Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tìm hiểu và giới thiệu về thị trường chứng khoán mỹ, nhật bản và trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.36 KB, 23 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Qua thời gian tìm hiểu và học tập môn thị trường chứng khoán, dưới sự
dẫn dắt của thầy Lê Đức Thiện, nhóm chúng em bước đầu đã hiểu biết được
những vấn đề cơ bản của thị trường chứng khoán. Nhằm đáp ứng nhu cầu môn
học và để hiểu rõ hơn về thị trường chứng khoán toàn cầu , đặc biệt là thị trường
chứng khoán tiêu biểu như thị trường chứng khoán New York, Tokyo và thị
trường chứng khoán Trung Quốc. Nhóm chúng em đã tìm hiểu, thu thập tài liệu
và viết bài luận với đề tài:” Tìm hiểu và giới thiệu về thị trường chứng khoán
Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc”.
Do thời gian nghiên cứu và viết bài luận ngắn nên bài làm còn nhiều thiếu
sót, nhóm chúng em rất mong nhận được sự góp ý của thầy và các bạn, để bài
tiểu luận của chúng em được hoàn thiện hơn.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Lựa chọn chủ đề “Tìm hiểu và giới thiệu về thị trường chứng khoán Mỹ, Nhật
Bản và Trung Quốc”. đặt r aba nhiệm vụ:
• Một, nghiên cứu một cách có hệ thống nền tảng về thị trường chứng khoán
của các nước.Đặc biệt phân tích rõ được các chỉ số ở mỗi thị trường chứng
khoán.
• Hai, đánh giá, đưa ra nhận xét về thị trường chứng khoán của các nước.
• Ba, nghiên cứu các giải pháp và hướng đi mới cho thị trường chứng khoán
các nước trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này, ngoài các phương pháp nghiên cứu truyền thống
(duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, diễn dịch, quy nạp), đề tài còn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu phương pháp phân tích hệ thống,
phương pháp mô hình hoá, phương pháp kinh tế lượng.
4. Cấu trúc của bài làm gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán
Chương 2: Nội dung
• Thị trường chứng khoán New York


• Thị trường chứng khoán Tokyo
• Thị trường chứng khoán Trung Quốc
Chương 3: Kết luận
Chương 1 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Một số khái niệm cơ bản thị trường chứng khoán.
1.1 Thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán các loại
CK trung và dài hạn.
Thị trường chứng khoán có một lịch sử phát triển khá lâu dài. Hình thức sơ khai
của thị trường chứng khoán đã xuất hiện từ thời trung cổ xa xưa. Ở Phương Tây
vào khoảng giữa thế kỷ 15, các thương gia thường gặp gỡ nhau tại các quán café
trong các thành phố lớn để trao đổi mua bán các loại hàng hóa như nông sản,
khoáng sản, ngoại hối và các động sản…Những điểm gặp gỡ như vậy dần trở
thành các thị trường buôn bán, tại đó các thương gia thống nhất với nhau những
quy ước mang tính chất nguyên tắc cho các cuộc thương lượng.
Phiên chợ đầu tiên với quy mô lớn được diễn ra vào năm 1453 tại gia đình của
Vanber Buerzo tại thị trấn Bruges. Lâu đâì này có biểu tượng của 3 túi da với
biểu tượng của một từ tiếng pháp “Bourse” – có nghĩa là “ mậu dịch trường”.
Mậu dịch trường có các đặc điểm khác với thị trường thông thường là nó là thị
trường trừu tượng và có nguyên tắc cao.
Năm 1547, mậu dịch trường tại thị trấn Bruges bị sụp đỏ do thiên tai, các hoạt
động của nó được chuyển đến Antwerpen, một hải cảng lớn của Bỉ. Tại đây, mậu
dịch trường đã phát triển mạnh mẽ cùng với việc đẩy mạnh tốc độ tích lũy tư bản
và sự gia tăng tín dụng nhà nước. Trong khi mậu dịch trường tại Antwerpen lại
phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, các mậu dịch khác cũng dần được
hình thành tại Pháp, Đức, Bắc Âu và Mỹ.
Sự phát triển nhanh chóng của các hoạt động thương mại trong mỗi quốc gia
cũng như giữa các quốc gia với nhau đòi hỏi phải có các thị trường riêng cho các
hoạt động kinh doanh, các mậu dịch trường do đó được phân ra thành các thị
trường khác nhau.

1.2 Đặc điểm của thị trường chứng khoán:
- Xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán,
chuyển nhượng các loại CK, qua đó thay đổi các chủ thể hay chủ sở hữu nắm
giữ CK; còn xét về thực chất đây chính là quá trình vận động tư bản ở hình thái
tiền tệ, tức là quá trình chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
- TTCK là định chế tài chính trực tiếp, qua đó cả chủ thể cung và cầu vốn đều
tham gia vào thị trường một cách trực tiếp.
1.3. Chức năng của thị trường chứng khoán
Các chức năng cụ thể của TTCK được thể hiện qua các mặt dưới đây:
- Thứ nhất, thị trường chứng khoán là nơi huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế.
- Thứ hai, thị trường chứng khoán là công cụ điều hòa vốn đầu tư
- Thứ ba, thị trường chứng khoán là công cụ tạo tính thanh khoản cho các khoản
tiết kiệm phục vụ đầu tư dài hạn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng vốn
linh hoạt, có hiệu quả hơn.
- Thứ tư, thị trường chứng khoán có thể coi là công cụ đo lường giá trị của
doanh nghiệp cũng như đánh giá hoạt động của doanh nghiệp.
- Thứ năm, thị trường chứng khoán tạo điều kiện giúp chính phủ thực hiện các
chính sách kinh tế vĩ mô.
Chương 2: nội dung
I. Thị trường chứng khoán Mỹ
1. Lịch sử hình thành của thị trường chứng khoán Mỹ
Cách đây khoảng 250 năm, phố Wall (Wall Street) chỉ là một con đường mòn
bụi bặm trải dài từ đỉnh đồi nhà thờ Trinity xuống đến bến cảng Manhattan's East
River. Tại đây, “thị trường chứng khoán” đầu tiên của Hoa Kỳ được hình thành
trên những cầu tầu.
Thời kỳ phôi thai đó, những chứng khoán (securities) đơn thuần là những
mảnh giấy xác nhận sở hữu chủ hoặc những tờ hoá đơn giao hàng hoá từ những
chuyến tàu cặp bến từ bên kia Đại Tây Dương đến.
Để mọi hoạt động buôn bán, trao đổi có nguyên tắc trên thị trường chứng
khoán, đầu năm 1792, khoảng hơn 20 nhân vật “đầu nậu” tại bến cảng ngồi lại

với nhau để ký kết một bản thoả ước đầu tiên làm nền tảng cho New York Stock
Exchange (NYSE) sau này. Để tránh xáo trộn và đôi khi tranh chấp có thể bùng
nổ làm nguy hại cho hoạt động làm ăn chung, họ đồng ý ấn định một hình thức
giá cả lệ phí trao đổi chung và cố định, và chính sách này đã được áp dụng đến
tận năm 1975, khi lệ phí trở nên có thể uyển chuyển hơn và các nhà buôn chứng
khoán có thể thương lượng riêng với nhau.
2. Quá trình phát triển và những thành tựu đạt được trong năm 2013
a. Quá trình phát triển
Từ khi được thành lập, mặc dù nó trải qua những bước thăng trầm của nhiều
cuộc khủng hoảng (đặc biệt cuộc khủng hoảng vào năm 1929), thị trường chứng
khoán Mỹ vẫn ngày càng phát triển cả về lượng và chất.
Hành động đầu tiên tạo ra điểm nhấn cho sự phát triển đó là vào thời kỳ Cách
mạng kỹ nghệ, hoạt động Wall Street bùng nổ với đủ loại các chứng khoán của
các ngành nghề khác nhau. Đến một lúc, hoạt động của NYSE bị quá tải, nhóm
NYSE do đó chỉ chọn lấy những nhứng khoán nào tốt nhất. Họ đặt ra các điều
kiện khó khăn hơn và chỉ nhận các cổ phiếu công ty nào thích hợp với họ. Phần
còn lại bị chê thì có các con buôn lẻ khác chộp lấy ngay ngoài đường phố và
thậm chí trao đổi ngay trên vỉa hè. Các con buôn này được gọi là “curbstone
brokers” và chợ trời vỉa hè được mệnh danh là “The Curb”.
Vào đầu thế kỷ 20, chợ trời “The Curb” phát triển quá mạnh đến nỗi các nhà
buôn phải thuê mướn văn phòng tại ngay con đường đó luôn. Để có thể thông tin
giá cả với nhau mau chóng, ám hiệu bằng ngón tay được phát triển và người ta
trao đổi bằng cách ra hiệu từ trên ban công xuống dưới cho người đứng trên vỉa
hè. Ta thấy cho đến nay, kỹ thuật dùng ám hiệu tay vẫn còn được áp dụng trong
hầu hết các thị trường chứng khoán. Vào đầu thập niên 1920, thị trường “The
Curb” được đổi tên thành là American Stock Exchange (AMEX) là thị trường
lớn thứ hai của Hoa Kỳ sau NYSE.
Theo một quy luật tất yếu của sự phát triển, các thị trường (market places or
exchanges) chính thức không đủ sức đáp ứng nổi ngày một mở rộng cả về quy
mô và chất lượng hoạt động của nền kinh tế. Do đó, đã phát sinh thị trường “bán

chính thức” hay còn gọi là thị trường OTC (over the counter stock) hoạt động
song song với hoạt động chính thức của các sàn giao dịch. Dưới góc nhìn của các
nhà kinh tế, xét cho cùng các sàn giao dịch thực chất là những ngôi chợ như các
ngôi chợ khác với đủ loại thành phần như Ban Quản Trị chợ, các chủ sạp, các
“đầu lậu”, các lái buôn, “cò mồi” v.v. Điểm khác biệt duy nhất là mặt hàng trao
đổi buôn bán là những mảnh giấy các loại chứng khoán khác nhau.
OTC market ngoài những ưu điểm cung cấp vốn cho nền kinh tế Mỹ còn tồn
tại những khuyết tật. Cuộc khủng hoảng thị trương chứng khoán năm 1929 đã
chứng minh cho khuyết tật của OTC market. Sau đó, Quốc Hội Mỹ phải thành
lập tổ chức National Association of Securities Dealers (NASD) vào năm 1934
nhằm tự quản chế hoạt động của OTC market ngày một lớn mạnh hơn. Kết quả
hành động đó là năm 1971 đánh dấu một bước tiến quan trọng của OTC market
với sự ra đời của hệ thống NASDAQ hoặc National Association of Securities
Dealers Automated Quotation System. Từ thời diểm này, một số các chứng
khoán OTC được lên danh sách và buôn bán qua hệ thống điện toán nối liền các
môi giới chứng khoán (brokers), nhân viên giao dịch (traders) và chuyên viên
làm giá (market makers) mà không cần nằm trong sàn giao dịch. Điều hết sức bất
ngờ là một số công ty trong NASDAQ sinh sau đẻ muộn như Microsoft, Intel,
Dell v.v… trong thời đại mới của khoa học kỹ thuật lại phát triển vượt qua mặt
luôn cả những công ty thuộc loại tiền bối như Disney, Ford, Coca cola v.v…. Họ
vẫn trung thành với NASDAQ và không cần vào các sàn giao dịch chính thức dù
dư điều kiện để gia nhập.
NASDAQ ngày nay được chia thành hai thành phần chính:
• NASDAQ National Markets Issues bao gồm khoảng 2700 công ty lớn
nhất
• NASDAQ Small Cap Issues bao gồm khoảng 1500 công ty nhỏ hơn.
Các công ty thuộc NASDAQ đa số là các công ty kỹ thuật (technology)
cho nên sự phát triển tuy không lâu đời bằng NYSE hoặc AMEX nhưng vẫn
thường được gọi là thị trường của tương lai và là một bộ phận hết sức quan trọng
của thị trường chứng khoán nói chung.

b. Thành tựu mà thị trường chứng khoán Mỹ đạt được trong năm 2013
Trong danh sách 100 tập đoàn có giá trị lớn nhất trên thị trường chứng khoán
thế giới, Mỹ hiện vẫn giữ vững ngôi đầu với 47 tập đoàn.
Trong năm 2013, 100 tập đoàn có giá chứng khoán lớn nhất thế giới gia tăng
15% giá trị, lên khoảng 14.800 tỷ USD.
Kết quả một nghiên cứu của Công ty tư vấn doanh nghiệp EY tại Stuttgart công
bố ngày 26/12, cho biết các tập đoàn có giá trị lớn nhất trên thị trường chứng
khoán vẫn thuộc về Mỹ với những cái tên quen thuộc như :
- Apple (trị giá gần 490 tỷ USD)
- Exxon (hơn 434 tỷ USD)
- Google (gần 363 tỷ USD)
- Microsoft (gần 303 tỷ USD).
3. Chỉ số chứng khoán và tình hình biến động của các chỉ số ở thị trường
chứng khoán Mỹ
a. Chỉ số chứng khoán
Chỉ số Dow Jones nói chung được hiểu là chỉ số giá chứng khoán bình
quân của thị trường chứng khoán New York, một thị trường lớn nhất thế giới
hiện nay, là chỉ số giá chung của 65 chứng khoán đại diện, thuộc nhóm hàng
đầu (Blue chip) trong các chứng khoán được niêm yết tại Sở giao dịch chứng
khoán New York.
Chỉ số Dow Jones bao hàm 3 chỉ số thuộc 3 nhóm ngành:
- công nghiệp DJIA (Dow Jones Industrial Average)
- vận tải DJTA (Dow Jones Transportation Average)
- dịch vụ DJUA (Dow Jones Utilities Average).
• Chỉ số DJIA
Chỉ số DJIA là chỉ số lâu đời nhất ở Mỹ do ông Charles H.Dow, cùng với
công ty mang tên ông, thu thập giá đóng cửa của chứng khoán để tính ra và công
bố trên Wall Street Journal từ năm 1896. Ban đầu, công ty chỉ tính giá bình quân
của 12 cổ phiếu. Ngày tính đầu tiên là ngày 26/5/1896 với mức giá bình quân
ngày này là 40.94 USD. Năm 1916, ông mở rộng ra 20 cổ phiếu và năm 1928

tăng lên 30 cổ phiếu. Số lượng này được giữ vững cho đến ngày nay. Nhóm Top
30 này thường xuyên có sự thay đổi. Khi công ty nào sa sút đến độ không đủ tiêu
chuẩn để có thể được xếp vào Top 30 của các cổ phiếu Blue Chip, công ty đó lập
tức sẽ bị thay thế bằng một công ty khác đang trên đà tăng trưởng. Công ty duy
nhất luôn có mặt trong Top 30 kể từ buổi sơ khai của thị trường chứng khoán là
General Electric.
• Chỉ số DJTA
Chỉ số DJTA được công bố lần đầu tiên vào ngày 26/10/1896. Cho đến
2/1/1970, chỉ số này vẫn mang tên chỉ số công nghiệp đường sắt, vì trong
khoảng thời gian này, ngành đường sắt phát triển rất mạnh và đường sắt chính
là phương tiện vận tải chủ yếu.
- Chỉ số DJTA bao gồm 20 cổ phiếu của 20 công ty vận tải, đại diện cho
ngành đường sắt, đường thuỷ và hàng không, được niêm yết tại Sở giao
dịch chứng khoán New York.
- Từ năm 1970 đến nay, chỉ số này trở thành một bộ phận của chỉ số
DowJones. Mặc dù đã sát nhập với Dow Jones và không có mặt trên thị
trường chứng khoán, nhưng một số các công ty thuộc ngành đường sắt Mỹ
vẫn tính toán định kỳ chỉ số DJTA cho riêng mình nhằm đánh giá thực
trạng hoạt động trong nội bộ ngành.
• Chỉ số DJUA
Chỉ số DJUA là chỉ số ngành dịch vụ công cộng, được công bố trên Wall
Street Journal từ tháng 1 năm 1929. Chỉ số này được tính từ giá đóng cửa chứng
khoán của 15 công ty lớn nhất trong ngành khí đốt và điện.
Tuy chỉ có 65 cổ phiếu nhưng khối lượng giao dịch của chúng chiếm đến hơn
3/4 khối lượng của thị trường chứng khoán New York, vì thế, chỉ số Dow Jones
thường phản ánh đúng xu thế biến động giá của thị trường chứng khoán Mỹ.
Chỉ số giá chứng khoán nói chung, chỉ số Dow Jones nói riêng, được coi là
nhiệt kế để đo tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế, xã hội. Thông thường, nền
kinh tế tăng trưởng thì chỉ số này tăng và ngược lại. Tuy nhiên, giá chứng khoán
nói riêng, hay giá của thị trường nói chung, đều là kết quả được tổng hợp từ hàng

loạt yếu tố như: các yếu tố kinh tế vĩ mô, các yếu tố của môi trường đầu tư nhất
là yếu tố tâm lý của người đầu tư. Nhiều khi, các dấu hiệu tăng trưởng của nền
kinh tế mới chỉ thấp thoáng ở xa, mức lạc quan của nhà đầu tư đã có thể rất cao
và họ đua nhau đi mua chứng khoán, đẩy giá lên cao. Ngược lại, có thể tình hình
chưa đến nỗi tồi tệ, nhưng mọi người đã hoảng hốt bán ra ồ ạt làm giá chứng
khoán giảm mạnh.
• chỉ số S&P 500
Chỉ số S&P500 là một chỉ số cổ phiếu được cấu thành từ 500 cố phiếu giao
dịch lớn chiếm đến hơn 70% tổng giá trị thị trường chứng khoán (TTCK) Mỹ.
Chỉ số này bao gồm các công ty tập đoàn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như
năng lượng, công nghiệp, công nghệ thông tin, tài chính, hàng tiêu dùng và chăm
sóc y tế. Hiện nay, S&P 500 được xem là một trong những chỉ số đại diện tốt
nhất cho toàn bộ thị trường Mỹ.Chỉ số S&P 500 được thiết kế để trở thành một
công cụ hàng đầu của thị trường chứng khoán Mỹ và có ý nghĩa phản ánh những
đặc điểm rủi ro lợi nhuận của các công ty hàng đầu.
Các công ty được lựa chọn để đưa vào chỉ số được lựa chọn ra bởi Ủy ban
Chỉ số S&P, một nhóm các nhà phân tích và nhà kinh tế của Standard & Poor.
Chỉ số S&P 500 là chỉ số đo giá trị thị trường – giá trị mỗi cổ phần trong chỉ số
cân xứng với giá trị của nó.
Chỉ số S&P 500 là một trong những chỉ số tiêu chuẩn được sử dụng phổ biến
nhất cho toàn bộ thị trường chứng khoán Mỹ.
Những chỉ số phổ biến khác của Standard & Poor là S&P 600, một chỉ số của
những công ty có giá trị vốn hóa thị trường nhỏ từ 300 triệu – 2 tỉ đôla, và S&P
400, một chỉ số của các công ty có mức vốn hóa thị trường trung bình từ 2 – 10 tỉ
đôla.
Giá trị của chỉ số S&P 500 liên tục thay đổi dựa trên sự chuyển động của 500
cổ phiếu thành phần. S&P 500 sử dụng vốn hóa thị trường trung bình gia quyền
khi tính toán ảnh hưởng của từng công ty thành phần lên chỉ số.
Vốn hóa thị trường được tính bằng cách sử dụng công thức: số lượng cổ
phiếu x giá mỗi cổ phiếu. Nếu một công ty có 800 triệu cổ phiếu được bán với

giá 50 USD/ cổ phiếu, thì giá trị vốn hóa thị trường tương đương là 40 tỷ USD.
b. Sự biến động của các chỉ số chứng khoán trong 3 tháng đầu năm 2014
 Chứng khoán Mỹ tỏa sáng ngày Valentine, Dow Jones vọt hơn 120 điểm
Phiên khởi sắc ngày thứ Sáu đã khép lại tuần bứt phá mạnh nhất của
chứng khoán Mỹ trong năm 2014 và đánh dấu tuần tăng điểm thứ hai liên tiếp
của 3 chỉ số chính.
Theo số liệu của Thomson Reuters, trong số 398 doanh nghiệp S&P 500 đã
công bố lợi nhuận tính đến ngày thứ Sáu, 66.3% đạt được kết quả vượt kỳ vọng,
cao hơn so mức bình quân 63% kể từ năm 1994. Trong đó, hơn 64% doanh
nghiệp vượt ước tính về doanh thu, cao hơn so mức bình quân dài hạn là 61%.
Kết thúc ngày giao dịch, chỉ số Dow Jones tăng 126.80 điểm (tương ứng
0.79%) lên 16,154.39 điểm. Chỉ số S&P 500 nhận 8.8 điểm (tương ứng 0.48%)
lên 1,838.63 điểm. Chỉ số Nasdaq Composite cộng 3.35 điểm (tương ứng 0.08%)
đóng cửa tại 4,244.03 điểm, mức cao nhất trong 13.5 năm.
Cả ba chỉ số chính đều ghi nhận tuần tăng điểm mạnh nhất của năm
2014: Dow Jones và S&P 500 cùng tăng 2.3% trong khi Nasdaq leo 2.9%.
Đây cũng là tuần tăng điểm thứ hai liên tiếp của cả ba chỉ số trên và hiện S&P
500 chỉ còn thấp hơn 0.5% so mức đóng cửa cao mọi thời đại 1,848.38 điểm xác
lập hôm 15/01.
 Nasdaq tăng một mạch tám phiên
Mở cửa trở lại sau một ngày đóng cửa nghỉ lễ, hôm 18/2/2014 thị trường
chứng khoán Mỹ biến động khá mạnh và chốt ngày với sự lên xuống trái chiều
của ba chỉ số chính Dow Jones, S&P 500 và Nasdaq.
Trong đó, chỉ số Dow Jones giảm nhẹ, còn các chỉ số Nasdaq và S&P
500 tiếp tục kéo dài tuần tăng điểm tốt nhất kể từ đầu năm. Tính tới phiên hôm
qua, chỉ số Nasdaq Composite đã tăng một mạch 8 phiên, điều chưa từng xảy ra
kể từ đầu tháng 7 năm ngoái cho đến nay.
Kết thúc ngày giao dịch 18/2, chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm 23,99
điểm, tương ứng với 0,15%, xuống còn 16.130,40 điểm. Chỉ số S&P 500 tăng
2,13 điểm, tương ứng 0,12%, lên 1.840,76 điểm. Chỉ số Nasdaq tăng 28,76 điểm,

tương ứng 0,68%, lên mức 4.272,78 điểm.
Với kết quả trên, hiện mức điểm của chỉ số S&P 500 chỉ còn nằm cách
ngưỡng kỷ lục, được xác lập hôm 15/1, có 0,4%. Theo giới phân tích, khoảng
cách này không quá khó để vượt qua và thị trường có thể sắp đón nhận một
phiên điều chỉnh mới.
 SP 500 vươn tới đỉnh cao nhất mọi thời đại
Chứng khoán tăng vọt vào thứ Năm ngày 20/2 /2014 với S&P 500 sắp
chạm mốc cao nhất mọi thời đại. Dow Jones nhảy 92,67 điểm tương ứng
0,58% lên chốt tại 16.133,23, trong đó cổ phiếu Verizon và DuPont được giá
mạnh nhất.
S&P 500 tăng 11,03 điểm, tương đương 0,6%, đứng tại 1.839,78, cách
không xa so với 1.850,84, đỉnh cao nhất mọi thời đại.
Hầu hết mọi phân ngành thuộc S&P 500 đều chuyển biến tích cực, dẫn
đầu là viễn thông và vật liệu.
Nasdaq leo dốc 29,59 điểm, tương ứng 0,7% lên chốt tại 4.267,54.
 Nasdaq lập đỉnh cao nhất trong hơn 13 năm
Chứng khoán Mỹ có phiên giao dịch khởi sắc vào thứ Hai ngày
24/2/2014 với S&P 500 tăng vượt sàn giữa phiên.
Cụ thể, Dow Jones leo dốc liền 103,84 điểm, tương ứng 0,64% để chốt
tại mốc 16.207,14 điểm.
S&P 500 cũng chạm 1.847,61 điểm, tăng 11,36 điểm, tương ứng
0,62%. Giữa phiên, đã có lúc chỉ số vọt lên 1.858,76 điểm.
Nasdaq chốt tại đỉnh cao nhất trong vòng hơn 13 năm tại 4.292,97,
tăng 29,56 điểm, tương ứng 0,69%.
Chứng khoán Mỹ chốt lại một tuần ấn tượng với cả ba chỉ số có sáu ngày
leo dốc mạnh nhất kể từ đầu năm.
Dow Jones tăng 126,8 điểm, tương ứng 0,79%, lên chốt tại 16.154,39
điểm. Tính từ đầu tuần, DowJones leo dốc tổng cộng 2,3%.S&P 500 lên 8,80
điểm, tương đương 0,48%, chạm mốc 1.838,63 điểm.Chỉ số đã vượt 2,3% so với
mứ chốt cuối tuần trước.

Hiện giờ S&P 500 chỉ còn cách đỉnh cao nhất từ 15/1 tại 1.848,38 điểm
0,5%.
Nasdaq nhích 3,35 điểm, tương ứng 0,08%, lên đạt 4.244,03 điểm. Trong bảy
ngày, Nasdaq đã tăng tổng cộng 2,9%.
 S&P 500 suýt phá kỷ lục
Vào Thứ ba, 25/02/2014
Thị trường chứng khoán Mỹ tăng điểm mạnh trong phiên giao dịch đêm
qua (24.2), với chỉ số S&P 500 gần phá mốc kỷ lục xác lập hồi đầu năm, nhờ sự
đi lên của nhóm cổ phiếu bảo hiểm y tế và các thông tin M&A.
Cụ thể, kết thúc ngày giao dịch 24.2, chỉ số công nghiệp Dow Jones tăng
được 103,84 điểm, tương ứng với mức 0,64%, lên 16.207,14 điểm. Chỉ số S&P
500 tăng 11,36 điểm, tương ứng với 0,62%, lên chốt ở 1.847,61 điểm. Chỉ số
Nasdaq tăng 29,56 điểm,tương ứng với 0,69%,lên mức 4.292,97 điểm.
Như vậy, tính tới cuối phiên, chỉ số S&P 500 chỉ còn cách mốc cao kỷ lục
(1.848,38 điểm) xác lập hồi tháng 1 có một điểm. Trong khi chỉ số Nasdaq
Composite đã chạm ngưỡng cao nhất trong vòng 14 năm qua. Theo giới phân
tích, dư địa cho các chỉ số đi lên trong những phiên giao dịch tới vẫn khá lớn.
Sự đi lên của thị trường hôm qua chủ yếu là nhờ vào nhóm cổ phiếu bảo
hiểm y tế. Trong đó đáng chú ý nhất là cổ phiếu của Humana tăng tới 10,6% lên
113,69 USD, cổ phiếu của tập đoàn UnitedHealth tăng được 3% lên 76,01 USD;
cổ phiếu của Aetna Inc cũng tăng mạnh 2%, lên mức giá 71,80 USD.
Bên cạnh đó, thị trường cũng hưởng lợi từ các thông tin mua bán sáp
nhập doanh nghiệp (M&A). Chẳng hạn như hãng sản xuất chip RF Micro
Devices Inc đồng ý mua công ty bán dẫn TriQuint Semiconductor Inc với giá 1,6
tỷ USD
Khối lượng giao dịch toàn thị trường đã được đẩy mạnh, với khoảng 7,1
tỷ cổ phiếu được chuyển nhượng trên các sàn giao dịch ở Mỹ, nhỉnh hơn một
chút so với mức bình quân 7 tỷ cổ phiếu các ngày trong tháng. Số cổ phiếu tăng
cao hơn số giảm trên sàn New York với tỷ lệ 1,6/1, còn sàn Nasdaq là 1,8/1.
Thị trường Chỉ số Đóng cửa

Tăng/giảm
(điểm)
Tăng/giảm
(%)
Mỹ
Dow Jones 16.207,14 +103,84 +0,64
S&P 500 1.847,61 +11,36 +0,62
Nasdaq 4.292,97 +29,56 +0,69
Anh FTSE 100 6.865,86 +27,80 +0,41
Pháp CAC 40 4.419,13 +38,07 +0,87
Đức DAX 9.708,94 +51,99 +0,54
Nhật Bản Nikkei 225 14.837,68 -27,99 -0,19
Hồng Kông Hang Seng 22.388,56 -179,68 -0,80
Trung Quốc Shanghai Composite 2.076,69 -37,01 -1,75
Đài Loan Taiwan Weighted 8.560,61 -41,25 -0,48
Hàn Quốc KOSPI Composite 1.949,05 -8,78 -0,45
Singapore Straits Times 3.105,84 +5,91 +0,1
 S&P 500 lập đỉnh mới, Dow Jones vọt hơn 220 điểm(ngày
5/3/2014)
Kết thúc ngày giao dịch, chỉ số Dow Jones nhảy vọt 227.85 điểm
(tương ứng 1.41%) lên 16,395.88 điểm. Chỉ số S&P 500 tăng 28.18 điểm
(tương ứng 1.53%) lên kỷ lục mới 1,873.91 điểm. Chỉ số Nasdaq Composite leo
74.671 điểm (tương ứng 1.75%) lên 4,351.972 điểm, mức cao nhất kể từ tháng
4/ 2000.
Đây là lần thứ hai kể từ ngày thứ Sáu (28/02), S&P 500 đóng cửa tại mức
cao kỷ lục. Từ đầu năm đến nay, chỉ số này đã tăng 1.4%. Hai nhóm cổ phiếu
tăng giá mạnh nhất trong phiên giao dịch ngày thứ Ba là công nghiệp và tài
chính.
Các chuyên gia phân tích cho rằng năm 2013 là một năm giao dịch rất
thành công của thị trường chứng khoán Mỹ và họ cũng kỳ vọng thị trường sẽ tiếp

tục tăng điểm trong năm 2014.
Chỉ số S&P 500 hiện đã tăng 29% trong năm 2013 và đây đang là mức
tăng tốt nhất của chỉ số này kể từ năm 1997. Chỉ số Dow Jones tăng 26%, trong
khi đó, chỉ số Nasdaq lên gần 38%.
Trong số 250 phiên giao dịch đã thực hiện trong năm 2013, chỉ số Dow
Jones hiện đóng cửa ở mức cao kỷ lục tới 50 lần, trong khi đó, chỉ số S&P 500
đóng cửa ở mức cao kỷ lục tới 44 lần.
Tất cả 10 chỉ số ngành đều tăng điểm trong năm nay, trong đó mức tăng thấp
nhất hiện là chỉ số ngành viễn thông với 6,5% và mức tăng cao nhất năm nay
thuộc về ngành tiêu dùng với 40%.
Trong khảo sát gần đây của Reuters, các chuyên gia phân tích kỳ vọng
chỉ số S&P 500 sẽ tăng lên mức 1.925 điểm vào cuối năm 2014, tức là tăng 4,5%
so với mức hiện tại.
Cổ phiếu của hãng Netflix hiện đang là cổ phiếu có mức tăng tốt nhất
trên chỉ số S&P 500 với mức tăng nhảy vọt tới gần 300%, tiếp sau đó là hãng
bán lẻ đồ điện tử Best Buy và hãng sản xuất thiết bị bán dẫn Micron Tech với
gần 240%. Hãng sản xuất ô tô Tesla Motors cũng tăng ấn tượng với 346%, trong
khi đó, cổ phiếu của mạng xã hội Facebook tăng giá gấp đôi.
Trong tuần giao dịch cuối cùng của năm 2013, chỉ số chứng khoán Dow
Jones với mức tăng 1,6%, chỉ số S&P 500 và Nasdaq cùng lên 1,3%.
II. Thị trường chứng khoán Nhật Bản
1.Lịch sử hình thành của thị trường chứng khoán nhật bản
TTCK Nhật Bản có từ ngày đầu Minh Trị. Giai đoạn đầu, TTCK chủ yếu
buôn bán trái phiếu do Nhà nước phát hành. Đến năm 1890 mới buôn bán cổ
phiếu. Năm 1943, 11 sàn giao dịch chứng khoán trên toàn nước Nhật hợp thành 1
công ty bán công gọi là sàn giao dịch chứng khoán Nhật Bản.Năm 1945 đến
1948,Sở giao dịch này bị đóng cửa, việc buôn bán chứng khoán diễn ra bên
ngoài văn phòng của công ty và chợ đen. Năm 1948, Luật giao dịch chứng khoán
được ban hành, dựa theo mô hình luật chứng khoán của Mỹ và sửa đổi cho phù
hợp với thực trạng của nền kinh tế Nhật.Nhật đưa ra 3 nguyên tắc cơ bản cho

việc điều hành TTCK, đó là: thứ nhất, mọi giao dịch chứng khoán phải được
đăng ký ở nơi giao dịch; thứ hai, giao dịch chứng khoán phải tập trung ở Sở giao
dịch; thứ ba, không cho phép thực hiện giao dịch tương lai. Tháng 4 năm 1949,
Sở giao dịch chứng khoán Tokyo được thành lập.
2.Quá trình phát triển và những thành tựu đạt được trong năm 2013 của
TTCK Nhật Bản
a. Quá trình phát triển
Từ năm 1955-1961 , kinh tế Nhật có 2 lần tăng trưởng mạnh, số cổ phiếu
Dow Jones của sở giao dịch chứng khoán Tokyo từ 3.74 tăng lên 1.549 . Tổng số
giá cổ phiếu giao dịch năm 1955 là 3,8 tỷ ; năm 1961 đã lên tới 48,3 tỷ ; tăng 14
lần. Tháng 4 năm 1966 trái phiếu công cộng và trái phiếu công ty ( đã ngừng
giao dịch sau chiến tranh TG thứ 2) lại được đưa ra thị trường của 2 Sở giao dịch
chứng khoán Đông Bắc và Osaka, chứng tỏ thị trường chứng khoán Nhật đã phát
triến sang thời kì hoàn toàn mới.Sau thập kỉ 60, chính phủ Nhật phát hành nhiều
công trái, quy mô thị trường trái phiếu được mở rộng.
Nhật Bản có 8 Sở giao dịch chứng khoán, gần 200 công ty chứng khoán
phân bố ở các nơi như Tokyo, Osaka, Nayoda, Sở giao dịch chứng khoán
Tokyo là thị trường cổ phiếu, trái phiếu lớn nhất của Nhật, chiếm 85% tổng số
giao dịch cổ phiếu ở Nhật, cũng là thị trường giao dịch cfoor phiếu lớn thứ 2 trên
Thế giới, sau sở giao dịch chứng khoán Newyork
Trên thị trường chứng khoán Nhật Bản, có 5 loại cổ phiếu được giao dịch là :cổ
phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu không có quyết nghị, cổ phiếu được
phân phối sau, cổ phiếu trả lại.
Trái phiếu ở Nhật căn cứ vào : chủ thể phát hành, được chia làm 6 loại là : trái
phiếu nhà nước, trái phiếu địa phương, trái phiếu đặc biệt, trái phiếu công ty, trái
phiếu tài chính, trái phiếu ngoài nước.
Từ năm 1970, Sở giao dịch chứng khoán Tokyo đã cho phép các công ty đầu tư
Nhật mua cổ phiếu nước ngoài và vốn đầu tư của nước ngoài mua cổ phiếu Nhật
đã tăng lên nhanh chóng.Trong 1 thời gian ngắn số bán ra đã nhiều hơn số mua
vào,chứng tỏ người nước ngoài đã tăng trưởng đầu tư vào Nhật Bản. Nguyên

nhân của tình hình này là nền kinh tế Nhật đã phát triển nhanh, có nhiều hàng
xuất khẩu đứng đầu TG.Chính phủ Nhật nới lỏng toàn diện chế độ quản lý ngoại
tệ, các xí nghiệp Nhật Bản có sức hấp dẫn lớn do thu được nhiều lợi nhuận , vốn
quốc tế đầu tư phân tán đã thúc đẩy vồn nước ngoài chảy vào thị trường chứng
khoán Nhật Bản.
Thị trường chứng khoán Nhật Bản phát triển vì có ưu thế sau:
• tiềm lực thị trường lớn, kinh tế phát triển nhanh, xuất siêu liên tục.
• vị trí đồng yên Nhật trên thị trường tiền tệ TG ngày càng cao.
• lãi suất trái phiếu Nhật Bản quá thấp, tiền vốn Nhật Bản quá thừa.
b.Thành Tựu
Chứng khoán Nhật Bản tăng mạnh nhất châu Á 2013
Nikkei 225 tăng ấn tượng 57%/năm, mạnh nhất trong 4 thập kỷ
Thị trường chứng khoán Nhật Bản khép lại phiên giao dịch cuối cùng của
năm 2013 tại mức cao nhất trong 6 năm sau khi cặp tỷ giá USD-JPY
chạm mức cao nhất trong hơn 5 năm.
Theo đó, chỉ số Nikkei 225 đóng cửa ngày thứ Hai tại mức 16,291.31 điểm, tăng
112.37 điểm, tương ứng 0.69%. Đây là phiên thứ 7 liên tiếp Nikkei 225 đóng cửa
tại các mức cao nhất trong 6 năm đồng thời là phiên khởi sắc thứ 9 liên tiếp của
chỉ số này, đợt tăng giá dài nhất kể từ năm 2009.
Tính chung cả năm 2013, Nikkei 225 nhảy vọt 57%, mức tăng mạnh nhất kể từ
đà bứt phá ấn tượng 92% trong năm 1972 theo số liệu của Thomson Reuters.
Diễn biến của Nikkei 225 trong năm 2013
Nguồn: CNN Money
Trong phiên giao dịch cùng ngày, chỉ số Topix tiến 1% lên 1,302.29 điểm và
khép lại năm 2013 với mức tăng 51%, đà tăng mạnh thứ 3 từ trước đến nay nhờ
các biện pháp chấm dứt 15 năm giảm phát của Thủ tướng Shinzo Abe và Thống
đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BoJ) Haruhiko Kuroda.
Đà rớt giá tiếp diễn của đồng JPY sau 9 tuần lao dốc liên tiếp trước đó đã đem lại
sức bật cho thị trường chứng khoán Nhật Bản. Trong phiên giao dịch cuối năm,
đồng JPY chạm mức thấp nhất trong 5 năm so với đồng bạc xanh tại 105.41

JPY. Từ đầu năm đến nay, đồng JPY đã sụt 21% so với đồng USD, đánh dấu đà
sụt giảm mạnh nhất kể từ năm 1979.
Giao dịch của các thị trường chứng khoán còn lại trong khu vực diễn ra kém sôi
động do kỳ nghỉ lễ. Được biết, hôm nay là ngày giao dịch cuối cùng của nhiều
TTCK châu Á. Vào ngày mai, các thị trường Australia, Hồng Kông, Singapore
cùng với một số thị trường khác chỉ giao dịch nửa ngày.
3. Các chỉ số chứng khoán Nhật Bản và tình hình biến động của các chỉ số
trong năm 2013.
Chỉ số Nikkie 225
Nikkei 225 là chỉ số thị trường chứng khoán cho sàn GDCK Tokyo (Tokyo Stock
Exchange – TSE), là chỉ số quan trọng nhất của thị trường chứng khoán châu Á.
Nó bao gồm 225 cổ phiếu Blue-chip đại diện cho các công ty ở Nhật, và là một
chỉ số tính theo giá (đơn vị đồng Yên). Chỉ số này gần giống chỉ số trung bình
công nghiệp Dow Jones ở Mỹ.
Chỉ số Nikkei 225 bắt đầu có hiệu lực từ 16 tháng 5 năm 1949, và bắt đầu được
tính toán từ 7 tháng 9 năm 1950. Kể từ năm 1971, báo Nihon Keizai Shimbun
(Japan Economic Journal) nhận trách nhiệm tính toán chỉ số này hàng ngày với
cái tên Nikkei Dow Jones Stock Average, và được đổi tên vào năm 1985.
Chỉ số Nikkei 225 cho các hợp đồng quyền chọn (Nikkei 225 Futures), được giới
thiệu ban đầu trên Sàn giao dịch chứng khoán Osaka (OSE), Chicago Mercantile
Exchange (CME), Singapore Exchange (SGX), và ngày nay trở thành một chỉ số
cho hợp đồng quyền chọn được cả thế giới công nhận.
Chỉ số trung bình Nikkei đạt mức cao kỷ lục ngày 29 tháng 9 năm 1989 với
38.958,44 điểm trong ngày giao dịch trước khi đóng cửa với 38.915,87 điểm.
Chỉ số Nikkei được thiết lập để phản ánh toàn thị trường, chứ không phải ngành
công nghiệp cụ thể nào cả.
Các công ty thành phần của Nikkei 225 được thẩm định hàng năm và kết quả
thẩm định này sẽ được công bố vào tháng 9. Các sự thay đổi, nếu có, sẽ được
tiến hành vào đầu tháng 10. Sự thay đổi có thể xảy ra bất cứ lúc nào nếu một cổ
phiếu được cho là không đủ điều kiện (như không còn niêm yết,…). Tất cả đề

xuất thay đổi sẽ được đăng trên báo Nikkei’s Japanese và trên NNI.
Một chỉ số quan trọng khác cho TSE là chỉ số Topix.
III. Thị trường chứng khoán Trung Quốc
1. Lịch sử hình thành thị trường chứng khoán Trung Quốc
2. Quá trình phát triển và những thành tựu đạt được của thị trường chứng
khoán Trung Quốc
a. Quá trình phát triển
b. Thành tựu
Sau hơn 10 năm tồn tại thị trường chứng khoán trung quốc đã đạt được những
thành tựu quan trọng trên một số phương diện.Trung quốc được coi là thị
trường lớn thứ 3 châu Á,sau Tokyo và Hồng Kông,với trên 5000 tỷ nhân dân
tệ vốn thị trường,với 1200 công ty niêm yết,hơn 100 công ty chứng
khoán,100000 người hành nghề kinh doanh chứng khoán và trên 60 triệu tài
khoản đầu tư.Bên cạnh đó,đã có trên 50 công ty niêm yết cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán Hồng Kông và một số công ty niêm yết trên Sở giao dịch
chứng khoán New York và London.Năm 2002,các công ty niêm yết ở Trung
Quốc đã huy động được hơn 20 tỷ USD từ các nhà đầu tư nước ngoài.trong
khi các công ty Châu Á khác cộng lại chỉ thu hút được khoảng 5 tỷ USD.
Thành công quan trọng nhất là Trung Quốc đã cơ bản hình thành được một
thị trường chứng khoán,đã tạo được những nền móng đầu tiên cho kênh huy
động vốn trung và dài hạn này.Chủ thể thị trường tương đối phong phú đa
dạng và được mở rộng với tốc độ tương đối cao.bao gồm các công ty niêm
yết,nhà đầu tư,tổ chức trung gian.công ty tư vấn kiểm toán……
Hoạt động quản lý,vận hành của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước Trung Quốc
được thực hiện khá linh hoạt và hiệu quả.Luật chứng khoán ra đời là một
thành tựu thể hiện quyết tâm của Chính phủ nước này trong việc phát triển
một thị trường chứng khoán thông thoáng,minh bạch,công bằng,hiệu quả và
có khả năng hội nhập.
Cơ sở vật chất cho thị trường chứng khoán cũng được chú trọng đầu tư.Hiện
nay Trung Quốc đã có hệ thống giao dịch vi tính hóa trên toàn quốc STAQ

mô phỏng hệ thống NASDAQ của Mỹ.Ngoài ra,còn có một hệ thống giao
dịch điện tử quốc gia NET dành riêng cho giao dịch cổ phiếu của các doanh
nghiệp nhà nước và trái phiếu kho bạc.
Tỏng lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài,mặc dù luật chứng khoán còn
hạn chế nhà đầu tư về nhiều mặt nhưng Trung Quốc vẫn thu hút được sự quan
tâm của nhiều tổ chức.Nhiều công ty nước ngoài đang nỗ lực xúc tiến việc
thành lập liên doanh với bên Trung Quốc để trở thành nhà đầu tư hoặc trở
thành công ty niêm yết trên thị trường này.Đồng thời công ty Trung quốc
cũng đang tìm cách thâm nhập vào thị trường chứng khoán các nước.Việc
tăng cường niêm yết chứng khoán trên Sở giao dịch nước ngoài đem lại cho
trung quốc một số lợi ích:các công ty trong nước học hỏi được kinh nghiệm
quản lý .hệ thống kế toán và các luật liên quan của các thị trường được tổ
chức hoàn hảo trên thế giới,huy động được một nguồn vốn nhất định để phát
triển kinh tế,đẩy mạnh mối quan hệ giữa trung quốc với thị trường vốn quốc
tế.
Thị trường chứng khoán Trung quốc đã bước đầu thực hiện được những vai
trò cơ bản:thu hút vốn cho nền kinh tế,kích thích các doanh nghiệp làm ăn
hiệu quả.thúc đẩy công cuộc cải tổ hệ thống doanh nghiệp nhà nước.
3. Các chỉ số chứng khoán và sự biến động của chúng
Theo chuyên gia chứng khoán Noah Weisberger, chỉ số chứng khoán Hang
Seng sẽ tăng 18% so với năm 2013, đạt 13.600 điểm vào cuối năm 2014 – mức
tăng cao nhất kể từ năm 2009. Chuyên gia này cho rằng chứng khoán Trung
Quốc hấp dẫn vì hiện quốc gia này tăng trưởng nhanh nhưng không quá nóng.
Thêm vào đó, Chính phủ Trung Quốc đang nỗ lực tạo nhiều ưu đãi cho các nhà
đầu tư. Sau vài năm thay đổi chính sách, môi trường đầu tư ở Trung Quốc hiện
khá ổn định, nên đây là giai đoạn thích hợp nhất để sở hữu chứng khoán Trung
Quốc.
Theo số liệu từ hãng tin tài chính Bloomberg, trong thời gian 10 tháng tính đến
tháng 8/2009, chỉ số Shanghai Composite Index của thị trường chứng khoán
Trung Quốc tăng gấp đôi. Kết quả này có được là nhờ Bắc Kinh chi 652 tỷ USD

để kích thích tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, đến nay, chỉ số này đã giảm 43% từ mức đỉnh trên, làm “bốc hơi” 748
tỷ USD vốn hóa thị trường.
Thị trường chứng khoán Trung Quốc đã chao đảo trong phiên ngày hôm qua do
lỗi giao dịch của Công ty chứng khoán Everbright, Bloomberg cho biết. Theo
giới chức Trung Quốc, số lệnh mua khổng lồ từ Everbright đã khiến chỉ số
Shanghai Composite đang giảm 1% lại tăng tới 5,6% chỉ trong hai phút buổi
sáng. Chốt phiên ngày, chỉ số này giảm 0,6%.
Một trong những công ty bị ảnh hưởng sớm nhất bởi sự cố này là Tập đoàn ngân
hàng China Minsheng. Cổ phiếu của hãng đã tăng thêm gần 10% chỉ trong một
giây. Cổ phiếu PetroChina và Ngân hàng Công thương Trung Quốc (ICBC) – hai
công ty có giá trị vốn hóa lớn nhất nước này, cũng tăng vọt. Khối lượng giao
dịch của PetroChina tăng 239% và ICBC tăng 269% so với trung bình ba tháng.
Trên CNN, nhà phân tích Jim Antos tại Công ty chứng khoán Mizuho cho biết:
"Tôi nhớ là thị trường Trung Quốc chưa xảy ra việc như thế này bao giờ. Kể cả
thị trường Hong Kong cũng chưa từng có". Chứng khoán Trung Quốc đã giảm
40% từ mức đỉnh tháng 8/2009, khiến thị trường bốc hơi 644 tỷ USD.
Brian Jacobsen – giám đốc chiến lược đầu tư tại Wells Fargo Advantage Funds
nhận xét: "Đây không phải thời điểm để chứng khoán Trung Quốc có thể thông
cảm với các lỗi giao dịch. Giới đầu tư đã dần mất niềm tin và một sự cố như thế
lại càng khiến mọi người nghi ngại". "Tôi cho rằng thị trường đang rối loạn và bị
ai đó thao túng. Tôi không tin tưởng lắm vì có rất nhiều kẻ đầu cơ ở đây", Yao
Lina - một nhân viên kế toán ở Thượng Hải cho biết.
Chỉ số Shanghai Composite đã mất 8,8% năm nay. Trong khi đó, MSCI All-
Country World lại tăng 9,8%. GDP nước này cũng chỉ tăng 7,5% trong quý II,
kéo dài chuỗi tăng trưởng dưới 8% lâu nhất hai thập kỷ.
Chính phủ Trung Quốc cũng hạn chế quyền tham gia vào thị trường chứng khoán
trong nước của các công ty ngoại. Giá trị thị trường của các công ty Trung Quốc
niêm yết trên sàn đạt 3.100 tỷ USD cuối tháng 7, trong khi con số này của doanh
nghiệp nước ngoài chỉ là 44,9 tỷ USD

Sau 3 ngày nghỉ lễ Năm Mới, chứng khoán Trung Quốc đã mở cửa trở lại vào
ngày cuối tuần 4/1 và phiên giao dịch đầu tiên trong năm 2013 của chứng khoán
Trung Quốc đã tràn ngập sắc xanh ngay từ những phút giao dịch đầu tiên, với lực
đẩy là sự phục hồi của nền kinh tế trong nước.
Chỉ số Shanghai Composite tăng 23,92 điểm (1,05%) lên 2.293,05 điểm.
IV. Ý nghĩa của thị trường chứng khoán các nước đối với thị trường chứng
khoán toàn cầu.
1.Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế:
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi
của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng
sản xuất xã hội.
Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động
được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh
tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng:
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ
hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau
về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại
hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.
3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán:
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu
thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh
khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu
tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư.
TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các
chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp:
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một
cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của
doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện

Từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô:
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy
bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng,
nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu
hiệu tiêu cực của nền kinh tế.
Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan
trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK,
Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp
thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát.
Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động
vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền
kinh tế.
Chương 3: Kết luận
Thị trường chứng khoán cho phép các công ty và chính phủ huy động vốn
đầu tư (bao gồm cả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài) cho
phát triển, mở rộng sản xuất và thực hiện các chương trình kinh tế- xã hội vĩ mô
thông qua việc phát hành các loại chứng khoán. Thị trường chứng khoán tồn tại
song song với kênh dẫn vốn gián tiếp và ngày càng khẳng định tính ưu việt của

là đảm bảo khả năng sử dụng vốn lâu dài cho doanh nghiệp, nâng cao khả năng
quản lý vốn của nhà đầu tư, tiết kiệm chi phí huy động và sử dụng vốn Kênh
dẫn
vốn trực tiếp qua thị trường chứng khoán thực sự là một kênh quan trọng trong
một
nền kinh tế thị trường.
Thị trường chứng khoán là hạt nhân của thị trường tài chính nên nó rất
quan trọng đối với sự phát triển của các quốc gia. Để có được một thị trường
chứng khoán thật sự phát triển thì trước tiên các quốc gia phải cải thiện cơ chế

quản lý và hoat động của các công ty chứng khoán, công ty niêm yết. Đưa ra yêu
cầu cao về tính minh bạch,đồng thời quy định rõ trách nhiệm của hội đồng quản
trị và ban giám đốc của các công ty niêm yết.Qua đó,khuyến khích các công ty
áp dụng những thông lệ quản trị tốt nhất.

×