Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Ngô Thanh Băng
TỔ CHỨC TỰ HỌC MÔN GIÁO DỤC HỌC
CÓ SỰ HỖ TRỢ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CHO
SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ: GIÁO DỤC HỌC
Thái Nguyên - Năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Ngô Thanh Băng
TỔ CHỨC TỰ HỌC MÔN GIÁO DỤC HỌC
CÓ SỰ HỖ TRỢ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CHO
SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NGHỆ AN
Chuyên ngành: GIÁO DỤC HỌC
Mã số: 60.14.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN THỊ TUYẾT OANH
Thái Nguyên – Năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Lời cảm ơn
Để hoàn thành được luận văn này, em đã nhận được sự dạy dỗ tận tình
của các thầy cô giáo trong khoa Tâm lý – Giáo dục, sự động viên khích lệ của
bạn bè, gia đình và đồng nghiệp. Đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình, chu đáo,
khoa học của cô giáo PGS.TS. Trần Thị Tuyết Oanh.
Nhân dịp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới cô giáo
PGS.TS. Trần Thị Tuyết Oanh, các thầy cô giáo trong khoa Tâm lý – Giáo
dục, bạn bè, gia đình và các đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, khoa Sau đại học trường Đại
học sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong thời gian
học tập và nghiên cứu khoa học.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các em sinh viên trường
Cao đẳng sư phạm Nghệ An đã giúp đỡ chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 8 năm 2010
Tác giả
Ngô Thanh Băng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
4
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4
4. Giả thuyết khoa học
4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
4
6. Phương pháp nghiên cứu
5
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
6
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
6
1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài
6
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
8
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
9
1.2.1. Khái niệm học
1.2.2. Tự học
9
13
1.2.3. Tổ chức tự học
15
1.2.4. Công nghệ thông tin
16
1.3. Hoạt động tự học môn GDH của SV CĐSP
18
1.3.1. Đặc điểm hoạt động tự học của SV
18
1.3.2. Các hình thức tự học của SV
1.3.3. Tự học môn GDH của SV CĐSP
19
20
1.4. Sự phát triển của CNTT và các yêu cầu khi vận dụng CNTT vào tự
học môn GDH ở trường CĐSP
23
1.4.1. Sự phát triển của CNTT
23
1.4.2. Một số hình thức ứng dụng CNTT vào tự học môn GDH
25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1.4.3. Khả năng ứng dụng CNTT vào tự học môn GDH
30
1.4.4. Các yêu cầu khi tổ chức tự học môn GDH có sự hỗ trợ của
CNTT cho SV ở trường CĐSP Nghệ An
32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
34
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC TỰ HỌC MÔN GDH CÓ SỰ
HỖ TRỢ CỦA CNTT CHO SV Ở TRƯỜNG CĐSP NGHỆ AN
35
2.1. Một vài nét về trường CĐSP Nghệ An
35
2.2. Khái quát về dạy học môn GDH ở trường CĐSP
37
2.3. Thực trạng tự học môn GDH của SV
37
2.3.1. Khái quát tiến trình khảo sát thực trạng
38
2.3.2. Thực trạng tự học môn GDH của SV ở trường CĐSP Nghệ An
38
2.3.3. Thực trạng tổ chức tự học môn GDH có sự hỗ trợ của CNTT
47
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
57
CHƯƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC TỰ HỌC MÔN GDH
CÓ SỰ HỖ TRỢ CỦA CNTT CHO SV Ở TRƯỜNG CĐSP NGHỆ
AN VÀ THỰC NGHIỆM
58
3.1. Các nguyên tắc đề xuất biện pháp
58
3.1.1. Đảm bảo tính khoa học và tính sư phạm
58
3.1.2. Đảm bảo sự thống nhất giữa vai trò chủ đạo của thầy với vai
trò tích cực, chủ động của SV
58
3.1.3. Đảm bảo tính thực tiễn
58
3.1.4. Đảm bảo tính hiệu quả
59
3.2. Các biện pháp tổ chức tự học môn GDH cho sinh viên có sự hỗ trợ
của CNTT
59
3.2.1. Tạo môi trường học tập thông qua mạng internet
59
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.2.2. Hướng dẫn tiếp cận các nguồn thông tin phục vụ tự học môn GDH
61
3.2.3. Tổ chức cho SV làm việc theo nhóm kết hợp với thảo luận
66
3.2.4. Xây dựng trang web học tập môn GDH
68
3.3. Thực nghiệm sử dụng trang web GDH để tổ chức tự học môn GDH
cho SV trường CĐSP Nghệ An
78
3.3.1. Khái quát về thực nghiệm
78
3.3.2. Phân tích kết quả thực nghiệm
82
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
98
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CĐSP
:
Cao đẳng sư phạm
CNTT
:
Công nghệ thông tin
ĐC
:
Đối chứng
GDH
:
Giáo dục học
GV
:
Giáo viên
SV
:
Sinh viên
TN
:
Thực nghiệm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1:
Mức độ nhận thức của SV về tầm quan trọng của môn GDH
39
Bảng 2.2:
Thái độ của SV đối với môn GDH
40
Bảng 2.3:
Nhận thức của SV về các hình thức tự học môn GDH
42
Bảng 2.4:
Phương pháp tự học môn GDH của SV
43
Bảng 2.5:
Ý kiến của SV về nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng tự
học môn GDH
45
Bảng 2.6:
Ý kiến của GV về nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng tự
học môn GDH
46
Bảng 2.7:
Đánh giá của GV và SV về tác dụng của CNTT trong hỗ trợ
tự học môn GDH
50
Bảng 2.8:
Các công việc mà GV sử dụng để giúp SV tự học môn GDH
52
Bảng 2.9:
Mức độ ứng dụng CNTT vào tự học môn GDH của SV
53
Bảng 2.10:
Các khó khăn của GV khi ứng dụng CNTT vào quá trình tổ
chức tự học môn GDH cho SV
55
Bảng 3.1:
Phân phối tần số điểm thi học phần và phân loại học lực môn
Tâm Lý Học đại cương theo tiêu chuẩn giỏi, khá, trung bình,
yếu – kém của nhóm TN
82
Bảng 3.2:
Phân phối tần số điểm thi học phần và phân loại học lực môn
Tâm Lý Học đại cương theo tiêu chuẩn giỏi, khá, trung bình,
yếu – kém của nhóm ĐC
83
Bảng 3.3:
Phân phối tần số điểm kiểm tra môn GDH và phân loại học
lực sau TN của khoa Tự nhiên
84
Bảng 3.4:
Các tham số đặc trưng kết quả kiểm tra sau thực nghiệm của
khoa Tự nhiên
86
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Trang
Bảng 3.5:
Phân phối tần số điểm kiểm tra môn GDH và phân loại học
lực sau TN của khoa Xã hội
87
Bảng 3.6:
Các tham số đặc trưng kết quả kiểm tra sau thực nghiệm của
khoa Xã hội
89
Bảng 3.7:
Hứng thú của SV khi học tập qua trang web GDH
91
Bảng 3.8:
Mức độ truy cập vào trang web GDH của SV
92
Bảng 3.9:
Đánh giá của SV về ưu thế khi tự học bằng trang web GDH
93
Bảng 3.10:
Đánh giá của SV về hiệu quả của việc tự học bằng trang web GDH
94
Bảng 3.11:
Những khó khăn của SV khi học qua trang web GDH
96
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1:
Học lực của nhóm TN và nhóm ĐC trước thực nghiệm
83
Biểu đồ 3.2:
Phân phối tần suất kết quả sau thực nghiệm khoa Tự nhiên
85
Biểu đồ 3.3:
Phân phối tần suất kết quả sau thực nghiệm khoa Xã hội
88
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ những năm thuộc thập kỷ 60, giáo dục cũng như các lĩnh vực khác
chịu ảnh hưởng lớn lao của sự phát triển máy vi tính. Những thành tựu về
công nghệ đòi hỏi trường học phải điều chỉnh lại mục tiêu giáo dục để người
học có khả năng dấn thân vào môi trường công nghệ thông tin (CNTT) trong
tương lai. Một điều dễ nhận thấy rằng, CNTT góp phần thay đổi phương pháp
từ truyền thống xem người học là “một cái bình rỗng” được lấp đầy bằng
những kiến thức của người dạy, sang hướng đổi mới: người học tự mình
khám phá kiến thức dưới sự hướng dẫn của người dạy.
Trong quá trình học theo hướng đổi mới này, máy vi tính và các thiết bị
hiện đại khác góp phần to lớn trong việc hỗ trợ người học trao đổi ý tưởng,
suy nghĩ có phê phán, đào sâu kiến thức để người học trở thành chủ thể của
hoạt động học. Khi đổi mới phương pháp dạy học, thầy giáo vẫn giữ vai trò
hết sức quan trọng trong việc định hướng dạy học và chuyển giao tri thức, kỹ
năng cho người học. Song, để có thể nâng cao trình độ học vấn cho mình, mỗi
người học phải chủ động, tích cực, độc lập, tự chủ với sự hỗ trợ đắc lực và đa
phương của các yếu tố tạo thành hoạt động dạy học. Vì lẽ đó, nhiệm vụ cơ
bản của dạy học trong nhà trường không thể chỉ giới hạn ở việc cung cấp một
hệ thống tri thức, kỹ năng tương ứng mà quan trọng hơn là hướng dẫn, tổ
chức tự học, hình thành, phát triển khả năng tự học ở người học để họ học tập
suốt đời.
Trong xã hội hiện đại, các phương tiện dạy học đã có nhiều thay đổi so
với trước. Với sự phát triển của khoa học- kỹ thuật, các phương tiện kỹ thuật
dạy học đã ra đời như: phim ảnh, vô tuyến truyền hình, máy vi tính, các máy
dạy học và kiểm tra, thiết bị đa phương tiện…Các thiết bị hiện đại này đã cho
phép đưa vào quá trình dạy học những nội dung diễn cảm, hứng thú, làm thay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
đổi phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, tạo ra trong quá trình dạy học
một nhịp độ, phong cách và trạng thái tâm lý mới, góp phần quan trọng vào
việc nâng cao năng suất lao động của người thầy và hiệu quả dạy- học.
Tuy nhiên, cho đến nay, việc sử dụng phương tiện, đặc biệt là CNTT vào
quá trình dạy học là chưa nhiều. CNTT cũng chưa được ứng dụng phổ biến
trong quá trình tự học của sinh viên (SV). Vì vậy chưa phát triển được khả
năng tự học của người học cũng như tiềm năng vốn có của CNTT.
Môn giáo dục học (GDH) là môn học vừa có tính khoa học, vừa mang
tính giáo dục và tính nghề nghiệp cao, nội dung môn GDH phản ánh đường
lối, quan điểm giáo dục của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển
giáo dục, đào tạo ở nước ta. Đồng thời, cùng với xu thế phát triển của xã hội,
môn GDH cũng có sự thay đổi và các yêu cầu đặc thù. Vì vậy, việc học tập
môn GDH đòi hỏi SV không chỉ nắm vững hệ thống tri thức mà còn phải rèn
luyện hệ thống kỹ năng nghề nghiệp và tiếp cận thông tin. Để đạt được điều
đó, hỏi sinh viên phải có khả năng tự học, tự rèn luyện và cập nhật thông tin
mọi lúc, mọi nơi.
Thực tế, việc dạy và học môn GDH ở các trường cao đẳng sư phạm
(CĐSP) vẫn còn nhiều bất cập; phương pháp dạy học chủ yếu vẫn là thuyết
trình; phương tiện chủ yếu vẫn là phấn, bảng, sách giáo khoa và tài liệu tham
khảo. Các phương pháp, phương tiện dạy học đó chưa gây được hứng thú và
chưa phát huy được tính tích cực học tập cho SV. Cho nên, việc tạo ra môi
trường dạy- học có sự hỗ trợ của CNTT đối với môn GDH sẽ góp phần khắc
phục được lối truyền thụ một chiều, phát triển được khả năng tự học, tự
nghiên cứu cho SV.
Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến vấn đề đổi mới phương
pháp dạy học và sử dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại trong quá trình dạy
học. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp hành Trung Ương Đảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
khoá VIII đã chỉ rõ: “…đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của
người học. Từng bước áp dụng các phương pháp dạy học tiên tiến và phương
tiện hiện đại vào quá trình dạy học…Phát triển mạnh mẽ phong trào tự học,
tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên…”
Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP của Chính phủ “Về đổi mới cơ bản và
toàn diện nền giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn 2006- 2020” đã chỉ rõ:
“Triển khai đổi mới phương pháp đào tạo theo 3 tiêu chí: trang bị cách học;
phát huy tính chủ động của người học; sử dụng CNTT và truyền thông trong
hoạt động dạy và học. Khai thác các nguồn tư liệu giáo dục mở và nguồn tư
liệu trên mạng internet. Lựa chọn, sử dụng các chương trình, giáo trình tiên
tiến của các nước”.
Trong những năm qua, nhiều hội nghị khoa học, nhiều công trình nghiên
cứu đã tìm hiểu vấn đề tự học. Song, tổ chức tự học trong môi trường học tập
hiện đại, có sự hỗ trợ của CNTT cho SV trường CĐSP Nghệ An thì chưa
được nghiên cứu.
Mặc dù trong những năm gần đây, đã có nhiều thay đổi về nội dung, về
phương pháp và phương tiện kỹ thuật dạy học; Song, những thay đổi đó chưa
kích thích được động cơ, hứng thú học tập môn GDH ở SV CĐSP; chưa phát
huy được tính tích cực, độc lập, chủ động, trong việc khai thác các phương
tiện hỗ trợ học tập, kết quả học tập không cao, kỹ năng tự học chưa thực sự
hoàn thiện.
Cần tạo ra một môi trường học tập có sự hỗ trợ của CNTT để phát triển
khả năng tự học môn GDH, sao cho SV CĐSP được tham gia một cách tích
cực, độc lập, sáng tạo vào quá trình lĩnh hội tri thức và kỹ năng, nâng cao chất
lượng học tập môn GDH và phát triển được khả năng tự học môn GDH cho
SV CĐSP.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn và tiến hành nghiên cứu đề
tài: “TỔ CHỨC TỰ HỌC MÔN GIÁO DỤC HỌC CÓ SỰ HỖ TRỢ CỦA
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN CHO SINH VIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ
PHẠM NGHỆ AN.”
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng tự học môn GDH của SV hiện
nay. Từ đó xác định biện pháp tổ chức tự học môn GDH cho SV có sự hỗ trợ
của CNTT nhằm phát huy tính tích cực học tập, góp phần nâng cao chất lượng
và hiệu quả học tập môn GDH ở trường CĐSP nói chung, trường CĐSP Nghệ
An nói riêng.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: quá trình tự học của SV trường CĐSP.
- Đối tượng nghiên cứu: Tự học môn GDH và tổ chức tự học môn GDH
có sự hỗ trợ của CNTT cho SV ở trường CĐSP Nghệ An.
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, xu hướng đổi mới phương pháp dạy- học đang diễn ra mạnh
mẽ. Các phương tiện kỹ thuật hiện đại và CNTT đã và đang đóng góp giá trị
tích cực của nó trong quá trình dạy học và giáo dục. Tuy nhiên, việc ứng dụng
CNTT vào quá trình tự học môn GDH của SV còn nhiều hạn chế. Nếu xác
định được biện pháp tổ chức tự học môn GDH có sự hỗ trợ của CNTT thì sẽ
phát huy được tính tích cực, nâng cao hứng thú học tập môn GDH cho SV,
nâng cao chất lượng dạy và học môn GDH trong các trường CĐSP nói chung,
trường CĐSP Nghệ An nói riêng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức tự học môn GDH có sự hỗ trợ của CNTT.
- Khảo sát thực trạng tự học môn GDH, thực trạng tổ chức tự học môn GDH
có sự hỗ trợ của CNTT cho SV ở trường CĐSP Nghệ An.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
- Đề xuất biện pháp tổ chức tự học môn GDH có sự hỗ trợ của CNTT cho
SV trường CĐSP Nghệ An và thực nghiệm.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: phân tích, tổng hợp, khái quát
hoá, hệ thống hoá các tài liệu liên quan đến đề tài.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, quan sát, trò chuyện,
nghiên cứu sản phẩm hoạt động, đàm thoại, thực nghiệm khoa học.
- Phương pháp thống kê toán học.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Đề tài khảo sát trên SV khoa Xã hội, khoa Tự nhiên và GV tổ Tâm lý –
Giáo dục trường CĐSP Nghệ An.
- Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu biện pháp xây dựng trang web tự học
để tổ chức tự học môn GDH cho SV trường CĐSP Nghệ An.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Sơ lƣợc lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu nƣớc ngoài
Trong lịch sử giáo dục, vấn đề tự học được quan tâm rất sớm. Ý tưởng
dạy học coi trọng người học, chú ý đến người học đã có từ thời cổ đại. Tuỳ
theo từng giai đoạn lịch sử và mức độ phát triển của xã hội mà ý tưởng này đã
phát triển và trở thành quan điểm dạy học tiến bộ ngày nay.
Thời cổ đại, ở phương Tây, Xocrate (Hy Lạp, 469 - 399 TCN) đã đưa
ra quan niệm rất nổi tiếng: giáo dục phải giúp con người tự khẳng định chính
mình. Vận dụng quan điểm đó vào dạy học, ông cho rằng cần phải để cho
người học tự suy nghĩ, tự tìm tòi, cần giúp người học tự phát hiện thấy sai lầm
của mình và tự khắc phục những sai lầm đó. Còn Arixtot (384 - 322 TCN)
cho rằng phương pháp dạy học phải nhằm mục đích giúp người học phát hiện
ra “chân lý” bằng cách đặt câu hỏi để người học tự tìm ra kết luận.
Khổng Tử (479 - 355 TCN) ở phương Đông dạy theo đối tượng và kích
thích suy nghĩ của học sinh “Không tức giận vì muốn biết thì không gợi mở
cho, không bực vì không rõ được thì không bày vẽ cho. Vật có 4 góc, bảo cho
biết 1 góc mà không suy ra 3 góc thì không dạy nữa” (Luận ngữ).
Đến thời kỳ Phục Hưng ở Châu Âu, dạy học lấy người học làm trung
tâm đã trở thành một tư tưởng, được nhiều nhà giáo dục vĩ đại coi trọng.
Môngtenhơ (1533 - 1592) được coi là một trong những ông tổ sư phạm ở
Châu Âu cho rằng muốn dạy học có hiệu quả, không nên bắt buộc trẻ em phải
làm theo những ý muốn chủ quan của thầy. J.A.Komenxki (1592 - 1670) kêu
gọi người thầy phải làm cho học sinh có hứng thú trong học tập, từ đó nỗ lực
bản thân nắm vững tri thức. J.J. Rousseau (1712 - 1778) yêu cầu người dạy
cần phải hiểu người học và quan tâm đến lợi ích người học. Ông nói: “Đừng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
cho trẻ em khoa học, mà để trẻ tự phát minh”. A.Disterwerg (1780 - 1866): “
Người thầy giáo tồi truyền đạt chân lý, người thầy giáo giỏi dạy cách tìm ra
chân lý”. K.Đ.Usinxki (1824 - 1873) cho rằng muốn dạy học tốt cần hiểu biết
tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh. Fourrier(1772) rất coi trọng việc dạy học
với thực tế. J.Dewey (1858 - 1952) chủ trương giáo dục phải dựa vào kinh
nghiệm thực tế của trẻ. Việc giảng dạy phải kích thích được hứng thú, phải để
trẻ độc lập tìm tòi, thầy giáo là người tổ chức, người thiết kế, ngưòi cố vấn.
Ở Liên Xô (cũ) nhiều tài liệu về vấn đề tự học và tự đọc sách được xuất
bản. Chẳng hạn: N.A.Rubakin có nhiều tài liệu chuyên bàn về vấn đề tự học
như: “Tự học như thế nào” (Nước Nga Xô Viết, M.1962, NXB Thanh niên,
Hà Nội, 1982), “Tâm lý người đọc sách” (Nhà nước, M.1992)… A.A.
Goroxepxky và M.I.Liubixnuna (Đại học tổng hợp Lêningrat) trong “Tổ chức
công tác tự học của SV Đại học” đã tổng kết kinh nghiệm cá nhân trong công
tác dạy học ở trường Đại học và đưa ra một số đề nghị về cách học có hiệu
quả của sinh viên.
Cuối thế kỷ XX, ảnh hưởng của sự phát triển khoa học kỹ thuật, đặc
biệt là ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghệ, phần lớn các tác giả nghiên
cứu tự học theo hai hướng chính: hướng thứ nhất, nghiên cứu áp dụng công
nghệ dạy học nhằm thay đổi vị trí của thầy và trò trong quá trình dạy học, từ
chuyên gia về việc dạy, GV phải trở thành chuyên gia về việc học cho học
sinh. Hướng thứ hai, theo hướng dạy học phân hoá. Dạy học tiến hành theo
nhịp độ cá nhân người học để đạt tới năng suất và hiệu quả cao nhất trong
việc học.
Từ năm 1994, khi công nghệ web được phát minh, các nhà cung cấp
dịch vụ đào tạo bắt đầu nghiên cứu cách thức cải tiến cách dạy học bằng công
nghệ này. Người thầy thông thái đã dần dần lộ rõ ra qua các phương tiện: e-
mail (thư điện tử), qua Internet với văn bản và hình ảnh đơn giản. Đào tạo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
bằng công nghệ web với các hình ảnh chuyển động tốc độ thấp đã được triển
khai trên diện rộng.
Tại Mỹ, năm 2000 có gần 47% các trường Đại học, Cao đẳng đã đưa ra
các dạng khác nhau của mô hình đào tạo từ xa, tạo nên các khoá học trực
tuyến. Cuối năm 2004 có khoảng 90% các trường Đại hoc, Cao đẳng đưa ra
mô hình e-learning. Số người tham gia học tăng 33% hằng năm trong khoảng
thời gian 1999 - 2004.
Ở Châu Á, những nước nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Singapore đều ứng dụng CNTT trong dạy - học ở mức độ cao. Nhiều cuốn
sách viết về ứng dụng của CNTT được nhiều người quan tâm và áp dụng.
Tóm lại, qua nghiên cứu các tư tưởng bàn về tự học và ứng dụng CNTT
trong tự học của các tác giả trên thế giới, chúng tôi có nhận xét: tự học là cần
thiết đối với tất cả mọi người, vấn đề tự học và ứng dụng CNTT trong dạy -
học được các tác giả trên thế giới quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau,
nhưng đều nhằm mục đích là tìm hướng đi để nâng cao hiệu quả dạy và học.
1.1.2. Các nghiên cứu trong nƣớc
Ở Việt Nam, vấn đề tự học đã có từ xa xưa.Thời phong kiến, thầy đồ
dạy học thường kèm cặp một nhóm học gồm nhiều đối tượng có trình độ khác
nhau. Các thầy phải chú ý trình độ, đặc điểm tính cách từng đối tượng và có
biện pháp dạy thích hợp. Người học tự học thông qua hình thức có thầy trực
tiếp hoặc gián tiếp.
Trải qua các thời kỳ, vấn đề dạy tự học, tổ chức hoạt động tự học nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động của người học rất được sự quan tâm của
nhiều tác giả như: tự học là một hoạt động độc lập diễn ra không hoặc ít có sự
điều khiển của thầy (Nguyễn Cảnh Toàn). Tự học là hoạt động tích cực, chủ
động, tự giác của người học dưới vai trò chủ đạo (tổ chức, hướng dẫn, điều
khiển) của thầy (các tác giả: Nguyễn Ngọc Quang, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Ngọc Bảo, Nguyễn Thị Tính…). Hướng thứ ba nghiên cứu tự học như là một
hình thức tổ chức ngoài giờ lên lớp, phối hợp với các hình thức tổ chức dạy
học khác (Phạm Hồng Quang và một số luận văn thạc sĩ khác).
Khi trình độ xã hội ngày càng phát triển, xã hội thông tin buộc mỗi cá
nhân phải luôn thích ứng nhanh với cuộc sống đầy biến động. Vì vậy, CNTT
ngày càng được ứng dụng nhiều trong dạy và học. Đã có nhiều công trình
nghiên cứu về ứng dụng của CNTT trong tự học như:
Tác giả Lê Thị Thu Hiền với luận văn thạc sĩ “Xây dựng trang web hỗ
trợ dạy học một số kiến thức trong chương “Từ trường”, Vật lý 11 thí điểm,
ĐHSPHN 2004. Trong đề tài, tác giả đã sử dụng một số phần mềm thông
dụng như Pront Page, Express, Winword 97, cùng một số công cụ xây dựng
video clip để xây dựng trang web dạy học một số nội dung trong chương “Từ
trường”, Vật lý 11 và cho kết quả tốt.
Nguyễn Thị Thanh Trà với đề tài: “Sử dụng hình thức e-learning để
hướng dẫn tự học môn GDH cho SV trường ĐHSP Hà Nội”. Trong đề tài này
tác giả đã sử dụng phần mềm Moodle để xây dựng trang web môn GDH và đã
đem lại hiệu quả cao, giúp SV nâng cao chất lượng tư học môn GDH [27].
Ngoài ra còn có một số tác giả khác cũng nghiên cứu ứng dụng của CNTT
trong dạy học như Nguyễn Thị Thanh Hồng với đề tài: “ Xây dựng phần mềm
hướng dẫn tự học môn GDH cho SV ĐHSP Hà Nội” [13].
Như vậy, vấn đề tự học và ứng dụng CNTT trong tự học được rất nhiều
tác giả quan tâm nghiên cứu ở các hướng khác nhau. Trong đề tài này, chúng
tôi tập trung đi sâu khai thác biện pháp tổ chức tự học môn GDH có sự hỗ trợ
của CNTT cho SV ở trường CĐSP.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm học
Theo quan điểm của các nhà giáo dục học, học là quá trình tự giác, tích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
cực, tự lực chiếm lĩnh khái niệm khoa học, dưới sự điều khiển sư phạm của
thầy. Học là hoạt động có đối tượng, trong đó người học là chủ thể, khái niệm
khoa học là đối tượng để chiếm lĩnh.
Học về bản chất là sự tiếp thu, xử lý thông tin chủ yếu bằng các thao
tác trí tuệ dựa vào vốn sinh học và vốn đạt được của cá nhân, từ đó có được tri
thức, kỹ năng, thái độ mới [17, tr.65-66].
Trong “Giải thích thuật ngữ tâm lý- giáo dục học” có từ sự học, học tập:
- Theo nghĩa rộng thông thường, được hiểu: sự học nghề, sự học việc.
Hoặc nghĩa: sự rèn luyện.
- Trong giáo dục, đó là sự học (học tập): toàn bộ hoạt động làm cho
người học đạt được hay đi sâu vào kiến thức, hay phát triển tập tính.
- Đối với Tâm lý học, sự học là một chức năng trong đời sống động vật.
Tất cả các động vật đều có khả năng học, theo công thức chung: “Học là sự
biến đổi tập tính” [5, tr.36].
- Theo Nguyễn Kỳ, “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát triển nội
tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú giá trị
của mình bằng cách thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri
thức bên trong con người mình” [25].
- Phan Trọng Ngọ cho rằng: “học là quá trình tương tác giữa cá thể với
môi trường, kết quả là dẫn đến sự biến đổi về mặt nhận thức, thái độ, hay
hành vi của cá thể đó” [20, tr.15]. Tác giả Nguyễn Ngọc Quang quan niệm
rằng: “học là quá trình tự giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh khái niệm khoa học
dưới sự điều khiển sư phạm của GV” [29, tr.57].
Nhìn chung, mỗi tác giả khi nghiên cứu về sự học (hoạt động học) đều
có những lập luận và cách lý giải khác nhau, điều đó phụ thuộc vào mục đích,
hướng nghiên cứu chuyên sâu của mỗi tác giả. Nhưng tất cả đều đề cập đến
tính ý thức, tính chủ định của hoạt động học tập. Dù học được tiến hành bằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
bất cứ hình thức nào: trực tiếp mặt đối mặt với thầy, học ở nhà, học với sách
giáo khoa, học từ xa, trực tuyến…thì bản thân người học cũng phải tập trung
chú ý, tích cực, chủ động, tự mình tìm kiếm xử lý thông tin nhằm đem đến sự
thay đổi về mặt nhận thức, thái độ, hành vi, nhờ đó mà nhân cách ngày càng
phát triển. Như vậy, hoạt động học đã bao hàm nghĩa tự học.
Từ những quan niệm trên, chúng tôi khái quát khái niệm về học tập như
sau: học là quá trình người học tích cực, chủ động, tác động qua lại với môi
truờng xung quanh nhằm chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo
và thế giới quan khoa học cho bản thân.
* Đặc điểm của hoạt động học
Bản chất của hoạt động học tập hay tự học được thể hiện qua những
đặc điểm cơ bản sau:
- Đối tượng của hoạt động học là tri thức.
Đó là hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo được lựa chọn phù hợp với
nội dung môn học. Cái đích (mục đích) mà người học hướng tới là chiếm lĩnh
tri thức thông qua sự tái tạo của cá nhân. Vì vậy hoạt động học còn được gọi
là “hoạt động chiếm lĩnh” [10, tr.55].
- Học là một loại hình lao động đặc biệt mang tính độc đáo.
Tính độc đáo thể hiện ở chỗ mục đích học là thay đổi chính mình, hình
thành năng lực nghề nghiệp và hoàn thiện bản thân. Những lao động khác làm
thay đổi đối tượng lao động nhưng lao động học không làm biến đổi đối
tượng là tri thức, mà ngược lại nó làm thay đổi chính chủ thể.
- Học là quá trình chủ thể học một cách độc lập, tự giác, tích cực trong
quá trình nhận thức.
Trong mọi tình huống học tập, đòi hỏi người học phải tích cực trong quá trình
nhận thức. Người học càng tự lực tập trung cao về các chức năng tâm lý, về
cơ bắp, huy động toàn bộ kinh nghiệm cá nhân để học trong lĩnh vực nào càng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
nắm vững kiến thức, kỹ năng, phương pháp học trong lĩnh vực đó.
- Học tập không những tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mà còn
hướng vào việc tiếp thu về cách thức tổ chức hoạt động học, hay nói cách
khác là học cách học.
Học cách học có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình học tập, hình
thành năng lực nghề nghiệp đồng thời đó là một trong những con đường cơ
bản giúp người học không ngừng bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp.
- Hoạt động học bao giờ cũng mang cái mới đến cho người học.
Các kiến thức học sinh có được trong hoạt động học không là mới đối với
khoa học nhưng là mới đối với bản thân. Các kỹ năng, phương pháp học sinh
tiếp thu được không là mới đối với các nhà sư phạm nhưng là mới đối với học
sinh. Nhờ có cái mới đó mà học sinh luôn cảm thấy hứng thú trong học tập.
- Nhu cầu, động cơ học tập được người học tiếp nhận trở thành động
lực thúc đẩy hoạt động học. “Động cơ là động lực kích thích trực tiếp, là
nguyên nhân trực tiếp của hành vi” [33, tr.206]. Trong hoạt động học tập
động cơ là yếu tố cơ bản thúc đẩy sự nỗ lực học tập của học sinh. Trong quá
trình học tập, người học có thể chi phối bởi nhiều động cơ khác nhau. Mức độ
tích cực của người học chịu sự chi phối bởi động cơ chủ đạo.
- Nhiệm vụ học “là đơn vị (tế bào)” của hoạt động học tập.
Nhiệm vụ học tập có thể hiểu là những việc làm mà người học đề ra
cho mình phải thực hiện để lĩnh hội hệ thống tri thức theo yêu cầu của từng
môn học để đạt được mục đích học tập.
- Hành động học là bộ phận cấu thành của hoạt động học, được thúc
đẩy bởi động cơ của hoạt động và tương ứng với mục đích học tập. Hành
động luôn hướng vào để giải quyết một mục tiêu cụ thể nào đó. Nhờ hành
động học mà người học giải quyết được nhiệm vụ học.
- Hoạt động học luôn mang tính sáng tạo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Trong quá trình học, người học luôn luôn có sự lựa chọn, nhận xét, phê
phán, kết hợp tính mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo của tư duy từ đó có cách học,
cách vận dụng theo suy nghĩ của mình. Đó là mầm mống của sự phát triển tư
duy sáng tạo của người học.
Tóm lại, hoạt động học bao giờ cũng bao hàm nghĩa tự học và có mục
đích, có đối tượng, có phương pháp học cụ thể. Về bản chất, đây là hoạt động
không chỉ giúp người học lĩnh hội hệ thống tri thức xã hội mà sâu xa hơn là
giúp người học “biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”.
1.2.2. Tự học
Có nhiều quan niệm khác nhau về tự học:
Nghiên cứu tự học với tư cách là một hình thức tổ chức dạy học ở Đại
học được Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức [11], Lưu Xuân Mới [17]… bàn đến.
Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức định nghĩa: “Tự học là hình thức dạy học cơ
bản ở đại học. Đó là một hình thức hoạt động cơ bản của cá nhân, nhằm nắm
vững hệ thống tri thứcvà kỹ năng do chính bản thân người học tiến hành ở
trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo
khoa đã được quy định”.
Nghiên cứu tự học như là một hoạt động nhận thức của SV,
T.Makiguchi đã chỉ rõ bản chất tự học của SV là hoạt động nhận thức bằng
hành động tìm tòi, nghiên cứu, khám phá [23].
Nghiên cứu tự học như là hoạt động tự giác, tích cực của SV dưới vai
trò điều khiển của GV, tác giả Lê Khánh Bằng định nghĩa: “Tự học là học với
sự tự giác, tích cực, độc lập cao” [3]. Đồng tình với quan niệm này có các tác
giả như: Trịnh Quang Từ, Nguyễn Ngọc Bảo, Võ Quang Phúc, Nguyễn Thị
Tính,…
Dưới góc độ nghiên cứu hoạt động tự học như là hoạt động nghiên cứu,
với sự giúp đỡ gián tiếp của GV, tác giả Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: “Tự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so
sánh, phân tích, tổng hợp,…) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ),
cùng các phẩm chất của mình rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan,
thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, ý chí tiến thủ, không ngại
khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học…) để chiếm lĩnh một
lĩnh vực nào đó” [26, tr.59-60]. Theo tác giả PhạmViết Vượng: “Tự học là
hình thức học sinh học ngoài giờ lên lớp bằng nỗ lực cá nhân theo kế hoạch
học tập chung và không có mặt trực tiếp của giáo viên”[35, tr.133].
Dựa vào định nghĩa của các tác giả nêu trên, chúng tôi rút ra nhận xét
như sau: tự học là một bộ phận, một thành phần của học. Học bao giờ cũng
bao gồm tự học, nhưng không phải bất cứ sự học nào cũng có tự học. Chỉ khi
người học học với sự độc lập và tự lực cao khi đó tự học mới xảy ra. Tính
chất cơ bản quan trọng không thể thiếu của tự học là sự tự giác, tích cực, độc
lập và sáng tạo của người học trong hoạt động học tập. Tự học được diễn ra
trong lớp hoặc ngoài lớp, có hoặc không có sự can thiệp trực tiếp của GV.
Từ những phân tích trên đây, theo chúng tôi, tự học là một bộ phận
của học, trong đó sinh viên huy động ở mức cao nhất tiềm năng trí tuệ, vốn
sống, tình cảm và ý chí của mình để lĩnh hội một cách tự lực tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo và hoàn thiện nhân cách dưới sự hướng dẫn hoặc không có
sự hướng dẫn trực tiếp của giảng viên.
Từ khái niệm về tự học, chúng ta có thể hiểu tự học môn GDH là quá
trình người học tích cực, chủ động, tự tổ chức hoạt động nhận thức của
mình nhằm chiếm lĩnh nội dung tri thức GDH, hình thành những kỹ năng,
kỹ xảo nghề nghiệp tương ứng, dưới sự hướng dẫn hoặc không có sự
hướng dẫn trực tiếp của giảng viên.
Muốn học tốt môn GDH, sinh viên phải biết vận dụng mọi hình thức để
tự học, bản thân người học phải có sự nỗ lực, tích cực, độc lập, luôn so sánh,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
đối chiếu giữa lí luận và thực tiễn để nắm vững, hiểu sâu tri thức môn học.
Bên cạch đó, người học cần lựa chọn phương pháp học tập khoa học, hợp lí
để đạt hiệu quả cao trong học tập.
1.2.3. Tổ chức tự học
Để nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của SV, một yêu cầu tất yếu đặt
ra là hoạt động tự học cần phải được sắp xếp và tổ chức một cách khoa học.
Nói cách khác, người thầy giáo cần quan tâm đến việc tổ chức hoạt động tự
học cho SV.
Tổ chức là một công việc bao gồm sự sắp xếp, thiết kế các biện pháp
tiến hành hoạt động, là việc sử dụng các đối tượng và các phương tiện hỗ trợ
nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Đây là công việc có vai trò quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động.
Trong dạy học, có nhiều quan niệm khác nhau: I.P.RaTrencô cho rằng:
“Tổ chức quá trình dạy học là quá trình thực hiện những biện pháp có cơ sở
khoa học nhằm đảm bảo hiệu suất cao nhất của quá trình dạy học với điều
kiện sử dụng hợp lý thời gian, sức lực, phương tiện của GV và học sinh.”
[16]. Còn theo V.B.Bololêpov thì tổ chức là một sự sắp xếp tương hỗ và liên
hệ qua lại của các yếu tố trong một phức hợp nào đó, tổ chức không phải là
nội dung của hoạt động mà là hình thức, phương pháp thực hiện và hành động
của nó.
Như vậy, tổ chức dạy học là sự sắp xếp các thao tác, các hành động dạy
học. Còn tổ chức hoạt động học tập cho học sinh là cách thiết kế, sắp xếp các
biện pháp hoạt động phối hợp chung giữa GV và học sinh trong các hình thức
học tập khác nhau nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động học tập.
Vận dụng những quan điểm nêu trên vào việc tổ chức tự học cho SV
chúng tôi cho rằng: tổ chức tự học cho SV là quá trình thiết kế, sắp xếp quy
trình tổ chức giảng dạy của GV nhằm tiến hành hướng dẫn, điều kiển, chỉ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
đạo cách tự thiết kế, tự sắp xếp quy trình tự học, tự nghiên cứu của SV để
thực hiện các mục đích, nhiệm vụ học tập đề ra.
Bản chất của việc tổ chức tự học cho SV là quá trình GV sắp xếp và
tiến hành các biện pháp dạy học sao cho phát huy được tính tích cực, tự giác
của người học mức độ cao nhất trong mọi hình thức học tập dưới sự hỗ trợ
của các phương tiện dạy học.
Từ khái niệm về tổ chức tự học cho SV, chúng ta có thể hiểu: tổ chức
tự học môn GDH cho SV là quá trình thiết kế, sắp xếp quy trình tổ chức
giảng dạy môn GDH của GV nhằm tiến hành hướng dẫn, điều kiển, chỉ
đạo cách tự thiết kế, tự sắp xếp quy trình tự học, tự nghiên cứu môn GDH
của SV để thực hiện các mục đích, nhiệm vụ học tập đề ra.
Tổ chức tự học môn GDH cho SV nhằm biến quá trình dạy học môn
GDH thành quá trình tự học môn GDH, nâng cao hiệu quả của việc dạy và
học môn GDH, thực hiện đầy đủ, có chất lượng, đạt tới mục đích, yêu cầu của
môn GDH trong các trường CĐSP. Muốn làm được điều đó cần tiến hành tổ
chức tự học bằng các phương pháp, dưới nhiều hình thức khác nhau, kết hợp
sự hỗ trợ của các phương tiện và kỹ thuật dạy học hiện đại như máy tính,
mạng Internet,…
1.2.4. Công nghệ thông tin
CNTT, (tiếng Anh: Information Technology, viết tắt là IT) là ngành
ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin, đặc biệt trong các cơ quan tổ
chức lớn.
Cụ thể, CNTT là ngành sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để
chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập thông tin.
Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị
quyết 49/CP ký ngày 04/08/1993 về phát triển CNTT của chính phủ Việt
Nam, như sau: "CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện