Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

xây dựng website bán hàng cho công ty cổ phần chế biến gỗ việt đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.34 KB, 72 trang )

Chương I
YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI
1. Về mặt ứng dụng.
Xây dựng hệ thống quản lý các dịch vụ bán hàng trên mạng, trong đó hệ
thống cho phép các dịch vụ đăng ký một không gian để bán những mặt
hàng mình có trên mạng. Mỗi dịch vụ sẽ có một account riêng trong hệ
thống, họ có thể cập nhật các mặt hàng, thay đổi thông tin của dịch vụ và
quản lý những đơn đặt hàng của khách mua hàng thông qua hệ thống.
Tuy nhiên, dịch vụ hay mặt hàng của dịch vụ chỉ thực sự hoạt động khi đã
thanh toán những chi phí cần thiết cho hệ thống. Đối với những khách
hàng vào hệ thống để mua hàng, hệ thống phải hỗ trợ sao cho khách hàng
có thể tìm kiếm, chọn và đặt hàng một cách dễ dàng. Khi khách hàng đặt
mua sản phẩm, hệ thống sẽ chuyển đơn đặt hàng này đến dịch vụ bán
hàng. Việc giao và nhận hàng diễn ra nội bộ giữa người bán với người
mua, hệ thống không tham gia trực tiếp vào việc bán hàng. Hệ thống
đóng vai trò như một siêu thị ảo, môi giới cho khách mua hàng với dịch
vụ.
 Về phía khách hàng
 Các khách hàng có thể đăng kí mua hàng, cũng như việc xem và
lựa chọn những sản phẩm qua mạng nếu họ đồng ý với những sản phẩm
đó.
 Khách hàng có thể dễ dàng xem hàng, hoặc đăng ký mua hàng bất
cứ lúc nào thông qua mạng máy tính khi mà máy chủ đã khởi động.
1
 Các khách hàng có thể dễ dàng tìm thấy sản phẩm mà mình cần,
việc đăng kí mua hàng chỉ thông qua thao tác nhấn chuột trên sản phẩm
mà mình lựa chọn.
 Các khách hàng còn có thể theo dõi được những sản phẩm mới mà
công ty chuẩn bị bán ra trong một thời gian sắp tới.
 Khi cần thiết thì khách hàng có thể hỏi đáp thông qua công ty, hoặc
thông qua diễn đàn nhằm góp ý cũng như việc thắc mắc với công ty. Diễn


đàn sẽ giúp cho khách hàng giải quyết các vấn đề mà mình không giải
quyết được.
 Về phía người quản lý
 Người quản lý có thể theo dõi thành viên, đơn hàng của các khách
hàng đang tham gia mua hàng của công ty mình (như số lượng mặt hàng,
số tiền, của khách hàng …) và nắm các thông tin của khách hàng như
email, địa chỉ để liên lạc khi cần.
 Người quản lý có thể thêm sản phẩm, xoá sản phẩm, thêm người
quản lý, người sử dụng thông qua chương trình đã được xây dựng.
2. Về mặt kỹ thuật
Bài toán đòi hỏi hệ thống phải có những khả năng về kỹ thuật như sau:
Ứng dụng triển khai trên môi trường JSP.
Hỗ trợ nhiều hệ điều hành (cho phía client).
Hỗ trợ nhiều trình duyệt (như IE, Netscape )
Hỗ trợ nhiều người dùng.
Số lượng người tham gia đăng ký mua hàng không giới hạn.
Số lượng các sản phẩm, người đăng ký sử dụng thêm vào không giới hạn.
2
3. Một số yêu cầu khác
Ngoài các yêu cầu trên, ứng dụng có thể:
Dễ dàng cài đặt.
Dễ dàng sử dụng.
Như vậy, trước những yêu cầu của bài toán đặt ra như trên, ta cần khảo
sát công nghệ và lựa chọn giải pháp thích hợp để có thể triển khai ứng
dụng theo yêu cầu của bài toán.
3
Chương II
NGÔN NGỮ LẬP TRÌNH JAVA ĐỐI VỚI
ỨNG DỤNG MẠNG
I. GIỚI THIỆU NGÔN NGỮ LẬP TRÌNH JAVA.

Ông tổ của Java không ai khác chính là James Gosling, một lập trình viên
của công ty Sun Microsystems. Cuối năm 1990 James Gosling được Sun
Microsystem giao nhiệm vụ xây dựng một phần mềm cho các mặt hàng
điện dân dụng với mục tiêu nhỏ gọn và tương thích với nhiều thiết bị
phần cứng khác nhau, thế là Java ra đời. Đầu tiên Java có tên là Oak (cây
sồi) nhưng vì có sự trùng tên nên Oak được đổi tên thành Java như hiện
nay.
Java được thiết kế cho mục đích đa nền (không phụ thuộc vào bất kỳ hệ
điều hành nào) nên chương trình Java sau khi biên dịch cho ra một file
nhị phân khác với các file nhị phân thực thi của Windows như .exe hay
.com. java biên dịch ra mã nhị phân gọi là byte-code có đuôi mở rộng
là .class và được triệu gọi thực thi trong máy ảo Java (Java Virtual
Machine – JVM). Máy ảo Java thực sự là một trình thông dịch bình
thường có khả năng thực thi các mã byte-code tương tự như bộ xử lý của
máy tính thực thi các mã nhị phân là các chỉ thị mã máy. Nói đúng hơn
máy ảo Java là một kiến trúc của bộ xử lý nhưng thực thi bằng cơ chế
phần mềm thay vì phần cứng. Chính vì lý do đó mà ta chỉ cần viết máy ảo
Java cho từng hệ điều hành thì chương trình Java (.class) có thể chạy như
nhau trong mọi hệ điều hành dưới nền một kiến trúc máy ảo. Cha đẻ của
Java là hãng Sun Microsystem chịu trách nhiệm xây dựng các máy ảo
Java cho những hệ điều hành khác nhau. Nhiệm vụ của lập trình viên là
4
chỉ viết chương trình mã nguồn Java sau đó biên dịch chương trình ra
dạng file thực thi byte-code để chạy trên máy ảo.
Java có thể dùng để viết chương trình ứng dụng tương tự như mọi ngôn
ngữ lập trình khác. Java thiên về lập trình cho các ứng dụng mạng và
Internet. Ngoài ra ta có thể dùng Java để viết các Applet hoặc Servlet hay
trang JSP là những thành phần ứng dụng dành cho trình duyệt Internet
(browser) và trình chủ (Web server).
Java là một ngôn ngữ đơn giản, hướng đối tượng, phân tán, thông dịch

mạnh mẽ, bảo mật, cấu trúc độc lập, khả chuyển, hiệu quả cao và linh
động (the Java TM Language an Overview – sun Microsystems). Đó là
những đặc điểm quan trọng mà không phải bất cứ một ngôn ngữ lập trình
nào cũng có được.
Applet là những mẫu chương trình nhỏ được nhúng và chạy ngay trong
trình duyệt. Applet giúp bạn thực hiện được rất nhiều tương tác bên trong
trình duyệt. Có thể nói Java ra đời và nổi tiếng chính là nhờ khả năng viết
Applet của nó. Mặc dù vậy, ngày nay các Applet không còn được sử dụng
nhiều trên các trình duyệt. Chúng được thay thế bằng ngôn ngữ kịch bản
JavaScript. Tuy nhiên vẫn còn nhiều điều mà Applet có khả năng lập
trình mạnh mẽ hơn JavaScript như giao tiếp với Web server, thực hiên
công việc tính toán phức tạp, vẽ đồ thị, bảo mật…
Servlet là một thành phần đối tượng chủ yếu phục vụ cho mục đích tích
hợp và chạy trên các trình chủ Web server. Servlet giúp xử lý và tạo ra
các trang Web động. Servlet có thể kết hợp với các trang Java Server
Page - JSP là các trang Script chạy phía máy chủ để tạo các trang Web
động, tương tác với cơ sở dữ liệu tương tự như Servlet.
JavaScript và Java hoàn toàn khác nhau, mặc dù thoáng nghe đến tên gọi
bạn có thể nghĩ rằng chúng đều xuất phát từ Java. JavaScript là một ngôn
ngữ kịch bản ra đời và phát triển bởi Nescape Communication trong khi
5
Java được phát triển bởi Sun Mcrosystem. Mặc dù vậy, ngày nay chúng
trở nên thân thiết và gần gũi với nhau hơn bao giờ hết. Java và JavaScript
có cú pháp lập trình rất giống nhau và rất giống với C/C++ nên rất thuận
tiện để người dùng học cả hai ngôn ngữ song song với nhau. JavaScript
thường được dùng để kiểm soát và điều khiển các hoạt động của trình
khách. JavaScript có thể tạo các hiệu ứng động cho trang Web như thay
đổi màu sắc, hiển thị ảnh động, tương tác với người dùng bằng chuột,
phím, kiểm tra dữ liệu nhập vào trước khi gởi về trình chủ để xữ lý.
JavaBeans là một thành phần đối tượng được xây dựng từ ngôn ngữ Java,

là những khối mã xây dựng sẵn và có thể dùng lại được. Nó đang trở nên
ngày càng phổ biến đối với các ứng dụng phân tán (distributed
application) trên mạng.
Java Server Page - JSP đặc biệt cung cấp cho những nhà phát triển Web
một nền tảng để tạo ra các nội dung động trên máy chủ sử dụng HTML
và XML, vì mã Java có tính bảo mật, nhanh, và độc lập với máy chủ. JSP
là phần mở rộng đặc biệt của Java Servlet, đơn giản hơn Servlet. JSP
được nhúng vào các trang HTML để tạo ra các trang động từ trình chủ
phục vụ cho trình khách.
Trên đây là một số đặc tính quan trọng và các nhánh phát triển của ngôn
ngữ Java. Với những đặc tính mạng mẽ như vậy, Java là sự lựa chọn tốt
nhất cho các ứng dụng mạng.
Applet Java:
Applet như đã nói là những mẫu chương trình nhỏ chạy ngay trong trình
duyệt và tương tác với trình duyệt. Vì applet đã nói là những mẫu chương
trình nhỏ chạy ngay trong trình duyệt và tương tác với trình duyệt. Vì vậy
applet phải tuân thủ theo một cấu trúc nhất định để có thể chạy được trên
các trình duyệt khác nhau.
6
1. Tạo một applet:
Khuôn mẫu của một applet thể hiện ở bốn phương thức sau:

Trong đó :
appletName: tên của applet.
Init: để khởi tạo một applet khi một applet được nap (loaded) hay được
nạp lại (reloaded).
Start: bắt đầu hoạt động của applet khi applet được nạp hay khi người
dùng thăm lại trang chứa applet.
Stop: chấm dứt hoạt động của applet khi người dùng rời khỏi trang chứa
applet hay đóng trình duyệt.

Destroy: thực hiện việc dọn dẹp chuẩn bị cho applet thoát hẳn
(unloading).
Không phải applet nào cũng dùng đủ 4 phương thức này, các phương
thức bị bỏ qua khi viết một applet sẽ được trình duyệt tự thực hiện khi
nạp applet đó.
* Vòng đời của một applet:
Nạp một applet:
Khi một applet được nạp có các sự kiện xảy ra như sau:
7
Một instance của lớp con applet được tạo ra, có nghĩa là một đối tượng
applet được tạo ra.
Đối tượng applet này tự khởi tạo mình, có nghĩa là tự cài đặt, nhận các
giá trị (phương thức init() được gọi đến).
Đối tượng applet này bắt đầu chạy (phương thức start() được gọi).
Rời khỏi hay trở về trang Web:Khi người dùng sang trang mới (không
chứa applet của ta), applet thực hiện phương thức stop(). Khi người dùng
trở về trang chứa applet, applet lại kích hoạt phương thức start(). Quá
trình này cũng xảy ra khi người dùng thu nhỏ cửa sổ (minimize) rồi mở
lại (restore).
Nạp lại một applet:Thông thường các trình duyệt cho phép người dùng
nạp lại applet, nghĩa là người dùng đã thoát khỏi applet rồi lại nạp applet
lại một lần nữa. Vì mỗi khi thoát khỏi applet phương thức stop() sẽ được
gọi, sau đó destroy sẽ được gọi để thực hiện việc dọn dẹp cho hệ thống.
Như thế applet sẽ giải phóng tất cả các tài nguyên mà nó đã dùng. Cuối
cùng applet chính thức bị xoá bỏ khỏi bộ nhớ. Và khi được nạp lại, quá
trình nạp sẽ xảy ra y như lần đầu applet được nạp.
Thoát khỏi trình duyệt: Khi ta chưa đóng trang Web chứa applet mà đã
thoát khỏi trình duyệt, applet sẽ lập tức tự khởi động phương thức stop()
rồi thực hiện phương thức dọn dẹp destroy() trước khi trình duyệt bị
đóng.

2. JavaBeans.
JavaBeans do Sun Microsystem phát triển dựa trên nền tản của Java.
JavaBeans là những giao tiếp lập trình được dùng để tạo ra những khối
mã xây dựng sẵn và có thể dùng lại được. Những thành phần JavaBeans
có thể được nhúng vào trong một ứng dụng, liên kết với các thành phần
JavaBeans khác hay được dùng để kết nối với các ứng dụng. Bằng cách
8
dùng các thành phần JavaBeans các nhà phát triển ứng dụng có thể giảm
các khối lượng mã mà họ phải viết. Họ có thể tự tạo ra các thành phần
JavaBeans riêng biệt hoặc mua lại chúng từ các nhà phát triển thứ ba
khác.
Trong thời gian qua, môi trường Internet đã trở thành động lực chính cho
hướng tiếp cận thành phần (component) dựa trên Java. Nó đang trở nên
ngày càng phổ biến với các ứng dụng phân tán (distributed application)
trên mạng. Theo mô hình này một thành phần của ứng dụng sẽ chạy trên
máy khách (client), một phần chạy trên lớp trung gian, phần còn lại sẽ
chạy trên máy chủ (server) với tác vụ xử lý cơ sở dữ liệu hay tính toán
phức tạp. Các ứng dụng Java xây dựng bằng các thành phần JavaBeans
có thể đáp ứng cho cả hai phía client và server.
Không có một bí ẩn nào trong việc tạo ra một lớp đối tượng JavaBeans.
Ta xây dựng lớp đối tượng JavaBeans bằng cách cài đặt giao diện
(interface) java.io.Serializable. Tiếp đến ta thiết lập và xây dựng các
phương thức mang tên get, set để trình bày cách gọi những thuộc tính của
Beans trong trang JSP.
Cấu trúc của một đối tượng Beans như sau:

9
Các thuộc tính (property) của thành phần JavaBeans:
Thuộc tính là một trong những khía cạnh quan trọng nhất trong
JavaBeans, thuộc tính biểu diễn những trạng thái (state) mà một thành

phần JavaBeans có thể có. Người dùng đa số tương tác với JavaBeans
qua các thuộc tính của nó. Bằng cách thay đổi các thuộc tính các nhà phát
triển ứng dụng sẽ đem đến cho đối tượng thành phần một diện mạo
(apperance) và một cách hành xử (behavior) khác.
Thuộc tính thể hiện sự thay đổi (bound property):
JavaBeans là từng thành phần riêng biệt nhưng vẫn có thể kết nối được
với nhau qua cơ chế gởi thông báo (message). Khi thuộc tính của một
thành phần JavaBeans A thay đổi nó có thể thông báo cho một thành phần
JavaBeans B khác biết để thành phần JavaBeans B này có cơ hội cập nhật
lại những thông tin cần thiết đối với thành phần A mà nó sử dụng.
Cơ chế cài đặt một thuộc tính có thể thông báo cho các thành phần
JavaBeans khác biết khi nó thay đổi như sau: cài đặt hai phương thức
dùng để đăng ký và loại bỏ một đối tượng listener.

Mỗi thành phần JavaBeans khác phải tự cài đặt một đối tượng listener từ
giao diện PropertyChangeListtener có nhiệm vụ phản ứng lại những thay
10
đổi này, sau đó đăng ký lại với thành phần JavaBeans A nhờ vào các
phương thức trên.
Phương thức cần cài đặt cho giao diện PropertyChangeListtener là:

Các thủ tục trên đây chỉ thực hiện nhiệm vụ đăng ký và tạo đối tượng
listener mà thôi. Để các đối tượng listener có thể nhận biết sự thay đổi
của thuộc tính, ta phải gọi phương thức firePropertyChange của đối tượng
PropertyChangeSupport từ thành phần JavaBeans A như sau:

Phương thức này sẽ thông báo đến mọi đối tượng listener (bằng cách gọi
phương thức propertyChange của listener) đã đăng ký với thuộc tính của
thành phần JavaBeans A, sự thay đổi bao gồm giá trị trước khi thay đổi,
giá trị sau khi thay đổi và tên của thuộc tính bị thay đổi.

Thuộc tính ràng buộc (constraint property):
Hạn chế của thuộc tính bound property là các đối tượng listener chỉ phản
ứng lại khi giá trị thuộc tính đã bị thay đổi. Java cung cấp một khả năng
khác mạnh hơn đó là tạo thuộc tính bị ràng buộc (constraint property),
tương tự như thuộc tính bound mỗi lần thuộc tính constraint định thay
đổi giá trị (chỉ dự định chứ chưa thay đổi) nó sẽ thông báo đến tất cả các
đối tượng listener đã đăng ký, đối tượng listener có quyền từ chối không
cho phép thay đổi và như vậy thuộc tính vẫn phải giữ nguyên giá trị ban
đầu. Ngược lại nếu đối tượng listener cho phép thì quá trình thay đổi giá
trị cho thuộc tính mới diễn ra tiếp tục.
11
Để đăng ký đối tượng listener cho thuộc tính ràng buộc, thành phần
JavaBeans phải cài đặt hai phương thức sau đây:

Mỗi thành phần JavaBeans khác phải tự cài đặt một đối tượng listener từ
giao diện VetoableChangeListener có nhiệm vụ phản ứng lại những thay
đổi này (cho phép hay không cho phép thuộc tính thay đổi), sau đó đăng
ký với thành phần JavaBeans nhờ vào các phương thức trên (add dùng để
đăng ký còn remove dùng để loại bỏ đối tượng listener).
Phương thức cần cài đặt cho giao diện VetoableChangeListener là:

Nếu đối tượng listener không đồng ý thay đổi thuộc tính nó sẽ ném ra
ngoại lệ PropertyVetoException, thành phần JavaBeans sẽ bắt lấy và huỷ
bỏ quá trình thay đổi trị cho thuộc tính.
Cũng như thuộc tính dạng bound, khi thuộc tính constraint có dự định
thay đổi giá trị trong phương thức setter nó cần thông báo cho các đối
tượng listener đã đăng ký với nó bằng phương thức fireVetoableChange
của đối tượng VetoableChangeSupport từ thành phần JavaBeans như sau:

Phương thức này sẽ thông báo đến mọi đối tượng listener (bằng cách gọi

phương thức vetoableChange của listener) đã đăng ký với thành phần
JavaBeans.
12
* Xử lý tình huống của thành phần JavaBeans:
Đối tượng nào sản sinh ra tình huống được gọi là nơi phát sinh tình huống
(event source), đối tượng nào dùng để tiếp nhận và xử lý các tình huống
phát sinh từ đối tượng khác được gọi là đối tượng listener.
Các tình huống nội tại (event state):
Một thành phần JavaBeans ngoài việc gởi tình huống đến những đối
tượng khác còn phải lo xử lý các tình huống mà bản thân hệ thống gởi
đến mình.
Nếu xét về vai trò thì bản thân hệ thống là nơi phát sinh tình huống còn
thành phần JavaBeans phải tiếp nhận và xử lý các tình huống này.
Để nhận biết được tình huống mà hệ thống đưa đến, thành phần
JavaBeans phải xây dựng một đối tượng listener và đăng ký đối tượng
này với hệ thống. Các đối tượng mà Java đã thiết kế sẵn dành cho từng
tình huống cụ thể như sau:
ComponentListener Listener dùng để nhận biết các tình huống khi
đối tượng bị thay đổi kích thước (resize), di chuyển (move), hiện ra
(show) hay dấu đi (hidden).
FocusListener Listener nhận biết tình huống là Focus (là tình huống
mà đối tượng nhận nhiều quyền ưu tiên nhất)
KeyListener Listener nhận biết các tình huống xuất phát từ bàn phím.
MouseListener Listener nhận biết tình huống xuất phát từ việc bấm
chuột như kích chuột trái, kích chuột phải hay kích đôi.
MouseMotionListener Listener nhận biết tình huống di chuyển chuột.
WindowListener Listener nhận biết tình huống một cửa sổ bị đóng lại,
mở ra, thu nhỏ thành biểu tượng…
13
ActionListener Listener nhận biết tình huống mà đối tượng sẽ phải

thực thi một tác vụ nào đó.
AdjustmentListener Listener nhận biết tình huống mà đối tượng thay
đổi giá trị (như vị trí thanh trượt của thành phần scrollbar chẳng hạn).
ItemListenerListener nhận biết tình huống mà một phần tử thay đổi trạng
thái (như trong các thành phần checkbox, choice…).
Có hai cách để tạo đối tượng listener giúp thành phần JavaBeans tiếp
nhận tình huống mà hệ thống đưa đến. Cách thứ nhất là tạo ra một đối
tượng listener riêng biệt sau đó thành phần JavaBeans sẽ đăng ký với hệ
thống đối tượng listener này. Cách thứ hai là dùng chính bản thân thành
phần JavaBeans cài đặt cho giao diện listener và đăng ký với hệ thống
qua biến this.
3. Java Script.
3.1. JavaScript là gì?
Về nguồn gốc thì Java và JavaScript không liên quan gì với nhau. Java do
Sun Microsystem khởi xướng còn JavaScript tiền thân lại ra đời từ ngôn
ngữ đặc tả (scripting language) do hãng Netscape Communications đưa ra
với tên là LiveScript. Sau một thoả thuận giữa Sun và Netscape ngôn ngữ
LiveScript và Java đã cùng bắt tay nhau để tạo nên ngôn ngữ JavaScript.
Tuy nhiên Java và JavaScript vẫn khác nhau về cơ bản. Java là một ngôn
ngữ lập trình mạnh mẽ, có thể dùng để viết applet hay bất kỳ một ứng
dụng nào (chạy độc lập hoặc chạy trên mạng) còn JavaScript chỉ là một
ngôn ngữ đặc tả dùng để thay đổi tương tác với bản thân trình duyệt mà
thôi.
14
Sau đây là bảng so sánh các đặc điểm khác nhau cơ bản giữa hai ngôn
ngữ Java và JavaScript:
JavaScript Java
Phát triển từ Netscape Communications Phát triển từ sun
Microsystem
Các dòng lệnh được thông dịch bởi trình duyệt (brower). Các dòng lệnh

được biên dịch ra mã máy (JVM) trước khi cho thực thi.
Nền tảng dựa trên các đối tượng được xây dựng sẵn (object base). Các
đối tượng này không cho phép thừa kế để tạo ra những đối tượng mới.
Nền tảng dựa trên cơ sở hướng đối tượng (object oriented), tất cả
đều quy về đối tượng và có khả năng thừa kế để tạo ra những đối tượng
mới phong phú hơn.
Không cần phải khai báo dữ liệu trước khi sử dụng. Dữ liệu cần
phải khai báo tường minh trước khi sử dụng.
Ngăn cấm các chức năng truy xuất đĩa. Có thể truy xuất đĩa hay
không, do người lập tình quy định.
3.2. Cú pháp JavaScript:
Cú pháp JavaScript rất giống Java nhưng JavaScript sử dụng biến không
cần khai báo kiểu trong khi đối với Java điều này là bắt buộc.
Các đoạn mã lệnh của JavaScript được đặt trọn trong nội dung của trang
Web giữa hai thẻ:

Mã của JavaScript không thể dấu được vì nó hiện diện cùng với nội dung
trang Web. Nhưng ta có thể định nơi chứa mã nguồn bằng thuộc tính
SCR trong thẻ <SCRIPT> như sau:
15

Nếu Java hơi khô khan thì ngược lại JavaScript rất sống động với những
hình ảnh cũng như kỹ xảo dùng để tương tác với trang Web. JavaScript
cũng có thể điều khiển được Applet nếu như applet cho phép điều đó.
II. JAVA SERVER PAGE – JSP.
JSP là công nghệ rất mạnh để tạo ra trang HTML về phía trình chủ. JSP
là phần mở rộng trực tiếp của Java Servlet. Bộ diễn dịch JSP sẽ ánh xạ
trực tiếp mã Java thành Servlet. Viết JSP ta không cần trải qua quá trình
biên dịch tập tin thực thi .class như trong Servlet. JSP cung cấp mô hình
lập trình Web dễ dàng và tiệân dụng hơn Servlet.

1. Cú pháp cơ bản của JSP.
1.1. Sử dụng thẻ bọc mã <%%>.
Ưu điểm của trang JSP là khả năng nhúng mã Java giữa các thể
định dạng HTML. Mã Java được đặt trong cặp dấu <%%>. Bên trong mã
Java nếu muốn kết xuất dữ liệu HTML ta gọi phương thức println() của
đối tượng out. Đối tượng out là đối tượng mặc định được trình chủ Web
server cung cấp dùng để ghi kết xuất gửi về máy khách. Thẻ HTML và
mã Java có thể trộn lẫn lộn với nhau.
Ví dụ:
<html>
<b>
<% out.println(“Chao Ban”)
%>
</b>
</html>
16
1.2. Hiển thị kết xuất bằng cú pháp <%=%>
Thay vì sử dụng cú pháp <%%>để diễn đạt một khối gồm nhiều
lệnh ta có thể sử dụng cú pháp <%=%> chỉ để hiển thị kết xuất của một
giá trị biến hay hàm nào đó. Ví dụ:
<html>
Name<%= name%>
Search<%=search%><a href="searches.jsp?></a>
</html>
Trong ví dụ trên name là biến chứa tên topic mà ta cần tìm, search
là một hàm trả về tên tìm được. Chú ý, không có dấu (;) ở cuối các biến
hoặc biểu thức gọi hàm trong cú pháp <%=%>. Bởi vì nội dung của biểu
thức nằm trong <%=%> sẽ được chuyển thành lệnh out.println() tương
đương như sau:
out.println (“<html”);

out.println (“Name”+ name);
out.println(“</html”);
1.3. Chèn chú thích vào mã trang JSP.
Cũng như Java, JSP cho phép ta dùng cú pháp // để chú thích một dòng
mã lệnh trong khi cú pháp /* */ áp dụng cho nhiều dòng. Các dòng lệnh
chú thích này sẽ được bỏ qua khi trình chủ diễn dịch trang JSP.
<html>
// đây là chú thích một dòng
/*
Chú thích
nhiều dòng
*/
</html>
17
JSP còn cung cấp thêm cho ta cú pháp chú thích <% %>. Tất cả các
khối lệnh Java và HTML nằm giữa hai dấu chú thích này sẽ được trình
biên dịch trang bỏ qua không quan tâm đến. Ví dụ:
<%
out.println (“ Đoạn này trình biên dịch sẽ bỏ qua”)
%>
Dấu chú thích này rất có hiệu quả. Nó giúp ta tạm thời cô lập hoặc
che bỏ tác dụng của một đoạn mã Java nào đó đang bị lỗi trong trang JSP.
Ta chỉ tạm thời làm mất tác dụng của chúng chứ không cần xoá bỏ.
1.4. Khai báo phương thức và biến hằng <%!%>
Một cú pháp nữa mà JSP cung cấp đó là <%! %>. Cú pháp này
cho phép ta định nghĩa một hoặc nhiều phương thức và biến. Phương
thức và biến sau đó có thể được triệu gọi bất kỳ nơi đâu trong trang JSP.
2. Các đối tượng của JSP:
Trong JSP chúng ta có thể truy cập một số đối tượng của JSP mà không
cần phải khai báo. Trình dịch JSP sẽ nhận dạng những đối tượng này và

dịch sang trang Servlet.
2.1. Đối tượng Request:
Đối tượng Request đại diện cho đối tượng
javax.servlet.http.HttpServletRequest. Giao diện HttpServlet được định
nghĩa như một đối tượng truy cập đến thông tin header của giao thức
HTTP được gởi về trình khách. Đối tượng request thường được truyền
như đối số cho phương thức service(), ví dụ:

18
Một trong những ứng dụng thông thường nhất của đối tượng request là
nắm giữ các tham số. Chúng ta có thể thấy điều này bằng cách gọi
phương thức getParameter() của request. Phương thức này thừa kế từ lớp
cha là javax.ServletRequest. Phương thức này nhận tên tham số và trả về
giá trị chuỗi tương ứng với tên của tham số đó. Phương thức
getParameter() sẽ trả về giá trị của tham số mà nó giữ, nếu tham số này là
null, nó sẽ trả về giá trị null.
Ngoài ra, vì đối tượng request đại diện cho đối tượng
javax.servlet.http.HttpServletRequest nên có thể sử dụng các phương
thức của javax.servlet.http.HttpServletRequest trên request như
getSession(), getCookies(), getRemoteUser()…
2.2. Đối tượng Response:
Một đối tượng khác của JSP là đối tượng response. Đối tượng response
cho phép phản hồi thông tin xử lý từ trình chủ trở về trình duyệt. Hầu hết
ứng dụng thông thường của đối tượng response là dùng để xuất HTML ra
trình duyệt. Đối tượng response thường gọi phương thức getWriter() để
thực hiện kết xuất.
Các phương thức mà đối tượng respons thường sử dụng được liệt kê như
sau:
- response.sendRedirect(java.lang.String location): gởi đối tượng
response một lần nữa đến một trang JSP được chỉ định trong đối số của

phương thức.
- response.setContenType(java.lang.String type): Định dạng nội
dung xuất là kiểu type - đối số của phương thức.
2.3. Đối tượng Session:
19
Đối tượng session tham chiếu đến đối tượng
javax.servlet.http.HttpSession. Đối tượng session dùng để lưu các đối
tượng khác từ những yêu cầu của client. Chúng đưa ra hầu hết trạng thái
đầy đủ của HTTP.
Đối tượng session được khởi tạo bằng cách gọi phương thức
pageContext.getSession() để tạo ra trang servlet. Cú pháp như sau:

Khi cần một biến nào đó có giá trị toàn cục từ khi mở cho đến khi kết
thúc trình duyệt, ta chọn đối tượng session. Đối tượng session sẽ tạo biến
cục bộ cho phép lưu một giá trị nào đó từ trang JSP này đến trang JSP
khác trong suốt phiên làm việc của chúng ta.
Để đối tượng session có thể lưu giữ những biến của chương trình ta cần
phải khai báo như sau:

Trong đó name là tên biến value là giá trị của biến.
Khi cần truy xuất một biến nào đó của đối tượng session ta cần phải sử
dụng phương thức getAtribute() như sau: name chính là tên của biến mà
ta cần truy xuất.
2.4. Đối tượng Application:
Đối tượng application tham chiếu đến javax.servlet.ServletContext cho
phép lưu giữ cấu hình toàn cục của Servlet và JSP. Cách đối tượng
application khởi tạo như sau:

20
Trong đó pageContext là một đối tượng JspFactory.

Đối tượng application có phạm vi hoạt động ở cấp ứng dụng, nghĩa là có
thể giữ giá trị của tất cả các trang JSP ở những session khác nhau cho tới
khi JSP engine bị đóng lại.
Tương tự như session, ta có thể gọi phương thức application.setAtribute()
để lấy về giá trị lưu giữ trong application.
Phương thức application.setAtribute() được dùng để đặt trị cho biến cần
chứa trong application.
2.5. Đối tượng Out:
Đối tượng out đùng để ghi kết xuất gởi về trình duyệt. Đối tượng out hình
thành từ lớp java.io.Writer.
Ví dụ:

dùng để ghi câu “Hello world!” lên trình duyệt của máy khách.
2.6. Đối tượng Config:
Đối tượng config tượng trưng cho lớp ServletConfig, nó được định nghĩa
là đối tượng tạo bởi servlet chứa các thông tin cấu hình của servlet. Với
thông tin cấu hình này servlet sẽ truy cập đối tượng ServletContext.
Phương thức khởi dựng như sau:

pageContext là một đối tượng JspFactory.
Trong nhiều trường hợp ta không cần phải sử dụng đối tượng config.
Truy cập đến ServletContext thông qua đối tượng application cũng đạt
được kết quả tương tự.
21
2.7. Đối tượng Exception:
Đối tượng Exception chỉ tồn tại trong trang xử lý lỗi (error page). Nó
dùng để tham chiếu đến nguyên nhân gây ra lỗi mà trang xử lý lỗi có liên
quan.
Lỗi có thể xuất hiện trong quá trình hoạt động của trang JSP ở hai giai
đoạn: giai đoạn thứ nhất lỗi thường phát sinh ở bước khởi tạo. Ở bước

này trang JSP nhận yêu cầu từ trình khách và chuẩn bị thực thi, tuy nhiên
trước khi thực thi trang JSP cần được dịch ra mã .class của Java và quá
trình dịch có thể sinh lỗi. Lỗi ở bước này còn gọi là lỗi thời điểm dịch
(translation time error). Giai đoạn thứ hai, trang JSP có thể phát sinh lỗi
trong quá trình phản hồi các yêu cầu xử lý. Lỗi này được gọi là lỗi thời
điểm yêu cầu (request time error).
Kiểu lỗi JSP thứ nhất có thể xuất hiện khi trang JSP lần đầu tiên được
triệu gọi. Trang JSP sẽ đi qua quá trình biên dịch từ tâïp tin nguồn .jsp
thành mã Java .java sau đó được biên dịch thành đối tượng servlet ở mã
byte-code là tập tin .class. Lỗi ở giai đoạn này thường do quá trình biên
dịch thất bại hoặc do lỗi cú pháp khi thông dịch từ JSP sang mã nguồn
Java. Lỗi này thường được báo với trạng thái mã lỗi là 500 hoặc trình chủ
Web có thể thông báo những mã lỗi biên dịch của riêng Java. Lỗi tại thời
điểm dịch thường được quản lý bởi bộ thông dịch JSP (JSP engine).
Kiểu lỗi thứ hai của trang JSP liên quan đến quá trình xử lý các yêu cầu
(request). Những lỗi này còn được xem là lỗi lúc thực thi (runtime error).
Chúng có thể xuất hiên bên trong nội dung trang JSP hoặc xuất phát từ lời
gọi phương thức nào đó của một đối tượng. Thường đối với kiểu lỗi này
ngoại lệ (excepton) sẽ được phát sinh. Các ngoại lệ có thể bị đón bắt và
xử lý bởi các đoạn mã JSP thích hợp (thường là trong khối lệnh try{}
catch (Exception){}). Tuy nhiên đối với những ngoại lệ phát sinh nhưng
không được người ta viết trang JSP đón bắt xử lý thích hợp thì ngoại lệ và
22
lỗi sẽ được gởi đến bộ xử lý lỗi của trình biên dịch JSP. Bản thân trình
biên dịch JSP sẽ sinh ra trang thông báo mô tả cụ thể lỗi trả về cho trình
khách. Ta có thể hoàn toàn đón bắt và thay thế những trang thông báo lỗi
này sử dụng đối tượng exception.
Để tạo ra trang thông báo lỗi ta cần khai báo như sau:

3. Các hành động của JSP:

Hành động trong JSP là quá trình trừu tượng hoá việc thực thi hay yêu
cầu JSP thực hiện một nhiệm vụ nào đó.
a. Hành động <jsp:param>:
Hành động <JSP:param> được dùng để cung cấp và tạo các giá trị cho
các tham số theo dạng name/value. <JSP:param> thường dùng chung với
các hành động <JSP: include>, <JSP:forward>, <JSP: plugin>. Cú pháp
của hành động <JSP:param> được mô tả như sau:

Name: thuộc tính này trình bày tên của thông số tham chiếu.
Value: thuộc tính này trình bày giá trị của tên được tham chiếu.
b. Hành động <jsp:include>:
Hành động <JSP:include> cung cấp cấu trúc cho sự phối hợp tài nguyên
tĩnh và hành động của trang JSP hiện tại. Cú pháp của hành động này như
sau:

23

Page: thuộc tính này trình bày quan hệ đường dẫn của tập tin ta muốn
include.
Flush: thuộc tính này trình bày giá trị Boolean là true hay false.
Cú pháp đầu tiên mô tả yêu cầu nhúng (include) tập tin cần đưa vào trang
JSP. Cú pháp thứ hai chứa đựng phần tử con param được dùng để làm
tham số cho mục đích include.
c. Hành động <jsp: forward>:
Hành động <jsp: forward> cho phép trình dịch JSP gởi đi tại thời điểm
thực thi một yêu cầu hiện hành đến tài nguyên tĩnh, servlet, hay trang JSP
khác. Khi hành động này thực thi nó sẽ kết thúc trang hiện tại. Hành động
<jsp:forward> có thể chứa hành động <jsp: param>. Những thuộc tính
này cung cấp các giá trị cho thông số yêu cầu dùng cho việc chuyển
hướng.

Cú pháp của hành động <jsp: forward> được mô tả như sau:

24
Page: thuộc tính này diễn tả quan hệ URL của đích mà hành động <jsp:
forward> sẽ chuyển đến.
Hành động <jsp: forward> thường được dùng như một điều kiện trong
JSP để chuyển hướng xử lý.
d. Hành động <jsp:plugin>:
Hành động <jsp:plugin> cho phép JSP tạo trang HTML chứa đựng tính
hợp lệ của cấu trúc trình duyệt máy khách, ví dụ như đối tượng Object
hay đối tượng nhúng (Embed).
Hành động <jsp:plugin> tạo một thẻ <object> hay <embed> đưa ra dòng
xuất của đối tượng response.
Cú pháp của hành động <jsp:plugin> như sau:

Thuộc tính của hành động <jsp:plugin> cho phép cấu hình dữ liệu để
thể hiện phần tử đó.
Type: thuộc tính này thể hiện loại plugin cần đưa vào. Ta có thể dùng
applet làm một thành phần nhúng.
Code: thuộc tính này cho biết tên của lớp (class) sẽ được
nhúng.
Codebase: thuộc tính này là tham chiếu cơ sở hay đường dẫn
liên hệ đến tập tin plugin .class.
25

×