên; Ban
giám hiệu trường THPT chuyên Thái Nguyên, đã tạo điều kiện cho tôi trong
suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tổ bộ môn Vật lý trường THPT chuyên
Thái Nguyên tỉnh Thái Nguyên, trường THPT chuyên Lê Quý Đôn tỉnh Điện
Biên đã tạo điều kiện cho tôi tiến hành thực nghiệm sư phạm.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, bạn bè đồng nghiệp
và các học viên cùng lớp đã cộng tác, động viên, giúp đỡ tôi trong thời gian
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
TÁC GIẢ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục i
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt iv
Danh mục các bảng v
Danh mục các biểu đồ, đồ thị vi
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ CÁC BIỆN PHÁP TỔ
CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC THEO HƯỚNG PHÁT HUY NĂNG
LỰC TƯ DUY SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRƯỜNG CHUYÊN 4
1.1. Tư duy sáng tạo 4
1.1.1. Khái niệm về tư duy sáng tạo 4
1.1.2. Đặc điểm và các đặc trưng cơ bản của tư duy sáng tạo 6
1.1.3. Những phẩm chất của người nghĩ sáng tạo 7
1.1.4. Điều kiện của tư duy sáng tạo 7
1.2. Mối liên hệ giữa tư duy sáng tạo với các phẩm chất trí tuệ khác 10
1.2.1. Mối liên hệ giữa tính tự giác, tích cực, tính tự lực và tư duy
sáng tạo 10
1.2.2. Mối liên hệ giữa tri thức và tư duy sáng tạo 12
1.2.3 Mối quan hệ giữa năng lực giải quyết vấn đề và tư duy sáng
tạo 12
1.2.4. Mối quan hệ giữa tự học và tư duy sáng tạo 13
1.3. Năng lực sáng tạo của học sinh 14
1.3.1. Năng lực sáng tạo 14
1.3.2. Những quan niệm về năng lực sáng tạo ở học sinh 15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
1.3.3. Những biểu hiện của năng lực sáng tạo của học sinh 16
1.3.4. Cách kiểm tra đánh giá năng lực sáng tạo của học sinh 17
1.4. Quan niệm về dạy và học 18
1.4.1. Bản chất của hoạt động dạy 18
1.4.2. Bản chất của hoạt động học 18
1.5. Thực trạng dạy học theo hướng phát huy năng lực tư duy sáng tạo
của học sinh trường chuyên. 20
1.5.1. Chức năng, nhiệm vụ của trường chuyên 20
1.5.2. Đặc điểm của học sinh trường chuyên 20
1.5.3. Thực trạng dạy học vật lý theo hướng phát huy năng lực tư
duy sáng tạo của học sinh ở trường THPT 21
1.6. Các biện pháp tổ chức hoạt động dạy học vật lí theo hướng phát
huy năng lực tư duy sáng tạo của học sinh trường chuyên 22
1.6.1. Dạy học vật lý theo chu trình sáng tạo 22
1.6.2 Vận dụng dạy học nêu vấn đề 24
1.6.3. Hướng dẫn học sinh tự học 31
1.6.4. Luyện tập giải các bài toán sáng tạo 34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 36
Chương 2. THIẾT KẾ TIẾN TRÌNH DẠY HỌC MỘT SỐ KIẾN
THỨC CHƯƠNG “CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN” VẬT LÝ 10
NÂNG CAO THEO HƯỚNG PHÁT HUY NĂNG LỰC TƯ DUY
SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRƯỜNG CHUYÊN 37
2.1. Nội dung kiến thức và kĩ năng cần hình thành trong chương “Các
định luật bảo toàn” – Sách giáo khoa Vật lý 10 nâng cao 37
2.2. Tìm hiểu thực tế dạy học chương “Các định luật bảo toàn”- Sách
giáo khoa Vật lý 10 nâng cao ở trường phổ thông 42
2.2.1. Mục đích điều tra 42
2.2.2. Phương pháp điều tra 42
2.2.3. Kết quả điều tra 42
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
2.3 Thiết kế tiến trình dạy học một số kiến thức chương “Các định luật
bảo toàn” nhằm phát huy năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh
trường chuyên 44
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 84
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 85
3.1. Mục đích, nhiệm vụ của thực nghiệm sư phạm 85
3.1.1.Mục đích của TNSP 85
3.1.2. Nhiệm vụ của TNSP 85
3.2. Đối tượng và phương pháp thực nghiệm sư phạm 85
3.2.1. Đối tượng TNSP 85
3.2.2. Phương pháp TNSP 86
3.3. Phương pháp đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm 87
3.3.1. Căn cứ để đánh giá 87
3.3.2. Cách đánh giá, xếp loại 88
3.4. Tiến hành thực nghiệm sư phạm 88
3.4.1. Công tác chuẩn bị 88
3.4.2. Diễn biến cụ thể các tiến trình dạy học đã soạn thảo 89
3.4.3. Nhận xét chung 91
3.5. Kết quả và xử lý kết quả thực nghiệm sư phạm 92
3.5.1. Yêu cầu chung về xử lý kết quả TNSP 92
3.5.2. Kết quả TNSP 93
3.6. Đánh giá chung về thực nghiệm sư phạm 103
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 105
KẾT LUẬN 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
PHỤ LỤC 110
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
1.
BTLT Bài tập luyện tập
2.
BTST Bài tập sáng tao
3.
ĐC Đối chứng
4.
GV Giáo viên
5.
HS Học sinh
6.
PP Phương pháp
7.
PPDH Phương pháp dạy học
8.
THCS Trung học cơ sở
9.
THPT Trung học phổ thông
10.
TN Thực nghiệm
11.
TNSP Thực nghiệm sư phạm
12.
SGK Sách giáo khoa
13.
SGV Sách giáo viên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Phân phối nội dung kiến thức chương “Các định luật bảo toàn” 39
Bảng 3.2. Hứng thú và mức độ tích cực của học sinh sau khi thực nghiệm sư phạm 93
Bảng 3.3. Kết quả kiểm tra lần 1 94
Bảng 3.4. Xếp loại bài kiểm tra số 1 95
Bảng 3.5: Phân phối tần suất kết quả bài kiểm tra số 1 96
Bảng 3.6. Kết quả kiểm tra lần 2 97
Bảng 3.7: Xếp loại bài kiểm tra số 2 98
Bảng 3.8: Phân phối tần suất kết quả bài kiểm tra số 2 99
Bảng 3.9. Kết quả kiểm tra lần 3 100
Bảng 3.10. Xếp loại bài kiểm tra số 3 101
Bảng 3.11. Phân phối tần suất kết quả bài kiểm tra số 3 102
Bảng 3.12. Thống kê kết quả của 3 lần kiểm tra 103
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vi
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Hình 1.1. Cấu trúc tâm lý của hoạt động 19
Hình 1.2: Chu trình sáng tạo V.G. Ra-zu-mốp-xki 23
Hình 2.1. Sơ đồ logic các nội dung kiến thức trong chương “Các định luật
bảo toàn” 40
Hình 2.2. Sơ đồ tiến trình khoa học xây dựng kiến thức định luật bảo toàn
động lượng 48
Hình 2.4: Sơ đồ khoa học xây dựng kiến thức định luật bảo toàn cơ năng 62
Hình 2.5: Sơ đồ khoa học xây dựng kiến thức “Biến thiên cơ năng. Công của
lực không phải lực thế” 63
Hình 2.9: Sơ đồ khoa học tiến trình giải bài tập 74
Biểu đồ 3.1. Xếp loại bài kiểm tra số 1 95
Đồ thị 3.1: Đường phân phối tần suất bài kiểm tra số 1 96
Biểu đồ 3.2: Xếp loại bài kiểm tra số 2 98
Đồ thị 3.2. Đường phân phối tần suất bài kiểm tra số 2 99
Biểu đồ 3.3 Xếp loại bài kiểm tra số 3 101
Đồ thị 3.3. Đường phân phối tần suất bài kiểm tra số 3 102
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, do sự phát triển nhanh của khoa học kĩ thuật và sự bùng nổ thông
tin, kho tàng tri thức của nhân loại ngày càng phong phú và đồ sộ dẫn đến mâu
thuẫn giữa thời gian dạy học trong nhà trường và lượng kiến thức cần trang bị cho
học sinh ngày càng gay gắt. Để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước ngày càng cao, ngành giáo dục
phải đổi mới toàn diện từ nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học cho đến
phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập. Điều này được cụ thể hoá trong các
Nghị quyết Trung ương: Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII đã khẳng định phải
“khuyến khích tự học, áp dụng phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho
học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”. Nghị quyết Trung
ương 2 khoá VIII tiếp tục khẳng định “phải khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn
luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng phương pháp
tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời
gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh, nhất là sinh viên đại học”[28]. Điều 28
khoản 2 luật giáo dục 2005 có ghi “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo
nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động vào niềm vui
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”[2]
Việc áp dụng cụ thể phương pháp dạy học phát triển và rèn luyện năng lực tư
duy sáng tạo trong dạy học vật lý đã được một số tác giả thực hiện như: Lục Thị Na
- “Phát triển năng lực tự lực, sáng tạo của học sinh miền núi thông qua tổ chức
hoạt động giải bài tập Vật lý phân tử và nhiệt học ở lớp 10 Trung học phổ thông”;
Luận văn thạc sĩ ĐHSP Thái Nguyên năm 2005; Tô Đức Thắng - “Tiến trình thí
nghiệm biểu diễn nhằm phát triển tư duy học sinh THPT miền núi khi dạy một số
bài của chương "Chất khí" Vật lý lớp 10 - nâng cao” Luận văn thạc sĩ ĐHSP Thái
Nguyên năm 2007; Nguyễn Thị Huệ - “Tổ chức hoạt động dạy học theo hướng phát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
huy năng lực sáng tạo của sinh viên khi dạy chương "Cảm ứng điện từ - điện từ
trường", học phần điện học vật lý đại cương của các trường Cao đẳng Công
nghiệp” Luận văn thạc sĩ ĐHSP Thái Nguyên năm 2009; Nguyễn Thị Thu Hằng –
“Tổ chức hoạt động dạy học theo hướng phát huy năng lực tư duy sáng tạo cho sinh
viên của các trường cao đẳng, đại học khối Nông – Lâm - Ngư khi dạy phần “Nhiệt
học” trong chương trình Vật lý đại cương” Luận văn thạc sĩ ĐHSP Thái Nguyên
năm 2010. Các công trình này đã có thành công nhất định trong việc phát huy năng
lực tư duy sáng tạo cho sinh viên, học sinh nhưng đưa ra một biện pháp cụ thể cho
đối tượng là học sinh trường chuyên thì chưa có đề tài nào đề cập đến. Chính vì vậy
tôi chọn đề tài “Tổ chức hoạt động dạy học theo hướng phát huy năng lực tư duy
sáng tạo cho học sinh trường chuyên khi dạy chương “Các định luật bảo toàn” Vật
lý 10 nâng cao”
2. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng cơ sở lí luận dạy học để tổ chức hoạt động dạy học cho một số bài
học trong chương “Các định luật bảo toàn” Vật lý 10 nâng cao theo hướng phát huy
năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh trường chuyên.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quá trình dạy học chương “Các định luật bảo toàn”
Vật lý 10 nâng cao.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu giáo viên tổ chức hoạt động dạy học phù hợp với tiến trình nhận thức
Vật lý, vận dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề và chú ý rèn luyện phương pháp
tự học cho HS thì sẽ phát huy năng lực tư duy sáng tạo của học sinh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lí luận về dạy và học.
- Nghiên cứu lí luận về năng lực tư duy sáng tạo của học sinh.
- Đề xuất các biện pháp tổ chức dạy học theo hướng phát huy năng lực tư
duy sáng tạo.
- Nghiên cứu chương “Các định luật bảo toàn” Vật lý 10 nâng cao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
- Điều tra thực trạng về việc rèn luyện năng lực tư duy sáng tạo của học sinh
trường chuyên.
- Tổ chức hoạt động dạy học chương “Các định luật bảo toàn” Vật lý 10
nâng cao theo hướng phát huy năng lực tư duy sáng tạo.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở trường THPT nhằm xác định mức độ
phù hợp, đánh giá tính khả thi và hiệu quả của từng tiến trình và sau đó rút kinh
nghiệm để hoàn thiện chúng.
6. Giới hạn của đề tài
- Nghiên cứu một số biện pháp phát huy năng lực tư duy sáng tạo cho học
sinh khối tự nhiên, không chuyên lí của trường chuyên
7. Phương pháp nghiên cứu
a/ Nghiên cứu lí luận
b/ Điều tra và tổng kết kinh nghiệm sư phạm
c/ Thực nghiệm sư phạm
8. Đóng góp của đề tài
- Góp phần làm sáng tỏ hệ thống lý luận về dạy học theo hướng phát huy
năng lực tư duy sáng tạo của người học.
- Đề xuất một số giải pháp để giáo viên phát huy năng lực tư duy sáng tạo
cho học sinh trường chuyên.
- Tài liệu có thể dùng làm tham khảo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC
HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC THEO HƯỚNG PHÁT HUY NĂNG
LỰC TƯ DUY SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRƯỜNG CHUYÊN
1.1. Tư duy sáng tạo
1.1.1. Khái niệm về tư duy sáng tạo
Trước tiên, ta đi tìm hiểu về năng lực tư duy trong triết học. Triết học chỉ có
thể ra đời khi năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ phát triển
nhất định cho phép khái quát những hiểu biết riêng lẻ, rời rạc thành một hệ thống
những quan điểm và quan niệm chung về thế giới. Do đó nói đến lịch sử triết học
không thể không đề cập tới năng lực tư duy của con người, vốn là điều kiện ra đời
của triết học, song do tác động trở lại, triết học cũng là khoa học về những quy luật
chung nhất của tư duy.
Vào thời cổ đại, Arisotle là người đầu tiên biến tư duy thành đối tượng
nghiên cứu của triết học. Ông cho rằng tư duy cũng có những nguyên tắc tồn tại độc
lập và con người chứng minh phải theo đúng quy tắc ấy. Bởi vậy, ông đã xây dựng
phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch, đã tìm ra nguyên lý của sự chứng
minh tam đoạn luận và phân loại 10 phạm trù nhằm mở rộng cả hình thức và nội
dung của tư duy.
Đến thế kỷ 17, Desesceertes cũng đã có câu nói nổi tiếng về tầm quan trọng
của năng lực tư duy đối với sự tồn tại của con người trong vũ trụ: “Tôi tư duy, vậy
tôi tồn tại”. Nguyên lý cơ bản đó của ông mang ý nghĩa tiến bộ trong lịch sử, bởi nó
khẳng định rằng mọi khoa học chân chính đều phải xuất phát từ “sự nghi ngờ”, nghi
ngờ ở đây không phải là hoài nghi chủ nghĩa mà là “sự nghi ngờ về phương pháp
luận, nghi ngờ để đạt tới sự tin tưởng”, có nghĩa là tư duy.[3]
Tuy nhiên trong thời đại ngày nay, khi nhận thức của con người đã đạt tới
trình độ cao hơn, thì năng lực tư duy không còn giữ nguyên nghĩa mà đã trở thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
năng lực tư duy sáng tạo. Bởi lẽ con người ta không chỉ tư duy để có khái niệm về
thế giới mà còn sáng tạo nhằm thay đổi thế giới làm cho thế giới ngày càng tốt đẹp
hơn. Cũng chính vì thế mà người ta thường đòi hỏi nền giác dục phải trang bị cho
học sinh năng lực tư duy sáng tạo như là một phẩm chất quan trọng của con người
hiện đại, đặc biệt là từ khi thế giới đã bắt đầu chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức
và xã hội tri thức ở nước ta, yêu cầu đó cũng đã được nhiều nhà giáo dục đề nghị
đưa vào như là một nội dung quan trọng của một triết lý giáo dục cho nước ta trong
thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Tư duy sáng tạo là chủ đề của một lĩnh vực nghiên cứu còn mới. Nó nhằm
tìm ra các phương án, biện pháp thích hợp để kích hoạt khả năng sáng tạo và để đào
sâu rộng khả năng tư duy của một cá nhân hay một tập thể cộng đồng làm việc
chung về một đề tài hay lĩnh vực.
Theo nghĩa thông thường, sáng tạo là một tiến trình phát kiến ra các ý tưởng
và quan niệm mới, hay một kết hợp mới giữa các ý tưởng và quan niệm đã có. Hay
đơn giản hơn, sáng tạo là một hành động làm nên những cái mới. Việc rèn luyện năng
lực tư duy sáng tạo hiện nay thường gắn liền với một phương pháp nhận thức mới là
phương pháp giải quyết bài toán, với quan niệm mới xem rằng nhiệm vụ của khoa
học không phải (và cũng không thể) là tìm kiếm chân lý, mà là tìm kiếm lời giải cho
những bài toán mà con người liên tục gặp phải trong cuộc sống. Yếu tố cốt lõi của
phương pháp giải quyết bài toán là tư duy sáng tạo, sáng tạo trong việc xác định bài
toán, xác định các mục tiêu của bài toán, tạo sinh các ý tưởng bằng các thao tác trí tuệ
như tưởng tượng, phỏng đoán, so sánh với các ẩn dụ, đưa ra các giả thuyết, phê phán
và đánh giá các giả thuyết, rồi lựa chọn các lời giải, thực thi từng phần hoặc toàn bộ
một lời giải đã chọn, đánh giá các lời giải khả thi, sửa đổi để hoàn thiện lời giải, …
Theo định nghĩa trong từ điển (Việt Nam) thì sáng tạo là tìm ra cái mới, cách
giải quyết mới, không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có. Nội dung khái niệm sáng
tạo gồm hai ý chính: có tính mới (khác với cái cũ, cái đã biết).
Sáng tạo, nói một cách đơn giản là dám thách thức những ý kiến và phương
cách đã được mọi người chấp nhận để tìm ra những giải pháp hoặc khái niệm mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
1.1.2. Đặc điểm và các đặc trưng cơ bản của tư duy sáng tạo
1.1.2.1. Đặc điểm của tư duy sáng tạo
Không có khuôn mẫu tuyệt đối: Cho đến nay vẫn không có phương pháp vạn
năng nào để khơi dậy khả năng tư duy sáng tạo và các tiềm năng khổng lồ ẩn chứa
trong mỗi con người. Tùy theo đặc tính của đối tượng làm việc và môi trường tại
chỗ mà mỗi cá nhân hay tập thể có thể tìm thấy các phương pháp riêng thích hợp.
Không phức tạp trong thực nghiệm: Thực nghiệm của hầu hết các phương
pháp tư duy sáng tạo hiện nay rất đơn giản. Đa số các phương pháp đã được ghi sẵn
ra từng bước như là những thuật toán.
Hiệu quả cao: Các phương pháp tư duy sáng tạo, nếu sử dụng đúng chỗ đúng
lúc đều mang lại lợi ích rất cao, nhiều giải pháp được đưa ra chỉ nhờ vào phương
pháp tập kích não. Các phương pháp khác cũng đã hỗ trợ rất nhiều cho các nhà phát
minh, nhất là trong lĩnh vực kỹ thuật hay công nghệ.
Giảm thiểu được áp lực quá tải của lượng thông tin: bằng các phương án tư
duy có định hướng thì một hệ quả tất yếu là người nghiên cứu sẽ chọn lựa một cách
tối ưu những dữ liệu cần thiết, do đó tránh các cảm giác bối rối, mơ hồ, hay lạc lõng
trong rừng rậm của thông tin. [3]
1.1.2.2. Các đặc trưng cơ bản của tư duy sáng tạo
Theo Guiford và Loowenfield (hai nhà nghiên cứu Mĩ có công trình độc lập:
một người có nghiên cứu về tính sáng tạo khoa học, người kia về tính sáng tạo nghệ
thuật) đã thống nhất về tiêu chí của tính sáng tạo (1958): Có tính nhạy cảm về thế
giới, tính linh hoạt và năng động tư duy, có cá tính, năng khiếu biến đổi sự vật, tư duy
phân tích và tổng hợp, năng lực tổ chức.
1. Trong rất nhiều trường hợp quá trình sáng tạo đòi hỏi phải có sự tự lực
chuyển các tri thức và kĩ năng sang một tình huống mới, sự liên hệ giữa tri thức cũ
và tình huống mới càng xa nhau bao nhiêu thì độ sáng tạo càng cao.
2. Nhìn thấy vấn đề mới trong những điều kiện quen biết đúng quy cách.
3. Nhìn thấy chức năng mới của đối tượng quen biết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
4. Nhìn thấy cấu trúc của đối tượng nghiên cứu, thực chất là nhanh chóng nhìn
thấy cấu trúc của đối tượng như các bộ phận các yếu tố các mối quan hệ giữa chúng.
5. Kĩ năng nhìn thấy nhiều lời giải cho một bài toán, thực chất là tâm lí
chấp nhận những lời giải khác nhau, những cách giải quyết khác nhau xem xét
đối tượng ở những khía cạnh khác nhau đôi khi mâu thuẫn nhau.
6. Kĩ năng biết phối hợp các phương thức giải quyết vấn đề đã biến thành
một phương thức mới.
7. Kĩ năng sáng tạo một phương thức giải độc đáo khi đã biết các phương
thức giải mới.
Ngoài ra còn có thể bổ sung thêm những đặc trưng sau:
1. Biết kiểm tra đánh giá giải quyết vấn đề của bản thân và của những
người khác.
2. Biết điều chỉnh các phương án giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng và
phù hợp với điều kiện thực tiễn.
3. Tự chủ tin tưởng vào khả năng giải quyết các vấn đề, bản thân không nản
trí trước một vấn đề khó mà tìm mọi cách để có phương án giải quyết tốt nhất.
1.1.3. Những phẩm chất của người nghĩ sáng tạo
- Ðộc lập.
- Tự tin.
- Chấp nhận rủi ro.
- Nhiều năng lượng.
- Nồng nhiệt.
- Không gò bó.
- Thích phiêu lưu.
- Tò mò, hiếu kỳ.
- Nhiều sở thích.
- Hài hước.
- Trẻ con, hiếu động
- Biết nghi ngờ.
1.1.4. Điều kiện của tư duy sáng tạo
1. Ngày nay, khoa sinh lí học về lao động trí óc đã nói đến “quy luật quán
tính của tư duy”, nghĩa là khi nhà khoa học đang quan tâm theo đuổi một ý nghĩ nào
đó thì “luồng tư tưởng” có xu hướng tiếp diễn trong thời gian và không gian và đó
là quy luật của sự sáng tạo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
2. Hemhôn, một nhà vật lý, nói về quá trình sáng tạo của ông như sau:
“Theo như tôi nhớ rõ, thì những ý nghĩ hay không bao giờ đến trên bàn viết
khi óc đã mệt”[3]. Ông còn khẳng định sự thật sau đây: Bao giờ cũng cần phải
nghiên cứu trước một cách toàn diện vấn đề tới một mức độ để giữ lại được trong óc
mình những góc sắc cạnh, những khía cạnh phức tạp, có thể trở lại với chúng một
cách tự do, thoải mái mà không cần ghi chép. Thường nếu không có sự nghiên cứu
trước một cách lâu dài, bền bỉ thì sẽ không thể đưa vấn đề đến tình trạng đó được.
Sau đó, khi sự mệt mỏi do quá trình lao động đó qua đi, khi ta có một trạng thái hoàn
toàn trong sạch về thể chất, nhẹ nhõm về tinh thần, thì lúc đó những ý tưởng hay sẽ
đến. Thường chúng đến vào các buổi sáng khi chúng ta vừa tỉnh dậy, giống như điều
mà Goethe đã nói trong các bài thơ của ông, và đúng như đã có lần Gauss cũng nói,
các ý nghĩ hay “ưa" xuất hiện trong thời gian đi dạo nhẹ nhàng trong thời tiết có ánh
mặt trời, chỉ cần một ly rượu nhỏ là có thể làm mất hết những ý nghĩ trong đó.
3. Muốn tư duy sáng tạo trước hết cần nắm được những quy luật khách quan
của sự vật và đối tượng nghiên cứu.
Như vậy cái gốc của vấn đề chính là những quy luật khách quan liên quan
đến sự vật. Lênin đã từng nhấn mạnh: “Biện chứng của sự vật tạo lập biện chứng
của ý tưởng chứ không phải ngược lại”.
Lời khuyến cáo của Ơirstic là: “Hãy suy nghĩ theo những quy luật khách
quan về sự phát triển, chắc chắn bạn sẽ có những sáng kiến, cải tiến, cao hơn những
sáng chế, phát minh”.
4. Nhiệt tình hay lòng hăng say nghiên cứu
Nhà khoa học Prikhôtcô viết: Công tác nghiên cứu khoa học là quá trình
sáng tạo rất công phu và phức tạp, đòi hỏi thường xuyên phải có “lòng hăng say cao
độ”, có nhiệt tình công tác. Nếu công tác nghiên cứu ta làm với tinh thần thờ ơ lãnh
đạm thì nó sẽ trở thành công việc rất thủ công và sẽ không bao giờ đưa lại một cái
gì có thực chất cả. Không phải ngẫu nhiên mà người ta so sánh sự sáng tạo trong
khoa học với những chiến công. Cũng như chiến công, nó đòi hỏi toàn bộ năng lực
sáng tạo con người phải hoạt động căng thẳng tới mức tối đa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Newton nói: “Thiên tài là lao động”. Ông nói đến một quá trình lao động
kiên trì và bền bỉ, bao gồm việc tích luỹ tri thức về vấn đề nghiên cứu, việc khắc
phục lần lượt khó khăn để thực hiện các thí nghiệm.
T.Edison, người được mệnh danh “có thể sáng chế ra bất kì thứ gì” nói:
“Trong những công trình của tôi 99% là kết quả lao động cật lực và chỉ 1% là cảm
hứng, may mắn và tài năng”.
5. Nhiều nhà khoa học đã nhấn mạnh đến phương pháp. Theo họ, phương
pháp là điều kiện đầu tiên, điều kiện quan trọng nhất. Tất cả tính nghiêm túc của
nghiên cứu phụ thuộc vào phương pháp, cách thức hoạt động. Tất cả sự nghiệp là
nằm ở phương pháp tốt. Phương pháp nắm trong tay vận mệnh của công trình
nghiên cứu.
Landau nói: “Phương pháp quan trọng hơn phát minh, bởi vì phương pháp
nghiên cứu đúng sẽ dẫn đến những phát minh mới, giá trị hơn”.
Nhờ có phương pháp làm việc khoa học, nhà nghiên cứu mới thu được một
cách đầy đủ và chính xác các sự kiện. Các sự kiện, đó là không khí của nhà khoa
học. Không có chúng thì sẽ không có khoa học, nhà khoa học phải có phương pháp
tốt để thu thập và xử lí chúng.
6. Biết làm việc một cách khoa học: Nhà tổ chức khoa học lao động trí óc
Vedenxki nói: “Ta bị mệt mỏi không chỉ do làm việc nhiều, mà còn do làm việc
tồi”. Ông đề nghị các nhà khoa học áp dụng 5 điểm sau đây:
- Bắt tay vào làm việc phải từ từ, làm việc nhẹ nhàng không hấp tấp.
- Phải làm việc theo trình tự, hết giai đoạn này đến giai đoạn khác, làm việc
có hệ thống.
- Phải có chế độ luân phiên thích đáng giữa làm việc và nghỉ ngơi.
- Kết hợp lao động chân tay với lao động trí óc.
- Thường xuyên và đều đặn rèn luyện trình độ chuyên môn.
7. Phải có phương tiện làm việc: Ngay cả những người học giỏi cũng phải có
những dụng cụ để sử dụng. Galilê đã không thể nhìn theo những Mặt trăng của sao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
mộc nếu không có kính viễn vọng. Pasteur đã không thể thực hiện được công trình
của mình nếu không có kính hiển vi. Ông bà Curie cũng phải có những dụng cụ để
đo lường và thử nghiệm. Nhiều khám phá nổi tiếng đã có thể không bao giờ được
thực hiện nếu như các nhà khoa học đã không có những dụng cụ để làm việc.[3]
1.2. Mối liên hệ giữa tư duy sáng tạo với các phẩm chất trí tuệ khác
1.2.1. Mối liên hệ giữa tính tự giác, tích cực, tính tự lực và tư duy sáng tạo
Tư duy sáng tạo có mối liên hệ chặt chẽ với các thành phần khác của năng
lực trí tuệ như, tính tự giác, tích cực, tính tự lực.
Tính tự giác nhận thức thể hiện ở chỗ người học có ý thức đầy đủ mục đích,
nhiệm vụ học tập và qua đó nỗ lực nắm vững các tri thức. Trong quá trình dạy học,
tính tự giác của người học thể hiện qua: hiểu rõ và nắm vững nhiệm vụ học tập dựa
trên cơ sở ý thức được nghề nghiệp tương lai; ý thức được vị trí, vai trò tương lai
của mình trong xã hội với tư cách là một cán bộ khoa học; có ý thức đi sâu vào tìm
hiểu và vận dụng những điều đã học vào thực tiễn nghề nghiệp tương lai. Tính tự
giác là cơ sở, tiền đề để hình thành tính tích cực.
Tính tích cực nhận thức là thái độ cải tạo của chủ thể đối với khách thể thông
qua sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lí nhằm giải quyết những vấn đề
học tập, nhận thức. Trong quá trình học tập, người học phải phát huy cao độ các
chức năng tâm lí, đặc biệt là các chức năng tư duy có liên quan đến nghề nghiệp
tương lai của mình. Tính tích cực chịu ảnh hưởng rất lớn bởi yếu tố tình cảm, ý chí
và hứng thú nghề nghiệp. Tính tích cực của học sinh, sinh viên có mặt tự phát và
mặt tự giác:
Mặt tự phát: Là những yếu tố tiềm ẩn, bẩm sinh thể hiện ở tính tò mò, hiếu
kì, hiếu động, linh hoạt và sôi nổi trong hành vi mà trẻ đều có ở những mức độ khác
nhau. Cần coi trọng những yếu tố tự phát này, nuôi dưỡng, phát triển chúng trong
dạy học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Mặt tự giác: Là trạng thái tâm lí có mục đích và đối tượng rõ rệt, do đó có
hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng đó. Tính tích cực tự giác thể hiện ở óc quan sát,
tính phê phán trong tư duy, trí tò mò khoa học.
Tính tích cực nhận thức phát sinh không chỉ từ nhu cầu nhận thức mà còn từ
nhu cầu sinh học, nhu cầu đạo đức thẩm mỹ, nhu cầu giao lưu văn hóa Hạt nhân
cơ bản của tính tích cực nhận thức là hoạt động tư duy của cá nhân được tạo nên do
sự thúc đẩy của hệ thống nhu cầu đa dạng.
Tính tích cực nhận thức và tính tích cực học tập có liên quan chặt chẽ với nhau
nhưng không phải là một. Có một số trường hợp, tính tích cực học tập thể hiện ở hành
động bên ngoài, mà không phải là tính tích cực trong tư duy.
Tính tích cực nhận thức phát triển đến mức độ cao sẽ làm hình thành tính tự
lực nhận thức.
Tính tự lực (tự chủ) nhận thức theo nghĩa rộng là sự sẵn sàng về mặt tâm lí
đối với sự học, theo nghĩa hẹp, tính tự lực nhận thức là năng lực, phẩm chất, nhu
cầu học tập và khả năng tự tổ chức học tập, cho phép người học phát hiện vấn đề, tự
giải quyết vấn đề, tự kiểm tra, đánh giá hoạt động của mình, tạo cơ sở cho việc tự
học. Trong quá trình học tập, dưới vai trò định hướng của giáo viên, sinh viên có
thể tự lực phát hiện vấn đề bài học và tự mình đề ra giải pháp cho vấn đề đặt ra, đó
là biểu hiện của tính tự chủ trong học tập. Điều này thể hiện rõ tính độc đáo trong
hoạt động nhận thức của sinh viên, tính độc đáo này sẽ là cơ sở của sự sáng tạo, có
ý nghĩa rất quan trọng cho hoạt động nghề nghiệp của họ sau này.
Như vậy, tính tự giác, tính tích cực, tính tự lực nhận thức có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Tính tự giác nhận thức là cơ sở của tính tích cực, tính tự lực nhận
thức, tính tích cực nhận thức là điều kiện, là kết quả, là biểu hiện của sự nảy sinh và
phát triển của tính tự lực nhận thức. Tính tự lực nhận thức là sự thể hiện ở mức độ
cao của tính tự giác, tính tích cực nhận thức và là cơ sở của tính sáng tạo. Tuy nhiên
các mối quan hệ này không phải là tuyến tính. Tính tự giác, tích cực và tự lực là
điều kiện cần của tính sáng tạo nhưng bản thân chúng chưa phải là sáng tạo.[3], [21]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
1.2.2. Mối liên hệ giữa tri thức và tư duy sáng tạo
1.2.2.1. Tri thức là gì?
Tri thức là những điều hiểu biết có hệ thống về sự vật nói chung. Tri thức hay
kiến thức của con người là kết quả của quá trình nhận thức. Tư duy phản ánh hiện
thực khách quan thông qua bộ não con người, là sản phẩm đặc biệt của bộ não. Do đó
có thể hiểu tri thức là thông tin được chứa trong bộ não.
Chỉ nắm vững hệ thống tri thức mới có khả năng hình thành trong ý thức học
sinh bức tranh chân thực của thế giới, có phương pháp đúng đắn khi tham gia các
hoạt động lý thuyết và thực tiễn. Hệ thống kiến thức thường xuyên thay đổi và phát
triển do luôn luôn có những phát minh khoa học mới, nhất là trong thời đại phát
triển vũ bão của khoa học và kỹ thuật hiện tại. Do đó, việc lựa chọn và đổi mới hệ
thống tri thức ở các trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay là điều rất quan trọng
và phức tạp.
1.2.2.2. Vai trò của tri thức với sáng tạo
Không thể có "sáng tạo", nếu không có kiến thức cơ bản tối thiểu [19]. Loài
người tiến bộ được là nhờ tích lũy được những hiểu biết của các thế hệ trước, rồi
mới tìm ra những cái mới cho thế hệ mình, chứ không phải là mỗi thế hệ luôn luôn
trở lại thời đồ đá rồi tự phát minh lại từ đầu. Cho nên ở mức độ bình thường, thì
phải học cho đủ hiểu biết. Điều này đúng cho tất cả mọi cấp "học", từ mẫu giáo, tiểu
học, trung học và những năm đầu đại học, ngoại trừ cấp "đào tạo qua nghiên cứu".
Nói như vậy, không có nghĩa là học sinh, sinh viên hoàn toàn thụ động, học kiểu
"học vẹt": Nếu nhà giáo có nhiệm vụ chuyển giao kiến thức qua bài giảng, người
học, ngoài việc phải tiếp thu, cũng còn phải được hướng dẫn để biết tự mình tra
sách, tìm tài liệu tại thư viện hay bằng những phương tiện khác như tìm trên mạng,
vv. để bổ sung sự hiểu biết của mình. Dù là người thuộc dạng nào đi nữa, cũng phải
nhờ một nền giáo dục đào tạo nghiêm túc, cho họ những kiến thức cơ bản đầy đủ,
để sau đó họ phát huy được khả năng của họ.
1.2.3 Mối quan hệ giữa năng lực giải quyết vấn đề và tư duy sáng tạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Dạy học theo cách truyền thống thì chỉ lo chất đầy - càng đầy càng tốt - kho
kiến thức cho người học, vì kiến thức được xem như là của báu đã được chuẩn bị
sẵn, người học chỉ cần chiếm giữ được càng nhiều càng tốt. Còn dạy học theo cách
"giải quyết vấn đề" hay "giải quyết bài toán" thì kiến thức mà người học cần có để
giúp anh ta giải quyết được bài toán phải do chính anh ta tìm ra, sáng tạo ra qua một
tiến trình tìm hiểu bài toán, đặt vấn đề, tưởng tượng các mối liên quan, đặt giả
thuyết và so sánh, đánh giá các giả thuyết, lựa chọn giả thuyết thích hợp, rồi tiếp đó
dùng các kiến thức đã có cùng với các giả thuyết mới để đề xuất các lời giải cho bài
toán, đánh giá các lời giải cho đến khi tìm được lời giải thoả đáng, có thể chấp nhận
được. Như vậy, "giải quyết vấn đề" thực tế là một quá trình sáng tạo của người học,
người học phải tự mình vận dụng các năng lực trí tuệ của mình để liên tục tưởng
tượng, tìm kiếm, sáng tạo, để rồi có được cái cảm giác là tự mình sáng tạo ra cái
kiến thức mà mình cần có, chứ kiến thức không phải là cái mà mình được hưởng
sẵn từ đâu đó một cách thụ động.
1.2.4. Mối quan hệ giữa tự học và tư duy sáng tạo
Qua những sáng tạo được thể hiện từ thời Thomas Edison đến thời Bill
Gates, giới khoa học kỹ thuật ngày càng nhận thấy giữa trí sáng tạo và việc tự học
có một mối liên hệ nhân quả. Tạp chí Science et Vie (Khoa học và cuộc ống) đã
viết: "Ai tự học mạnh nhất, người đó tích lũy được một tiềm năng sáng tạo dồi dào
nhất. Ngược lại, ai có nhu cầu sáng tạo nhiều hơn, người ấy càng thôi thúc ý chí tự
học cao hơn".
Cố Giáo sư Tạ Quang Bửu (nguyên bộ trưởng Bộ Đại học và chuyên nghiệp)
trong một buổi nói chuyện trước sinh viên Bách khoa Hà Nội năm 1970 đã nhấn
mạnh: "Tự học là khởi nguồn của phong cách tự đào tạo, đồng thời là cái nôi nuôi
dưỡng trí sáng tạo. Ai giỏi tự học khi đang ở trường, người đó sẽ tiến xa".
Theo các chuyên gia giáo dục và khoa học của Tổ chức UNESCO, kỹ năng
tự học và giá trị biểu hiện của việc tự học là những thước đo của tâm lý sáng tạo và
sản phẩm sáng tạo. Bước vào thế kỷ 21, kỹ năng đó sẽ tồn tại như một trong những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
kỹ năng sống mà con người không thể thiếu, đồng thời giá trị đó giúp cho mỗi cá
nhân tự khẳng định chính mình trong xu thế nhảy vọt của thời đại thông tin. [3]
Tóm lại, tự học và sáng tạo là hai mặt có quan hệ mật thiết với nhau: sẽ
không có sáng tạo nếu không có tự học tích cực; sẽ không thể tự học hiệu quả nếu
không mài sắc trí sáng tạo. Tự học để khám phá nhận thức và khai phá sáng tạo.
Sáng tạo để khẳng định sự tìm tòi siêu thoát trong tự học.
Như vậy tư duy sáng tạo của học sinh là một phẩm chất trí tuệ có mối liên hệ
chặt chẽ với các phẩm chất trí tuệ khác như tính tích cực, tính tự lực, với hệ thống
kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo của học hinh [3]. Trong nhà trường, nó được hình thành
và phát triển trong hoạt động, học tập, nghiên cứu khoa học và trong quá trình giải
quyết vấn đề.
1.3. Năng lực sáng tạo của học sinh
1.3.1. Năng lực sáng tạo
“Năng lực là những khả năng và kĩ xảo học được hoặc sẵn có của cá thể
nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như sự sẵn sàng về động cơ, xã hội
và khả năng vận dụng các cách giải quyết vấn đề một cách có trách nhiệm và hiệu
quả trong những tình huống linh hoạt” [20]
Theo tâm lí học thì “năng lực là tổng hợp những thuộc tính độc lập của cá
nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, nhằm đảm
bảo việc hoàn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động đó”[13].
Như vậy, năng lực là những thuộc tính tâm lí riêng của cá nhân, được thể
hiện ở trình độ học vấn, sự phát triển trí tuệ, kĩ năng, kinh nghiệm hoạt động sáng
tạo, hệ thống tri thức, sự trải nghiệm cuộc sống
Năng lực sáng tạo chính là khả năng thực hiện được những điều sáng tạo. Đó
là biết làm thành thạo và luôn luôn đổi mới, có những nét độc đáo riêng phù hợp với
thực tế. Luôn biết và đề ra những cái mới khi chưa được học, nghe giảng hay đọc tài
liệu hay tham quan về việc đó nhưng vẫn đạt kết quả cao. [15]
Mặc dù năng lực của mỗi cá nhân một phần dựa trên cơ sở tư chất, nhưng
chủ yếu năng lực được hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động tích cực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
của con người dưới sự tác động của học tập rèn luyện, giáo dục. Trong đó việc hình
thành và phát triển nhân cách là phương tiện hiệu quả thúc đẩy sự phát triển của
năng lực.
1.3.2. Những quan niệm về năng lực sáng tạo ở học sinh
Từ các cơ sở trên chúng ta có thể có quan niệm về năng lực sáng tạo của học
sinh như sau:
1./ Năng lực tự chuyển tải tri thức và kỹ năng từ lĩnh vực quen biết sang tình
huống mới, vận dụng kiến thức đã học trong điều kiện, hoàn cảnh mới.
2./ Năng lực nhận thấy vấn đề mới trong điều kiện quen biết (tự đặt câu hỏi
mới cho mình và cho mọi người về bản chất của các điều kiện, tình huống, sự vật).
Năng lực nhìn thấy chức năng mới của đối tượng quen biết
3./ Năng lực nhìn thấy cấu trúc của đối tượng đang nghiên cứu. Thực chất là
bao quát nhanh chóng, đôi khi ngay tức khắc, các bộ phận, các yếu tố của đối tượng
trong mối tương quan giữa chúng.
4./ Năng lực biết đề xuất các giải pháp khác nhau khi phải xử lí một tình
huống. Khả năng huy động các kiến thức cần thiết để đưa ra các giả thuyết hay các
dự đoán khác nhau khi phải lý giải một hiện tượng.
5./ Năng lực xác nhận bằng thực nghiệm các giả thuyết (hoặc phủ nhận nó).
Năng lực biết đề xuất các phương án thí nghiệm hoặc thiết kế sơ đồ thí nghiệm để
kiểm tra giả thuyết hay hệ quả suy ra từ giả thuyết hoặc để đo một đại lượng nào đó
với hiệu quả cao nhất có thể được trong điều kiện đã cho.
6./ Năng lực nhìn nhận một vấn đề dưới những góc độ khác nhau, xem xét
đối tượng ở những khía cạnh khác nhau, đôi khi mâu thuẫn nhau. Năng lực tìm ra
các giải pháp lạ, chẳng hạn đối với bài toán vật lý, có nhiều cách nhìn đối với việc
tìm kiếm lời giải, năng lực kết hợp nhiều phương pháp giải bài tập để tìm ra một
phương pháp mới, độc đáo.[3]
Đối với học sinh phổ thông, tất cả những gì mà họ “tự nghĩ ra” khi GV chưa
dạy, HS chưa đọc sách, chưa biết được trao đổi với bạn bè đều coi như có mang tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên