Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

nghiên cứu trồng và sử dụng bột cỏ stylo trong chăn nuôi gà thịt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761.51 KB, 105 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1









































ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





PHẠM THỊ GỘI





NGHIÊN CỨU TRỒNG VÀ SỬ DỤNG BỘT CỎ
STYLO TRONG CHĂN NUÔI GÀ THỊT









LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP









TH¸I NGUY£N - 2010


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2








































MỞ ĐẦU
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM






PHẠM THỊ GỘI



NGHIÊN CỨU TRỒNG VÀ SỬ DỤNG BỘT CỎ
STYLO TRONG CHĂN NUÔI GÀ THỊT

CHUYÊN NGÀNH: CHĂN NUÔI
Mã số: 60 62 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. TS. Trƣơng Hữu Dũng
2. PGS.TS. Phan Đình Thắm






Thái nguyên - 2010




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc sản xuất bột cỏ, bột lá thực vật và phối hợp chúng vào thức ăn hỗn
hợp của gia súc gia cầm đƣợc thực hiện nhiều trên thế giới đặc biệt là các
nƣớc đang phát triển, bởi vì bột lá thực vật không chỉ có tác dụng nâng cao
khả năng sinh trƣởng, khả năng sản xuất của vật nuôi, mà còn góp phần hạ giá
thành sản phẩm. Ở một số nƣớc trên thế giới việc sản xuất bột lá thực vật đã
trở thành một ngành công nghiệp chế biến bột lá thực vật nhƣ: Thái Lan, Ấn
Độ…. Qua nhiều nghiên cứu ở trên thế giới và trong nƣớc, nhiều nhà khoa
học đã kết luận rằng khi cho vật nuôi ăn bột lá thực vật thì khả năng sinh
trƣởng và sản xuất cao hơn và mức độ an toàn thực phẩm cao hơn so với sử
dụng các chế phẩm để tạo màu khác . Thƣ́ c ăn chiế m trên 72% giá thành sản
phẩ m chăn nuôi và cà ng ngà y nó cà ng ả nh hƣở ng rấ t nhiề u đế n chấ t lƣợ ng , an
toàn thực phẩm cho con ngƣời và an toàn môi trƣờng si nh thá i. Mặ c dù quan
trọng nhƣ vậy , nhƣng đế n nay , các nghiên cứu tìm ra các loại cây thức ăn có
tiềm năng để sản xuất bột lá, bột cỏ cho chăn nuôi chƣa nhiều.
Stylo là cây họ đậu, là loại cây thích nghi tốt với khí hậu nhiệt đới, ít
sâu bệnh, có khả năng thích ứng rộng, chịu đƣợc khô hạn và ngập úng tạm
thời, thích hợp với đất nghèo dinh dƣỡng và chua, dễ nhân giống. Cỏ đƣợc sử

dụng làm nguồn thức ăn cho gia súc chất lƣợng cao do giàu protein (24%).
Ngoài ra, nó còn đƣợc trồng xen với cây ăn quả, chè, cà phê để cải tạo đất,
che phủ đất và chống xói mòn. Đối với trâu bò, lợn thì ngƣời ta đã chế biến
thành bột và sử dụng nó cho những đối tƣợng này. Tuy nhiên, số liệu về việc
nghiên cứu sản xuất và bổ sung bột cỏ stylo cho vật nuôi hiện nay còn rất ít,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
và đặc biệt cho gia cầm. Xuất phát từ thực tiễn trên chúng tôi tiến hành đề tài:
“Nghiên cứu trồng và sử dụng bột cỏ Stylo trong chăn nuôi gà thịt”.
2. Mục tiêu đề tài
- Xây dựng đƣợc quy trình trồng cỏ stylo đạt năng suất cao.
- Xác định đƣợc tỷ lệ bổ sung bột cỏ stylo thích hợp vào khẩu phần ăn
của gà thịt.
3. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài sau khi hoàn thành sẽ có thông tin đầy đủ về ảnh hƣởng của các mức
phân bón đến năng suất chất xanh, chất lƣợng của cỏ Stylosantheis CIAT 184. Vai
trò, tác dụng của bột cỏ này đối với năng suất và chất lƣợng thịt gia cầm.
Đồng thời, có thêm công thức thức ăn hỗn hợp với mức bổ sung bột cỏ
Stylo hợp lý trong chăn nuôi gà thịt.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu sẽ áp dụng vào thực tế chăn nuôi tại cơ sở, góp
phần đƣa giống cỏ này vào sản xuất đại trà, tăng nhanh số lƣợng. Cung cấp
thông tin cho ngƣời chăn nuôi sử dung bột cỏ vào khẩu phần ăn cho gà thịt,
nhằm nâng cao chất lƣợng thịt gà đáp ứng thị hiếu ngƣời tiêu dùng và hạ giá
thành sản phẩm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Một số đặc điểm sinh vật học của cỏ stylo
1.1.1 Nguồn gốc
Đây là một loại cỏ thuộc bộ đậu, có nguồn gốc từ châu Mỹ La Tinh. Cỏ
đƣợc trồng phổ biến ở Tây Ấn Độ, Hawii, và một số nƣớc châu Phi nhƣ
Kenya, Uganda, Nigieria. Stylosanthes phân bố tự nhiên ở Trung và Nam
Mỹ, từ Brasil nhập vào Australia những năm 1930, nhƣng sau chiến tranh thế
giới lần thứ II mới đƣợc chú ý đến. Đây là loại cây thức ăn gia súc đƣợc phát
triển đáng kể ở nhiệt đới và cận nhiệt đới, đã nhập vào nhiều nƣớc nhƣ:
Malaysia, Công - gô, Nam Trung Quốc. Ở Việt Nam, cây cỏ stylo nhập vào
lần đầu vào năm 1967 từ Singapore, Australia.
Các giống stylo đang gieo trồng:
Stylosanthes guianensis (common stylo): cây lâu năm
Stylosanthes hamata (Caribbcan stylo): cây hàng năm
Stylosanthes scabra (Shrubby stylo): cây lâu năm
Stylosanthes humilis (Townsville stylo): cây hàng năm
1.1.2. Đặc điểm sinh vật học của cỏ Stylo
Stylo là cỏ lâu năm, có loại hàng năm, thân thô, đứng hoặc bò, cao tới
1m, ở khí hậu ẩm có thể tới 1,5m. Có khả năng ra rễ ở thân, khi già thƣờng
chuyển màu xanh sẫm hoặc tím. Bộ rễ ăn sâu dƣới đất đến 70 phân. Rễ phát
triển cả chiều sâu lẫn chiều rộng nên có khả năng chịu hạn, chịu úng ngập,
chống xói mòn rất tốt. Lá chẻ ba, dài hẹp và nhọn, đầu tày; có lông, có nhiều
hoặc ít lông mềm. Lá dài 2 - 3cm rộng 5 - 10mm, tỷ lệ lá/thân = 5/7. Loài
nhập nội không có vòi cuốn. Những chồi thẳng có đốt ngắn, lá nhiều hơn cành


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
ngang, hoa hình bông cuốn không sát nhau, thƣờng có 70 - 1200 chùm, trên
mỗi chùm có 5 - 9 hoa. Qủa đậu không có cuống, gồm 7 - 8 hạt có vỏ cứng,
màu xám đen trọng lƣợng 1000 hạt khoảng 5 - 6 gam. Cây non mới mọc từ
hạt phát triển chậm, dễ rụng lá và bị sâu hại trong 3 - 4 tháng đầu sau khi
gieo. Nếu gieo vào cuối mùa khô thì sau khi gieo cây non phát triển nhanh, 5 -
6 tháng cây cao 1m hay hơn.
Cỏ Stylo là loại cây bộ đậu thích nghi tốt với khí hậu nhiệt đới. Là cây
có khả năng thích nghi rộng với các vùng sinh thái, yêu cầu lƣợng mƣa từ
1500 - 2500mm. Cỏ có thể sống đƣợc ở những vùng có lƣợng mƣa trung bình
khoảng 890 mm. Tuy nhiên, với lƣợng mƣa 650mm cây vẫn có thể sống đƣợc
nhƣng sinh trƣởng rất kém. Độ ẩm không khí thích hợp là 70 - 80%. Cỏ Stylo
cũng có thể chịu đƣợc ngập tạm thời, ở những nơi quá ẩm năng suất cỏ
cũng bị giảm. Cỏ Stylo phát triển tốt khi nhiệt độ không khí trong khoảng
20 - 35
0
C. Nhiệt độ thích hợp cho cỏ Stylo sinh trƣởng phát triển là 15,5
0
C.
Khi nhiệt độ dƣới 5
0
C và trên 40
0
C cây phát triển kém. Khi thiếu ánh sáng cỏ
Stylo bị giảm năng suất. Cỏ Stylo có thể mọc đƣợc trên nhiều loại đất khác
nhau: chua nghèo dinh dƣỡng và có thể trồng xen với các cây ăn quả, chè, cà
phê. Cũng nhƣ các loại cây bộ đậu khác, cỏ Stylo là nguồn thức ăn tƣơi xanh
giầu đạm để bổ sung và nâng cao chất lƣợng khẩu phần thức ăn cho gia súc

nhai lại. Cỏ Stylo có khả năng thích ứng rộng và dễ nhân giống, có thể vừa
trồng bằng hạt, vừa trồng bằng cành giâm. Cỏ Stylo phù hợp với chân ruộng
cao và là loại cây chịu đƣợc khô hạn, không chịu đƣợc đất bị úng ngập. Đây
là loại cỏ có khả năng chịu bóng kém, vì vậy không nên trồng dƣới tán các
cây khác. Cỏ này có thể thích nghi với nhiều loại đất. Nó có thể phát triển
đƣợc trên đất axít và có khả năng chịu úng tƣơng đối tốt. Cỏ có khả năng chịu
giẫm đạp nên có thể dùng để chăn thả tuy nhiên chỉ ở mức chăn thả vừa phải,
thƣờng thì đậu stylo đƣợc gieo xen với cỏ ghinê hay pangola để chăn thả [72].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Cỏ Stylo rất ít bị sâu bệnh và có thể phát triển trên nhiều loại đất, ngay
cả ở vùng đất đồi cao. Chính vì vậy, ngoài tác dụng làm nguồn thức ăn chất
lƣợng cao cho gia súc nó còn đƣợc trồng để cải tạo đất và che phủ đất, chống
xói mòn. Năng suất xanh đạt 40 - 50 tấn/ha/năm. Năng suất chất xanh của cỏ
Stylo đạt từ 25 - 60 tấn/ha (5 - 14,5 tấn chất khô/ha/năm). Hàm lƣợng các chất
dinh dƣỡng: vật chất khô 23 - 24%, đạm thô 17 - 18%, xơ thô 28 - 31%,
khoáng tổng số 8 - 10%, mỡ 1,55%. Với thành phần dinh dƣỡng nhƣ vậy cây
Stylo là nguồn thức ăn bổ sung protein rất có giá trị cho gia súc ăn cỏ đặc biệt
là có khả năng chế biến thành bột cỏ (Lê Đức Ngoan và Cs) [36].
1.2. Cơ sở lý luận của việc trồng và đánh giá giống cỏ
Trong quá trình nghiên cứu để đánh giá một giống cỏ tốt hay không
tốt trƣớc khi đƣa vào sản xuất ngƣời ta thƣờng căn cứ vào một số yếu tố
chính sau:
1.2.1. Năng suất chất xanh
Năng suất chất xanh là toàn bộ khối lƣợng chất xanh thu đƣợc trên một
đơn vị diện tích.
Nhƣ chúng ta đã biết, cơ thể thực vật và ngoại cảnh có mối quan hệ hết
sức khăng khít. Khi điều kiện ngoại cảnh thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi quá

trình trao đổi chất và khả năng tích luỹ chất khô, làm thay đổi thành phần hoá
học của thực vật. Những điều kiện ngoại cảnh và các yếu tố khác ảnh hƣởng
đến năng suất chất lƣợng của cỏ đó là:
* Điều kiện khí hậu
Khí hậu bao gồm lƣợng mƣa và sự phân bố lƣơng mƣa, ẩm độ không
khí, cƣờng độ chiếu sáng và thời gian chiếu sáng trong năm. Những yếu tố
này có ảnh hƣởng lớn đến sản lƣợng và chất lƣợng cây trồng.
Ánh sáng cung cấp năng lƣợng để thực vật quang hợp. Cƣờng độ ánh
sáng và thời gian chiếu sáng có ảnh hƣởng quyết định tới năng lƣợng nhận
đƣợc của cây trồng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
Nhiệt độ cần cho sự sinh trƣởng và phát triển của cỏ. Nhiệt độ quá cao
làm cho thực vật bốc hơi mạnh, làm cho cỏ khô héo. Nhiệt độ quá thấp làm
cho các mạch dẫn các chất dinh dƣỡng co lại. Các hệ thống men hoạt động
kém, cây không phát triển đƣợc.
Ẩm độ đất và không khí liên quan chặt chẽ đến lƣợng mƣa, ẩm độ đất
ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển của bộ rễ cỏ và khả năng hút các chất dinh
dƣỡng. Ngoài ra nó còn quyết định đến sự phát triển của vi sinh vật đất và độ
tơi xốp của đất.
* Điều kiện đất đai
Trong điều kiện nhiệt đới, môi trƣờng đất là yếu tố quyết định năng suất
và chất lƣợng cỏ. Đất là nguồn cung cấp chất dinh dƣỡng cho cây trồng, do đó
tính chất vật lý cấu tƣợng đất sẽ ảnh hƣởng đến độ ẩm đất, sự hấp thu các chất
dinh dƣỡng, sự phát triển của các hệ vi sinh vật trong đất và ảnh hƣởng tới
năng suất cây trồng.
Đất giầu mùn, tỷ lệ cát, sét, sỏi thấp, rễ cỏ sẽ phát triển nhanh, mạnh, hệ
vi sinh vật hoạt động tốt sẽ cho năng suất cao, phẩm chất tốt.

Kết cấu đất có ảnh hƣởng lớn đến cây trồng. Tỷ lệ mùn, cát, sét, sỏi đá
khác nhau thì sẽ tạo ra đất có kết cấu khác nhau. Đất nhiều mùn, sét, cát, sỏi đá
thấp thì đất tƣơi xốp và vi sinh vật phát triển mạnh thuận lợi cho cây phát triển,
còn đất có hàm lƣợng sét quá nhiều thì đất dí chặt rễ cây kém phát triển [17].
* Điều kiện phân bón
Phân bón là nguồn bổ sung cung cấp chất màu cho đất. Lƣợng phân bón
cung cấp cho cây trồng nhiều hay ít và các loại phân bón khác nhau sẽ ảnh
hƣởng tới quá trình sinh trƣởng và phát triển, qua trình trao đổi chất của cây
trồng. Từ đó sẽ dẫn tới sự khác nhau về năng suất, sản lƣợng, thành phần dinh
dƣỡng. Các nhà khoa học đã khẳng định “ Phân bón quyết định trên 50% việc
tăng năng suất cây trồng”.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Bón đầy đủ các chất dinh dƣỡng và khoáng vi lƣợng theo yêu cầu của
cây sẽ làm tăng năng suất cây trồng, tăng lƣợng vật chất khô trong cây, đặc
biệt là các nguyên tố khoáng, điều đó gián tiếp làm tăng năng suất chăn nuôi.
Khi sử dụng phân bón P. K và N. P. K làm tăng năng suất lên tƣơng ứng 33
và 70%. Phân bón P. K rải một lần trong năm có tác dụng trong cả năm làm
tăng năng suất cỏ so với không bón phân. Ngƣợc lại, sự tăng năng suất do nitơ
chỉ xảy ra ngay sau khi bón phân một thời gian ngắn. Chính vì vậy, ngƣời ta
sử dụng đạm một cách hợp lý bằng cách bón rải ra sau các lứa cắt, chu kỳ
chăn thả để làm cân bằng năng suất cỏ trong cả năm để khắc phục tình trạng
mùa do điều kiện thời tiết gây nên.
+ Phân chuồng (phân hữu cơ): là loại phân không thể thiếu đối với cây
trồng. Bón phân hữu cơ là biện pháp quan trọng cảì thiện tính chất, tăng độ
phì của đất, tạo tiềm năng cho năng suất cao. Thành phần phân chuồng có
chứa nhiều nguyên tố dinh dƣỡng bao gồm dinh dƣỡng đa lƣợng, trung lƣợng
và vi lƣợng, giúp cho cây trồng phát triển cân đối hơn. Để đảm bảo năng suất

cây trồng tăng, đất không bị suy kiệt dinh dƣỡng và nền sản suất bền vững thì
sử dụng phân chuồng là điều hết sức cần thiết.
+ Phân đạm: Chỉ tiêu đạm tổng số thể hiện tổng số đạm có trong đất.
Trong điều kiện bình thƣờng 98% đạm tổng số nằm ở dạng hữu cơ. Đạm hữu
cơ trong đất chủ yếu là do vi sinh vật phân giải các protit thực vật, còn đạm
vô cơ đƣợc phân giải từ đạm hữu cơ. Cho nên khi đánh giá hàm lƣợng đạm
trong đất ngƣời ta đánh giá chủ yếu thông qua hàm lƣợng đạm tổng số và đạm
dễ tiêu trong đất. Đạm dễ tiêu là đạm ở dạng vô cơ gồm Amôniac, Nitrat,
Nitric (NH
3
, NO
-
3
, NO
2
- -
) và đƣợc gọi là đạm dễ tiêu vì cây hút đạm trong
đất chủ yếu ở dạng này.
Sản phẩm chính của cỏ là thân và lá do vậy mà đạm là yếu tố không thể
thiếu khi sản suất. Tuy nhiên khi bón đạm cho cỏ cần bón vừa phải, cân đối
thì sẽ làm tăng năng suất, tăng hàm lƣợng đạm tổng số trong cây, giảm hàm
lƣợng xơ, gia súc dễ ăn và tăng tính ngon miệng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Nếu bón nhiều đạm sẽ có hiện tƣợng cây tích luỹ nhiều Alcaloit,
Glucozit làm cho cỏ có vị đắng giảm tính ngon miệng của gia súc. Biến không
khí thành phân đạm - thiên nhiên đã làm đƣợc nhƣ thế từ cây họ đậu. Ngoài
cây họ đậu, tảo lam cũng có khả năng cố định đạm.

Khả năng cố định đạm sẽ không thể nếu nhƣ không có mặt của các vi
sinh vật cố định đạm. Trong đó, vi khuẩn nốt sần thuộc loại hiếu khí không
tạo bào tử có thể đồng hoá nhiều nguồn cacbon khác nhau, pH thích hợp 6,5 -
6,9, nhiệt độ phát triển thích hợp là 24 - 26
0
C. Vi khuẩn nốt sần xâm nhập vào
rễ cây họ đậu thông qua lông hút, đôi khi thông qua vết thƣơng.
Nốt sần thích hợp ở các điều kiện: Độ ẩm cuả đất 60 - 70 %; độ thoáng
khí: càng nhiều càng tốt, điều này cho thấy rễ càng sâu lƣợng nốt sần càng
kém; pH thích hợp là 4,6 - 8,0; Phân đạm thƣờng ức chế tạo thành nốt sần;
Phân lân, kali có tác dụng tích cực; Phân canxi, magie và các muối khác cũng
có tác dụng tốt đến quá trình taọ thành nốt sần.
+ Phân lân: Tỷ lệ lân cao trong hạt thấp hơn trong lá, tỷ lệ lân trong cây
bộ đậu cao hơn trong cây hoà thảo. Trong cây, lân chủ yếu nằm dƣới dạng
hữu cơ, chỉ có một lƣợng nhỏ nằm dƣới dạng vô cơ. Tỷ lệ lân trong đất biến
động trong phạm vi từ 0,03 - 0,12%. Ở một số đất hình thành trên đá mẹ giàu
lân, tỷ lệ lân tổng số lên tới 0,6%. Các dạng lân trong đất gồm các dạng lân
hữu cơ và dạng vô cơ.
Lân vô cơ đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành hệ thống đệm
trong tế bào và là nguồn dự trữ cần thiết cho việc tổng hợp lân hữu cơ. Lân
hữu cơ rất đa dạng, đóng vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi chất, hút
các chất dinh dƣỡng và vận chuyển các chất đó trong cây.
+Phân Kaly: Kaly làm tăng vai trò quang hợp của lá, tăng cƣờng sự
hình thành bó mạch, làm cho cây cứng cáp, góp phần vào việc chống đổ,
chống lốp cho cây trồng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Kaly còn kích thích hoạt động của các men do đó làm tăng cƣờng hoạt

động của trao đổi chất trong cây, tăng cƣờng sự hình thành acid hữu cơ, làm
cho cây tăng cƣờng tổng hợp protit. Ngoài ra kaly còn tăng khả năng chống
rét cho cây và tăng sức đẻ nhánh cho cây.
* Thời gian thu cắt
Theo Vũ Duy Giảng và Cs (1997)[7], thức ăn xanh cần thu hoạch đúng
thời vụ để đảm bảo giá trị dinh dƣỡng cao. Nếu thu hoạch sớm ít xơ, nhiều
nƣớc, hàm lƣợng vật chất khô thấp. Ngƣợc lại nếu thu hoạch quá muộn hàm
lƣợng nƣớc giảm, vật chất khô tăng nhƣng chủ yếu tăng chất xơ, còn lipit và
protein giảm.
Thời gian thu cắt có ảnh hƣởng lớn đến sản lƣợng và chất lƣợng của cỏ.
Nếu cắt quá ít lần/năm thì cỏ sẽ bị già dẫn đến chất lƣợng kém và ảnh hƣởng
tới lứa tái sinh sau, ảnh hƣởng tới sản lƣợng cỏ/năm. Nếu cắt quá nhiều
lứa/năm, cỏ chƣa đủ thời gian tích luỹ các chất dinh dƣỡng nuôi cây, bộ rễ
phát triển kém hoặc bị teo đi ít nhiều, đất trồng rễ bị xói mòn, rửa trôi dinh
dƣỡng đồng cỏ chóng bị thoái hoá, năng suất, chất lƣợng giảm.
Xác định thời điểm thu cắt hợp lý sẽ khắc phục đƣợc cả hai vấn đề trên.
Cỏ mềm tỷ lệ tiêu hoá của gia súc cao, hàm lƣợng Protein thô trong vật chất
khô của cỏ sẽ cao hơn và cỏ có khả năng tái sinh tốt. Thời gian thu cắt phụ
thuộc vào các giống cỏ và mùa vụ.
Theo Nguyễn Khánh Quắc và Cs (2002) [39], thời gian thu cắt của Cỏ
Stylosanhtes gracilis HBK, sau khi trồng 4 - 5 tháng, cây cao 50 - 60 cm cắt
lứa đầu, lứa đầu không để già. Cắt lần khác sau 60 - 70 ngày ( vụ hè thu) và
90 - 100 ngày (vụ đông xuân). Đối với cỏ Stylo thì thu hoạch lứa đầu khi cỏ
trồng đƣợc 3 - 4 tháng, khi thảm cỏ đã phủ kín đất và cao thảm 50 - 70 cm.
Các lứa tái sinh cần đƣợc thu cắt khi thảm cỏ đƣợc 60 - 80 ngày tuổi và có độ
cao 45 - 55cm (nếu thu cắt chất xanh) và độ cao 35 - 45 cm cho chăn thả gia
súc. Chỉ nên chăn thả gia súc khi thảm cỏ đã thu cắt chất xanh đƣợc 2 lứa.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10
* Chiều cao của gốc sau khi thu cắt
Chỉ tiêu này cũng ảnh hƣởng đến việc tăng sản lƣợng và chất lƣợng của
giống cỏ. Khi cắt cỏ quá cao sẽ làm giảm sản lƣợng cỏ, vì phần để lại, còn khi
cắt cỏ quá thấp, thì sẽ ảnh hƣởng tới các lần tái sinh sau do làm mất phần thân
gần gốc là cơ quan dự trữ chất dinh dƣỡng cơ bản để nuôi rễ và toàn bộ lá,
không tạo ra các chất hữu cơ mới đƣợc. Tuỳ thuộc vào từng loại giống cỏ, mà
có độ cao gốc để lại sau khi cắt khác nhau.
Theo Nguyễn Khánh Quắc và Cs (2002) [39] cho biết độ cao gốc để
lại: Đối với cỏ Pangola thì cắt cỏ sát mặt đất, độ cao còn lại không quá 2 cm.
Cỏ họ đậu lâu năm (Cỏ Stylosanhtes gracilis KBK) thì cắt lần một cách gốc
10 - 15 cm, các lần sau cắt cách gốc 20 - 25 cm, cắt trên phần thân đã hoá gỗ
1 - 2cm và phải còn lại một ít lá xanh. Theo Nguyễn Thị Mùi và Cs (2008)
[33] thì độ cao cắt cỏ Stylo là 17 - 20 cm.
Đối với cỏ Stylo, độ cao của gốc cỏ còn lại sau khi thu hoạch khoảng 20
- 25 cm là thích hợp cho khả năng mọc tái sinh lại của cỏ [90].
* Cơ sở để đánh giá chất lượng giống cỏ
Chất lƣợng của các giống cỏ đƣợc đánh giá bằng thành phần hoá học có
trong giống cỏ đó. Đây là một chỉ tiêu hết sức quan trọng không thể thiếu khi
nghiên cứu đánh giá một giống cây thức ăn. Trên cơ sở đó giúp cho các nhà
chăn nuôi tính toán khẩu phần ăn cho gia súc gia cầm một cách hợp lý để
chúng sinh trƣởng phát triển tốt. Thành phần hoá học có trong giống cỏ chủ
yếu tập trung ở 3 chỉ tiêu: Vật chất khô (VCK), protein và xơ.
Đậu đỗ thức ăn gia súc ở nƣớc ta thƣờng giàu protein, vitamin và
khoáng, Ca, Mg, Mn, Zn, Cu, Fe, nhƣng ít phốt pho, kali hơn cỏ hoà thảo.
Tuy vậy, hàm lƣợng protein thô trong thân lá cây đậu đỗ trung bình 167g/kg
vật chất khô, xấp xỉ giá trị trung bình của đậu đỗ nhiệt đới và thấp hơn giá trị
của đậu đỗ ôn đới (175g/kg vật chất khô), hàm lƣợng chất khô 200 - 260 g/kg
thức ăn, giá trị năng lƣợng cao hơn cỏ hoà thảo [16].


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Một giống cây thức ăn tốt là giống cho năng suất vật chất khô và năng
suất protein cao, tỷ lệ xơ trong thức ăn thấp, trong đó chỉ tiêu protein đƣợc
chú trọng nhiều hơn cả. Ngoài ra, thức ăn thực vật là nguồn cung cấp hàm
lƣợng caroten là chủ yếu cho gia súc gia cầm. Các giống cây họ đậu bao giờ
cũng cho giá trị dinh dƣỡng cao hơn cây thức ăn hoà thảo. Điều này đƣợc thể
hiện qua nghiên cứu của nhiều tác giả [23].
1.3. Bột cỏ - bột lá là một nguồn thức ăn cho vật nuôi
1.3.1. Nguồn thực vật có thể sản xuất bột lá
Trong tự nhiên, nguồn thực vật để sản xuất bột cho gia súc gia cầm rất
nhiều nhƣ: lá sắn, lá keo dậu, cỏ Stylo, bèo hoa dâu, lá và hạt cây so đũa, lá
mắm, rau cỏ…Thức ăn gia cầm, ngoài lƣợng ngô vàng có sẵn trong công thức,
thƣờng cần có thêm nguồn cung cấp sắc tố để làm vàng da, lòng đỏ trứng theo
thị hiếu ngƣời tiêu dùng. Tại các nƣớc ôn đới sử dụng nguồn bột cỏ chế biến từ
cỏ alfalfa (Medicago sativa). Đây là loại cỏ họ đậu (Leguminosacea), có hàm
lƣợng caroten cao, khoảng 270 - 300 mg caroten/kg bột cỏ, hàm lƣợng protein
thô 17% hoặc 20%, có mùi thơm và chứa nhiều vi khoáng, vitamin. Ở các
nƣớc nhiệt đới, bột cỏ thƣờng đƣợc chế biến từ các nguồn lá xanh khác nhƣ
bột lá bình linh (Leucaena leucocephala), cỏ Stylo (Stylosanthes gracilis)[82].
Cỏ Stylo: Cỏ Stylo là cây họ đậu, 1 kg bột cỏ Stylo có 96 g đạm tiêu hóa,
tƣơng đƣơng 0,64 đơn vị thức ăn, dùng nuôi lợn rất tốt không kém cám gạo.
Bèo hoa dâu: Bèo hoa dâu là cây phân xanh có đến 28 - 30% Protein
trong vật chất khô, trên 3% chất béo, 10,5% chất khoáng, 6,5% tinh bột
đƣờng, còn nhiều vitamin B12, vitamin A rất cần cho gia cầm[83].
Lá sắn: Lá sắn là nguồn nguyên liệu phong phú ở Việt Nam, có hàm
lƣợng chất dinh dƣỡng tƣơng đối cao, giá trị protein thô chiếm 21%, chất béo
5,5%, xơ thô 21%[84].


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Lá keo dậu: Cây keo dậu phát triển ở hầu khắp các vùng trên nhiều loại
đất khác nhau. Lƣợng Protein thô trong lá keo dậu khá cao 270 - 280g/kg chất
khô, tỷ lệ xơ thấp 155g/kg chất khô, nên lá keo dậu có thể dùng làm thức ăn
bổ sung protein, vitamin cho gia súc và gia cầm [42].
Cây so đũa: Là loại cây họ đậu, trồng ở nhiều nơi, hạt và lá so đũa có tỷ
lệ protein cao và nhiều vitamin.
Cây lá mắm: Cây mắm mọc ở vùng nƣớc mặn, nƣớc lợ ven biển, nhất là
ở các tỉnh Nam Trung bộ và miền Nam.
Cây cỏ VA06: VA06 dạng nhƣ cây trúc, thân thảo, cao lớn, họ hoà thảo,
dạng bụi, mọc thẳng, năng suất cao, chất lƣợng tốt, hệ số tiêu hoá cao, là thức
ăn tốt nhất cho các loại gia súc ăn cỏ, gia cầm, và cá trắm cỏ [85].
Cỏ Alfalfa: Cỏ Alfalfa hay Cỏ linh Lăng còn có tên là mục túc Braxin
(tên khoa học là Lucern) là cây họ đậu thân thảo,có giá trị dinh dƣỡng rất cao,
làm thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ sản, đƣợc thế giới rất quan tâm
nghiên cứu trên 50 nƣớc [86].
Cây trichanthera Gigantea: Cây trichanthera có nguồn gốc ở Nam Mỹ,
trồng bằng hom đạt tỷ lệ sống 90% - 95%. Cây phát triển vào mùa mƣa,
không kén đất, có kháng thể cao chống đƣợc sâu bệnh và không bị cỏ dại lấn
át. Ngoài cung cấp dinh dƣỡng, lá cây còn có tác dụng phòng chống bệnh
đƣờng ruột cho vật nuôi[87].
Theo Nguyễn Đức Trân và Cs [51] cho biết: Ở vùng núi, có thể lấy lá
và cả cành non các loại cây không độc, không có chất chát (trâu bò thƣờng
ăn) để phơi khô, dự trữ dành cho mùa đông hiếm rau cỏ.
1.3.2. Giá trị dinh dưỡng của bột lá, bột cỏ đối với vật nuôi
Trong phát triển chăn nuôi, việc chọn giải quyết nguồn thức ăn để đảm
bảo năng suất, chất lƣợng thịt, trứng và giảm giá thành sản xuất bằng cách tìm
ra những giống cây bổ sung nguồn thức ăn mới phù hợp với điều kiện địa

phƣơng là vấn đề rất cần thiết.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Ngày nay, ngay ở các nƣớc phát triển, bột cỏ vẫn là thành phần không
thể thiếu trong khẩu phần ăn của gia súc, gia cầm. Vì bột cỏ cung cấp nhiều
vitamin tự nhiên, đặc biệt là tiền vitamin A (caroten) và sắc tố vàng
Xanthophyll. Vitamin E, C và caroten là những chất chống oxi hoá, ngăn cản
tích trữ cholesterol trong máu. Ngoài ra, lá xanh còn chứa nhiều chất quinol
và phenol, là những chất chống viêm nhiễm và bài tiết chất độc cho ngƣời và
động vật. Chính vì vậy, sử dụng bột cỏ làm thức ăn chăn nuôi đƣợc các nƣớc
trên thế giới rất quan tâm [38].
Theo Nguyễn Đức Trân và Cs [50], cỏ khô nghiền nhỏ thành bột dùng
nuôi lợn và gia cầm rất tốt, nhất là để nuôi súc vật non, vì trong bột cỏ khô có
nhiều chất đạm, nhiều sắc tố, tiền vitamin A, vitamin D2 và Canxi. Bột thân lá
đậu, lạc, điền thanh, keo dậu, bèo hoa dâu, là những loại tốt, vì có chứa
nhiều đạm nên khi hỗn hợp các loại thức ăn tinh khác để nuôi lợn, thì giảm
đƣợc thức ăn tinh.
Thức ăn gia cầm, ngoài lƣợng bắp vàng có sẵn trong công thức, thƣờng
cần có thêm nguồn cung sắc tố để làm vàng da, lòng đỏ trứng theo thị hiếu
ngƣời tiêu dùng. Các loại bột lá, bột cỏ thƣờng đƣợc dùng trong thức ăn gà
với mức 3 - 4% để vừa cung cấp caroten, vừa cung cấp sắc tố để da, mỏ và
lòng đỏ trứng có màu vàng đẹp mắt.
Bột thực vật có giá trị rất tốt đối với vật nuôi, nó có giá trị dinh dƣỡng
cao không những chứa tỷ lệ protein cao (đặc biệt là cây họ đậu) mà còn chứa
nhiều Vitamin nhóm B, vitamin E và tiền vitamin D, A (carotenoic). Phối hợp
khẩu phần ăn của vật nuôi với bột lá bột cỏ làm tăng chất lƣợng sản phẩm,
tăng tính chất thịt, sữa, trứng…làm tăng màu sắc của sản phẩm [82].
Thực tế cho thấy: gà ăn bèo hoa dâu tăng tỷ lệ đẻ, ấp nở, giảm chi phí

thức ăn, màu lòng đỏ trứng đậm hơn so với thí nghiệm đối chứng. Thƣờng bổ
sung 5% vào khẩu phần thức ăn hỗn hợp hàng ngày [88].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Theo kết quả nghiên cứu của nhóm các nhà khoa học thuộc Khoa Thuỷ
sản (Trƣờng Đại học Nông lâm Huế) và Đại học Nông nghiệp Nhiệt đới
(Côlômbia). Các nhà khoa học đã thực nghiệm tại xã Vân Thuỷ, huyện
Hƣơng Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế trên đối tƣợng cá rô phi dòng Gift, cho
biết: dùng bột lá săn phối trộn với cám, bột cá, Premix khoáng. Sau thời gian
6 tháng lần lƣợt thay thế 25, 50, 75 và 100% bột cá bằng bột lá sắn cho thấy,
việc thay thế hoàn toàn bột cá bằng bột lá sắn làm thức ăn cho cá rô phi cho
kết quả tăng trƣởng tốt, tỷ lệ sống của cá nuôi đạt từ 76 - 90%. Dùng lá sắn
thay thế bột cá trong khẩu phần thức ăn cho cá rô phi đem lại nhiều kết quả
khả quan, vừa tận dụng đƣợc nguồn nguyên liệu có sẵn ở địa phƣơng vừa
giảm đƣợc giá thành sản phẩm [84].
Với hàm lƣợng B - caroten cao, nên cỏ Alfalfa chỉ cần tham gia từ 10 -
20% trong khẩu phần thức ăn thì gà mẹ, chim cảnh rất mắn đẻ, trứng có lòng đỏ
to, màu lòng đỏ đậm, tỷ lệ nở con cao hơn hẳn. Nhờ các chất Ancaloid - Enzim
dồi dào trong cỏ Alfalfa, nên bò sữa đƣợc ăn loại cỏ này sẽ tiết lƣợng sữa nhiều
và chất lƣợng sữa tốt hơn. Ngƣời ta dùng nó làm thức ăn cao cấp dành cho các
vật nuôi quan trọng nhƣ: bò đực sản xuất tinh, bò sữa, gia cầm bố mẹ, gà con,
chim cảnh Do những tác dụng lớn lao đó các chuyên gia chăn nuôi trên thế giới
đã suy tôn cỏ Alfalfa là "nữ hoàng" trong thức ăn chăn nuôi [86].
Các cuộc thử nghiệm cho thấy, Trichathera ở dạng bột cỏ hoặc tƣơi
trong khẩu phần ăn của gia cầm sẽ tạo nguồn cung cấp protein, caroten. 150
gà đẻ thƣơng phẩm, 800 chim cút đẻ kéo dài trong 10 tuần có bổ sung 2 - 4%
bột lá Trichathera và 0,2 - 0,3% carophyll trong khẩu phần. Kết quả trung
bình về năng suất và chất lƣợng của trứng gà và chim cút giữa thí nghiệm và

đối chứng tƣơng đối giống nhau. Nhƣng giá thành có bổ sung bột lá thấp hơn.
Đối với 120 vịt xiêm nuôi từ 30 - 90 ngày tuổi có dùng lá Trichathera trong
khẩu phần, kết quả cho thấy, dùng lá Trichathera làm da có màu vàng tốt hơn
so với vịt ở nghiệm thức đối chứng [87].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Theo Nguyễn Khánh Quắc và Cs (2002)[39], cho biết rằng: Sử dụng bột
cỏ khô hỗn hợp trong thức ăn cho gia cầm, lợn, trâu, bò rất tốt, vừa phòng trừ
giun sán lại vừa đỡ công chăn nuôi.
Theo kết quả nghiên cứu của Trịnh Văn Trung và Cs (2007) [52]cho
biết: Bổ sung bột lá sắn vào khẩu phần ăn của trâu tơ 13 - 18 tháng tuổi đã
làm tăng lƣợng thức ăn thu nhận và tỷ lệ tiêu hoá các chất dinh dƣỡng trong
khẩu phần. Bột lá sắn có thể dùng làm thức ăn bổ sung cho trâu tơ để nâng
cao tỷ lệ tiêu hoá, khả năng tăng trƣởng và hiệu quả sử dụng thức ăn.
1.3.3. Các hạn chế của bột lá bột cỏ đối với vật nuôi
Nhìn chung gia súc thích ăn các loại thức ăn xanh hơn hoặc ủ chua hơn
là ăn các loại thức ăn này chế biến thành bột.
Trong bột cỏ và bột lá thực vật, hàm lƣợng chất xơ là cao do đó việc sử
dụng nó trong thức ăn chăn nuôi gia cầm chỉ chiếm một chỉ lệ rất nhỏ trong
khẩu phẩn, trong chăn nuôi gà, tỷ lệ dùng trong chất xơ rất ít, chỉ từ 5 - 6%
trong khẩu phần mà thôi [89].
Trong một số loại lá thực vật có chứa một số chất nhƣ: lá sắn có độc tố
HCN, Cỏ Mêdicago, cây họ đậu, điền thanh có chứa chất độc saponin nên khi
sử dụng chúng cho vật nuôi phải hết sức chú ý đến tỷ lệ trong khẩu phần.
Theo Vũ Duy Giảng và Cs (1997) [7] cho biết: Tỷ lệ bổ sung bột lá
thực vật cho gà thịt là 2% tính theo đơn vị khẩu phần, gia cầm khác là 4 - 6%
tính theo đơn vị khẩu phần. Trong lá keo dậu có chứa độc tố mimosin, do đó
không nên dùng quá 15% trong khẩu phần của lợn và không quá 5% trong

khẩu phần của gia cầm (tính theo giá trị dinh dƣỡng). Mặt khác, bột lá, bột cỏ
nếu bảo quản kém hoặc quá lâu dễ bị mốc và làm hao hụt các chất dinh
dƣỡng, đặc biệt là B - caroten, vitamin bị mất đi [42].
1.3.4. Vai trò của bột lá bột cỏ trong sinh trưởng của gia cầm thịt
Trong bột cỏ bột lá có chứa nhiều B - caroten, protein, vitamin nên việc
sử dụng nó bổ sung vào khẩu phần ăn của gà thịt có tác dụng rất tốt. Không
những làm tăng khả năng sinh trƣởng, tăng năng suất mà đặc biệt là tăng chất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
lƣợng thịt, độ cảm quan đới với thịt, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
ngƣời tiêu dùng.
Tạ An Bình (1973) đã sử dụng bột lá keo giậu nuôi gà con và cho biết, ở
tỷ lệ 4% trong khẩu phần, keo giậu đã có tác dụng tốt tới sinh trƣởng của gà.
Dƣơng Thanh Liêm và Bộ môn Thức ăn và dinh dƣỡng Trƣờng Đại học Nông
Lâm thành phố Hồ Chí Minh đã thử nghiệm nuôi gà Broiler với các khẩu phần
chứa tỷ lệ bột lá keo giậu khác nhau. kết quả cho thấy, khẩu phần chứa 4% bột
lá keo giậu có tác dụng tốt tới sinh trƣởng và hiệu suất sử dụng thức ăn của gà.
Khi tỷ lệ bột lá keo giâụ nâng lên tới mức 6% khẩu phần, tăng khối lƣợng của
gà bắt đầu có xu hƣớng giảm. Ở tỷ lệ 10% bột lá keo giậu trong khẩu phần,
nuôi gà đến 9 tuần tuổi bắt đầu có hiện tƣợng rụng lông và sƣng tuyến giáp
trạng, nhƣng nếu thêm 0,5 ppm muối KI hay casein vào khẩu phần ăn, sẽ hạn
chế hiện tƣợng rụng lông và sƣng tuyến giáp của gà, do hạn chế độc tính của
mimosine có trong keo giâu (Trích theo Từ Quang Hiển và Cs, 2008) [10].
Ở Cu Ba, Fraga và Cs (1992) [10], đã thay thế 5% khẩu phần cơ sở dựa
trên ngô và khô dầu đỗ tƣơng bằng bột lá keo giậu phơi khô dƣới ánh nắng
mặt trời để nuôi 540 gà thịt Cornish x Plymouth trong thời gian từ 0 - 4 tuần
tuổi. Kết quả cho thấy: nhóm gà thịt đƣợc nuôi dƣỡng với khẩu phần chứa bột
lá keo giậu có mức tăng khối lƣợng lúc 6 tuần tuổi và hiệu suất sử dụng thức

ăn cao hơn gà đối chứng đƣợc nuôi dƣỡng với khẩu phần cơ sở không có bột
lá keo giậu.
Hanif và Cs (1985) đã sử dụng 5% bột lá keo giậu Ipil - ipil để thay thế
một phần bột cá trong khẩu phần ăn của gà thịt giống Rhod (Ai - Len), từ sau
3 tuần tuổi. Các khẩu phần nuôi dƣỡng đảm bảo đồng đều về protein và năng
lƣợng trao đổi. Kết quả cho thấy, khẩu phần chứa 5% bột lá Ipil - ipil đã
không ảnh hƣởng xấu tới sinh trƣởng, tiêu thụ thức ăn và tuổi thành thục về
tính của gà so với khẩu phần đối chứng không có bột ká keo giậu [10].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Chen và Lai (1981) sử dụng bột lá keo giậu trên gà thịt và cho biết, hiệu
suất sử dụng thức ăn và tăng khối lƣợng của gà thịt giảm dần với mức tăng
lên của bột lá keo giậu trong khẩu phần và tỷ lệ tối đa thích hợp của bột lá keo
giậu là ở mức 3% khối lƣợng khô của khẩu phần.
D'Mello và Cs (1987) đã nhận thấy, bột lá keo giậu đã có tác dụng cải
thiện màu sắc thân thịt của gà và sử dụng 5% bột lá keo giậu thay thế một
phần khẩu phần ăn cơ sở đã không gây ra ảnh hƣởng xấu nào về sinh trƣởng
của gà.
Theo Từ Quang Hiển và Cs (2008)[10] nghiên cứu sử dụng bột lá keo
giậu để nuôi gà broiler dòng HV35 cho biết: sử dụng bột lá keo giậu thay thế
3 - 5% khẩu phần cơ sở tƣơng ứng với 2 giai đoạn nuôi (0 - 28 và 29 - 56
ngày tuổi) đối với gà broiler HV35 đã có tác dụng cải thiện sinh trƣởng của gà
thêm 8,72%, giảm tiêu tốn thức ăn cho sinh trƣởng là 5,86%) và giảm chi phí
thức ăn/kg tăng khối lƣợng đến 7,10%.
Thí nghiệm nghiên cứu sử dụng bột lá keo giậu ở các tỷ lệ khác nhau
trong khẩu phần ăn của gà broiler dòng Ross 208, cho thấy, tiêu thụ thức ăn
của gà có xu hƣớng giảm liên tục với sự tăng lên của bột lá keo giậu trong
khẩu phần. Khi bột lá keo giậu trong khẩu phần tăng từ 0 - 12%, tiêu thụ thức

ăn của gà đã giảm từ 4010 g/con xuống còn 3453 g/con. Tuy nhiên, nhóm gà
đƣợc nuôi với khẩu phần 3% bột lá keo giậu không giảm tiêu thụ thức ăn so
với nhóm đối chứng (P>0.05), nhƣng các nhóm gà đƣợc nuôi với khẩu phần
chứa từ 6% bột lá keo giậu trở lên đã làm giảm khá rõ rệt so với đối chứng
(P<0.01). Tăng khối lƣợng của gà cũng giảm liên tục với sự tăng lên của tỷ lệ
bột lá keo giậu có trong khẩu phần. Khi bột lá keo giậu tăng từ 0 - 12 % khẩu
phần, tăng khối lƣợng của gà đã giảm từ 2394g/con xuống còn 1819 g/con.
Hiệu suất sử dụng thức ăn cho sinh trƣởng của gà cũng giảm liên tục với sự
tăng lên của bột lá keo giậu trong khẩu phần [10].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
1.4. Cơ sở khoa học về khả năng sinh trƣởng và cho thịt của gia cầm
1.4.1. Nguồn gốc và vài nét về giống gà lương phượng
Theo Nguyễn Duy Hoan và Cs (1999) [14] cho biết gà Hoa Lƣơng
Phƣợng hay Lƣơng Phƣợng hoa, thƣờng đƣợc gọi tắt là gà Lƣơng Phƣợng do
xuất xứ từ vùng ven sông Lƣơng Phƣợng. Đây là giống gà thịt lông màu do xí
nghiệp nuôi gà thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây Trung Quốc lai tạo
thành công sau hơn chục năm nghiên cứu, sử dụng dòng trống địa phƣơng và
dòng mái nhập của nƣớc ngoài. Gà Lƣơng Phƣợng đã đƣợc giám định kỹ
thuật của Uỷ ban khoa học Thành phố Nam Ninh. Gà Lƣơng Phƣợng có dáng
bề ngoài gần giống với gà Ri của Việt Nam lông màu vàng tuyền, vàng đốm
hoa hoặc đen đốm hoa. Sở dĩ gọi là Lƣơng Phƣợng hoa vì trong đàn gà có rất
nhiều màu lông khác nhau nhƣ một vƣờn hoa. Mào, yếm mào, mặt và tích tai
màu đỏ. Gà trống có mào đơn, ngực nở, lƣng thẳng, lông đuôi vƣơn cong
chân cao vừa phải. Gà mái đầu nhỏ, thân hình chắc, chân thấp. Da gà Lƣơng
Phƣợng màu vàng, thịt mịn, thơm ngon. Tỷ lệ nuôi sống gà thƣơng phẩm xuất
chuồng đều đạt 95% trở lên. Gà trống ở độ tuổi trƣởng thành có khối lƣợng cơ
thể 2700g, gà mái đạt khối lƣợng 2100g lúc vào đẻ. Gà bắt đầu đẻ vào 24 tuần

tuổi, sau một chu kỳ khai thác trứng (66 tuần tuổi) đạt 177 trứng, sản xuất 130
gà con 1 ngày tuổi. Gà thịt nuôi đến 70 ngày tuổi đạt 1500g - 1600g. Tiêu tốn
thức ăn 2,4 - 2, 6 kg thức ăn/kg tăng trọng. Gà Lƣơng Phƣợng dễ nuôi, có tính
thích nghi cao, chịu đựng tốt với khí hậu nóng ẩm, đòi hỏi chế độ dinh dƣỡng
không cao, có thể nuôi nhốt (kiểu nuôi công nghiệp), bán công nghiệp (vừa
nhốt vừa thả) hoặc nuôi thả ở vƣờn, ngoài đồng, trên đồi.
Bộ nông nghiệp và PTNT đã công nhận 3 dòng gà LV1, LV2, LV3 đạt
cấp giống ông bà theo quyết định số 953 QĐ/BN - KHCN ngày 16/4/2004. Gà
Lƣơng Phƣợng hiện nay đang là giống gà đƣợc ƣa chuộng và phát triển nuôi
rộng rãi trong khắp mọi vùng của đất nƣớc ta trong đó có tỉnh Thái Nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
1.4.2. Khả năng sinh trưởng và tiêu tốn thức ăn
1.4.2.1. Khả năng sinh trưởng của gà
Sinh trƣởng là quá trình tích luỹ chất hữu cơ do đồng hoá và dị hoá, là
sự tăng chiều dài, chiều cao, bề ngang, khối lƣợng của các bộ phận và toàn bộ
cơ thể con vật trên cơ sở tính chất di truyền của đời trƣớc. Sự sinh trƣởng
chính là sự tích luỹ dần các chất mà chủ yếu là Protein.
Sinh trƣởng là một quá trình sinh lý phức tạp và tuân theo những quy
luật nhất định. Theo Trần Đình Miên và Cs (1992)[30] cho biết: Midedorpho
A.F (1967) là ngƣời đầu tỉên phát hiện ra quy luật sinh trƣởng theo giai đoạn
của gia súc, cho rằng gia súc non phát triển mạnh nhất sau khi mới sinh, sau
đó tăng khối lƣợng giảm dần theo từng tháng tuổi.
Champer (1990)[66], đã định nghĩa sinh trƣởng là sự tổng hợp các bộ
phận nhƣ thịt, xƣơng, da. Những bộ phận này không những khác nhau về tốc
độ sinh trƣởng mà còn phụ thuộc vào chế độ dinh dƣỡng. Sự tăng trƣởng thực
sự khi các tế bào mô cơ có sự tăng thêm về khối lƣợng, số lƣợng và kích
thƣớc các chiều đo. Vì vậy béo mỡ không phải là tăng trƣởng, nó đƣợc gọi là

tăng trọng của cơ thể, vì béo mỡ chủ yếu là tích nƣớc, không có sự phát triển
của thân, mô và cơ.
Trong thực tế nuôi gia súc gia cầm lấy thịt cho thấy, trong giai đoạn đầu
của sự sinh trƣởng, thức ăn đƣợc dùng tối đa cho sự phát triển của xƣơng, mô
cơ, một phần rất ít dùng lƣu trữ trong cấu tạo của mỡ. Đến giai đoạn cuối của
sự sinh trƣởng nguồn chất dinh dƣỡng vẫn đƣợc sử dụng nhiều để nuôi hệ
thống cơ xƣơng nhƣng hai hệ thống này tốc độ phát triển đã giảm, càng ngày
con vật càng tích luỹ chất dinh dƣỡng để cấu tạo mỡ.
Trong các tổ chức cấu tạo của cơ thể gia cầm thì khối lƣợng cơ chiếm
nhiều nhất: 42 - 45% khối lƣợng cơ thể. Khối lƣợng cơ con trống luôn lớn
hơn khối lƣợng cơ con mái (không phụ thuộc vào lứa tuổi và loại gia cầm).
Giai đoạn 70 ngày tuổi khối lƣợng tất cả các cơ của gà trống đạt 530g, của gà
mái đạt 467g [27].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
Sự sinh trƣởng của sinh vật đƣợc bắt đầu từ khi trứng đƣợc thụ tinh cho
đến lúc cơ thể trƣởng thành và đƣợc chia hai giai đoạn chính: giai đoạn trong
thai( giai đoạn trong cơ thể mẹ) và giai đoạn ngoài thai(giai đoạn ngoài cơ thể
mẹ). Đối với gia cầm là thời kỳ hậu phôi và thời kỳ trƣởng thành. Nhƣ vậy, cơ
sở chủ yếu của sinh trƣởng gồm hai quá trình: tế bào sản sinh và tế bào phát
triển, trong đó sự phát triển là chính. Theo Phùng Đức Tiến (1996)[45], trong
quá trình sinh trƣởng thì trƣớc hết là kết quả của sự phân chia tế bào, tăng thể
tích tế bào để tạo nên sự sống.
Khi nghiên cứu về sinh trƣởng không thể không nói đến phát dục vì hai
quá trình này diễn ra trên cùng một cơ thể vật nuôi: Phát dục là quá trình thay
đổi về chất, tức là tăng thêm và hoàn chỉnh các chất, chức năng của các bộ
phận của cơ thể, phát dục của cơ thể con vật bắt nguồn từ khi trứng thụ tinh
và trải qua nhiều giai đoạn phức tạp mới đến trƣởng thành.

Khối lƣợng cơ thể thƣờng đƣợc theo dõi theo từng tuần tuổi và đơn vị
tính là g/con hoặc kg/con.Để xác định khối lƣợng cơ thể ở các khoảng thời
gian khác nhau ngƣời ta còn biểu thị khối lƣợng thông qua đồ thị sinh trƣởng.
Sinh trƣởng của vật nuôi nói chung và sinh trƣởng của gà nói riêng chụi
ảnh hƣởng của nhiều yếu tố, quan trọng nhất là yếu tố giống, thức ăn và các
điều kiện chăm sóc nuôi dƣỡng khác.
1.4.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới sinh trưởng
Có rất nhiều yếu tố ảnh hƣởng đến sinh trƣởng của gà nhƣ giống, giới tính,
tốc độ mọc lông, khối lƣợng bộ xƣơng, dinh dƣỡng, điều kiện chăn nuôi,
* Ảnh hưởng của dòng giống
Các dòng trong cùng một giống, các giống khác nhau có khả năng sinh
trƣởng khác nhau. Các giống gà chuyên thịt có tốc độ sinh trƣởng nhanh hơn
các giống gà chuyên trứng và kiêm dụng.
Theo Nguyễn Mạnh Hùng và Cs (1994)[15] cho biết: sự khác nhau về
khối lƣợng giữa các giống gia cầm rất lớn, giống gà kiêm dụng nặng hơn gà
hƣớng trứng khoảng 500 - 700g.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
Trần Long (1994)[24], đã nghiên cứu tốc độ sinh trƣởng của 3 dòng
thuần (dòng V1, V3 và V5) của giống gà Hybro HV 85 cho thấy tốc độ sinh
trƣởng 3 dòng hoàn toàn khác nhau ở 42 ngày tuổi.
Trần Thanh Vân (2002)[55], khi nghiên cứu khả năng sản xuất thịt của
gà lông màu Kabir, Lƣơng Phƣợng và Sasso cho biết: khối lƣợng cơ thể gà ở
10 tuần tuổi đạt lần lƣợt là 1990,28g/con, 1993,27g/con và 2189,29g/con.
Theo Nguyễn Duy Hoan và Trần Thanh Vân (1998)[12], cho biết gà
con ở 40 ngày tuổi khối lƣợng tăng gấp 10 lần so với lúc 1 ngày tuổi, trong
khi đó vịt con chỉ cần có 20 ngày tuổi để tăng gấp 10 lần khối lƣợng so với
lúc 1 ngày tuổi.

Theo Trần Công Xuân và Cs (1999)[59], nghiên cứu tốc độ sinh trƣởng
trên hai dòng gà kiêm dụng (882 và Jiang cun) của giống gà Tam Hoàng cho
thấy tốc độ sinh trƣởng của hai dòng gà khác nhau: ở 15 tuần tuổi dòng 882
đạt 1872,67 g/con, dòng Jiang cun đạt 1742,86g/con.
Nguyễn Thị Thuý Mỵ (1997)[34], khi nghiên cứu 3 giống gà AA,
Avian và BE 88 nuôi tại Thái Nguyên cho thấy khối lƣợng cơ thể của 3 giống
khác nhau ở 49 ngày tuổi là khác nhau, cụ thể lần lƣợt là: 2501,09g/con,
2423,28g/con, 2315,14g/con. Đối với gà Hybro HV85 ở 56 ngày tuổi khối
lƣợng cơ thể đạt 1915,38g/con [45].
Các nghiên cứu trên cho thấy, đặc tính di truyền của các dòng, các
giống là nhân tố đặc biệt quan trọng đối với quá trình sinh trƣởng và cho thịt
của gà. Từ các kết quả nghiên cứu này giúp cho ngƣời chăn nuôi biết đƣợc
giới hạn sinh trƣởng của từng dòng, giống khác nhau để mà áp dụng vào thâm
canh hợp lý có hiệu quả cao.
* Ảnh hưởng của tính biệt đến khối lượng cơ thể và khối lượng cơ thể
Tính biệt có ảnh hƣởng rất lớn đến tốc độ sinh trƣởng và khối lƣợng cơ
thể. Theo tài liệu của Champer J.R (1990) [66], có nhiều gen ảnh hƣởng đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
sinh trƣởng và phát triển của gà.Có gen ảnh hƣởng tới sự phát triển chung, có
gen ảnh hƣởng đến sự phát triển nhiều chiều, có gen ảnh hƣởng theo nhóm
tính trạng, có gen ảnh hƣởng tới một vài tính trạng riêng lẻ. Godfrey E.F và
Joap R.G (1952)[69] và một số tác giả khác cho rằng các tính trạng số lƣợng
này đƣợc quy định bởi 15 cặp gen, trong đó có ít nhất 1 gen về sinh trƣởng
liên kết với giới tính(nằm trên nhiễm sắc thể X), vì vậy có sự sai khác về khối
lƣợng cơ thể giữa con trống và con mái trong cùng một giống, gà trống nặng
hơn gà mái 24 - 32%.
Trần Đình Miên, 1994 [30], cho biết gà lúc mới nở gà trống nặng hơn

gà mái 1%, tuổi càng tăng sai khác càng lớn, ở 8 tuần tuổi sự sai khác về
khối lƣợng giữa gà trống và gà mái là 27%. Theo North và Cs (1990)[76],
lúc mới sinh gà trống nặng hơn gà mái 1%, tuổi càng tăng sự khác nhau càng
lớn: ở 2; 3 và 8 tuần tuổi sự khác nhau tƣơng ứng là 5%, 11% và 27%.
Tốc độ sinh trƣởng còn phụ thuộc vào tốc độ mọc lông. Các kết quả
nghiên cứu xác định, trong cùng một giống, cùng tính biệt thì gà có tốc độ
mọc lông nhanh có tốc độ sinh trƣởng và phát triển tốt hơn. Theo Kushener
K.F (1974) [21], cho rằng tốc độ mọc lông có quan hệ chặt chẽ với tốc độ
tăng trƣởng. Thƣờng gà lớn nhanh thì mọc lông nhanh và đều hơn ở gà chậm
lớn. Hayer và Cs (1970)[71] đã xác định trong cùng một giống thì gà mái mọc
lông đều hơn gà trống và tác giả cho rằng ảnh hƣởng của hormon có quan hệ
ngƣợc chiều với gen liên kết với giới tính quy định tốc độ mọc lông.
Ảnh hƣởng của tính biệt đến khả năng sinh trƣởng và cho thịt của gà
Broiler có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Ở các nƣớc công nghiệp, ngƣời ta
nuôi gà Broiler tách riêng trống mái. Việc này, làm tăng độ đồng đều
trong đàn và thuận lợi cho việc giết mổ tự động. Nuôi tách riêng trống
mái sẽ đáp ứng nhu cầu dinh dƣỡng, tăng khối lƣợng nhanh, tăng hiệu quả
sử dụng thức ăn, làm cho gà trống không lấn át gà mái, giảm gà bị trầy,
xƣớc (Đặng Hữu Lanh và CTV (1999)[22].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
* Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng tới khả năng sinh trưởng
Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận (2003)[26], cho biết để phát huy đƣợc
sinh trƣởng cần cung cấp thức ăn tối ƣu với đầy đủ chất dinh dƣỡng đƣợc cân
bằng hợp lý giữa protein và năng lƣợng. Ngoài ra trong thức ăn hỗn hợp cho
chúng còn đƣợc bổ sung hàng loạt các chế phẩm hoá sinh không mang theo
nghĩa dinh dƣỡng nhƣng có kích thích sinh trƣởng làm tăng chất lƣợng thịt.
Phạm Minh Thu (1996)[44], cho thấy khối lƣợng cơ thể gà Broiler

Rhoderi Jiang Cun ở 2 chế độ dinh dƣỡng lúc 2 tuần tuổi hoàn toàn khác nhau.
Nguyễn Thuý Mỵ (2006)[35], đã nghiên cứu ảnh hƣởng của các mức
năng lƣợng và Protein khác nhau cùng với tỷ lệ ME/CP khác nhau nhằm phát
huy tốt đến khả năng sinh trƣởng của Ngan Pháp nuôi tại Thái Nguyên.
Trần Công Xuân (1995)[57], cho biết cùng tổ hợp lai Broiler: Ross
208,Ross 208 - V35 nuôi ở 9 lô với 3 mức năng lƣợng và 3 mức Protein khác
nhau, cho khối lƣợng ở 8 tuần tuổi khác nhau rõ rệt.
Trần Tố (2007)[50], nghiên cứu ảnh hƣởng của tỷ lệ khác nhau giữa
methionine và lysine trong khẩu phần đến sinh trƣởng của gà Broiler Kabir
cho biết đến 10 tuần tuổi lô có tỷ lệ methionine/lysine 40,5% cho sinh trƣởng
tốt hơn các lô có tỷ lệ này bằng 45,5% và 35,5%.
Nhƣ vậy, để đạt năng suất và hiệu quả trong chăn nuôi gia cầm đặc biệt
là phát huy đƣợc tiềm năng di truyền về sinh trƣởng, thì một những vấn đề
căn bản là lập ra đƣợc khẩu phần dinh dƣỡng hoàn hảo, cân đối trên cơ sở
đảm bảo nhu cầu của gia cầm qua từng giai đoạn. Mặt khác, khả năng sinh
trƣởng còn chụi ảnh hƣởng của điều kiện chăm sóc, mùa vụ, khí hậu chuồng
nuôi, phƣơng thức chăn nuôi, thú y phòng bệnh.
Nhiệt độ môi trƣờng ảnh hƣởng đến khả năng sinh trƣởng rất rõ rệt, đặc
biệt là giai đoạn gà con. Với gà Broiler và gà hậu bị, nhiệt độ ngày thứ nhất
cần đảm bảo 32 - 34
0
C; ngày thứ 2 - 7 là 30
0
C; tuần thứ 2 là 26
0
C; tuần thứ 3
là 22
0
C; tuần thứ 4 là 20
0

C.

×