Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Phân tích chính sách tỷ giá hối đoái của ngân hàng nhà nước việt nam trong giai đoạn 2008 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.73 KB, 35 trang )


Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
DANH SÁCH NHÓM
SV Thực hiện:
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN















SV Thực hiện:
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
MỤC LỤC
DANH SÁCH NHÓM 2
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN 3
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH
SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 3
1.1: KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 3


1.1.1: Sự hình thành của tỷ giá hối đoái 3
1.1.2: Ngoại tệ và ngoại hối 3
1.1.2.1: Ngoại tệ: 3
1.1.2.2: Ngoại hối: 3
1.1.3. Khái niệm về tỷ giá hối đoái 4
1.1.5: Vai trò của tỷ giá hối đoái 4
1.1.5.1: Chức năng so sánh sức mua: 4
1.1.5.2. Chức năng điều chỉnh xuất nhập khẩu và thu chi quốc tế: 5
1.1.5.3. Chức năng phân phối: 5
1.2: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 5
1.2.1: Mức chênh lệch lạm phát của hai nước ảnh hưởng đến sự biến động
của tỷ giá 5
1.2.2. Cung và cầu ngoại hối trên thị trường 6
1.2.3. Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước cũng ảnh hưởng đến sự biến
động của tỷ giá 6
1.3: CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI 6
1.3.1: Chính sách chiết khấu: 6
1.3.2: Chính sách hối đoái 7
1.3.3: Quỹ dự trữ bình ổn giá cả: 8
SV Thực hiện:
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
1.3.4. Phá giá tiền tệ 9
1.3.5: Nâng giá tiền tệ 10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH SÁCH
ĐIỀU CHỈNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM 12
GIAI ĐOẠN 2008 – 2011 12
2.1: GIAI ĐOẠN NĂM 2008 – 2009 12
2.2: GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2009 - 2010 15
2.3: GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2010 - 2011 16
2.4: GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2011-2012 19

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH TỶ GIÁ CỦA NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2011 21
3.1. ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRONG TIẾN
TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ 21
3.1.1. Chính sách tỷ giá phải được điều chỉnh linh hoạt và theo hướng thị
trường hơn 21
3.1.2. Chính sách tỷ giá Việt Nam điều chỉnh theo hướng tách rời sự neo
buộc vào đồng USD 22
3.2. GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VIỆT NAM 23
3.2.1. Nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng nhà nước trên thị
trường ngoại hối 23
3.2.2. Hoàn thiện thị trường ngoại hối 24
3.2.3. Phá giá nhẹ đồng Việt Nam 26
3.2.4. Thực hiện chính sách đa ngoại tệ 27
3.2.5. Tạo điều kiện để đồng Việt Nam có thể chuyển đổi được 27
3.2.6. Phối hợp đồng bộ chính sách tỷ giá với các chính sách kinh tế vĩ mô
khác 28
KẾT LUẬN 30
SV Thực hiện:
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
MỞ ĐẦU
Tỷ Giá Hối Đoái luôn gắn liền với các nền kinh tế thị trường mở, do đó trước nhu
cầu hội nhập quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải có sự am hiểu thấu đấu về lĩnh vực này,
đặc biệt là những kiến thức hiện đại đang được áp dụng phổ biến trên thế giới. Tỷ Giá
Hối Đoái là một trong những vấn đề phức tạp, nhạy cảm và là một yếu tố vô cùng
quan trọng. Không ít nền kinh tế lâm vào tình trạng khó khăn do Tỷ Giá Hối Đoái gây
ra.
Tỷ Giá Hối Đoái đang tạo ra một sự chú ý đặc biệt đối với các nhà kinh tế, các nhà
chính trị và nó đã trở thành một chủ đề thảo luận sôi nổi và kéo dài không chỉ ở Việt
Nam mà cả trên thế giới. Trong một loạt các chính sách tài chính - tiền tệ, thì chính

sách điều chỉnh Tỷ Giá Hối Đoái mà điển hình là chính sách nâng giá tiền tệ hay phá
giá tiền tệ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế cả về đối
nội lẫn đối ngoại. Với chính sách Tỷ Giá Hối Đoái, Chính Phủ các quốc gia có thể đưa
nền kinh tế thoát ra khỏi những cuộc khủng hoảng tài chính và ngược lại cũng có thể
vì một chính sách Tỷ Giá Hối Đoái không hợp lý mà đưa nền kinh tế rơi vào tình trạng
suy thoái, khủng hoảng nghiêm trọng. Thêm vào đó, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm
phát, giảm tỷ lệ thất nghiệp, cân bằng cán cân thương mại, chính sách thu hút đầu tư
nước ngoài luôn là những mục tiêu kinh tế quan trọng của mọi quốc gia, đặc biệt là
trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay; để thực hiện được những mục tiêu đó, tùy vào tình
hình cụ thể của từng nước mà áp dụng chính sách điều chỉnh Tỷ Giá Hối Đoái cho phù
hợp.Thấy rõ được tầm quan trọng của vấn đề Tỷ Giá Hối Đoái trong xu thế phát triển
của nền kinh tế thế giới cũng như tính cấp thiết của vấn đề này đối với nền kinh tế của
Việt Nam. Đặc biệt là sau khi Việt Nam tiến hành mở cửa cải cách nền kinh tế vào
năm 1986, việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vào đầu năm 2007, ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra vào năm 2008 tới nền kinh tế
Việt Nam, điển hình là trong năm 2011. Với sự gia tăng mạnh mẽ của Tỷ Giá Hối
Đoái chủ yếu là tỷ giá VND/USD, lạm phát có tình hình diễn biên phức tạp trong năm
2011, giá vàng tăng lên chóng mặt liên tục phá kỷ lục về giá, giới đầu cơ liên tục làm
giá. Bên cạnh đó, hiện tượng tích trữ ngoại tệ trong người dân còn phổ biến dẫn đến sự
khan hiếm ngoại tệ, cán cân thanh toán bị thâm hụt, lái suất ngân hàng tăng cao đã tác
SV Thực hiện: Trang 1
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
động tới Tỷ Giá Hối Đoái. Để làm rõ những tác động đó tới Tỷ Giá Hối Đoái, hiểu rõ
được thực trạng Tỷ Giá Hối Đoái thực tế ở Việt Nam. Do đó, em đã chọn đề tài:
“Phân tích chính sách tỷ giá hối đoái của ngân hàng nhà nước Việt Nam trong giai
đoạn 2008 - 2011 ”. Đề tài nghiên cứu với mục đích là nhằm hiểu rõ hơn, nắm vững
hơn về mặt lý thuyết và cơ sở ứng dụng của Tỷ Giá Hối Đoái, chính sách điều chỉnh
Tỷ Giá Hối Đoái. Đặc biệt là ứng dụng thực tiễn vào thực trạng tình hình biến động Tỷ
Giá Hối Đoái ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2008 đến 2011, trên cơ sở đó rút ra một số
bài học kinh nghiệm, đưa ra một số giải pháp giải quyết biến động Tỷ Giá Hối Đoái

cho Việt Nam.
SV Thực hiện: Trang 2
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1.1: KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1.1.1: Sự hình thành của tỷ giá hối đoái
Sự hình thành tỷ giá hối đoái là quá trình tác động của yếu tố chủ quan và khách
quan. Nhưng nhìn chung có ba yếu tố tác động đến tỷ giá hối đoái, đó là mối quan hệ
cung cầu về ngoại tệ, độ lệch giữa lãi suất và lạm phát giữa các nước
1.1.2: Ngoại tệ và ngoại hối
1.1.2.1: Ngoại tệ:
Là đồng tiền của nước ngoài hoặc đồng tiền chung của một nhóm nước. Công cụ
thanh toán bằng ngoại tệ: đây là công cụ thanh toán được ghi bằng tiền nước ngoài như
séc, hối phiếu, lệnh phiếu, thẻ ngân hàng, giấy chuyển ngân
1.1.2.2: Ngoại hối:
Là phương tiện thiết yếu trong quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, giữa các quốc
gia trên thế giới.
Ngoại hối là những ngoại tệ (tiền nước ngoài) vàng tiêu chuẩn quốc tế,các giấy tờ
có giá và các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài.Trong đó đặc biệt là ngoại tệ có
vai trò,nó là phương tiện dự trữ của cải, phương tiện để mua, để thanh toán và hạch
toán quốc tế.
Trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển, quan hệ quốc tế ngày càng mở
rộng thì bất cứ một quốc gia nào cũng không thể tự mình khép kín mọi hoạt động,
cũng không thể phát triển đất nước một cách đơn độc,riêng lẻ đặc biệt giai đoạn hiện
nay,khi nền kinh tế thị trường đang ngày một sôi động,luôn đòi hỏi sự hợp tác,liên
minh giữa các quốc gia. Do vậy việc dự trữ ngoại hối là một trong những mục tiêu
kinh tế có ý nghĩa chiến lược quan trọng,có dự trữ ngoại hối cần thiết tức là nhà nước
đã nắm được trong tay một công cụ quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ

mô.
Về nguồn gốc sâu xa, dự trữ ngoại hối chính là kết quảt, là biểu hiện của sức mạnh
SV Thực hiện: Trang 3
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
của tiềm lực kinh tế quốc gia.Dự trữ ngoại hối để đảm bảo sự cân bằng khả năng thanh
toán quốc tế,thoả mãn nhu cầu nhập khẩu phục vụ phất triển kinh tế và đời sống trong
nước,mở rộng hoạt động đầu tư,hợp tác kinh tế với các nước khác phục vụ mục tiêu
chính sách kinh tế mở.
1.1.3. Khái niệm về tỷ giá hối đoái
Có hai khái niệm về tỷ giá hối đoái:
- Khái niệm 1: Các phương tiện thanh toán quốc tế được mua và bán trên thị
trường hối đoái bằng tiền tệ quốc gia của một nước theo một giá cả nhất định. Vì
vậy, giá cả của một đơn vị tiền tệ này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước
kia gọi là tỷ giá hối đoái.
- Khái niệm 2: Tỷ giá hối đoái còn được định nghĩa ở một khía cạnh khác,
đó là quan hệ so sánh giữa hai tiền tệ của hai nước với nhau theo tiêu chuẩn nào
đó.
+ Trong chế độ bản vị vàng, tiền tệ trong lưu thông là tiền đúc bằng vàng và
giấy bạc ngân hàng được tự do đổi ra vàng căn cứ vào hàm lượng vàng của nó.
Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh hai đồng tiền vàng của hai nước với nhau
hoặc là so sánh hàm lượng vàng của hai đồng tiền hai nước với nhau.
+ Trong chế độ lưu thông tiền giấy, tiền đúc trong lưu thông không còn nữa,
giấy bạc ngân hàng không còn tự do đổi ra vàng theo hàm lượng vàng của nó, do
đó, ngang giá vàng không còn làm cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái.
Việc so sánh hai đồng tiền với nhau được thực hiện bằng so sánh sức mua
của hai tiền tệ với nhau, gọi là ngang giá sức mua của tiền tệ.
1.1.5: Vai trò của tỷ giá hối đoái
1.1.5.1: Chức năng so sánh sức mua:
Thông qua TGHĐ ta có thể so sánh được giá cả ở thị trường nội địa so với
thị trường thế giới, từ đó thấy được mức chênh lệch về năng suất lao động ở

trong nước với thế giới bên ngoài, biết được đồng tiền quốc gia này là bội số hay
ước của số của đồng tiền quốc gia kia.
SV Thực hiện: Trang 4
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
Qua chức năng so sánh sức mua của các tiền tệ, TGHĐ trở thành công cụ
quan trọng trong việc hoạch định các chính sách kinh tế đối ngoại, định hướng
phát triển các hoạt động ngoại thương, dịch vụ đối ngoại và các ngành kinh tế
khác trong nước.
1.1.5.2. Chức năng điều chỉnh xuất nhập khẩu và thu chi quốc tế:
Thông qua việc ổn định TGHĐ, Nhà nước sẽ có những tác động trực tiếp
đến hoạt động xuất, nhập khẩu theo hướng khuyến khích hoặc hạn chế, từ đó
điều chỉnh quan hệ thu chi quốc tế, cải thiện cán cân thương mại và cán cân
thanh toán quốc tế.
1.1.5.3. Chức năng phân phối:
Nhà nước có thể sử dụng TGHĐ như một công cụ để điều tiết, phân phối lại
thu nhập giữa các lĩnh vực hoạt động kinh tế đối ngoại.
Tóm lại, TGHĐ là một công cụ kinh tế hết sức quan trọng. Do đó, chính
sách tỷ giá đã trở thành một bộ phận cấu thành chính sách tiền tệ quốc gia.
1.2: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
Sau khi chế độ tiền tệ Bretton Woods sụp đổ năm 1971, quan hệ tiền tệ giữa
các nước được “thả nổi”, trong đó, điển hình nhất là cơ chế "tỷ giá thả nổi" của
các đồng tiền quốc gia tư bản chủ nghĩa. Với cơ chế này, hàng ngày trên thị
trường do ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố:
1.2.1: Mức chênh lệch lạm phát của hai nước ảnh hưởng đến sự biến động
của tỷ giá.
Qua đó, có thể nhận thấy tỷ giá biến động do lạm phát phụ thuộc vào mức
chênh lệch lạm phát của hai đồng tiền và nước nào có mức độ lạm phát lớn hơn
thì đồng tiền nước đó sẽ giảm sức mua hơn.
Ngoại hối có giá cả, bởi vì ngoại hối cũng là một loại hàng hoá đặc biệt. Giá
cả của ngoại hối cũng chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố làm cho nó biến động

như mức độ lạm phát và giảm phát, cung và cầu ngoại hối trên thị trường
SV Thực hiện: Trang 5
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
Nếu không tính đến các nhân tố khác, chỉ tính riêng ảnh hưởng của nhân tố
lạm phát, ta có thể dự đoán được sự biến động của tỷ giá trong tương lai.
1.2.2. Cung và cầu ngoại hối trên thị trường
Cung và cầu ngoại hối trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và nhạy
bén đến sự biến động của tỷ giá hối đoái.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối có
thể bao gồm:
- Tình hình dư thừa hay thiếu hụt của cán cân thanh toán quốc tế. Nếu cán
cân thanh toán quốc tế dư thừa thì có thể dẫn đến khả năng cung ngoại hối lớn
hơn cầu ngoại hối. Ngược lại, thì cầu ngoại hối sẽ lớn hơn cung ngoại hối.
- Thu nhập thực tế tăng lên sẽ làm tăng nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập
khẩu, do đó làm cho nhu cầu ngoại hối để thanh toán hàng nhập khẩu tăng lên.
- Những nhu cầu ngoại hối bất thường tăng lên do thiên tai, hạn hán, lũ lụt,
mất mùa, chiến tranh cũng như do nạn buôn lậu gây ra.
1.2.3. Mức chênh lệch lãi suất giữa các nước cũng ảnh hưởng đến sự biến
động của tỷ giá.
Nước nào có lãi suất ngắn hạn cao hơn nước khác hoặc cao hơn LIBID thì
vốn ngắn hạn sẽ chảy vào nhằm thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra đó, do đó
sẽ làm cho cung ngoại hối tăng lên, cầu ngoại hối giảm đi, tỷ giá hối đoái sẽ
giảm xuống.
1.3: CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
Trong nền sản xuất hàng hoá, TGHĐ chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố và
biến động một cách tự phát. Nhà nước có thể áp dụng nhiều biện pháp để điều
chỉnh TGHĐ. Các biện pháp chủ yếu để điều chỉnh TGHĐ là chính sách chiết
khấu, chính sách hối đoái, lập quỹ bình ổn hối đoái, vay nợ, phá giá, nâng giá
tiền tệ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái
1.3.1: Chính sách chiết khấu:

SV Thực hiện: Trang 6
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
Là chính sách của NHNN dùng cách thay đổi tỷ suất chiết khấu của ngân
hàng mình để điều chỉnh TGHĐ trên thị trường. Khi TGHĐ lên cao đến mức
nguy hiểm muốn cho tỷ giá hạ xuống thì NHNN nâng cao tỷ suất chiết khấu
lên, do đó lãi suất trên thị trường cũng nâng lên, kết quả là vốn ngắn hạn trên thị
trường thế giới sẽ chạy vào nước mình để thu lãi cao. Lượng vốn chạy vào sẽ
góp phần làm dịu sự căng thẳng của cầu ngoại hối, do đó, TGHĐ sẽ có xu
hướng hạ xuống.
Chính sách chiết khấu cũng chỉ có ảnh hưởng nhất định và có hạn đối với
TGHĐ, bởi vì giữa tỷ giá và lãi suất không có quan hệ nhân quả, lãi suất không
phải là nhân tố duy nhất quyết định sự vận động vốn giữa các nước.
Lãi suất biến động do tác động của quan hệ cung cầu của vốn cho vay. Lãi
suất có thể biến động trong phạm vi tỷ suất lợi nhuận bình quân và trong một
tình hình đặc biệt có thể vượt quá tỷ suất lợi nhuận bình quân. Còn TGHĐ thì do
quan hệ cung cầu về ngoại hối quyết định mà quan hệ này lại do tình hình của
cán cân thanh toán dư thừa hay thiếu hụt quyết định. Như vậy là nhân tố hình
thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau, do đó mà biến động của lãi suất
không nhất định đưa TGHĐ biến động theo.
Lãi suất lên cao có thể thu hút vốn ngắn hạn của nước ngoài chạy vào,
nhưng trong tình hình chính trị, kinh tế và tiền tệ trong nước đó không ổn định
thì không nhất thiết thực hiện được, bởi vì đối với vốn nước ngoài, vấn đề lúc đó
đặt ra là sự đảm bảo an toàn cho số vốn chứ không phải là vấn đề thu được lãi
nhiều.
Tuy nhiên, không nên hoàn toàn coi thường chính sách chiết khấu. Nếu tình
hình tiền tệ của các nước đều đại thể như nhau thì phương hướng đầu tư ngắn
hạn vẫn hướng vào những nước có lãi suất cao. Do đó, hiện nay, chính sách
chiết khấu vẫn còn có ý nghĩa của nó.
1.3.2: Chính sách hối đoái
SV Thực hiện: Trang 7

Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
Chính sách hối đoái còn được gọi là chính sách thị trường mở là biện pháp
tác động trực tiếp vào TGHĐ, có nghĩa là NHNN hay các cơ quan ngoại hối của
Nhà nước dùng nghiệp vụ mua bán trực tiếp ngoại hối để điều chỉnh TGHĐ.
Khi TGHĐ lên cao, NHNN tung ngoại hối ra bán để kéo TGHĐ tụt xuống.
Muốn thực hiện được biện pháp này, NHNN phải có dự trữ ngoại hối lớn. Song,
nếu tình hình thiếu hụt của cán cân thanh toán quốc tế của một nước kéo dài thì
khó có thể có nguồn dự trữ ngoại hối lớn để thực hiện chính sách này.
Trong tình hình như trên, các nước tư bản chủ nghĩa phải dựa vào vốn dự trữ
ngoại hối của nhau để cứu nguy đồng tiền của một nước nào đó. Vì vậy, mười
bốn nước tư bản chủ nghĩa phát triển và Mỹ đã kí hiệp định “SWAP” để hổ trợ
lẫn nhau giữa các NHNN nhằm tác động đến quan hệ cung cầu ngoại hối của
nước sử dụng tín dụng “SWAP”, do đó, ảnh hưởng đến TGHĐ của nước đó.
Chính sách chiết khấu và chính sách ngoại hối đều dẫn đến mâu thuẩn
giữa tập đoàn tư bản trong nước, giữa thương nhân xuất khẩu muốn nâng cao
TGHĐ lên với thương nhân nhập khẩu muốn hạ thấp TGHĐ xuống, giữa nhà
xuất khẩu vốn muốn hạ thấp TGHĐ với nhà nhập khẩu vốn muốn nâng cao
TGHĐ và mâu thuẩn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau, vì tỷ giá của một
nước nâng lên thì hạn chế nhập khẩu hàng của nước khác nhưng lại khuyến
khích việc xuất khẩu vốn của nước khác, do đó, làm cho cán cân thương mại và
cán cân thanh toán của nước ngoài đó với nước thực hiện hai chính sách này bị
thiệt hại.
1.3.3: Quỹ dự trữ bình ổn giá cả:
Đây là một hình thức biến trướng của chính sách hối đoái, mục đích của nó
nhằm tạo ra một cách chủ động một lượng dự trữ ngoại hối để ứng phó với sự
biến động của TGHĐ, thông qua chính sách hoạt động công khai trên thị trường.
Về nguyên tắc thì NHNN các nước không chịu trách nhiệm điều tiết sự biến
động của tỷ giá thả nổi. Song, do khủng hoảng ngoại hối trầm trọng, tiền tệ của
các nước ngày một mất giá và tỷ giá biến động mãnh liệt đã ảnh hưởng đến sản
SV Thực hiện: Trang 8

Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
xuất và lưu thông hàng hoá, các nước đã thành lập các quỹ bình ổn hối đoái để
điều tiết tỷ giá của đồng tiền nước mình.
Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng, tác dụng của quỹ bình ổn hối đoái rất có hạn, vì
một khi đã bị khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng ngoại hối, lượng dự trữ theo
quỹ đó cũng giảm đi và không đủ sức điều tiết tỷ giá. Quỹ này chỉ có tác dụng
khi hùng hoảng ngoại hối ít nghiêm trọng và có nguồn tín dụng quốc tế hỗ trợ,
ví dụ như tín dụng “SWAP”.
1.3.4. Phá giá tiền tệ.
Trong những điều kiện của cuộc đấu tranh về kinh tế, chính trị của các nước
vì thị trường ngoài nước, cũng như trong những điều kiện mức độ lạm phát rất
khác nhau ở các nước đã phát sinh, vấn đề cần thiết phải xem xét lại tỷ giá tiền
tệ của nước này hoặc của nước khác.
Trong tình trạng nghiêm trọng của khủng hoảng ngoại hối, khi mà sức mua
của tiền tệ giảm sút mạnh và không thể đại biểu cho sức mua danh nghĩa của nó,
khi mà trong suốt thời gian dài TGHĐ biến động mạnh thì vấn đề xác định lại
TGHĐ là điều không thể tránh khỏi, song các nhà nước không thừa nhận điều
đó, họ phá giá tiền tệ lúc nào, mức độ ra sao là phụ thuộc vào mục đích kinh tế
và chính trị của họ. Phá giá tiền tệ đã trở thành một chính sách kinh tế, tài chính
của nhà nước để tác động đến TGHĐ và cán cân thanh toán quốc tế.
Phá giá tiền tệ là sự tụt sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ thấp
hơn sức mua thực tế của nó.
Tác dụng của phá giá tiền tệ đối với nước tiến hành phá giá có thể là:
- Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá, hạn chế nhập khẩu hàng hoá, do đó có
tác dụng khôi phục lại sự cân bằng của cán cân ngoại thương, nhờ vậy góp phần
cán cân thanh toán quốc tế.
- Khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối và hạn chế xuất khẩu vốn ra bên
ngoài cũng như chuyển tiền ra ngoài nước, do đó có tác dụng làm tăng khả năng
cung ngoại hối, giảm nhu cầu về ngoại hối, nhờ đó TGHĐ sẽ giảm xuống.
SV Thực hiện: Trang 9

Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
- Khuyến khích du lịch vào trong nước, hạn chế du lịch ra nước ngoài, vì vậy
quan hệ cung và cầu ngoại hối bớt căng thẳng.
- Cướp không một phần giá trị thực tế của những ai nắm đồng tiền bị phá giá
trong tay.
- Tác dụng chủ yếu của biện pháp phá giá tiền tệ là nhằm cải thiện tình hình
của cán cân thương mại.
Tuy vậy, tác dụng cải thiện cán cân thương mại có trở thành hiện thực hay
không còn phụ thuộc vào khả năng đẩy mạnh xuất khẩu của nước tiến hành phá
giá tiền tệ và năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của nước đó.
1.3.5: Nâng giá tiền tệ
Nâng giá tiền tệ là việc nâng sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ,
cao hơn sức mua thực tế của nó.
Đây là chính sách nhằm nâng giá chính thức đơn vị tiền tệ nước mình so với
ngoại tệ, tức là làm cho tỷ giá của ngoại hối so với tiền tệ nâng giá bị sụt xuống,
tức là hạ thấp tỷ giá hối đoái xuống.
Ảnh hưởng của nâng giá tiền tệ đối với ngoại thương của một nước hoàn
toàn ngược lại với phá giá tiền tệ. Ngày nay, việc nâng giá tiền tệ thường do các
nguyên nhân sau:
- Do áp lực các nước khác muốn tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá của
họ vào quốc gia có cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế dư thừa.
- Tránh những đồng tiền mất giá “chạy trốn” vào nước mình.
- Những nước có nền kinh tế phát triển quá “nóng” muốn làm “lạnh” nền
kinh tế để tránh khủng hoảng về cơ cấu thì sẽ nâng giá về tiền tệ để giảm xuất
khẩu hàng hoá, giảm đầu tư vào trong nước mình.
- Phục vụ cho việc chuyển vốn đầu tư ra bên ngoài xây dựng một nền kinh tế
của mình “trong lòng” các nước khác nhằm giữ vững thị trường bên ngoài, vấn
đề sống còn của nền kinh tế mỗi quốc gia.
SV Thực hiện: Trang 10
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:

Nâng giá tiền tệ trong những điều kiện hiện nay thường xảy ra dưới áp lực
của nước khác mà các nước này mong muốn tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá
của mình vào nước có cán cân thanh toán và cán cân thương mại dư thừa.
Những nước có nền kinh tế phát triển quá “nóng” như Nhật Bản, muốn làm
“lạnh” nền kinh tế để tránh khủng hoảng cơ cấu thì sẽ dùng biện pháp nâng giá
tiền tệ để giảm xuất khẩu hàng hoá, giảm đầu tư vào trong nước.
Việc nâng giá đồng Yên Nhật Bản cũng tạo điều kiện để Nhật Bản chuyển
vốn đầu tư ra bên ngoài nhằm xây dựng một nước Nhật “kinh tế” trong lòng các
nước khác, nhờ vào đó mà Nhật giữ vững được thị trường bên ngoài, một vấn đề
sống còn đối với Nhật Bản.
SV Thực hiện: Trang 11
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH
SÁCH ĐIỀU CHỈNH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2008 – 2011
Việc quản lý tỷ giá hối đoái là yếu tố rất quan trọng vì nó sẽ giúp kiểm
soát được lạm phát, ổn định được kinh tế vĩ mô và cán cân thương mại. Và ở
Việt Nam cũng đang rất chú trọng vấn đề này, Việt Nam đã có nhiều thay đổi
trong cơ chế áp dụng chế độ tỷ giá và chế độ tỷ giá hiện nay (2008-2011) là chế
độ neo tỷ giá với biên độ được điều chỉnh.
Ở Việt Nam đồng USD gần như là được mặc định là đồng neo tỷ giá và tỷ
giá được ngân hàng nhà nước(NHNN) công bố là VND/USD. Căn cứ vào tỷ giá
giữa USD và các đồng tiền khác mà các ngân hàng thương mại sẽ xác lập tỷ giá
giữa các ngoại tệ đó với VND. Trong thời gian qua tỷ giá VND/USD đã có
nhiều biến động và nó ảnh hưởng rất nhiều đến các hoạt động kinh tế cũng như
các hoạt động thương mại mà cụ thể ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất nhập
khẩu của Việt Nam.
2.1: GIAI ĐOẠN NĂM 2008 – 2009
Đầu năm 2008, nền kinh tế vừa kết thúc giai đoạn suy thoái và khủng hoảng
bắt đi vào sự ổn định.

Giai đoạn 2008-2009 đánh dấu sự phản ứng trong chính sách tỷ giá ở Việt
Nam. Nguyên nhân là do từ cuối năm 2007 sự gia tăng ồ ạt của các nguồn đầu tư
gián tiếp vào Việt Nam làm cho nguồn cung USD tăng mạnh do đó tỷ giá trong
giai đoạn giảm xuống hay nói cách khác là đồng Việt Nam tăng giá. Tỷ giá
NHTM có nhiều biến động mạnh do lạm phát tăng cao vào giai đoạn nửa đầu
năm( tỷ lệ lạm phát năm 2008 rất cao có lúc kên đến gần 20%) đồng thời cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới đã bắt đầu ảnh hưởng và tác động đến nền kinh tế
Việt Nam vào nửa cuối năm 2008. Và cũng bắt đầu từ nửa cuối năm 2008 cùng
với sự suy thoái của nền kinh tế thì luồng đầu tư gián tiếp vào Việt Nam đã bắt
SV Thực hiện: Trang 12
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
đầu giảm. Năm 2008 tỷ giá niêm yết tại các NHTM biến động liên tục, có lúc tỷ
giá này thấp hơn cả tỷ giá chính thức trong khi năm 2009 tỷ giá NHTM luôn
luôn ở mức trần biên độ mà NHNN công bố. Trước áp lực về quan hệ cung cầu
ngoại hối trên thị trường mà tỷ giá trên thị trường tự do tăng rất nhanh. Mặc dù
NHNN đã mở rộng biên độ dao động tử +/- 3% lên +/- 5% (biên độ dao động
lớn nhất trong vòng 10 năm qua) nhưng các NHTM vẫn giao dịch ở mức trần.
Đến 26/11/2009 NHNN chính thức giảm biên độ dao động xuông lại còn +/- 3%
tuy nhiên các NHTM vẫn dao dịch ở mức tỷ giá trần.
Tỷ giá VND/USD có xu hướng giảm từ đầu năm 2008. Theo công bố của
tổng cục thông kê, giá tiêu dùng tháng 1/2008 tăng 2,38% so với cuối năm 2007.
Để kiềm chế lạm phát thì NHNN đã điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm lên
8,75%/năm, tăng 0,5%/năm, lãi suất tái cấp vốn tăng lên 7,5%/năm tăng
1,0%/năm,…Ngày 13/2, NHNN thông báo phát hàng tín phiếu NHNN bằng
VND vào ngày 17/3 dưới hình thức bắt buộc đối với 41 NHTM với tổng giá trị
tín phiếu phát hành 20300 tỷ đồng với kì hạn 364 nngày, lãi suất 7,8%/năm.
Đồng thời tỷ giá USD trên thị trường thế giới tăng mạnh. Hệ quả tức thời của
các tác động trên là dòng tiền VND bị chặn lại, gây ra hiện tượng khan hiếm tiền
mặt, thừa USD giữa các NHTM. Vào thời điểm đó, USD/VND xuống rất thấp,
tỷ giá của các NHTM luôn ở mức dưới tỷ giá liên ngân hàng. Người dân không

còn giữ USD như trước mà chuyển sang mua vàng hoặc giữ tiền đồng để gửi tiết
kiệm hưởng lãi suất cao. Những nhà đầu tư nước ngoài bán USD lấy VND rồi
đem gửi tiết kiệm sẽ thu lại được lợi nhuận hơn. Nhà đầu tư càng được lợi cao
hơn khi lãi suất ở VN đang tăng chóng mặt còn tỉ giá VND/USD thì giảm mạnh.
Kiều bào nước ngoài cũng gửi tiền về cho người thân ở Việt Nam đầu tư mà chủ
yếu là gửi tiết kiệm để hưởng lãi suất. Các NHTM một mặt phải chạy đua lãi
suất với nhau, diễn ra một cuộc cạnh tranh gây gắt nhằm thu hút lượng VND để
đủ tiền mua tín phiếu bắt buộc của NHNN, mặt khác phải cầu cứu NHNN mua
SV Thực hiện: Trang 13
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
bớt ngoại tệ để khai thông dòng chảy cho đồng USD, giải ngân để lấy tiền đồng
hỗ trợ thanh khoản khi cung vốn cạn dần.
Tỷ giá VND/USD từ tháng 7/2008 có xu hướng tăng nhưng ổn định hơn.
Trong tháng 7/2008 chênh lệch giữa ngoại tệ liên ngân hàng và ngoại tệ trên thị
trường tự do không quá cách biệt. Nguyên nhân là do ngân hàng nhà nước công
bố nguồn dự trữ ngoại tệ nên tâm lý của người dân được cải thiện hơn nên người
dân giảm gim giữ ngoại tệ và đầu cơ ngoại tệ nên tỷ giá lúc này khá ổn định.
Mặc khác lạm phát lúc này đã được kiểm soát mức tăng lạm phát được kiềm
hãm ở mức 1.13% so với tháng trước. Sang các tháng cuối năm biến động
nhưng không nhiều, tỷ giá VND/USD trong 8/2008 biến động nhích lên theo
từng tuần. Cụ thể tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 16.489 đồng lên 16.493
đồng và tăng đến 16.496 đồng trong 2 tuần cuối tháng 8. Tỷ giá trên thị trường
tự do ổn định hơn.
Tháng 9/2008 biến động mạnh nhất vào giũa tháng 9 tỷ giá tăng mạnh từ
16.620 lên 16.740 sau đó giảm xuống còn 16.630 VND/USD vào cuối tháng.
Nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng tài chính ở Mĩ, các tập đoàn tài chính của
Mĩ bị phá sản làm cho tỷ giá biến động bất ngờ. Đến tháng 10/2008 tỷ giá tiếp
tục được ổn định và đến cuối tháng tỷ giá lại bất ngờ tăng vọt lên mốc 16.800
VND/USD trong khi tỷ giá liên ngân hàng vẫn ổn định. Tuy nhiên sau đó thì tỷ
giá này cũng giảm nhẹ. Nguyên nhân là do cuối tháng 9 các nhà đầu tư nước

ngoài đã bán ròng khối lượng cổ phiếu và trái phiếu trên 2 sàn giao dịh của Việt
Nam mà chủ yếu là để mua USD nên gây sức ép lên tỷ giá. Nguyên nhân nữa là
do các ngoại tệ mạnh trên thế giới đều mất giá so với USD nhất là chính phủ Mĩ
can thiệp vào thị trường tài chính ngăn chặn cuộc khủng hoảng làm cho USD
tăng giá trở lại. Cuộc khủng hoảng toàn cầu ảnh hưởng kinh tế Việt Nam. Rõ
ràng nhất là trong cuối năm 2008 nhu cầu hàng xuất khẩu giảm, kim ngạch xuất
khẩu giảm liên tục từ tháng 8 chủ yếu là dầu thô. Các nhà đầu tư nước ngoài
cũng giảm đầu tư, lượng khách du lịch vào Việt Nam cũng giảm, lượng kiều hối
SV Thực hiện: Trang 14
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
cũng giảm mạnh đã làm cho nguồn cung USD giảm mạnh ảnh hưởng rất lớn đến
tỷ giá. Tuy nhiên chính phủ ta đã có biện pháp hợp lý và đã kiểm soát được tỷ
giá không biến động quá mạnh.
2.2: GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2009 - 2010
Giá USD tháng 01/2009 so với tháng 12/2008 tăng 1,48%, so với tháng
01/2008 tăng 8,16%. Qua tháng 2 dưới sự tác động của khủng hoảng kinh tế thế
giới, nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng nhiều tuy nhiên nhà nước ta có nhiều
biện pháp để kiềm chế sự ảnh hưởng và cải thiện kinh tế. Nhìn chung từ đầu
tháng 1/2009 đến giữa tháng 2/2009, tỷ giá USD/VND không có biến động
mạnh - tăng giảm trong khoảng 17.480 đến 17.490 VND/USD - nguyên nhân
phần lớn là do có sự can thiệp của nhà nước.
Vào những ngày đầu tháng 1/2009 nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ của doanh
nghiệp đã giảm hẳn sau khi các NH áp dụng chương trình vay vốn được bù 4%
lãi suất. Cơ chế bù lãi suất chỉ áp dụng cho các trường hợp vay vốn bằng VND,
không áp dụng cho trường hợp vay vốn bằng USD. Các doanh nghiệp đã tính
toán, vay USD vừa phải lo lắng về biến động tỉ giá lại không được bù lãi suất.
Từ đó, doanh nghiệp đã dừng vay vốn bằng USD để chuyển sang vay VND, số
đã vay đến hạn trả nợ, không vay thêm làm số dư vốn vay USD giảm. Đầu ra
của USD ở nước ngoài bị thu hẹp dần. Như vậy, gói kích cầu đã làm cho cầu
đồng nội tệ tăng vì các NHTM cần VND để cho vay theo nên lãi suất huy động

VND tăng, làm cho giá VND tăng. Đồng thời, gói kích cầu cũng làm cho nhu
cầu USD giảm, lãi suất huy động USD giảm, làm cho giá USD giảm. Tuy nhiên
tỷ giá USD/VNĐ lại tiếp tục tăng trong các tháng tiếp theo, tỷ giá niêm yết tại
các ngân hàng vẫn không đổi, nhưng trên thị trường tự do tỷ giá USD/VND có
nơi đã lên đến 18.000đ. Trong hệ thống ngân hàng đã xảy ra tình trạng thiếu
USD, khiến cho nhiều người có nhu cầu không thể đổi được ngoại tệ. Mặt khác
do việc chênh lệch tỷ giá giao dịch giữa ngân hàng và thị trường tự do đã khiến
cho những người dân hay doanh nghiệp có USD không bán cho các ngân hàng
SV Thực hiện: Trang 15
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
mà bán trên thị trường tự do điều đó buộc NHNN thực hiện nới rộng biên độ tỷ
giá lên +/-5% khiến cho tỷ giá ngoại tệ liên NH đã có đợt tăng đột biến và giao
dịch trên thị trường tự do tiến sát mức 18000đồng/USD.
Trong điều kiện 4 tháng đầu năm 2009 lượng ngoại tệ ròng vào Việt Nam
dương tuy nhiên tỷ giá lại tăng và nguyên nhân chủ yếu vẫn là do các chủ thể
găm giữ ngoại tệ. Trong năm 2009 tỷ giá VND/USD biến động mạnh trên cả thị
trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do. Cụ thể từ tháng 1/2009 đến tháng
3/2009 tỷ giá liên ngân hàng dao động trong khoảng17.450 - 17.700đồng/USD.
Từ tháng 10 đến cuối tháng 11/2009 tỷ giá biến động rất dữ dội, trên thị trường
tự do có lúc đạt đỉnh 20000 đồng/USD và 19750 đồng/USD trên thị trường liên
ngân hàng. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do hiện tượng găm giữ ngoai tệ của
người dân, các doanh nghiệp thì vì sợ tỷ giá sẽ tiếp tục tăng nên mặc dầu chưa
đến kỳ hạn trả nợ nhưng đã mua sẵn ngoại tệ để chuẩn bị cho việc trả nợ. Điều
đó đã làm cho cầu ngoại tệ tăng cao gây ảnh hưởng tỷ giá. Ngoài ra, do tâm lý
bất ổn của người dân và các doanh nghiệp nên họ lựa chon găm giữ ngoại tệ và
đồng thời do chính sách hỗ trợ lãi suất vay tiền đồng thấp cho các doanh nghiệp,
phạm vi và thời gian vay được mở rộng theo chủ trương của chính phủ nên các
doanh nghiệp muốn vay tiền đồng hơn mà không cần bán ngoại tệ để đổi ra
VND nữa. Đây là gói kích cầu mà nhà nước ta thực hiện tuy nhiên đã mang lại
ảnh hưởng lớn đến tỷ giá.

Từ cuối 11/2009 đến hết năm 2009 tỷ giá bắt đầu giảm dần trở lại nguyên
nhân là do NHNN thực hiện chính sách bình ổn tỷ giá cùng với sự góp sức của
NHTM đã làm tỷ giá giảm sau giai đoạn biến động mạnh
2.3: GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2010 - 2011
Trong năm 2010 các NHTM vẫn tiếp tục áp dụng tỷ giá tại mức trần biên độ
của tỷ giá chính thức trong hầu hết các tháng. Do áp lực của tỷ giá trên thị
trường NHNN đã phải tăng tỷ giá chính thức từ 17940 lên 18544 VND/USD kể
từ 11/02/2010 tương đương với việc phá giá 3,3%. Tỷ giá VND/USD của các
SV Thực hiện: Trang 16
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
NHTM trong giai đoạn 2008-2011 luôn đạt mức tỷ giá trần theo biên độ mà
NHNN quy định, chỉ vào một số thời điểm thì tỷ giá này mới thấp hơn trần biên
độ. Cùng với việc nâng tỷ giá thì NHNN còn thực hiện nhiều biện pháp hành
chính để giảm áp lực lên thị trường ngoại hối như giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
bằng ngoại tệ, mở rộng đối tượng cho vay bằng ngoại tệ, đồng thời NHNN tăng
lãi suất cơ bản lên 8%/năm. Kết quả là 6 tháng đầu năm 2010 tín dụng ngoại tệ
tăng cao và các khoản đầu tư và giải ngân ODA, FDI làm cho nguồn cung ngoại
tệ tăng lên làm giảm tỷ giá trên thị trường tự do giảm khoảng cách giữa tỷ giá
trên thị trường tự do với tỷ giá chính thức. Tuy nhiên các NHTM vẫn tiếp tục
đặt giá trần hoặc gần với trần biên độ của tỷ giá chính thức.
Đâu năm 2010 tỷ gía giảm nhẹ và dao động quanh mức 18479 đồng/USD
cho đến 2/2010. Nguyên nhân là do nguồn cung USD từu nước ngoài vào Việt
Nam tăng kể cả nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn hỗ trợ phát triển chính thức do
năm trước cam kết, đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán cũng
tăng, nguồn kiều hối và lượng khách quốc tế vào Việt Nam cũng tăng lên đáng
kể. Điều đó làm cung ngoại tệ tăng lên. Bên cạnh đó các tập đoàn và các công ty
nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng, sức ép gim giữ ngoại tệ giảm và tỷ giá
trên thị trường tự do và thị trường chính thức giảm chênh lệch đáng kể. Từ giữa
tháng 2/2010 đến nay tỷ giá tăng và dao động quanh mức 19.000đồng/USD
(18.900-19.100 đồng /USD) và đang có xu hướng giảm do những chính sách

tích cực từ phía NHNN. Ngày 11/02 Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỷ giá
bình quân liên ngân hàng từ mức 17.941 VNĐ/USD lên mức 18.544 VND/USD.
Nguyên nhân do Ngân hàng Nhà nước có Quyếtđịnh số 74/QĐ-NHNN giảm
mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với cáctổ chức tín dụng. Việc
giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4%đối với kỳ hạn
dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ hạn trên 12 tháng đã làm tăng nguồn
vốn khoảng 500 triệu USD (9.000 tỷ đồng) cho các ngân hàng thương mại để
cho vay trên thị trường, ngay sau đó NHNN tiếp tục ban hành thông tư số
SV Thực hiện: Trang 17
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
03/2010/TT-NHNN quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của tổ chức
kinh tế tại tổ chức tín dụng là 1%/năm. Đây được xem là một “cú hích” mạnh
khi ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các tổ chức kinh tế có tiền gửi bằng
USD, khi lãi suất trước đó được hưởng có từ 4% - 4,5%/năm. Quy định này
được xem là đặt các tổ chức vào thế tự xử, phải tính toán lợi ích và xem xét bán
lại ngoại tệ, chuyển sang VND để có lãi suất tiền gửi cao hơn. Khớp với chính
sách này, các ngân hàng thương mại đồng loạt tăng giá USD mua vào để thu hút
nguồn ngoại tệ tiềm năng này. Chênh lệch lãi suất vay vốn bằng VND và USD
lớn khiến các doanh nghiệp cân nhắc và dịch chuyển sang vay USD. Đến các
tháng cuối năm 2010 thì tỷ giá vẫn tiếp thục tăng mạnh đặc biệt từ tháng 8/2010,
tỷ giá trên thị trường tự do lại tăng cao so với tỷ giá chính thức tại các ngân hàng
khiến NHNN phải tăng tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng từ 18544 VND lên
18932 VND (tăng 2.1%). Và các NHTM vẫn tiếp tục áp dụng mức lãi suất kịch
trần. Đến khoảng cuối tháng 9/2010 tỷ vào khoảng 19500đồng/USD. Theo số
liệu từ bài viết của TS. Võ Đại Lược và TS. Lê Xuân Nghĩa trình bày tại hội
thảo “Ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng: Kinh tế Việt Nam năm 2010,
triển vọng năm 2011” ta thấy đồng nhân dân tệ của Trung Quốc định giá thấp
hơn 30% so với USD tuy nhiên VND lại định giá cao hơn 15% so với USD.
Điều đó cho thấy tỷ giá VND/USD được định giá quá cao so với cung cầu thực
tế về ngoại tệ. Cuối năm 2010 thì tỷ giá tiếp tục biến động tăng, các chủ thể vẫn

thực hiện việc mua ngoại tệ để kì vọng giá tăng. Cuối tháng 11 tỷ giá lên mức
21380-21450 đồng/USD và tỷ giá trên thị trường tự do vượt qua mức 21500
đồng/USD. Trong năm 2010 ta có thể thấy tỷ giá biến động bất thường, đầu ra
ngoại tệ tăng mạnh do chính sách của NHNN về mở rộng đối tượng được vay
vốn ngoại tệ nhưng đầu vào ngoại tệ rất khiêm tốn. NHTM buộc phải tăng lãi
suất huy động lên. Sự bất thường của tỷ giá cho thấy sức mạnh của yếu tố tâm lý
của người dân, doanh nghiệp. Việc găm giữ USD tiếp tục do tình trạng đô la hóa
của Việt Nam ngày càng trầm trọng.
SV Thực hiện: Trang 18
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
2.4: GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2011-2012
Bước sang đầu năm 2011 thì tỷ giá cũng có biến động nhưng không nhiều,
tuy nhiên sau thời gian kiềm giữ tỷ giá USD chính thức ở mức 18932đồng/USD
thì đã đẩy chênh lệch tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường tự do lên tới 2000-
3000 VND/USD và NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá liên ngân hàng thêm 9,3%
đồng thời thu hẹp biên độ tỷ giá xuống còn +/-1% từ ngày 11/2/2011. Có nhiều
lý giải đặt ra quanh con số 9,3% đó. Thứ nhất, đó là sự giải phóng áp lực dồn
nén quá lớn sau một thời gian tương đối dài. Thứ hai, nhà điều hành muốn một
bước để nhanh chóng thu hẹp khoảng cách giữa hai tỷ giá. Thứ ba, nhà điều
hành đã sòng phẳng hơn và theo yêu cầu của thị trường… Và một điểm quan
trọng của nó là xóa bớt kỳ vọng sẽ tiếp tục phá giá trong năm 2011 ở giới đầu
cơ, hay trong tâm lý thị trường. Tuy nhiên đến đầu tháng 4/2011 tỷ giá mới có
dấu hiệu bình ổn, đó cũng là nhờ NHNN đã triển khai để có thể tăng cung ngoại
tệ. Đó là cơ chế áp và siết trần lãi suất huy động USD, thực hiện kết hối và mở
rộng đối tượng kết hối, xử lý loạt giao dịch bất hợp pháp trên thị trường tự do…
Thêm vào đó, tín dụng ngoại tệ vẫn tăng cao tạo một nguồn cung thương mại từ
vốn chuyển đổi cho thị trường; sự chuyển đổi vốn ngoại tệ sang VND cũng có ở
các ngân hàng thương mại khi chênh lệch lãi suất cho vay quá hấp dẫn với
khoảng 300% càng tạo cung cho thị trường…Việc cung USD tăng đã làm cho tỷ
giá VND/USD lao dốc chóng mặt từ 20940VND xuống còn 20590 VND kể từ

19/4-28/4/2011. Và 29/4 đã trở thành mốc sự kiện quan trọng khi Sở giao dịch
NHNN bất ngờ tăng mạnh giá mua vào USD và dự trữ ngoại tệ có sự cải thiện
nhanh chóng. Ngày 7/9/2011, 1 tháng sau khi tân Thống đốc tiếp nhận nhiệm vụ
điều hành, Ngân hàng Nhà nước tổ chức hội nghị ngành, và tại đây thông điệp
được đưa ra: nếu điều chỉnh tỷ giá USD/VND thì từ nay (tại ngày 7/9) đến cuối
năm không quá 1%. Với cam kết này NHNN sẽ khó thuyết phục niềm tin của thị
trường về tỷ giá tuy nhiên đến cuối 2011 NHNN vẫn giữ được cam kết. Các
chính sách đưa ra đã từng bước phát huy được hiệu quả, góp phần ổn định tỷ giá
SV Thực hiện: Trang 19
Tiểu luận Nghiệp vụ Ngân hàng trung ương GVHD:
bình quân liên ngân hàng thời gian dài ở mức 20.803 trong cả tháng 11, đến
ngày 14/12 mới điều chỉnh tăng lên 20.813 rồi 20.828. Đối với tỷ giá ở thị
trường chính thức và phi chính thức tính đến giữa tháng 12, tỷ giá ở thị trường
phi chính thức giảm đáng kể so với cuối tháng 11, giao động phổ biến trong
khoảng từ 21.150 đến 21.300; ở thị trường chính thức tỷ giá giao động phổ biến
từ 21.005 đến 21.036.
SV Thực hiện: Trang 20

×