Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

thực trạng công tác quản lý chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm ở công ty tnhh xây dựng và thương mại hoàng an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.58 KB, 72 trang )




Đồ án Tốt Nghiệp
Thực trạng công tác quản lý chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm
ở Công ty TNHH xây dựng và thương mại Hoàng An
Nguyễn Hồng Hà
1
Mục LụC
Trang
Lời nói đầu 1
Chương 1: Lý luận chung về chi phí kinh doanh và giá thành sản
phẩm trong doanh nghiệp
4
1.1. Chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp 4
1.1.1. Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp 4
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm chi phí kinh doanh của doanh nghiệp 4
a. Khái niệm 4
b. Đặc điểm chi phí kinh doanh của doanh nghiệp 6
1.1.1.2. Phân loại chi phí kinh doanh của doanh nghiệp 7
1.1.2. Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp 10
1.1.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của giá thành sản phẩm 10
1.1.2.2. Các loại giá thành sản phẩm 11
1.1.2.3. Phương pháp tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp 12
1.2. Chi phí quản lý kinh doanh và giá thành sản phẩm 17
1.2.1. Sự cần thiết phải quản lý chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm
của doanh nghiệp
17
1.2.2. Nội dung công tác quản lý chi phí kinh doanh và giá thành sản
phẩm
18


1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình chi phí kinh doanh và giá thành sản
phẩm
19
1.3. Tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm 19
1.3.1. ý nghĩa của giảm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm của
doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
19
1.3.2. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh doanh và
giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
22
a. Nhân tố tiến bộ khoa học và công nghệ 22
b. Nhân tố tổ chức quản lý sản xuất, quản lý tài chính của doanh nghiệp 23
c. Nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên và môi trường kinh doanh của doanh
nghiệp
24
d. Chất lượng sản phẩm 24
e. Nhân tố giá cả 24
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý chi phí kinh doanh và giá
thành sản phẩm ở Công ty TNHH xây dựng và thương mại Hoàng An
26
2.1. Khái quát chung về Công ty TNHH xây dựng và thương mại
Hoàng An
26
Nguyễn Hồng Hà
2
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển 26
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm hoạt động của công ty 27
2.1.3. Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh, tổ chức công tác quản lý kế
toán
28

2.2. Khái quát tình hình tài chính của Công ty 33
2.2.1. Tình hình sử dụng vốn và nguồn vốn của Công ty 33
2.2.2. Kết quả kinh doanh của công ty trong thời gian qua 35
2.3. Thực trạng công tác quản lý chi phí sản xuất, hạ giá thành sản
phẩm của Công ty
36
2.3.1. Công tác tập hợp chi phí sản xuất và lập kế hoạch giá thành sản
phẩm ở Công ty
37
2.3.2. Tình hình công tác quản lý chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản
phẩm của Công ty
40
2.3.3. Đánh giá chung về công tác quản lý, tiết kiệm chi phí và hạ giá
thành sản phẩm
47
+ Những ưu điểm 47
+ Những hạn chế cần khắc phục 48
Chương 3: Phương hướng và biện pháp nhằm tiết kiệm chi phí và hạ
giá thành sản phẩm xây dựng tại Công ty TNHH xây dựng và thương
mại Hoàng An
51
3.1. Phương hướng kinh doanh của công ty trong thời gian tới 51
3.1.1. Định hướng phát triển của công ty 52
3.1.2. Mục tiêu phát triển của công ty 52
3.2. Những thuận lợi và khó khăn của Công ty 52
3.2.1. Những thuận lợi của Công ty 52
3.2.2. Những khó khăn của công ty 53
3.3. Một số biện pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm ở
Công ty TNHH xây dựng và thương mại Hoàng An
54

3.3.1. Tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu 54
3.3.2. Hoàn thiện công tác quản lý và phát triển nguồn nhân lực giảm chi
phí nhân công
55
3.3.3. Tăng cường công tác quản lý vật liệu để giảm chi phí nguyên vật
liệu trong giá thành
57
3.3.4. Tăng cường công tác quản lý và khai thác TSCĐ 57
3.3.5. Khắc phục khó khăn về vốn dài hạn tạo điều kiện đầu tư 58
3.3.6. Kiểm soát chặt chẽ chi phí quản lý doanh nghiệp 59
Nguyễn Hồng Hà
3
Kết luận 60
Danh mục tài liệu tham khảo 62
Nguyễn Hồng Hà
4
lời nói đầu
Việt Nam đang bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh
CNH – HĐH nhằm xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt
Nam XHCN. Nền kinh tế Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới với
nhiều cơ hội và thách thức. Nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh
tế, đa hình thức sở hữu làm cho tình hình cạnh tranh diễn ra ngày càng gay
gắt hơn. Các doanh nghiệp muốn thắng thế trong cạnh tranh và đạt được
mục tiêu của mình thì phải tiến hành nghiên cứu thị trường để sản phẩm sản
xuất ra có đủ chất lượng với giá cả hợp lý.
Trong xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt cùng với sự khan hiếm
của các nguồn lực, việc giảm chi phí kinh doanh nâng cao chất lượng sản
phẩm là nhu cầu bức thiết của bất cứ đơn vị, tổ chức cá nhân sản xuất kinh
doanh nào. Các doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, hộ gia đình kinh doanh,
hợp tác xã, các doanh nghiệp nước ngoài hay liên doanh đều coi đó là nhiệm

vụ chiến lược để tồn tại và phát triển cho dù mục đích của mỗi loại hình
doanh nghiệp có khác nhau ngoài mục đích chung trên là lợi nhuận . Đối với
doanh nghiệp nhà nước, trước đây trong thời kỳ bao cấp , hoàn toàn sản xuất
theo mệnh lệnh, kế hoạch nhà nước rót xuống. Sau đại hội VI của đảng
(1986) và tiếp tục hoàn thiện, phát triển đường lối đổi mới trong các đại hội
VII và VIII, doanh nghiệp nhà nước ngày càng được tự chủ hơn. Do đó với
các doanh nghiệp này việc giảm chi phí kinh doanh không ngoài mục đích
tăng lợi nhuận ( với doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh), mang lại
sản phẩm rẻ có chất lượng tốt cho mọi người (với doanh nghiệp nhà nước
công ích) và tiết kiệm chống lãng phí và sử dụng hiệu quả nguồn lực cuả
quốc gia.
Nguyễn Hồng Hà
5
Còn với loại hình doanh nghiệp khác, quản lý được tốt các chi phí
cũng đều là tiền đề của hạ giá thành sản phẩm. Nó tạo điều kiện cho doanh
nghiệp cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh về giá. Doanh
nghiệp nào có mức giá hợp lý sẽ bán được nhiều hơn và từ đó thu hồi vốn
nhanh và tăng lợi nhuận. Mặt khác nó giúp doanh nghiệp kiểm soát được các
nguồn lực của mình để sử dụng có hiệu quả .
Như vậy có thể nói, với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh luôn
phải nghĩ đến phương trình kinh tế cơ bản nhất, đơn giản nhất nhưng cũng
không dễ giải. Đó là : Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí.
Để tăng lợi nhuận thì hoặc là tăng doanh thu hoặc giảm chi phí hoặc
mức tăng doanh thu phải lớn hơn mức tăng chi phí. Trong đó việc giảm chi
phí vẫn được coi là linh hồn, nhân tố chất lượng của phương trình này.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý chi phí sản xuất
và hạ giá thành sản phẩm đối với các doanh nghiệp nói chung và đối với
Công ty TNHH xây dựng và thương mại Hoàng An nói riêng. Bằng những
kiến thức đã học ở nhà trường và nhờ sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo:
Phạm Văn Dũng, cùng các cô chú trong Công ty em đã mạnh dạn chọn đề

tài: “Một số biện pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm xây
dựng tại Công ty TNHH Xây Dựng và Thương Mại Hoàng An”.
Kết cấu của đề tài: Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được
trình bày trong 3 chương:
Chương I : Lý luận chung về chi phí kinh doanh và giá thành sản
phẩm trong doanh nghiệp.
Chương II : Thực trạng công tác quản lý chi phí sản xuất và hạ giá
thành sản phẩm ở Công ty TNHH xây dựng và thương mại Hoàng An
Nguyễn Hồng Hà
6
Chương III : Một số biện pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản
phẩm xây dựng tại Công ty TNHH xây dựng và thương mại Hoàng An
Do trình độ lý luận và thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên bài viết
của em chắc chắn còn nhiều thiếu sót, hạn chế. Em rất mong nhận được sự
đóng góp của các thầy cô giáo, và các cô chú trong Công ty để bài viết của
em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà nội, ngày 27 tháng 02 năm
2012
Sinh viên
Nguyễn Hồng Hà
Nguyễn Hồng Hà
7
Chương I
Lý luận chung về
Chi phí kinh doanh và
giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp
1.1. Chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
1.1.1. Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm chi phí kinh doanh của doanh

nghiệp
a. Khái niệm
Hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu của một doanh nghiệp là tạo
ra những sản phẩm nhất định và tiêu thụ những sản phẩm đó trên thị trường
nhằm thu được lợi nhuận. Nhưng bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh thì cũng đều phải bỏ ra những khoản chi phí
nhất định.
Các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trước hết là các chi phí cho
việc sản xuất sản phẩm. Trong khi tiến hành sản xuất, các doanh nghiệp phải
tiêu hao các vật tư như: Nguyên vật liệu, hao mòn máy móc, thiết bị, các
công cụ dụng cụ, các khoản chi phí về tiền lương hay tiền công cho người
lao động.
Như vậy, chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện
bằng tiền của toàn bộ hao phí về vật chất và lao động mà các doanh nghiệp
phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí
Nguyễn Hồng Hà
8
này phát sinh có tính chất thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất
sản phẩm nên gọi là chi phí sản xuất của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp ngoài việc sản xuất, chế biến còn phải tổ chức tiêu thụ
sản phẩm. Trong quá trình này doanh nghiệp cũng phải bỏ ra những khoản
chi phí nhất định như: Chi phí về bao gói sản phẩm, chi phí vận chuyển, bảo
quản. Ngoài ra để giới thiệu rộng rãi sản phẩm cho người tiêu dùng, cũng
như để hướng dẫn người tiêu dùng hoặc thăm dò khảo sát thị trường nhằm
đề ra những quyết định có tính chất tối ưu đối với việc sản xuất thì doanh
nghiệp cũng phải bỏ ra các chi phí về nghiên cứu, tiếp thị, quảng cáo, giới
thiệu hay bảo hành sản phẩm.
Ngoài những chi phí sản xuất và chi phí sinh hoạt, trong quá trình
hoạt động của doanh nghiệp còn bỏ ra những khoản chi phí phục vụ cho
những hoạt động của bộ máy quản lý doanh nghiệp có liên quan đến quá

trình kinh doanh.
Như vậy, nhìn từ góc độ doanh nghiệp, có thể thấy chi phí sản xuất
kinh doanh của một doanh nghiệp là toàn bộ chi phí sản xuất, chi phí tiêu
thụ sản phẩm, chi phí quản lý doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động sản
xuất kinh doanh và các khoản thuế gián thu mà doanh nghiệp phải bỏ ra để
thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.
Để đánh giá được kết quả hoạt động kinh doanh tốt đòi hỏi doanh
nghiệp cần phải có doanh thu từ hoạt động kinh doanh bù đắp, trang trải
được toàn bộ chi phí kinh doanh và thu được lợi nhuận cao. Điều này cho
thấy không phải khoản mục chi phí nào cũng được đưa vào chi phí hoạt
động mà chúng ta phải xét đến tính chất, đặc điểm của nó.
Chi phí kinh doanh là một chỉ tiêu quan trọng. Qua xem xét chỉ tiêu
này có thể đánh giá được trình độ quản lý kinh doanh, tình hình sử dụng
vốn, tiết kiệm chi phí của doanh nghiệp. Chi phí kinh doanh ảnh hưởng trực
Nguyễn Hồng Hà
9
tiếp đến lợi nhuận mà lợi nhuận là mục tiêu kinh doanh, mục đích cuối cùng
của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến
vấn đề quản lý chi phí, bởi lẽ mỗi đồng chi phí không hợp lý đều làm tăng
giá thành sản phẩm, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó hạ thấp chi phí
kinh doanh là một điều kiện để doanh nghiệp đạt được mục tiêu của mình
và đảm bảo cho sự tồn tại và đi lên của doanh nghiệp.
b. Đặc điểm chi phí kinh doanh của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp kinh doanh khác nhau thì đối tượng tập hợp chi
phí sản xuất là khác nhau. Đối tượng tập hợp chi phí là phạm vi giới hạn
mà chi phí cần tập hợp nhằm phục vụ cho việc thông tin kiểm tra chi phí
và tính giá thành sản phẩm .
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất cần thiết cho công
tác hạch toán kế toán chi phí sản xuất sao cho phù hợp với đặc điểm tình
hình hoạt động sản xuất, đặc điểm quy trình sản phẩm và đáp ứng yêu cầu

quản lý chi phí của doanh nghiệp. Từ khâu ghi chép ban đầu, tổng hợp số
liệu, tổ chức tài khoản và mở sổ chi tiết đều phải theo đúng đối tượng kế
toán chi phí đã xác định.
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trong ngành sản
xuất nói chung và trong kinh doanh xây lắp nói riêng thường căn cứ vào:
- Đặc điểm quy trình công nghệ của việc sản xuất sản phẩm (việc sản
xuất sản phẩm là giản đơn hay phức tạp, liên tục hay song song)
- Loại hình sản xuất sản phẩm ( sản xuất đơn chiếc hay hàng loạt)
- Đặc điểm tổ chức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp .
- Đặc điểm tổ chưc bộ máy quản lý (hay yêu cầu quản lý ).
- Đơn vị tính giá thành trong doanh nghiệp
Tổ chức sản xuất là quá trình sản xuất thi công của các doanh nghiệp
XDCB có những đặc điểm riêng so với những ngành nghề khác nên đối
tượng kế toán chi phí sản xuất thường được xác định là từng công trình,
bộ phận thi công hay đơn đặt hàng.
Nguyễn Hồng Hà
10
Trên thực tế, các doanh nghiệp xây lắp hiện nay thường tập hợp chi
phí theo công trình hoặc hạng mục công trình.
Việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là khâu đầu tiên
cần thiết và quan trọng của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Có
xác định đúng đối tượng hạch toán, tập hợp chính xác các khoản chi phí
phát sinh phù hợp với đặc điểm tổ chức và sản xuất của doanh nghiệp mới
giúp cho tổ chức tốt công tác chi phí.
1.1.1.2. Phân loại chi phí kinh doanh của doanh nghiệp
Chi phí phải trả trong năm tài chính bao gồm nhiều khoản chi phí. Các
chi phí này khác nhau về nội dung kinh doanh, tính chất của chi phí, vai trò
của nó trong việc tạo ra sản phẩm, dịch vụ. Để tạo điều kiện cho công tác
quản lý và hạch toán chi phí tính giá thành sản phẩm từ đó tính đúng kết quả
từng loại hoạt động kinh doanh thì việc phân loại chi phí sản xuất kinh

doanh theo các tiêu thức là rất cần thiết.
Để phân loại chi phí sản xuất người ta có rất nhiều tiêu thức khác
nhau nhưng về mặt cơ bản người ta dùng ba tiêu thức chủ yếu:
Một là, phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo nội dung, tính
chất kinh tế.
Theo cách phân loại này chi phí chia thành các yếu tố khác nhau, mỗi
yếu tố chi phí chỉ bao gồm những chi phí cùng một nội dung kính tế không
phân biệt chi phí đó phát sinh từ lĩnh vực nào. Theo cách phân loại này, toàn
bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành 5 loại:
• Chi phí vật tư mua ngoài là toàn bộ giá trị vật tư mua ngoài dùng
vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí nguyên vật
liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế…
• Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương là toàn bộ các
khoản tiền lương, tiền công doanh nghiệp phải trả cho những người tham gia
Nguyễn Hồng Hà
11
vào hoạt động sản xuất kinh doanh; các khoản chi phí trích nộp theo lương
như chi phí BHXH, BHYT, KPCĐ mà doanh nghiệp phải nộp trong kỳ.
• Chi phí khấu hao tài sản cố định là toàn bộ số tiền khấu hao các
loại tài sản cố định trích trong kỳ.
• Chi phí dịch vụ mua ngoài là toàn bộ số tiền doanh nghiệp phải
trả cho các dịch vụ đã sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ
do các đơn vị khác ở bên ngoài cung cấp như: dịch vụ điện, nước…
• Chi phí khác bằng tiền là các khoản chi phí bằng tiền ngoài các
khoản đã nêu trên.
Phân loại các chi phí của doanh nghiệp thành các yếu tố chi phí như
trên có ý nghĩa lớn trong quản lý chi phí. Nó cho biết kết cấu, tỷ trọng của
từng loại chi phí để phân tích đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí
sản xuất theo yếu tố ở Bảng thuyết minh báo cáo tài chính, cung cấp tài liệu
tham khảo để lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế

hoạch quỹ lương, tính toán nhu cầu vốn đầu tư cho kỳ sau.
Hai là, phân loại chi phí sản xuất theo mục đích công dụng của chi
phí.
Cách phân loại này dựa vào mục đích công dụng của chi phí nơi phát
sinh chi phí và nơi gánh chịu chi phí để phân chia chi phí sản xuất thành các
khoản mục khác nhau. Theo cách phân loại này toàn bộ chi phí sản xuất
được chia thành:
• Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là các chi phí về nguyên vật liệu,
nhiên liệu, dụng cụ sản xuất trực tiếp dùng vào việc chế tạo sản phẩm hàng
hóa dịch vụ.
Nguyễn Hồng Hà
12
• Chi phí nhân công trực tiếp là toàn bộ các khoản tiền lương, tiền
công, các khoản phụ cấp có tính chất lương, các khoản chi BHXH, BHYT,
KPCĐ của nhân công trực tiếp sản xuất trong doanh nghiệp.
• Chi phí sản xuất chung là các khoản chi phí được sử dụng ở các
phân xưởng, bộ phận kinh doanh như: Tiền lương và phụ cấp lương của
quản đốc, nhân viên phân xưởng, chi phí tài sản cố định thuộc phạm vi phân
xưởng, chi phí vât liệu, công cụ dụng cụ, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí
bằng tiền phát sinh ỏ phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất.
• Chi phí bán hàng bao gồm các chi phí phát sinh trong quá trình
tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ như: Chi phí tiền lương, phụ cấp trả
lương cho công nhân bán hàng, tiếp thị, vận chuyển, bảo quản, các chi phí
khấu hao phương tiện vận tải, chi phí vật liệu, bao bì, các chi phí dịch vụ
mua ngoài, các chi phí bằng tiền khác (như: Bảo hành sản phẩm, quảng cáo).
• Chi phí quản lý doanh nghiệp là các chi phí cho bộ máy quản lý
doanh nghiệp, các chi phí liên quan đến hoạt động chung của doanh nghiệp
như: Khấu hao tài sản cố định phục vụ cho bộ máy quản lý, chi phí công cụ
dụng cụ, các chi phí khác phát sinh trong phạm vi toàn doanh nghiệp (như:
Tiền lương và các khoản phụ cấp lương trả cho Hội đồng quản trị, Ban giám

đốc, nhân viên các phòng ban quản lý), chi phí vật liệu, đồ dùng văn phòng,
các khoản thuế, lệ phí, bảo hiểm, chi phí dịch vụ mua ngoài thuộc văn phòng
doanh nghiệp. Các khoản chi phí dự phòng giảm gía hàng tồn kho, dự phòng
nợ phải thu khó đòi, công tác phí, các chi phí giao dịch, đối ngoại…
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp có thể tập hợp chi phí và
tính gía thành cho từng loại sản phẩm, quản lý chi phí tại địa điểm phát sinh
để khai thác khả năng hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
Nguyễn Hồng Hà
13
Ba là, phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí với quy mô sản
xuất kinh doanh
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp được chia thành hai loại: Chi phí cố định và chi phí biến đổi.
• Chi phí cố định: Là các chi phí không thay đổi (hoặc thay đổi
không đáng kể) theo sự thay đổi quy mô sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, thuộc loại chi phí này bao gồm: Chi phí khấu hao tài sản cố định
(theo thời gian); chi phí tiền lương trả cho cán bộ, nhân viên quản lý, chuyên
gia, lãi tiền vay phải trả, chi phí cho thuê tài chính, văn phòng.
• Chi phí biến đổi: Là các chi phí thay đổi trực tiếp theo sự thay đổi
của quy mô sản xuất. Thuộc loại chi phí này bao gồm: Chi phí nguyên vật
liệu, chi phí tiền lương công nhân trực tiếp, chi phí hoa hồng bán hàng, chi
phí dịch vụ được cung cấp (như: Tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại…)
Do đặc điểm của từng loại chi phí nêu trên khi quy mô sản xuất kinh
doanh càng tăng thì chi phí cố định tính cho một đơn vị sản phẩm hàng hoá,
dịch vụ càng giảm. Riêng đối với chi phí biến đổi, việc tăng hoặc giảm hay
không thay đổi khi tính chi phí này cho một đơn vị sản phẩm còn phụ thuộc
vào tương quan biến đổi giữa quy mô sản xuất kinh doanh và tổng chi phí
biến đổi của doanh nghiệp.
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được xu hướng biến
đổi của từng loại chi phí theo quy mô kinh doanh, từ đó doanh nghiệp có thể

xác định được sản lượng hoà vốn cũng như quy mô kinh doanh hợp lý để đạt
được hiệu quả cao nhất.
1.1.2.Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của giá thành sản phẩm
Trong sản xuất kinh doanh chí phí mới là mặt thứ nhất thể hiện sự hao
phí đã chi ra. Để đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, chi
Nguyễn Hồng Hà
14
phí phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt thứ hai cũng là
mặt cơ bản trong quá trình sản xuất. Đó là, kết quả sản xuất thu được biểu
hiện dưới hình thái tiền tệ, quan hệ so sánh đó đã hình thành nên chỉ tiêu
“Giá thành sản phẩm”.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí của doanh
nghiệp đã bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một đơn vị sản
phẩm hay một khối lượng sản phẩm nhất định.
Có nhiều loại doanh nghiệp sản xuất ra cùng sản phẩm nhưng do trình
độ quản lý khác nhau, giá thành sản phẩm đó sẽ khác nhau. Chính vì vậy mà
giá thành sản phẩm mang tính cá biệt đối với từng doanh nghiệp.
Trong công tác quản lý các hoạt động kinh doanh, giá thành sản phẩm
có một ý nghĩa hết sức quan trọng thể hiện trên các mặt sau:
• Giá thành là thước đo mức hao phí về sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, là căn cứ để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh. Muốn lựa chọn
sản xuất một loại sản phẩm nào đó, doanh nghiệp cần phải nắm bắt được nhu
cầu thị trường, gía cả thị trường và mức hao phí sản xuất loại sản phẩm đó.
Trên cơ sở như vậy mới xác định được hiệu quả sản xuất loại sản phẩm đó
để lựa chọn và quyết định khối lượng sản xuất tối ưu.
• Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm
soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả các biện
pháp tổ chức, kỹ thuật. Thông qua tình hình thực hiện kế hoạch giá thành,
doanh nghiệp có thể xem xét tình hình sản xuất và chi phí bỏ vào sản phẩm,

phát hiện và tìm ra các nguyên nhân dẫn đến phát sinh chi phí không hợp lý
để có biện pháp loại trừ.
• Giá thành còn là một căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xây
dựng chính sách giá cả đối với từng loại sản phẩm, tạo cho doanh nghiệp có
đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
Nguyễn Hồng Hà
15
1.1.2.2. Các loại giá thành sản phẩm
Trong phạm vi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có thể phân biệt giá
thành sản xuất sản phẩm và giá thành toàn bộ.
Giá thành sản xuất của sản phẩm và dịch vụ bao gồm:
• Chi phí vật tư trực tiếp
• Chi phí nhân công trực tiếp
• Chi phí sản xuất chung
Giá thành toàn bộ sản phẩm đã tiêu thụ gồm toàn bộ chi phí liên quan
đến quá trình sản xuất và tiêu thụ một khối lượng sản phẩm nhất định
gồm:
• Giá thành sản xuất của sản phẩm
• Chi phí bán hàng
• Chi phí quản lý doanh nghiệp
Đứng trên góc độ kế hoạch hoá, giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
còn được chia thành:
• Giá thành kế hoạch: Việc xác định gía thành kế hoạch được
xây dựng trước khi bước vào chu kỳ sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành
kế hoạch được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và được xem là mục
tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là cơ sở để phân tích, đánh gía tình hình
thực hiện kế hoạch giá thành, kế hoạch hạ gía thành của doanh nghiệp.
• Giá thành định mức: Được thực hiện trước khi tiến hành
sản xuất chế tạo sản phẩm. Giá thành định mức được tính trên cơ sở các chi
phí hiện hành và chi phí đơn vị sản phẩm. Nó là công cụ quản lý định mức

của doanh nghiệp, là thước đo chính xác để xác định hiệu quả sử dụng tài
sản, vật tư, lao động trong sản xuất giúp cho việc đánh gía đúng đắn các giải
Nguyễn Hồng Hà
16
pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá trình hoạt
động sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
• Giá thành thực tế: Được xác định khi quá trình sản xuất,
chế tạo sản phẩm đã hoàn thành và được xác định trên cơ sở lượng chi phí
sản xuất thực tế đã phát sinh trong kỳ. Giá thực tế phản ánh tổng hợp kết quả
phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản
phẩm. Nó là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, là căn cứ để xây dựng giá thành kế hoạch cho kỳ sau, đảm
bảo cho giá thành kế hoạch ngày càng sát thực và hợp lý.
1.1.2.3. Phương pháp tính giá thành sản phẩm trong doanh
nghiệp.
*Phương pháp thứ nhất: Phương pháp tính giá thành giản đơn :
Phương pháp tính giá thành giản đơn còn gọi là phương pháp tính trực
tiếp phương pháp này áp dụng thích hợp với những sản phẩm, công việc có
quy trình công nghệ sản xuất giản đơn khép kín, tổ chức sản xuất nhiều, chu
kỳ sản xuất ngắn và xen kẽ liên tục, đối tượng tính giá thành tương ứng phù
hợp với đối tượng kế toán tập hợp CPSX, kỳ tính giá thành định kỳ hàng
tháng (quý) phù hợp với kỳ báo cáo . Ví dụ tính giá thành sản phẩm điện,
nước, bánh kẹo, than quặng, kim loại .
Trường hợp cuối kỳ có nhiều sản phẩm dở dang & không ổn định, cần
tổ chức đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo phương pháp thích hợp.
Trên cơ sở số liệu CPSX đã tập hợp trong kỳ & chi phí của sản phẩm dở
dang đã xác định, tính giá thành sản phẩm hoàn thành cho từng khoản mục
chi phí theo công thức:
Z = C + D
đk

- D
ck
Giá thành đơn vị sản phẩm tính như sau: z=
Nguyễn Hồng Hà
17
Z
Q
Trong đó:
Z, z: Tổng giá thành đơn vị sản phẩm, lao vụ sản xuất thực tế.
C: Tổng chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ theo từng đối tượng.
D
đk
, D
ck
: Chi phí của sản phẩm dở dang đầu kỳ & cuối kỳ.
Q: Sản lượng sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
Trường hợp cuối kỳ không có sản phẩm dở dang hoặc có nhưng ít & ổn
định nên không cần tính chi phí của sản phẩm dở thì tổng chi phí sản xuất đã
tập hợp trong kỳ cũng đồng thời là tổng giá thành sản phẩm hoàn thành: Z =
C.
*Phương pháp thứ hai: Phương pháp hệ số:
Phương pháp tính giá thành sản phẩm theo hệ số áp dụng đối với
những DN trong cùng một quy trình công nghệ sản xuất, cùng sử dụng một
loại nguyên liệu, vật liệu, nhưng kết quả sản xuất thu được nhiều loại sản
phẩm khác nhau như DN sản xuất hoá chất, công nghiệp hoá dầu, công
nghiệp nuôi ong. Khi đó đối tượng tập hợp CPSX là toàn bộ quy trình công
nghệ sản xuất, còn đối tượng tính giá thành là từng loại sản phẩm hoàn
thành.
Theo phương pháp này muốn tính được giá thành cho từng loại sản
phẩm phải căn cứ vào tiêu chuẩn kỹ thuật để xác định cho mỗi loại sản phẩm

một hệ số tính giá thành, trong đó lấy loại sản phẩm có hệ số bằng 1 làm sản
phẩm tiêu chuẩn. Căn cứ vào sản lượng thực tế hoàn thành của từng loại sản
phẩm & hệ số tính giá thành quy ước cho từng loại sản phẩm để quy đổi sản
lượng thực tế ra sản lượng tiêu chuẩn (sản phẩm có hệ số bằng1).
Gọi H
i
là hệ số tính giá thành quy ước của sản phẩm i
Q
i
là sản lượng sản xuất thực tế của sản phẩm i
Tính quy đổi sản lượng thực tế ra sản lượng tiêu chuẩn
Q = ∑Q
i
x H
i
Nguyễn Hồng Hà
18
Trong đó Q: Tổng sản lượng thực tế hoàn thành quy đổi ra sản lượng sản
phẩm tiêu chuẩn.
Tính tổng giá thành & giá thành đơn vị của từng loại sản phẩm

Z
i
=
z
i
=
*Phương pháp thứ ba: Phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ.
Phương pháp tính giá thành sản phẩm theo tỷ lệ áp dụng thích hợp đối
với doanh nghiệp mà cùng một quy trình công nghệ sản xuất, kết quả sản

xuất được nhóm sản phẩm cùng loại, với nhiều chủng loại phẩm cất, quy
cách khác nhau như sản xuất nhóm ống nước với nhiều kích thước đường
kính & độ dài khác nhau, sản xuất quần áo dệt kim với nhiều cỡ số khác
nhau, sản xuất chè hương với nhiều phẩm cấp khác nhau.
Trong trường hợp này, đối tượng tập hợp CPSX là toàn bộ quy trình
công nghệ sản xuất của nhóm sản phẩm, còn đối tượng tính giá thành sẽ là
từng quy cách sản phẩm trong nhóm sản phẩm đó. Để tính giá thành thực tế
cho từng quy cách của sản phẩm có thể áp dụng phương pháp tính hệ số
hoặc phương pháp tỷ lệ.
Tính giá thành sản phẩm theo phương pháp tỷ lệ phải căn cứ vào tiêu
chuẩn phân bổ hợp lý và chi phí sản xuất đã tập hợp để tính ra tỷ lệ tính giá
thành. Tiêu chuẩn phân bổ thường là giá thành kế hoạch hoặc giá thành định
mức. Sau đó tính giá thành cho từng thứ sản phẩm.
Cách tính như sau:
Nguyễn Hồng Hà
19
D
đ
k
+ C - D
ck
x Q
i
H
i
Q
Z
i
Q
i

Tỷ lệ tính giá thành
từng khoản mục =
Giá thành thực tế cả nhóm sản phẩm (theo từng khoản mục)
Tổng tiêu chuẩn phân bổ (theo từng khoản mục)
Giá thành thực tế = Tiêu chuẩn phân bổ của từng x Tỷ lệ tính giá
thành từng qui cách (theo từng khoản mục) khoản mục.
Sản phẩm chính còn thu được sản phẩm phụ. Ví dụ nhà máy đường cung
một qui trình công nghệ ngoài sản phẩm chính là đương kính, còn thu được
sản phẩm phụ là rỉ đường; nông trường chăn nuôi lợn thịt thì ngoài sản phẩm
chính là sản lượng lợn thịt, còn có sản phẩm phụ là phân bón.
Trong qui trình sản xuất, kêt quả sản xuất thu được sản phẩm đủ tiêu
chuẩn chất lượng qui định, còn có sản phẩm hỏng không sửa chữa được, mà
các khoản thiệt hại này không được tính cho sản phẩm hoàn thành.
Đối với các phân xưởng sản xuất phụ có cung cấp sản phẩm hoặc lao vụ
lẫn cho nhau, cần loại trừ ra khỏi giá thành của sản phẩm, lao vụ phục vụ
cho sản xuất chính hoặc bán ra ngoài.
Trong các trường hợp này, đối tượng tập hợp chi phí là toàn bộ qui trình
công nghệ sản xuất, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm chính, sản
phẩm hoàn thành và sản phẩm lao vụ phục vụ cho các bộ phận không phải là
sản xuất phụ.
Muốn tính được giá thành của các đối tượng tính giá thành, phải lấy tổng
chi phí sản xuất đã được tập hợp loại trừ chi phí của sản phẩm phụ, chi phí
thiệt hại sản phẩm hỏng không được tính trong giá thành sản phẩm, chi phí
phục vụ lẫn nhau trong nội bộ các phân xưởng sản xuất phụ. Công thức tính
giá thành của sản phẩm là:
Z = C + D
đk
- D
ck
- C

lt
Trong đó:
Z: Là tổng giá thành của đối tượng tính giá thành.
C: Là tổng chi phí sản xuất đã tổng hợp.
Nguyễn Hồng Hà
20
Dđk và Dck: Là chi phí sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ.
Clt: Là chi phí cần loại trừ ra khỏi tổng giá thành của các đối tượng
tính giá thành.
Để đơn giản tính toán chi phí loại trừ (Clt) thường được tính như sau:
Đối với sản phẩm phụ có thể tính giá thành theo giá thành kế hoạch hoặc
có thể lấy giá bán phụ trừ lợi nhuận định mức.
Đối với sản phẩm hỏng tính theo giá thành thực tế như đối với sản phẩm
hoàn thành hoặc căn cứ vào quyết định xử lý của lãnh đạo.
Đối với sản phẩm hoặc lao vụ sản xuất phụ cung cấp lẫn nhau có thể tính
theo giá thành đơn vị kế hoạch, hoặc tính theo chi phí ban đầu.
*Phương pháp thứ tư: Phương pháp cộng chi phí:
Phương pháp cộng chi phí áp dụng đối với doanh nghiệp có qui trình
công nghệ phức tạp, quá trình chế biến sản phẩm qua nhiều bộ phận sản xuất
(bước chế biến) có sản phẩm dở dang như: Doanh khai thác, dệt, nhuộm, cơ
khí, chế tạo, may măc.
Đối tượng hạch toán chi phí là qui trình công nghệ của từng giai đoạn (
từng bước chế biến).
Đối tượng tính giá thành là sản phẩm hoàn thành ở các bước chế biến
giá thành sản phẩm hoàn thành ở bước cuối cùng là tổng chi phí đã phát sinh
ở các bước chế biến và tính như sau:
Nếu gọi C
1
, C
2

C
n
là chi phí tổng hợp được ở giai đoạn sản xuất.
Z = D
đk
+ C
1
+ C
2
+ + C
n
- D
ck
z = z/Q
tp
*Phương pháp thứ năm: Phương pháp tính giá thành liên hợp:
Là kết hợp nhiều phương pháp tính giá thành khác nhau như kết hợp
phương pháp trực tiếp, phương pháp hệ số, phương pháp tỷ lệ, phương pháp
Nguyễn Hồng Hà
21
cộng chi phí, phương phương pháp tính giá thành liên hợp áp dụng đối với
doanh nghiệp sản xuất hoá chất, dệt kim, đóng giầy, may mặc.
*Phương pháp thứ sáu: Phương pháp tính giá thành theo định mức:
Ap dụng: Doanh nghiệp xây dựng được định mức kinh tế kỹ thuật
hoàn chỉnh.
z
tt
= z
đm
± chênh lệch do thay đổi định mức ± chênh lệch thoát ly định mức.

1.2. Chi phí quản lý kinh doanh và giá thành sản phẩm
1.2.1. Sự cần thiết phải quản lý chi phí kinh doanh và giá thành
sản phẩm của doanh nghiệp
Trong công tác quản trị doanh nghiệp, chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm là hai chỉ tiêu kinh tế quan trọng luôn được các nhà quản lý quan
tâm vì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là chỉ tiêu phản ánh hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông qua những thông tin về chỉ tiêu chi phí sản xuất kinh doanh do
bộ phận kế toán cung cấp, những người quản lý doanh nghiệp nắm được chi
phí sản xuất của từng bộ phận, từng khoản mục, từng loại sản phẩm, lao vụ
cũng như toàn bộ hoạt động kinh doanh của toàn bộ doanh nghiệp. Qua đó
để đánh giá phân tích tình hình thực hiện các định mức chi phí và dự toán
chi phí, tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm để có quyết định
quản lý phù hợp.
Còn về chỉ tiêu giá thành, đây là thước đo hao phí sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm, là căn cứ xác định hiệu quả kinh doanh. Để quyết định sản xuất
một loại sản phẩm nào đó, doanh nghiệp cần nắm được nhu cầu thị trường,
giá cả và mức hao phí sản xuất tiêu thụ sản phẩm đó. Trên cơ sở như vậy
mới xác định được hiệu quả của sản phẩm đó và quyết định khối lượng sản
xuất để đạt được lợi nhuận tối đa. Thông qua tình hình thực hiện kế hoạch
giá thành, doanh nghiệp có thể xem xét tình hình sản xuất và chi phí bỏ vào
Nguyễn Hồng Hà
22
sản xuất, tác động đến hiệu quả thực hiện các biện pháp kỹ thuật sản xuất.
Phát hiện và tìm ra các nguyên nhân dẫn đến các chi phí phát sinh không
hợp lý để có biện pháp loại trừ. Giá thành là căn cứ quan trọng để doanh
nghiệp xây dựng và thực hiện chính sách giá cả đối với từng sản phẩm.
1.2.2. Nội dung công tác quản lý chi phí kinh doanh và giá thành
sản phẩm
Để quản lý tốt chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm thì công tác

hạch toán kế toán phải được đặt lên hàng đầu. Hạch toán kế toán là một bộ
phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế, tài chính có
vai trò tích cực trong việc quản lý điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh
tế. Để đảm bảo phát huy tác dụng của công cụ kế toán đối với doanh nghiệp
cần thiết phải có sự tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất vào giá thành. Đây
cũng là điều kiện cho việc phân tích đánh giá, tổ chức quản lý và sản xuất
hợp lý nâng cao hiệu quả quản trị đảm bảo cho sự tồn tại lâu dài của doanh
nghiệp.
Riêng đối với ngành XDCB việc hạch toán đúng chi phí sản xuất và
tính đủ giá thành càng trở nên quan trọng và có tính quyết định bởi sự tác
động của những đặc điểm như giá cả biến động trong những thời điểm khác
nhau của xây dựng, nhu cầu công nhân khác nhau, nhu cầu xây dựng cơ bản
không như nhau. Thông qua chỉ tiêu giá thành ta có thể xác định được kết
quả của quá trình sản xuất kinh doanh, thúc đẩy sự sáng tạo, tìm tòi phương
án giải quyết công việc có hiệu quả.
Để phát huy hết vai trò của mình, việc tổ chức hạch toán kinh tế chi
phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phải đạt được những yêu cầu:
- Phản ánh kịp thời, chính xác toàn bộ chi phí thực tế phát sinh trong
quá trình sản xuất . Tính toán chính xác, phân bổ kịp thời giá thành xây lắp
theo đối tượng tính giá thành .
Nguyễn Hồng Hà
23
- Phân bổ hợp lý các chi phí sản xuất theo từng khoản mục vào các đối
tượng tập hợp chi phí, áp dụng phương pháp tính giá thành thích hợp.
- Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức về chi phí vật liệu, lao
động sử dụng máy, kiểm tra dự toán chi phí gián tiếp, phát hiện kịp thời các
khoản mục chi phí chênh lệch ngoài định mức, ngoài kế hoạch, đề ra các
biện pháp ngăn ngừa kịp thời.
- Kiểm tra việc thực hiện giá thành theo từng khoản mục chi phí, theo
từng hạng mục công trình, vạch ra các khả năng tiềm tàng và đề ra các biện

pháp hạ giá thành sản phẩm.
- Thông qua ghi chép, phản ánh tính toán để đánh giá có hiệu quả sản
xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Kịp thời lập báo cáo kế toán về chi
phí và lập giá thành theo quy định của cơ quan chủ quản cấp trên.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá tình hình chi phí kinh doanh và giá
thành sản phẩm
Với các yêu cầu trên, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm bao gồm các chỉ tiêu sau:
- Xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, lựa chọn phương
pháp tập hợp chi phí sản xuất và phân bổ chi phí sản xuất thích hợp
- Xác định đúng đối tượng tính giá thành và lựa chọn phương pháp
tính giá thành thích hợp.
- Xây dựng quy tắc tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm của
doanh nghiệp. Quy định trình tự công việc, phân bổ chi phí cho từng đối
tượng, từng sản phẩm chi tiết.
1.3. Tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm
1.3.1. ý nghĩa của giảm chi phí kinh doanh và hạ giá thành sản
phẩm của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường
Nguyễn Hồng Hà
24
Cơ chế thị trường hình thành và phát triển ở Việt Nam đã đẩy các
doanh nghiệp từ chỗ được bao cấp hoàn toàn sang việc hạch toán độc lập lời
ăn lỗ chịu theo đúng quy luật của thị trường. Từ chỗ chỉ lo làm kế hoạch
không phải lo đầu vào, đầu ra cũng không phải trả lời câu hỏi sản xuất kinh
doanh cái gì? Như thế nào? Cho ai? các doanh nghiệp hiện nay đã phải trả
lời câu hỏi này và phải xem xét, phận tích đánh giá vấn đề này một cách kỹ
lưỡng. Muốn tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường với sự cạnh tranh
quyết liệt thì doanh nghiệp phải tự khẳng định mình. Cơ chế thị trường khó
bán hơn mua thì sự cạnh tranh quyết liệt để bán được hàng là điều tất yếu.
Để có sức mạnh cạnh tranh trên thị trường doanh ngiệp cần đổi mới, cải tiến

sản xuất kinh doanh, mở rộng nâng cấp trang thiết bị cũ, tổ chức lại bộ máy
quản lý cũ và điều quan trọng hơn là doanh nghiệp cần có hạch toán thu chi
một cách chính xác và có các quyết định đúng đắn kịp thời. Để đạt được các
điều kiện trên doanh nghiệp cần phải có các thông tin kinh tế cần thiết.
Thông tin kinh tế này có hai loại:
+Thông tin phục vụ bên ngoài
+ Thông tin phục vụ bên trong
Các thông tin phục vụ bên ngoài chủ yếu phục vụ các cơ quan quản lý
vĩ mô của nhà nước, cơ quan chủ quản do đó mang tính bắt buộc thống nhất
kiểm tra được, Ngoài ra các thông tin kinh tế phuc vụ cho nhiều đối tượng
khác nhau: bạn hàng , khách hàng… Tuy nhiên các doanh nghiệp cũng phải
hiểu biết hết sức rõ ràng về bản thân mình thì mới có các quyết định đúng
đắn. Về bản chất thì hoạt động quản trị chi phí kinh doanh là quá trình chuẩn
bị và ra các quyết định quản trị do vậy bộ máy quản trị cần nắm rõ các thông
tin hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới các quyết định quản trị
Như vậy, có thể nói thông tin bên trong đặc biệt quan trọng hay quản
trị chi phí kinh doanh là công cụ chủ yếu cung cấp thông tin kinh tế bên
trong bộ máy quản trị doanh nghiệp làm cơ sở cho việc ra quyết định quản
trị nên nó trở thành một công cụ chủ yếu không thể thiếu của quản trị doanh
Nguyễn Hồng Hà
25

×