Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

luận văn thạc sĩ thơ trần nhuận minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (722.78 KB, 129 trang )



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM







N
N
G
G
U
U
Y
Y


N
N


V
V
Ă
Ă
N


N


H
H
Ư
Ư
N
N
G
G








THƠ TRẦN NHUẬN MINH



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN









Thái Nguyên, năm 2011





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM





N
N
G
G
U
U
Y
Y


N
N



V
V
Ă
Ă
N
N


H
H
Ư
Ư
N
N
G
G








THƠ TRẦN NHUẬN MINH


CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ: 60.22.34


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ VIỆT TRUNG










Thái Nguyên, năm 2011


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam nửa cuối thế kỉ XX và tiếp nối
sang đầu thế kỉ XXI, Trần Nhuận Minh là nhà thơ có một khối lượng sáng tác

hết sức phong phú và đa dạng. Nếu chỉ dừng lại ở một vài tập thơ trong từng
thời điểm thì thật khó có thể vẽ lên bức chân dung văn học của ông. 25 năm
trước thời kì đổi mới, người ta biết đến ông trên thi đàn, với những bài thơ hiền
lành, giản dị nhưng cũng không kém phần sâu sắc, hóm hỉnh; cho đến 25 năm
sau đổi mới, tính đến nay, bước đi của Trần Nhuận Minh đột ngột và dồn dập,
biến ảo và sâu sắc, như cuộc sống đa chiều đang diễn ra hàng ngày.
Sáng tác thơ đối với Trần Nhuận Minh là cả một quá trình đầy hạnh phúc
nhưng cũng đầy lo âu và dằn vặt. Làm thơ rất sớm, năm 1960, ông đã có thơ
đăng báo. Tập thơ đầu tiên: Đấy là tình yêu ra đời năm 1971, sau đó ông lần
lượt cho ra đời các tập thơ: Âm điệu một vùng đất (1980), Thành phố bên này
sông (1982), Hoa cỏ (1982), Nhà thơ áp tải (1989), Nhà thơ và hoa cỏ (1993),
Bản Xô nát hoang dã (2003), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007) và
Miền dân gian mây trắng (2008).
Quá trình sáng tác là một quá trình vận động trong nhận thức của Trần
Nhuận Minh. Từ chỗ làm thơ như theo “một công thức có sẵn, là thứ thơ mang
tính chất minh họa”, ông đã cương quyết “bỏ lại đọc đƣờng” những đứa con tinh
thần “khô cứng” của mình để đi tới con đường nghệ thuật đích thực, đó là: “Hãy
áp tải sự thật – Đến những bến cuối cùng”. Trong số nhà thơ thế hệ chống Mĩ,
có lẽ, chỉ có Trần Nhuận Minh là dứt khoát từ bỏ 25 năm “thơ bao cấp của
mình”. Đây không phải là đoạn tuyệt với quá khứ mà là đoạn tuyệt với một kiểu
tư duy bao cấp của ông trong quá khứ. Và cũng chính từ đây, trang thơ ông thật
sự “lật cánh”.
Không quan sát một cách duy cảm, mà bằng những va chạm trực tiếp với
đời sống hiện thực, thơ ông thể hiện sự cảm nhận sâu sắc về những nỗi đau có


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
thực của những kiếp người, về những trạng thái xã hội đầy những khiếm khuyết,

đầy những nhức nhối, xót xa qua bức chân dung số phận con người đa dạng và
phức tạp.
Đặc điểm nổi bật trong thơ Trần Nhuận Minh là sự đan kết thực – hư
trong việc xây dựng thế giới hình tượng đã mở ra khả năng chiếm lĩnh, nắm bắt
và giải thích hiện thực, đồng thời diễn tả thế giới tâm linh vốn nhiều bí ẩn và
những dấu hiệu mong manh mơ hồ, khó nắm bắt. Người đọc vì thế khi tiếp cận
thơ ông phải tiếp cận trong tính chất đa chiều, khái quát và phong phú. Thơ ông,
quả là một thứ thơ có màu sắc riêng, có phong cách riêng và có một vị trí riêng
trong đời sống thơ ca hiện đại.
Để đánh giá một cách xác đáng về thơ Trần Nhuận Minh, nếu chúng ta
chỉ dừng lại ở một vài bài nghiên cứu thì không thể có cái nhìn khái quát về thơ
ông. Phải xâu chuỗi cả đời thơ nửa thế kỉ qua, dưới nhiều góc cạnh mới thấy hết
được sự sáng tạo đáng trân trọng của Trần Nhuận Minh. Có như vậy, chúng ta
mới nhận diện được thơ Trần Nhuận Minh và khẳng định những cống hiến của
ông trong văn học nghệ thuật suốt 50 năm qua. Mới hiểu vì sao ông được tặng
giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật cho hai tập thơ: Nhà thơ và hoa cỏ
và Bản Xô nát hoang dã, về hàng chục Huân chương, Huy chương, Kỉ niệm
chương và nhiều giải thưởng văn học cao quý khác
1.2. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, đánh giá một cách thấu đáo, công bằng về
những đóng góp cũng như sáng tạo độc đáo của nhà thơ Trần Nhuận Minh cho
tới nay vẫn còn ở dạng rất “khiêm tốn”. Theo khảo sát bước đầu của chúng tôi,
thì hiện tại mới có hai luận văn thạc sĩ nghiên cứu về một số phương diện nghệ
thuật trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác thơ của Trần Nhuận Minh, đó là: Lê Thị
Hải Hà với đề tài: Chủ thể trữ tình trong thơ Trần Nhuận Minh, và Chung Thị
Thúy với đề tài: Cảm hứng thế sự và đời tư trong thơ Trần Nhuận Minh.
Ngoài ra còn một số bài nghiên cứu, phê bình về tác giả, tác phẩm của Trần
Nhuận Minh của các nhà nghiên cứu có uy tín như: GS. Phong Lê, GS. Mai


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3
Quốc Liên, nhà phê bình Vũ Quần Phương…trong một số công trình nghiên cứu
chung về thơ văn thời kì hiện đại; hoặc ở dạng bài nghiên cứu lẻ. Chính vì vậy,
chúng tôi đã lựa chọn đề tài Thơ Trần Nhuận Minh chủ yếu nghiên cứu sâu về
thế giới hình tượng nghệ thuật của ông, mà cụ thể là hình tượng con người – một
hình tượng trung tâm, nổi bật, đặc sắc trong tư duy nghệ thuật của Trần Nhuận
Minh, nhằm có một cái nhìn khá hệ thống và toàn diện ở cả hai phương diện: nội
dung và hình thức trong sáng tác của nhà thơ này. Với hi vọng sẽ góp phần nào
vào việc tìm hiểu và đánh giá những nét đặc sắc, những thành công nổi bật và sự
đóng góp quan trọng của nhà thơ này đối với nền thơ ca Việt Nam hiện đại (đặc
biệt sau những năm 1986 trở lại đây).
1.3. Với một lí do nữa cũng rất có ý nghĩa với người thực hiện đề tài, đó là:
nếu luận văn được thực hiện thành công, thì đây sẽ là một công trình nghiên
cứu, một tài liệu tham khảo quan trọng giúp cho các thày cô giáo tỉnh Hải
Dương (quê hương của tác giả Trần Nhuận Minh và tác giả luận văn) giảng dạy
tốt hơn về một tác giả thơ nổi tiếng của vùng đất xứ Đông thời kì hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Trần Nhuận Minh là một trong các nhà thơ đã để lại “một vệt riêng” cho
thơ trữ tình Việt Nam cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, nên thơ ông đã thu hút
được sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình văn học trong thời gian qua. Đã
có một số những công trình, bài viết, phê bình, giới thiệu, nghiên cứu về thơ
ông. Chúng tôi xin điểm lại tình hình nghiên cứu về tác giả, tác phẩm của ông
như sau:
Sáng tác trong những năm tháng “khủng hoảng vật vã” chuyển mình từ
cái cũ sang cái mới, những năm tháng chất chứa “những giọt nƣớc mắt đời
không thấy”, Trần Nhuận Minh nhận thức rõ vai trò, chức năng của văn học khi
nhà thơ đưa ra quan niệm “Hãy áp tải sự thật – Đến những bến cuối cùng”. Nhà
nghiên cứu Phong Lê trong bài viết “Trần Nhuận Minh ba lần định vị cho thơ”
đã thấu suốt quan niệm sáng tác này của nhà thơ. Theo ông, Trần Nhuận Minh



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
đã “bám chặt và áp mặt vào đời để gợi thức và đánh động lƣơng tâm” [13.17].
Cũng theo GS. Phong Lê, thơ Trần Nhuận Minh có ba lần định vị, lần thứ nhất
là “Đi tìm hoa và cỏ hoa cỏ” [5.17], lần thứ hai là “Hành trình về với bản
thân”[16.25], lần thứ ba là “Bâng khuâng tự vấn về sự tồn tại con ngƣời trong
cõi ngƣời, cõi đời”[20.30]. Ba lần định vị đã “ghim” một dấu mốc cho những
bước chuyển mình của thơ Trần Nhuận Minh qua các giai đoạn sáng tác.
Còn GS. Mai Quốc Liên khi “Đọc thơ Trần Nhuận Minh” đã phát hiện
thấy ẩn chứa đằng sau mỗi vần thơ là “một tâm hồn thành thực, chân quê, nhƣng
lại tích hợp bao tầng văn hóa xƣa nay đã nhạy cảm làm sao trƣớc dƣ chấn của
thời đại mình đang sống”[11.39]. Đó chính là lí do khiến thơ ông đi đến được
cái chân thực, cái đích thực và dò ra cái “rốn bể” của thơ là nỗi niềm chính
mình. Tác giả còn khẳng định: “Thi pháp cuối cùng và cao nhất của thơ, là chỗ
nó chở cuộc đời nhẹ nhƣ không thơ, không cần đến câu chữ nữa”[25.44].
Lê Thị Hải Hà trong đề tài Chủ thể trữ tình trong thơ Trần Nhuận
Minh (Luận văn thạc sĩ khoa học ĐHHSP Hà Nội, năm 2008 ) đã nhận xét thơ
Trần Nhuận Minh như sau: “Có thể thấy thơ ông thƣờng tập trung chú ý nhiều
hơn tới hiện thực số phận con ngƣời cụ thể với những vấn đề triết lí đạo đức
nhân sinh, vừa thể hiện ý thức cá nhân của chủ thể trữ tình. Trần Nhuận Minh
thuộc kiểu nhà thơ trữ tình thế sự đời tƣ”[21.39].
Chung Thị Thúy – tác giả luận văn thạc sĩ khoa học (Đại học Vinh), năm
2009 với đề tài Cảm hứng thế sự và đời tư trong thơ Trần Nhuận Minh đã
viết: “Nhƣng khi lịch sử bƣớc sang một trang mới, cuộc sống với tất cả sự nhức
nhối, bức thiết của nó, thơ ca không phải mãi say sƣa ngợi ca mà phải hƣớng
tới phản ánh toàn diện hiện thực của con ngƣời. Cảm hứng thế sự, đời tƣ trong
thơ Trần Nhuận Minh là cảm hứng hƣớng đến những vấn đề của đời thƣờng,

thấm thía hơn nỗi buồn sau chiến tranh”[21.38]. Trần Nhuận Minh cũng như
bao nhà thơ khác ý thức sâu sắc vai trò trách nhiệm xã hội của mình.Với khát


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
vọng dân chủ, ý thức tôn trọng sự thật, thơ Trần Nhuận Minh đã chạm đến cốt
lõi của cuộc sống hiện thực hôm nay.
Trần Nhật Thu trong bài Câu thơ như mảnh hồn người, đã viết: “Thơ
Trần Nhuận Minh có những bài, những câu, đẹp đến nao lòng, nhƣng lại có
những bài, những câu, đau đến xé lòng. Có lẽ anh không thể viết khác đƣợc, khi
mà anh muốn “áp tải sự thật – Đến những bến cuối cùng”…[9.230].
Nguyễn Xuân Đức khi viết bài Thơ Trần Nhuận Minh, đã đánh giá cao
giá trị cảm hứng thế sự, đời tư trong thơ Trần Nhuận Minh. Ông nhận định, Trần
Nhuận Minh “không đứng ngoài quan sát một cách duy lí mà tự hòa đồng để
cảm nhận số phận của mỗi kiếp ngƣời. Có thể nói anh không chỉ sống có một
kiếp ngƣời”[6.130]. Với bài viết này, Nguyễn Xuân Đức đã chỉ cho ta thấy thơ
Trần Nhuận Minh viết về những con người với số phận thực bằng một tình cảm
sâu sắc, chân thành.
Tác giả Tô Thùy Anh sau khi đọc Nhà thơ và hoa cỏ đã cảm nhận “bỗng
thấy trƣớc mắt mình sống lại những cảnh đời, bao số phận con ngƣời. Cũng có
lúc thơ anh động đến nỗi đau đời của cả một dân tộc. Cái chất dung dị hồn
nhiên quyện thêm chất suy tƣ trăn trở, dằn vặt”[8.219] kết hợp cùng một “giọng
thơ nồng đƣợm, hàm súc, lay động hồn ngƣời” đã giúp Trần Nhuận Minh “vƣơn
tới triết lí Đông phƣơng cổ điển”[13.219]. Điều đó càng khẳng định vững chắc
thơ Trần Nhuận Minh luôn bắt nguồn từ “truyền thống đạo đức Việt Nam ngàn
đời”[14.219].
Nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã gọi Trần Nhuận Minh là “ngƣời bay bằng
chân” bởi lẽ “ khi sống hết lòng với cái chân thực của cõi ngƣời, Trần Nhuận

Minh đƣợc cả cái hƣ ảo của trời đất”[23.73].
Khi đọc Nhà thơ và hoa cỏ, tác giả Đào Tiến Thi đã nhận thấy cái Tôi
Trữ tình “luôn da diết nỗi niềm nhân thế nhƣng da diết nhất là những bài có
hình tƣợng nhân vật”[11.265]. Hình tượng nhân vật vừa ở góc độ cá thể hóa vừa


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
ở góc độ khái quát hóa, và “ám ảnh tìm về’’ với vẻ đẹp nguyên khối của con
người xưa.
Nhà thơ Hữu Thỉnh trên Tạp chí Tác phẩm Mới số 5/1989 nhận định thế
giới nghệ thuật trong trong tập thơ Nhà thỏ và hoa cỏ đã “mở rộng không gian
cảm nhận, xử lí đề tài”. Và cái mới trong tập thơ là “nhà thơ tiếp cận thế giới
tâm hồn của ngƣời lao động với thƣớc đo của văn hóa”. Những bài thơ thành
công của Trần Nhuận Minh là sự cộng hưởng chất sống và kinh nghiệm sống,
những thảng thốt bất chợt, đan xen vẻ đẹp bình dị thường ngày.
Tập thơ Bản Xô nát hoang dã là bước chuyển mình của cái Tôi Trữ
tình. Tác giả Đặng Văn Sinh viết bài Khát vọng về một tình yêu thần thánh đã
chỉ ra rằng “Hình tƣợng quán xuyến trong toàn bộ tác phẩm là cái tôi trữ tình
biến động, lúc hữu hình, lúc vô ảnh, lúc là hiện thực khách quan, lúc chỉ là giả
tƣởng”[14.66]. Bên cạnh đó, tác giả bài viết còn nhận thấy trong Bản Xô nát
hoang dã “thế giới hình tƣợng ở đây, là thế giới lƣỡng phân, hai mảng sáng tối
thƣờng phân tầng và luôn đƣợc xem xét trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau
của triết học cổ phƣơng Đông”[9.168].
Nghiên cứu “Bản Xô nát hoang dã từ góc độ thiền học”, tác giả Nguyễn
Văn Sơn cho rằng tác phẩm đã “phản ánh năng lực tƣ duy nghệ thuật hết sức
nhạy cảm trong việc khéo léo lựa chọn hình thức thể hiện hình tƣợng nghệ thuật
và chất liệu ngôn ngữ thi ca”[19.178]. Tất cả để nhằm thể hiện tư tưởng chỉ đạo
xuyên suốt là tư tưởng giác ngộ, nhận biết về vũ trụ nhân sinh.

Nhận định về tập thơ 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh trong bài viết
“Khúc đàn bầu thân phận”, nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng: “Tác giả đã làm
một cuộc viễn du, tạm đứng ra ngoài đời mà nhìn lại chính mình…suy tƣởng
khái quát nhƣ ôm vào thân phận nhân gian của mọi thời, nhƣng xuất phát từ thế
sự cụ thể hôm nay, từ tâm trạng bây giờ”[3.189]. Giọng tự sự, miêu tả, tưởng
như quen bút của Trần Nhuận Minh, đã thành giọng trữ tình chiêm nghiệm. Một
cuộc đối thoại với hư không, về chính nỗi lòng mình. Trần Nhuận Minh mượn


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
tiếng đàn bầu dân gian, dân tộc, nghĩ ngợi cái đời mình, cái kiếp mình, cũng là
một cách tìm chân dung thời mình đang sống.
Tác giả Vũ Ngọc Thảo với bài viết “45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh,
đánh thức những miền tiềm thức lạ” nhận ra rằng: “Những khúc thức đƣợc xây
dựng theo những cảm hứng của nhà thơ…Dòng chảy thi ca trải dài theo dòng
thời gian, không gian, từ làng quê ra phố phƣờng, từ góc tối của kẻ sĩ đến sự
hèn của chính khách”[19.209].
Trong bài viết “Thi pháp ca dao trong Miền dân gian mây trắng”, tác giả
Hữu Tuân đã phát hiện: “Các đề tài là bức tranh sinh hoạt đời thƣờng diễn ra
hàng ngày quanh ta”[11.346]. Điểm mạnh của Trần Nhuận Minh ở góc này là
trào phúng kết hợp với trữ tình. “Nói tập thơ nghiêng về đề tài thƣờng nhật, giản
dị nhƣng không vì thế mà đơn điệu. Trái lại, rất đa dạng, nhiều bài đạt tới độ
sâu triết lí nhân sinh”[4.346]. Trần Nhuận Minh đã đến được cái đích là chủ
nghĩa nhân văn và truyền thống văn hóa, đạo lí dân tộc.
Như vậy, xung quanh việc nghiên cứu, phê bình thơ Trần Nhuận Minh nói
chung và các tập thơ cụ thể của ông nói riêng đã có nhiều ý kiến khác nhau,
nhiều mức độ lí giải khác nhau. Hầu hết các tác giả đều tập chung nghiên cứu
các vấn đề sau:

- Cuộc đời và con đường thơ Trần Nhuận Minh: nghiên cứu, giới thiệu các
tập thơ và khuynh hướng vận động thơ Trần Nhuận Minh.
- Giới thiệu, nghiên cứu, đánh giá về các tập thơ: Nhà thơ và hoa cỏ, Bản Xô
nát hoang dã, 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh, Miền dân gian mây trắng.
- Nghiên cứu về phong cách nghệ thuật thơ Trần Nhuận Minh: những bài viết
này chủ yếu khai thác, khám phá điểm độc đáo, cá tính sáng tạo của nhà thơ ở
những phương diện nội dung, hình thức, tư tưởng nghệ thuật…trong các tác
phẩm đặc sắc. Tuy nhiên, những vấn đề này cũng mới chỉ được nghiên cứu ở
dạng điểm qua hoặc đưa ra các nhận xét, nhận định, chứ chưa có các công trình
nghiên cứu quy mô thấu đáo.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Như vậy, chúng ta thấy: việc nghiên cứu về thơ Trần Nhuận Minh cũng đã
được nhiều người quan tâm, nhưng cho tới nay chưa có một tác giả nào trực tiếp
nghiên cứu về vấn đề về hình tượng con người - một hình tượng trung tâm trong
thơ Trần Nhuận Minh (bao gồm đầy đủ các tầng lớp con người trong xã hội )
trước và sau thời kì đổi mới, để thấy được cả một quá trình sáng tác thơ của ông
luôn xoáy sâu vào số phận của mọi con người (thuộc mọi đối tượng khác nhau)
trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước. Vì vậy, đây là đề tài nghiên cứu có
tính mới, chuyên sâu về thơ Trần Nhuận Minh ở góc độ thế giới hình tượng, để
từ đó, có một cái nhìn hệ thống và khá toàn diện về đặc điểm nổi bật thơ Trần
Nhuận Minh - thơ viết về “chân dung”, “thơ của những số phận con ngƣời”.
Qua đó sẽ góp thêm một tiếng nói khẳng định những thành tựu, nét đặc sắc và
những đóng góp quan trọng của thơ ông đối với sự vận động, phát triển của nền
thơ ca hiện đại Việt Nam thời kì cuối thế kỉ XX, đầu thế kỉ XXI.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về Thơ Trần Nhuận Minh ở góc độ hình tượng con người,

do đó, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là tất cả các tập thơ của ông:
- Đấy là tình yêu (1971)
- Âm điệu một vùng đất (1980)
- Thành phố bên này sông (1982)
- Nhà thơ áp tải (1989)
- Hoa cỏ (1982)
- Nhà thơ và hoa cỏ (1993)
- Bản Xô nát hoang dã (2003)
- 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh ((2007)
- Miền dân gian mây trắng ( 2008))
Tuy nhiên, chúng tôi sẽ đi sâu vào khảo sát, phân tích một số tập thơ tiêu
biểu, mang tính chất dấu mốc như: Âm điệu một vùng đất, Nhà thơ và hoa cỏ,
Bản Xô nát hoang dã, 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh, Miền dân gian mây
trắng.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Ngoài ra, chúng tôi còn nghiên cứu một số tác giả, tác phẩm thơ khác
cùng thời với Trần Nhuận Minh (để so sánh, đối chiếu) và tham khảo một số
sách lí thuyết, lí luận văn học làm cơ sở lí luận cho công trình nghiên cứu của
mình.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp thống kê - phân loại
4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu
4.3. Phương pháp phân tích ( tác giả, tác phẩm )
4.4. Một số phương pháp khác ( phương pháp tổng hợp, nghiên cứu liên
ngành)


5. Đóng góp của luận văn
Nghiên cứu thơ Trần Nhuận Minh ở góc độ hình tượng con người (trên cả
phương diện nội dung phản ánh và nghệ thuật biểu hiện), luận văn nhằm mục
đích:
Chỉ ra những đặc điểm cơ bản của thế giới hình tượng con người trong thơ
Trần Nhuận Minh. Qua đó khẳng định những nét sáng tạo, độc đáo, mang tính
đặc trưng của nhà thơ trong quá trình thể hiện hình tượng nghệ thuật trung tâm
này.
Chỉ ra những đóng góp quan trọng của nhà thơ Trần Nhuận Minh đối với
sự vận động và phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại, đặc biệt giai đoạn sau
Đổi mới (1986 tới nay).
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm ba chương chính:
Chƣơng 1: Thơ Trần Nhuận Minh – sự vận động không ngừng trong quá
trình phát triển
Chƣơng 2: Hình tƣợng con ngƣời – một hình tƣợng trung tâm trong thơ
Trần Nhuận Minh
Chƣơng 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong thơ Trần Nhuận Minh


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
PHẦN NỘI DUNG


Chƣơng 1
THƠ TRẦN NHUẬN MINH – SỰ VẬN ĐỘNG KHÔNG NGỪNG
TRONG QUA TRÌNH PHÁT TRIỂN



1.1. Trần Nhuận Minh – con ngƣời và sự nghiệp thơ ca
Trần Nhuận Minh sinh ngày 20 tháng 8 năm 1944 trong một gia đình có
truyền thống nho học, tại làng Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh
Hải Dương. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội. Khi còn là
học sinh cấp 2 trường huyện, ông đã được đọc tờ báo Nhân dân có đăng bài
Hoan hô chiến sĩ Điên Biên của Tố Hữu, đó là bài thơ đầu tiên ông được “đọc
bằng mắt” (trước đây ông chỉ được nghe qua người khác). Từ đó, Trần Nhuận
Minh đã có sự ảnh hưởng của thơ Tố Hữu, ông bắt đầu làm thơ (chủ yếu là thơ
cổ động cho huyện Nam Sách – quê hương ông). Trong suốt những năm từ 1962
– 1969, ông vừa dạy học ở khu mỏ Hồng Quảng, Quảng Ninh vừa miệt mài sáng
tác thơ ca. Năm 1969, ông công tác tại Ban Vận động Thành lập Hội văn học
Nghệ thuật Quảng Ninh, là Ủy viên Chấp hành, Thường vụ, Thư kí, Phó Chủ
tịch, rồi Bí thư Đảng Đoàn, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Ninh (2
khóa), Ủy viên Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuât Việt
Nam, Phó Ban công tác Nhà văn các tỉnh phía Bắc của Hội nhà văn Việt Nam.
Cho tới nay, Trần Nhuận Minh đã xuất bản 15 tập thơ và 3 tập văn xuôi.
Đó là các tập thơ: Đấy là tình yêu (1971), Âm điệu một vùng đất (1980),
Thành phố bên này sông (1982), Nhà thơ áp tải (1989), Hoa cỏ (1982), Nhà
thơ và hoa cỏ (1993 - tái bản lần thứ 19, 2009), Giọt phù sa vạn dặm (2000),
Bản Xô nát hoang dã (2003-tái bản lần thứ 8, 2009), Trần Nhuận Minh - Thơ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
với tuổi thơ (2003), Gửi lại dọc đường ( 2005 - tái bản lần thứ 4, 2009), Trần
Nhuận Minh, Tuyển tập thơ (2005), 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh (2007–
tái bản lần thứ 2, 2009), Miền dân gian mây trắng (2008 – tái bản lần 1, 2009),

Bốn mùa – Four seasons (2008), Bốn mùa (2009 – Tuyển tập).
Và các tập văn xuôi: Trước mùa mưa bão (1980 – in lần thứ 5, 2010), Hòn
đảo phía chân trời ( 2000 – in lần thứ 5, 2010), Truyện chọn lọc cho thiếu nhi
(2002).
Trong suốt 50 năm miệt mài sáng tác, Trần Nhuận Minh đã khẳng định
được những bước đi vững chắc và đôi khi là đột phá của mình trong lĩnh vực
văn học nghệ thuật. Chính sự cống hiến hết mình cho thơ ca nói riêng, văn học
nghệ thuật nói chung, nhà thơ Trần Nhuận Minh “định vị” được tên tuổi của
mình trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, đặc biệt là giai đoạn từ bắt đầu đổi
mới tới nay.
1.2. Quá trình vận động của thơ Trần Nhuận Minh
Trong sự nghiệp 50 năm cầm bút, Trần Nhuận Minh sáng tác một số
lượng tác phẩm thơ đáng nể. Ông đã từng phát biểu rằng, ông rất cám ơn công
cuộc Đổi mới, chính công cuộc Đổi mới đã “sinh ra tôi lần thứ hai”. Và sau này
khi làm tuyển tập, ông chỉ chọn 28 bài tiêu biểu nhất sáng tác trong vòng 25
năm, kể từ trước năm 1986 đưa vào phần phụ lục với tiêu đề Bỏ lại dọc đường
để độc giả có dịp tham khảo.
Thế nhưng khách quan mà nói, khi nhìn lại chặng đường sáng tác 25 năm
trước thời kì Đổi mới, thơ Trần Nhuận Minh có một quá trình vận động cùng với
xu hướng phát triển chung của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông được coi là
“nhà thơ của giai cấp công nhân, nhà thơ về đề tài công nghiệp, ông đƣợc lĩnh
vinh dự, và có trách nhiệm phát ngôn và tôn vinh cho nó suốt hai thập niên 60
và 70…”[26.16,17]. Do đó, khi nghiên cứu chặng đường thơ của Trần Nhuận
Minh, chúng ta không thể bỏ qua thời kì sáng tác của ông trước năm 1986.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Vì vậy, nghiên cứu quá trình vận động thơ của Trần Nhuận Minh chúng

tôi vẫn chia ra làm hai thời kì, đánh dấu hai chặng đường thơ của nhà thơ họ
Trần quê hương Hải Dương nhưng lại thành danh ở vùng đất mỏ Quảng Ninh
này.
1.2.1. Thơ Trần Nhuận Minh thời kì 1960 – 1985
Bắt đầu sáng tác từ những năm 60 của thế kỉ XX, Trần Nhuận Minh đã
in hai tập thơ chung: Sức mới (1967) và Ca bình minh (1972) với đề tài công
nghiệp. Bằng sự lao động nghiêm túc, miệt mài trong lĩnh vực nghệ thuật khi
gắn bó với vùng đất vàng đen của Tổ quốc, Trần Nhuận Minh đã cho ra đời tập
thơ in riêng đầu tiên: Đấy là tình yêu (1971).
Trong bài thơ Trình bày viết năm 1970, Trần Nhuận Minh đã tự giới
thiệu về con đường lập nghiệp của mình:
Bạn ơi, tôi có hai lá phổi
Một làng Điền Trì mùa thu nƣớc nổi
Một nửa phố mỏ Hòn Gai
Quanh năm rừng rực nắng trời.
Giữa hai lá phổi lành, đây, trái tim tôi
Hai miền quê: một là vùng đồng chiêm nước trũng nhưng chứa đựng bề
dày bao tầng văn hóa; một là vùng “phố mỏ” tấp nập, đông vui “quanh năm
rừng rực nắng trời” đã gắn bó với nhà thơ và không thể tách rời. Rõ ràng “phố
mỏ Hòn Gai”- vùng công nghiệp vàng đen của tổ quốc với Trần Nhuận Minh
vốn không phải là nơi chôn rau cắt rốn, nhưng ông đã gắn bó máu thịt và đã
cống hiến suốt cả một thời tuổi trẻ, suốt cả quá trình hoạt động sáng tác và đã
thành danh ở nơi này; còn với Nam Sách – Hải Dương – nơi đã sinh ra ông luôn
là quê hương yêu dấu, chốn đi về của tâm hồn và trái tim ông. Cả hai vùng quê
với hai dạng văn hóa khác nhau đã hun đúc tài năng, đã cung cấp cho Trần
Nhuận Minh những chất liệu, những “tài nguyên” quý giá, phong phú để ông có
thể viết lên những vần thơ, trang thơ thấm đẫm chất dân gian mềm mại, dịu dàng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


13
bên cạnh chất liệu hiện thực đầy gai góc, khốc liệt, phong phú và phức tạp thời
kì hiện đại.
Từ chỗ là một anh nông dân trở thành giáo viên và gắn bó với giai cấp
công nhân, đã tạo nên một bước chuyển biến quan trọng trong cuộc đời và trong
sáng tác của Trần Nhuận Minh và đã làm nên “cuộc định vị lần thứ nhất” cho
thơ ông, như sự khẳng định của nhà nghiên cứu Phong Lê.
Ở buổi đầu những năm 60, với đóng góp của đội ngũ thơ chủ lực của nền
cách mạng, đó là cảm hứng ca ngợi vẻ đẹp của sự nghiệp giải phóng một nửa đất
nước, và đồng thời là cái nhìn từ những ước mơ bao đời nay đang hiện dần lên
sự thật. Trần Nhuận Minh cũng đã khẳng định mình là nhà thơ chân chính, là
người con mang tình yêu lớn với quê hương và có chung khát vọng dân tộc.
Trong sự hấp dẫn của lí tưởng, có bao hàm những khát vọng riêng tư của
tuổi trẻ. Nhưng thực ra, sự hấp dẫn của vùng mỏ đối với Trần Nhuận Minh còn
có cái gì đó, mộng nhiều hơn thơ…Và đây là một trong những bài thơ ông viết
về vùng mỏ:
Nơi đây là mỏ Mạo Khê
Một vùng cung núi, bốn bề than đen
Nơi đây anh đã gặp em
Một đêm mở vỉa sao đêm đầy trời.
(Mạo Khê)
Trần Nhuận Minh đến với thơ như vậy, háo hức và hăm hở. Tuy vậy,
nhiệt tình ấy chưa phải là điều kiện đủ cho thơ ông có sự thành công. Có thể dẫn
bài Anh thợ lò – bạn tôi:
Bƣớc ra khỏi lò
Anh nhƣ đi trên sóng
Khoảng đất bằng và rộng
Anh đi không thật chân
Chính anh cũng lạ cho mình



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Không có cái nhìn của người đồng bằng về mỏ, Trần Nhuận Minh khó
có thể đưa vào thơ những trực giác sinh động ấy, mà những người lâu năm ở đây
chưa dễ đã nói được. Đây cũng chính là nét riêng, là “duyên” thơ của ông, còn
mãi đến bây giờ, góp phần giúp ta nhận ra ông trong hàng loạt những cây bút
vùng mỏ như Yên Đức, Phạm Doanh, Đào Ngọc Vĩnh…
Dễ hiểu vì sao những bài thơ được người đọc ưa thích hơn trong Đấy là
tình yêu vẫn là những bài ghi lại cảm xúc suy nghĩ từ những gì ông thân quen,
từ chiếc cổng làng:
Nơi niềm vui theo năm tháng sinh sôi
Mùi nếp thoảng bay nhịp chày khua gấp
Tiếng súng dội về bao đêm trở giấc
Trâu cọ cổng tre lấp lánh lƣỡi cày…
(Cổng làng)
Rồi những gì chung hơn, vẫn là cái làng – cái làng mới “cách mỏ ba cây
số”, nơi “có con tầu chạy ngang đồng lúa lấn vào chân mỏ” mà đôi mắt và tấm
lòng người ở đây cứ nửa quen, nửa lạ:
Sáng sáng nhìn lên mỏ
Đôi mắt thăm thẳm đen
Cầy ruộng bật than lên
Lòng bồi hồi xúc động
(Làng ven mỏ)
Nói đúng hơn, thành công bước đầu ở thơ Trần Nhuận Minh chưa phải là
những bài thơ viết về người thợ, mà chủ yếu là những đổi thay dễ nhận ở môi
trường mới mà ông sống. Khi nhìn chặng đường đầu, Trần Nhuận Minh thấy
“thơ mình vẫn đi ven ven ngoài mỏ”. Trong cách nói, nhìn có phần làm duyên,

ông bắt đầu có ý thức một cách rõ rệt và cụ thể hướng đi của thơ mình. Miền đất
và con người vùng mỏ rất thơ và rất mộng. Nhưng sự thơ mộng này khác hẳn
những gì trước đây mà ông tưởng tượng. Rằng đến với vùng mỏ, không phải đến


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
với những vinh quang giành cho tuổi hai mươi chấp nhận. Chứng kiến cảnh lao
động hết sức gian khổ của người thợ, ông tự nói với mình sự gian khổ của người
thợ là có thật, và sự có thật của thơ mình là giả. Ý nghĩ chân thành và nghiêm
khắc ấy đã hướng thơ ông đi những bước chắc chắn vào Âm điệu một vùng đất
(1980) và Thành phố bên này sông (1982).
Nếu Đấy là tình yêu mới chỉ là nhận thức cảm tính về vùng mỏ mới đứng
ở bên ngoài quan sát, và viết về những người thợ mỏ, thì Âm điệu một vùng đất
và Thành phố bên này sông, Trần Nhuận Minh đã hình thành một quan niệm
thơ với ý thức trách nhiệm của một nhà thơ công nhân đứng trong đội ngũ công
nhân, viết theo cách nghĩ, cách cảm của những người công nhân mỏ.
Cuộc sống phát triển, giàu có thêm chất liệu mới do bàn tay và sức nghĩ,
sức sáng tạo của con người. Rồi từ những đổi mới này mà hình thành dần một
cảm xúc mới – cảm xúc trước đời sống công nghiệp của Trần Nhuận Minh. Với
bài thơ Đá cháy gồm 7 đoạn thơ, 224 câu, viết năm 1985, Trần Nhuận Minh đã
làm một “cuộc định vị lần thứ hai” cho thơ mình. Lửa, Than và Tỏa sáng là ba
“nhân vật” chính trong quá trình diễn ra “Đá cháy”. Bài Đá cháy được xem như
là tuyên ngôn nghệ thuật của Trần Nhuận Minh. Với vị trí, tư cách của một nhà
thơ công nhân khao khát có thể làm nên những điều có ý nghĩa hơn trong cuộc
sống hối hả, vất vả và đang vận động tích cực này:
Tôi sẽ đầu thai làm ngọn lửa
Cháy điên khùng trong đất tối âm u
“Tỏa sáng” là cách tồn tại của quá trình diễn ra đá cháy và “không tỏa

sáng thì không tồn tại”. Đó cũng là cách nhà thơ khẳng định quan điểm sống và
sáng tác của mình, đúng như nhận định của nhà nghiên cứu Phong Lê: “Một
khẳng định đến từ sứ mệnh của giai cấp công nhân, mà nhà thơ muốn (hoặc đã)
là ngƣời đại diện, khi từ là Tảng đất sét bên sông Kinh Thầy, anh đã trƣởng
thành tảng đá đen nguyên khối xù xì của một vùng than mênh mông – miền vàng
đen trong lòng đất Đông Bắc của Tổ quốc[16.28].


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Đây cũng chính là sự định vị lần thứ hai của nhà thơ đất mỏ này. Ông đã
quyết định trở thành nhà thơ của giai cấp công nhân, giai cấp tiên phong của
cách mạng Việt Nam. Và nói như nhà ngiên cứu, phê bình Phong Lê thì về
“khách quan nó ghi nhận đƣợc gƣơng mặt đất nƣớc và gƣơng mặt thơ một thời
trong và sau chiến tranh còn chƣa phai nhạt âm hƣởng hào hùng của đất nƣớc
chống ngoại xâm, và trong buổi đầu sự nghiệp xây dựng chống đói nghèo còn
rất giàu tự tin đến thành lãng mạn”[5.30].
Và quả thật, Trần Nhuận Minh đã thực hiện được niềm khao khát đó.
Ông đã trở thành một nhà thơ của giai cấp công nhân, nhà thơ của vùng mỏ
Quảng Ninh với những tập thơ đã trở thành niềm tự hào của bao người công
nhân mỏ thời kì lịch sử ấy. Đấy là tình yêu, Âm điệu một vùng đất và Thành
phố bên này sông, Trần Nhuận Minh là một trong không nhiều gương mặt thơ
gắn bó tâm huyết với đề tài công nghiệp, với những người thợ mỏ của đất Quảng
Ninh đầy than, bụi và mầu áo thợ.
1.2.2. Thơ Trần Nhuận Minh thời kì 1986 đến nay
Đại hội VI của Đảng năm 1986 là một cái mốc, một sự kiện lớn của
dân tộc. Và Nghị quyết 05 của Bộ chính trị về văn hóa, văn nghệ quả là một sự
“cởi trói” theo đúng nghĩa của nó cho các văn nghệ sĩ tự do hơn trong quá trình
sáng tạo nghệ thuật của mình. Phương châm của Đảng ta lúc đó là “lấy dân làm

gốc” và mọi hành động cần phải “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật”. Nằm trong xu hướng chung đó, thơ Trần Nhuận Minh có những
sự vận động và đổi mới quan trọng. Với bài thơ Nhà thơ áp tải (1989), thể hiện
một quan niệm nhân sinh quan tích cực phù hợp với thực tiễn và nhu cầu về một
nền văn học mới – áp tải sự thật. Vì vậy, có thể xem: Trần Nhuận Minh như là
một trong những đại diện tiêu biểu của một khuynh hướng sáng tác mới –
khuynh hướng phản ánh sự thật với tất cả những mặt phải – trái, trắng – đen,
những sự phức tạp, sự chói gắt, sự tốt đẹp cũng như sự phũ phàng của nó một
cách trung thực nhất:


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Hãy áp tải sự thât
Đến những bến cuối cùng
( Nhà thơ áp tải)
Chính công cuộc Đổi mới đã sinh ra một nhà thơ Trần Nhuận Minh thứ
hai. Nhận thức được trước mặt là chân trời nghệ thuật mới vô cùng khoáng đạt,
văn học mới đã chuyển lên “đƣờng ray”, có nghĩa là cuộc hành trình mới của
Trần Nhuận Minh được khởi động. Nó được khởi động từ một cảm hứng mới về
sự thật, từ một đòi hỏi cao hơn, toàn diện hơn về nhận thức sự thật; và từ một ý
thức mới, quan niệm mới đang hình thành và được khẳng định thiên về chức của
nhà thơ trong thời kì mới của đất nước.
Tiếp nối sự đổi mới ở giai đoạn trước, trong Hoa cỏ đã đưa Trần Nhuận
Minh sang một thế giới khác, thế giới của cảnh đời và tình người. Rồi từ Hoa
cỏ, ông đã in tiếp tập thơ thứ sáu có tên Nhà thơ và hoa cỏ. Ở tập thơ này, Trần
Nhuận Minh đã đi sâu vào việc viết về số phận nhân dân, “viết về nỗi đau con
ngƣời”, viết về thế sự, nhân sinh với tất cả bộn bề chói gắt của nó. Tập thơ đã
khắc họa tập trung đầy đủ nhất và cũng đậm nét nhất về số phận người lao động

trong xã hội:
Câu thơ nhƣ gan ruột
Phơi ra giữa trời mây
Mỗi ngƣời một số phận
Ngang qua thế kỉ này
(Lời đề tựa trong tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ)
Đã có một thời do hoàn cảnh chiến tranh, văn học cần phải thực hiện một
cách hiệu quả nhất chức năng giáo dục; và do yêu cầu của chức năng giáo dục,
chính trị, tư tưởng mà văn học cần phải tập trung vào việc phản ánh cái tích cực,
cái tốt đẹp như là bản chất của xã hội, thì giờ đây, văn học thực sự muốn đạt
được chức năng giáo dục lại phải làm sáng tỏ sự thật một cách toàn diện, không
che đậy cả những mặt khuất tối, những tiêu cực tồn tại trong xã hội, và Trần


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
Nhuận Minh đã thực hiện được điều đó. Trên bức tranh hiện thực trong thơ Trần
Nhuận Minh, cái cũ, cái xấu, cái ác không còn ở vị trí mờ nhạt, chỉ có nhiệm vụ
làm nổi bật cái mới, cái tốt đẹp, cái tích cực của xã hội mà bản thân cái cũ, cái
xấu, cái ác cũng đã chứa một vị trí tương xứng để đạt một giá trị nhận thức và
hiệu quả của văn học nghệ thuật là: cảnh báo những nguy cơ tiềm ẩn trong xã
hội, cảnh tỉnh về nhân cách, đạo đức cho con người thời kì hiện đại.
Như vậy, trong mười lăm năm đầu, kể từ Đại hội VI (1986) trở lại đây,
với chủ trương “áp tải sự thật” thơ Trần Nhuận Minh đã tập trung vào việc phản
ánh về số phận nhân dân ở mọi góc cạnh của đời sống. Ngòi bút hiện thực của
ông đã đi sâu vào từng số phận con người để mô tả, phản ánh những nỗi niềm,
những tâm sự, những đớn đau, bất hạnh bên cạnh những hạnh phúc. Đồng thời,
ông đã khẳng định được khả năng sáng tạo nghệ thuật của mình để tạo nên một
gương mặt thơ riêng, nổi lên trong dàn đồng ca chung, trong gương mặt chung

của đồng đội mà không lẫn nhòa. Ông tự tiến hành được cả một cuộc đi cho
mình, một cuộc đối thoại, trò chuyện với bạn đọc hôm nay mà không sợ nghèo,
không sợ nhạt, không sợ trùng lặp, không sợ vô bổ - đó mới là vấn đề đặt ra cho
thơ ca hôm nay, càng là vấn đề đặt ra cho thơ viết về số phận nhân dân mà Trần
Nhuận Minh giành cả tâm huyết, trí tuệ, tình cảm của mình vào trong đó.
Nếu như tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ được Trần Nhuận Minh hoàn thành
trong 15 năm cuối thế kỉ XX (1986 – 2001) thì sang đầu thế kỉ XXI, ông đã liên
tiếp cho ra đời 3 ba tập thơ: Bản Xô nát hoang dã (2003), 45 khúc đàn bầu của
kẻ vô danh (2007), Miền dân gian mây trắng (2008). Mỗi tập nhà thơ viết liền
một mạch, rõ ràng và liên tục với một cảm hứng riêng, say mê và nhất quán, lần
lượt được xuất bản trong mấy năm đầu của thế kỉ XXI. Các tập thơ của Trần
Nhuận Minh giai đoạn này đã tập trung viết về “đời sống thứ hai của con
ngƣời”. Ở đây khái niệm “Nhân Dân” được thay thế bằng khái niệm“Con
Ngƣời”. Cuộc đời với những chiêm nghiệm suy tưởng, đúc kết,…đã trở thành
hồn vía của hiện thực. Hiện thực ở đây không chỉ được nhìn nhận, thẩm thấu


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
bằng mắt, bằng tai…mà còn được thẩm thấu bằng cả tâm hồn, bằng cả đáy tâm
linh sâu thẳm, hư ảo, huyễn hoặc…Thật đúng như tác giả của “Ba lần định vị
cho thơ” đã viết: Cảm rõ vị đời, anh đã có một chỗ đứng cho câu hỏi: Ta vì ai?
Ta thuộc về ai? Rồi sẽ đến với anh câu hỏi: Ta là ai? sẽ đến với những bức
tranh nhân thế, không còn là tả thực mà hòa trộn với tâm linh, là sự cộng cảm
giữa cảnh đời và cảm nhận về đời, để đem lại cho thơ anh một sắc diện mới với
rất nhiều bâng khuâng”[6.32].
Cuộc sống hiện đại với bao sục sôi, cuộn chảy tới chóng mặt, nên nhiều
khi đã lướt qua cả những mảnh đời, những số phận nhỏ bé đầy thua thiệt của con
người. Trần Nhuận Minh thở dài khi nhận ra những vấn đề phức tạp, đầy sự đối

lập, đầy mâu thuẫn luôn tồn tại bên nhau, luôn lấn át nhau…trong cuộc sống
hôm nay:
Khi hai bờ xa nối đƣợc với nhau bằng một cây cầu
Thì hồn vía con sông hoàn toàn đổi khác
Tiếng giận hờn bên này
Sự lạnh lùng bên kia
Đều lấn sang nhau
Con sông mất giới tính
Chảy miên man về phía cuối chân trời…
(Bản Xô nát hoang dã)
Nhưng ông vẫn thành tâm:
Ta giáng sinh vào tâm hồn của Cây
Cho mùa thu hiu hiu buồn trong lá
Ta giáng sinh vào trí tuệ của Đất
Để đêm xuân râm ran tiếng côn trùng.
(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)
Với một trái tim nhạy cảm, đặc biệt là trước những nỗi buồn, bất hạnh
của con người, thơ Trần Nhuận Minh vẫn ánh lên niềm tin vào những điều tốt


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
đẹp và cất lên lời tâm sự mang tính khuyên răn nhân thế, hãy biết yêu thương,
giúp đỡ, trân trọng con người:
Tiền giúp ngƣời nghèo là tiền Ông Trời vay
Ông sẽ trả con ta gấp đôi, cháu ta gấp ba khi ta nằm dƣới mộ
(Miền dân gian mây trắng)
Và ngƣời trồng cây phúc
Thì quả phúc đầy vƣờn

(Bản Xô nát hoang dã)
Đó là một điều đáng quý, đáng trân trọng ở nhà thơ “dân gian” mà “bác
học” này.
Từ Trình bày rồi Đá cháy, đến Bừng thức, Vô thức, Tự thuật, Trần
Nhuận Minh đã ba lần định vị cho thơ – hay nói cách khác đi là 3 lần tự nhận
thức về vai trò, chức năng của thơ, của nhà thơ trong cuộc sống thời kì hiện đại.
Có thể thấy rằng ở mỗi chặng đường sáng tác, Trần Nhuận Minh đều rất
có ý thức tự đổi mới mình, tự đổi mới sự nhận thức của mình về thơ, về nhà thơ,
với khát vọng là: góp thêm tiếng nói của mình vào công cuộc đổi mới văn
chương, góp thêm một tiếng thơ để phản ánh hiện thực cuộc sống với tính chất
phức tạp, đa chiều của nó, với sự vận động không ngừng của nó ở cả hai phía:
tích cực và tiêu cực, tươi sáng và ẩn khuất.
Như vậy trong nửa thế kỉ sáng tạo nghệ thuật, Trần Nhuận Minh đã tạo
dựng cho mình cả một hành trình thơ, trong đó có những tập thơ bề thế, nhiều
tầng, nhiều vỉa trên cả phương diên nội dung và nghệ thuật. Mỗi một giai đoạn
sáng tác, là một lần Trần Nhuận Minh tự đổi mới tư duy nghệ thuật của mình.
Một đời thơ ba lần định vị và mỗi lần đều có những sáng tạo đáng được
trân trọng, được ghi nhận trong cuộc sống thơ ca Việt Nam, đặc biệt là trong đời
sống văn học Quảng Ninh. Trần Nhuận Minh xứng đáng là cánh chim đầu đàn
trong lĩnh vực hoạt động văn học nghệ thuật, trở thành nhà thơ tiêu biểu của
vùng công nghiệp mỏ than Đông Bắc của Tổ Quốc. Có thể lấy lời đánh giá của


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi ( Tuyển tập thơ Việt Nam thế kỉ XX, NXBGD, 2005) về
tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ để khẳng định vị trí của Trần Nhuận Minh trong nền
thi ca hiện đại Việt Nam như sau: “Trần Nhuận Minh không hề né tránh một sự
thật nào, dù là đau đớn kinh hoàng đến đâu. Tập thơ đã đƣợc tái bản (…) lần

đƣa Trần Nhuận Minh lên vị trí hàng đầu trong số những nhà thơ thời chống Mĩ
cứu nƣớc”.
1.3. Quan niệm về nghệ thuật của nhà thơ Trần Nhuận Minh
1.3.1. Quan niệm của Trần Nhuận Minh về sứ mệnh của thi ca với hiện
thực cuộc sống
Trong 50 năm cầm bút, thơ Trần Nhuận Minh luôn đồng hành cùng dân
tộc trên những chặng đường đầy cam go và thử thách. Ông luôn “áp mặt vào đời
để gợi thức và đánh động lƣơng tâm” nhằm phản ánh một cách trung thực hiện
thực cuộc sống. Theo ông, “Văn học có chức năng phản ánh hiện thực, điều ấy
không có gì phải bàn. Cái có điều để bàn là hiện thực là gì, hiện thực đó đƣợc
nhìn bằng con mắt mở hay con mắt khép, thậm chí không nhìn bằng mắt. Rồi
hiện thực đó đƣợc phản ánh qua thể loại nào, ở đây hiện thực của thơ không
giống với hiện thực của tiểu thuyết, không phải ở dung lƣợng mà ở bản chất của
nó, dù cùng một tác giả viết cùng một phƣơng pháp sáng tác”[2.2]. Đối với Trần
Nhuận Minh, hiện thực cuộc sống cần phải được nhìn nhận bằng con mắt đa
chiều, cho nên những va đập của cuộc đời, những đổi thay theo guồng xoáy của
thời cuộc đều được ông nắm bắt bằng cảm quan hiện thực nhạy bén. Sự thật với
khuôn mặt đích thực của nó, đang là mục tiêu kiếm tìm của văn học và không
thể đổ lỗi cho sự thật nếu cuộc sống đang ẩn chứa và hiện hữu những sự thực đó.
Chỉ có thể đổ lỗi cho văn học nếu sự thật trong tác phẩm là nhạt nhẽo, gầy guộc,
hoặc chỉ là sự vờn quanh, là nửa vời, hoặc không đầy đủ. Nếu như trước đây,
người viết còn phải đắn đo trước việc phản ánh hiện thực với những sự thật chưa
đầy đủ, chưa đa chiều vì một lí do khách quan hoặc chủ quan nào đó, thì bây giờ
sự đắn đo, tránh né hiện thực với những sự thật đa chiều phong phú, phức tạp


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
của nó lại là một sự thiếu bản lĩnh hoặc vô trách nhiệm của nhà văn. Và, Trần

Nhuận Minh đã không đắn đo, ngại ngần khi đưa ra một tuyên ngôn trong sáng
tác của mình là: “Hãy áp tải sự thật – Đến những bến cuối cùng” (Nhà thơ áp
tải). Đây chính là một thái độ dứt khoát đầy trách nhiệm của nhà thơ đất mỏ này
đối với hiện thực xã hội.
Ở từng thời kì sáng tác, Trần Nhuận Minh luôn có ý thức cố gắng làm
mới mình trong nghệ thuật để khỏi bị trùng lặp với người khác hay khỏi trùng
lặp với chính mình. Ông luôn đặt ra cho mình một nguyên tắc đó là lấy hiện
thực cuộc sống làm trung tâm để làm đối tượng phản ánh trong thơ. Tuy nhiên
đó là hiện thực gì? Phản ánh như thế nào – nhằm mục đích gì? Thì lại luôn là
vấn đề mà ông luôn trăn trở, kiếm tìm câu trả lời thích đáng.
Như đã biết, mục đích quan trọng nhất của văn học nghệ thuật là phản ánh
nhận thức, khám phá hiện thực đời sống con người theo quy luật vận hành của
xã hội để có thể phản ánh được những điều cơ bản nhất của thời đại. Muốn vậy,
thơ ca phải bám sát vào hiện thực phản ánh được những vấn đề thuộc về bản
chất của hiện thực, của thời đại. Thơ Trần Nhuận Minh đã minh chứng cho loại
thơ ca bám sát vào từng chặng đường lịch sử của đất nước, cho nên thơ ông
“không bao giờ né tránh một sự thật nào, cho dù sự thật đó có đau đớn đến kinh
hoàng” [25.218]. Tuy nhiên, trong cả một thời gian dài trước Đổi mới (1986)
với cơ chế bao cấp (trong đó có cả bao cấp trong tư tưởng, trong đời sống văn
học nghệ thuật) - thơ Trần Nhuận Minh cũng như thơ của các tác giả khác đã
chịu ảnh hưởng sâu sắc của sự “bao cấp” trong sáng tạo nghệ thuật. Ông cũng
bám rất chắc vào hiện thực cuộc sống, cũng đã phản ánh một cách chân thực
cuộc sống – nhưng đó mới chỉ là một mặt của hiện thực chứ chưa phải là tất cả
các mặt của nó, nhất là các góc khuất tối sau lưng nó. Vì vậy sau năm 1986, với
sự đổi mới tư duy trong sáng tạo nghệ thuật, Trần Nhuận Minh đã mau chóng
phát hiện ra điều đó ở mình trong các sáng tác thuộc thời gian trước đây. Ông đã
nhận ra và dũng cảm quyết tự đổi mới mình, đã vượt qua chính mình để tiếp tục


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


23
sáng tạo nghệ thuật dưới một cách nhìn nhận, cách phản ánh mới đa chiều,
phong phú hơn, và vì thế mà chiều sâu hiện thực cũng được phản ánh sinh động,
cụ thể hơn. Ông đã từng tâm sự: “Hiện thực đất nƣớc hôm nay là những biểu
hiện của một xã hội đang vận hành trong cơ chế thị trƣờng, từng bƣớc hội nhập
với thế giới, với tất cả những mảng sáng, tối của nó. Nói thật gọn, tôi rất quan
tâm tới mảng hiện thực này. Vì nó đang tác động rất ráo riết đến đời sống của
cả xã hội và của tất cả mọi ngƣời”[34.2]. Xét trong cả quá trình, hiện thực trong
sáng tác của Trần Nhuận Minh được phản ánh như sau:
Thời kì trước 1986: đó là hiện thực cuộc sống của nhân dân, đặc biệt là
của công nhân (vùng mỏ) trong sự nghiệp xây dựng đất nước và đấu tranh giải
phóng miền Nam. Thế giới nhân vật của ông là những chàng trai, cô gái trẻ
trung, phới phới, yêu đời, hăng say lao động, hi sinh tất cả vì vùng mỏ thân yêu,
vì tương lai đất nước; cuộc sống thường ngày của họ tuy còn vất vả, thiếu thốn
nhưng tràn đầy niềm vui, đầy sự yêu thương, xẻ chia của cộng đồng. Trần
Nhuận Minh đã từng phát biểu về hiện thực cuộc sống mà tác giả phản ánh trong
giai đoạn này cụ thể: “Giai đoạn này, tôi viết để phục vụ nhiệm vụ chính trị
trƣớc mắt. Nghĩa là viết về cái mà cuộc sống cần mình. Chủ đề tƣ tƣởng là cái
nhiệm vụ chính trị cần phải đạt đến. Nội dung hiện thực là thực tế nó cần phải
xẩy ra, còn nó có xẩy ra thật hay không, điều đó không quan trọng. Tôi nghĩ cả
một nền thơ của một giai đoạn lịch sử đã đƣợc viết trong quan điểm đó, rất
trong sáng và chân thành. Chính vì thế mà “Toàn đất nƣớc có chung tâm hồn,
có chung gƣơng mặt”(Chế Lan Viên)[4.18]. Nhưng đó là hiện thực của những
năm trước 1975. Sau chiến thắng năm 1975, trong niềm vui lướn lao của dân
tộc, Trần Nhuận Minh cùng một số các nhà thơ, nhà văn khác đã có một sự linh
cảm về những khó khăn, gian lao mới, cam go và ác liệt mới…mà nhân dân sẽ
phải gánh chịu, bởi sau sự tàn phá của chiến tranh với bao hậu quả ghê gớm của
nó để lại cho dân tộc; bởi sự thay đổi cơ chế quản lí, từ cách quản lí xã hội trong
thời chiến, sang quản lí xã hội thời bình với bao sự mới mẻ, lạ lẫm, đầy khó

×