Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN VĂN THUẦN
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA LIỀU LƯỢNG
ĐẠM BÓN THÚC ĐẾN NĂNG SUẤT, CHẤT LƯỢNG
CỦA GIỐNG SẮN KM98-7 TẠI TRUNG TÂM
THỰC HÀNH THỰC NGHIỆM TRƯỜNG ĐẠI HỌC
NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: TRỒNG TRỌT
Mã số: 60 62 01
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN - 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Công trình được hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Thế Hùng
2. TS. Nguyễn Viết Hưng
Phản biện 1: PGS.TS. Trần Ngọc Ngoạn
Phản biện 2: TS. Lê Sỹ Lợi
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn họp tại:
Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên
Vào hồi 09 giờ 00' ngày 06 tháng 11 năm 2011
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm học liệu - Đại học Thái Nguyên
- Thư viện trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
Phần thứ nhất
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây sắn (Manihot Esculenta Crantz) là cây lƣơng thực, thực phẩm
chính của hơn 500 triệu ngƣời trên thế giới, hiện đƣợc trồng trên 100 nƣớc có
khi hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc ba Châu lục: Châu Á, Châu Phi và
Châu Mỹ Latinh. Tổ chức Nông Lƣơng Thế giới (FAO) xếp sắn là cây lƣơng
thực quan trọng ở các nƣớc đang phát triển sau lúa gạo, ngô và lúa mì. Tinh
bột sắn là một thành phần quan trọng trong chế độ ăn của hơn một tỷ ngƣời
trên thế giới (www. TTTA.Foot market, 2009). Đồng thời, sắn cũng là cây
thức ăn gia súc, cây hàng hoá xuất khẩu để làm nguyên liệu cho ngành chế
biến bột ngọt, rƣợu, cồn, bánh kẹo, mì ăn liền, ván ép, bao bì, màng phủ sinh
học và phụ gia dƣợc phẩm… Đặc biệt trong thời gian tới, sắn là nguyên liệu
chính cho công nghiệp chế biến nhiên liệu sinh học (ethanol).
Ở Việt Nam, sắn là cây lƣơng thực quan trọng sau lúa và ngô, nó đã
chuyển đổi vai trò từ cây lƣơng thực thành cây công nghiệp với tốc độ cao,
năng suất và sản lƣợng sắn đã tăng nhanh ở thập kỷ đầu của thế kỷ XXI Cây
sắn là nguồn thu nhập quan trọng của các hộ dân nghèo, do sắn dễ trồng, ít kén
đất, ít vốn đầu tƣ, phù hợp với sinh thái và điều kiện kinh tế nông hộ (Hoàng
Kim và Phạm Văn Biên, 1997). Đồng thời là nguồn nguyên liệu chính cho các
nhà máy chế biến tinh bột cũng nhƣ thức ăn gia súc với sản phẩm khá đa dạng
và phong phú. Nó đã trở thành cây xuất khẩu hàng hoá của nhiều tỉnh.
Tuy nhiên, có một khó khăn đang làm cản trở đến tiềm năng phát triển
cây sắn ở nƣớc ta cũng nhƣ nhiều nƣớc trên Thế giới, đó là vấn đề đất trồng
sắn. Sắn là cây trong hệ thống cây trồng đƣợc trồng trên đất dốc đã quá nghèo
dinh dƣỡng. Mặt khác, sắn là cây có nhu cầu dinh dƣỡng cao. Đất trồng sắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
nhanh bị nghèo kiệt khi trồng sắn liên tục nhiều năm, chất dự trữ trong đất bị
giảm nhanh chóng. Vì vậy, mà ta cần phải bón trả lại dinh dƣỡng cho đất.
Nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng, việc bón nhiều phân hữu cơ,
bón hợp lý phân khoáng và trồng xen cây họ đậu đem lại kết quả rất tốt, vừa
nâng cao năng suất, chất lƣợng sắn, vừa bảo vệ đất.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay, việc bón phân, nghiên cứu và khuyến cáo
phân bón cho cây trồng nói chung và cho sắn nói riêng vẫn theo phƣơng pháp
tĩnh. Sử dụng phƣơng pháp tĩnh nghĩa là khuyến cáo phân bón cho cây theo
một liều lƣợng chung cho một vùng hay địa phƣơng nào đó, không căn cứ vào
tình hình sinh trƣởng của cây trƣớc khi bón phân. Thực tế ở nhiều nƣớc phát
triển cho thấy, bón phân thúc cho cây theo một liều lƣợng chung dẫn tới thừa
phân ở ruộng này, nhƣng lại thiếu phân ở ruộng khác. Kết quả là năng suất
cây trồng thấp, hiệu suất sử dụng phân bón không cao và đặc biệt là gây ô
nhiễm môi trƣờng.
Để khắc phục khuyến cáo phân bón theo phƣơng pháp tĩnh, phƣơng
pháp tính toán lƣợng phân bón thúc dựa vào tình hình sinh trƣởng và dinh
dƣỡng của cây trồng trƣớc khi bón đã đƣợc nghiên cứu và sử dụng ở một số
nƣớc phát triển nhƣ Mỹ, Canada, Nhật. Nhƣng ở nƣớc ta phƣơng pháp này
chƣa đƣợc nghiên cứu nhiều
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành đề tài: "Nghiên cứu ảnh
hưởng của liều lượng Đạm bón thúc đến Năng suất, chất lượng giống sắn
KM98-7" nhằm xác định lƣợng N bón thúc thích hợp cho giống sắn KM 98-7
đạt năng suất chất lƣợng và đạt hiệu quả kinh tế cao.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
* Nghiên cứu liều lƣợng và thời gian bón thúc đạm ảnh hƣởng tới sinh
trƣởng, năng suất và chất lƣợng của giống sắn KM 98-7. Nhằm xác định liều
lƣợng đạm và thời gian bón thúc đạm thích hợp cho giống sắn KM 98-7 đạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
năng suất chất lƣợng và hiệu quả kinh tế cao nhất góp phần vào phục vụ kỹ
thuật thâm canh tăng năng suất sắn ở tỉnh Thái Nguyên và một số tỉnh miền
núi phía Bắc ngày một phát triển bền vững.
1.3. Yêu cầu của nghiên cứu
- Theo dõi quá trình sinh trƣởng, phát triển của các giống sắn KM 98-7.
- Nghiên cứu các yếu tố cấu thành năng suất, chiều dài, đƣờng kính, số
củ/gốc và khối lƣợng củ/gốc của giống sắn KM 98-7.
- Nghiên cứu năng suất (củ tƣơi, thân lá, sinh vật học, củ khô, tinh bột)
và chất lƣợng (tỷ lệ chất khô, tỷ lệ tinh bột) của giống sắn KM 98-7.
- Nghiên cứu hiệu quả của liều lƣợng đạm bón thúc đối với giống sắn
KM 98-7.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Phần thứ hai
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Nguồn gốc và giá trị kinh tế của cây sắn
2.1.1. Nguồn gốc
Cây sắn có nguồn gốc hoang dại ở vùng nhiệt đới Châu Mỹ La Tinh và
đƣợc con ngƣời trồng cách đây 5000 năm. Khảo cổ học đã xác minh trung
tâm phát sinh chính tại Đông Bắc Braxin và trung tâm phân hóa phụ Mexico,
Trung Mỹ và Nam Mỹ.
Cây sắn đƣợc du nhập vào Châu á vào khoảng thế kỷ thứ 17 và có thể
theo hai con đƣờng. Ban đầu vào ấn Độ sau đó cây sắn lan rộng sang các
nƣớc nhƣ: Trung Quốc, Myanma cũng nhƣ một số nƣớc Châu á và con đƣờng
từ Châu Phi, Nam Mỹ đến Philipin, Indonexia. Tại Việt Nam cây sắn đƣợc du
nhập vào giữa thế kỷ 18 và đƣợc trồng tập chung chủ yếu ở miền núi trung du
Bắc Bộ, ven biển Nam Trung Bộ, Khu bốn cũ và miền Đông Nam Bộ.
2.1.2. Giá trị kinh tế
Sắn củ tƣơi giàu tinh bột, giàu Gluxit khó tiêu, nghèo chất đạm, muối
khoáng và vitamin.
Sắn là một trong những cây quan trọng thƣờng trồng để thu hoạch lấy
củ. Nhân dân thƣờng lấy củ sắn tƣơi để luộc, độn cơm, thái lát phơi khô làm
thức ăn dự trữ cho ngƣời và gia súc, gia cầm hoặc chế biến làm tinh bột.
Bột củ sắn có độ mịn cao dùng làm lƣơng thực và chế biến thành bánh
kẹo sử dụng rất tốt. Trong ngành công nghiệp sắn đƣợc sử dụng và chế biến
thành tinh bột, thành mạch nha để cung cấp cho các nhà máy chế biến bánh
kẹo, sắn lát viên để xuất khẩu. Ngoài ra trong nghành chế biến tinh bột sắn
cần đƣợc sử dụng làm rƣợu và sử dụng trong các ngành dệt, cao su…
Sắn không những dùng củ mà thân lá sắn còn sử dụng đƣợc cả khi lá
sắn còn tƣơi, có hàm lƣợng Protein khá cao chiếm 7,22% và nhiều loại
axitamin nên con ngƣời có thể chế biến thành dạng tinh bột để bổ sung vào
khẩu phần thức ăn cho lợn, gà, con ngƣời có thể dùng làm rau ăn qua chế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
biến. Lá sắn tƣơi còn dùng để chăn tằm, tằm ăn lá sắn là một loại tằm cho
năng suất cao, tuy nhiên chất lƣợng xơ kém hơn tằm ăn lá dâu. Một hecta sắn
có thể cho khoảng 300-350kg kén tƣơi.
Thân lá sắn khi phơi khô còn dùng làm vật liệu để đun bếp, ở các nƣớc
công nghiệp phát triển có thể chế biến thân lá sắn để lấy xelulose.
2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn trên thế giới và Việt Nam
2.2.1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn trên thế giới
2.2.1.1 Tình hình sản xuất sắn trên thế giới
Năm 2009 Faostat đã thống kê diện tích sắn trên toàn thế giới đạt
19,06 triệu ha năng suất bình quân 12,46 tấn/ha tổng sản lƣợng đạt là 240,98
triệu tấn. (31).
Diện tích, năng suất và sản lƣợng sắn thế giới có chiều hƣớng tăng
trong giai đoạn từ năm 1995 - 2009 (bảng 2.1).
Bảng 2.1: Diện tích, năng suất, sản lượng sắn trên thế giới
giai đoạn 1995 - 2009
Năm
Diện tích
(triệu ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
1995
16,43
9,84
161,79
1996
16,25
9,75
158,51
1997
16,05
10,06
161,60
1998
16,56
9,90
164,10
1999
16,56
10,31
170,92
2000
16,86
10,70
177,89
2001
17,17
10,73
184,36
2002
17,31
10,61
183,82
2003
17,59
10,79
189,99
2004
18,51
10,94
202,64
2005
18,63
10,94
203,86
2006
18,69
10,87
203,94
2007
18,39
12,16
223,75
2008
21,94
12,87
223,75
2009
19,06
12,64
240,98
(Nguồn: FAOSTAT 2010[31])
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Qua bảng số liệu 2.1 ta thấy diện tích trồng sắn trên toàn thế giới năm
2009 tăng 13,1% (tƣơng ứng 5,16 triệu ha so với năm 1995), năng suất tăng
31,3% (tƣơng ứng 3,07tấn/ha so với năm 1995) và sản lƣợng tăng 35,9%
(tƣơng ứng 39,35 triệu tấn so với năm 1995). Có đƣợc kết quả đó là do chiến
lƣợc phát triển lƣơng thực toàn cầu đã thực sự tôn vinh giá trị của cây sắn, là
cây lƣơng thực dễ trồng thích hợp với đất nghèo dinh dƣỡng và là cây công
nghiệp có khả năng cạnh tranh cao với nhiều cây công nghiệp khác.
Hiện nay cây sắn đƣợc trồng tại 105 quốc gia, năm 2009 toàn thế giới có
19.058 nghìn ha săn, trong đó có 64% diện tích sắn đƣợc trồng ở Châu Phi, Châu
Á chiếm 21%, Châu Mỹ chiếm 14%. Năm 2009 trên thế giới có 51,8% sản lƣợng
sắn đƣợc sản xuất ở Châu Phi, Châu Á 33,8% và chỉ có 14,4% ở Châu Mỹ.
Bảng 2.2: Diện tích, năng suất, sản lượng sắn của những nước trồng sắn
chính trên thế giới năm 2009 (Sản lượng hơn 1 triệu tấn)
Vùng trồng
Diện tích
(1000 ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
Toàn Thế giới
19.058
12,64
240,98
Châu Phi
12.353
10,10
124,83
Angola
994,42
12,9
12,83
Cameroon
365
6,85
2,5
Ghana
885,8
13,81
12,23
Uganda
411
12,6
5,18
Châu Á
4.037
20,18
81,47
Thái Lan
1.326,74
22,68
30,09
Indonesia
1.175,67
18,75
22,04
Việt Nam
508,8
16,81
8,55
Ấn Độ
280
34,37
9,62
Trung Quốc
270,58
16,67
4,51
Philippin
215,9
9,47
2,04
Campuchia
157
22,27
3,5
Châu Mỹ
2.668
13,00
34,68
Brazil
1.872,81
13,9
26,03
Colombia
164,75
13,37
2,2
Paraguay
180
14,5
2,61
Peru
104,82
11,65
1,22
(Nguồn: FAOSTAT 2010 [31])
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Qua bảng số liệu 2.2 ta thấy:
- Châu Phi có tổng diện tích trồng sắn năm 2009 là 12.353 nghìn ha,
năng suất củ tƣơi bình quân 10,10 tấn/ha, sản lƣợng 124,83 triệu tấn [31].
- Ở Châu Phi nƣớc có diện tích sắn lớn nhất là Angola với 994,42 nghìn
ha, năng suất đạt 12,9 tấn/ha, sản lƣợng 12,83 triệu tấn. Angola là nƣớc có
diện tích sắn lớn nhất nhƣng năng suất sắn lại thấp hơn Ghana 0,91 tấn/ha.
Sắn là ngồn lƣơng thực chính của ngƣời dân tại nhiều nƣớc ở vùng này.
Châu Phi là nơi tình trạng thiếu lƣơng thực, suy dinh dƣỡng tăng lên gấp đôi trong
hai thập kỷ qua nên cây sắn đƣợc coi là giải pháp an toàn lƣơng thực hàng đầu.
- Châu Mỹ Năm 2009 tổng diện tích sắn trồng là 2.668 nghìn ha, năng
suất củ tƣơi bình quân 13,00 tấn/ha, sản lƣợng 34,68 triệu tấn. Năng suất trung
bình ở Châu Mỹ cao hơn năng suất trung bình của Châu Phi là 2,9 tấn/ha.
Brazil là nƣớc có tổng diện tích trồng sắn lớn nhất thế giới với 1.872,81 nghìn
ha. Tồn tại chính trong sản xuất và tiêu thụ sắn ở Châu Mỹ là trình độ kỹ thuật
thâm canh chƣa cao, công nghiệp chế biến tinh bột sắn không phát triển bắng
Châu Á, sắn chủ yếu sử dụng tƣơi và làm thức ăn gia súc.
- Châu Á cùng với Châu Phi và Châu Mỹ là một trong ba vùng sắn
quan trọng của Thế giới. Diện tích sắn Châu Á hiện có 4.037 nghìn ha, sản
lƣợng 81,47 triệu tấn đứng thứ hai sau Châu Phi, năng suất ở Châu Á hiện đạt
bình quân 20,81 tấn/ha cao hơn Châu Phi 10,08 tấn/ha [31]. Ấn Độ hiện là
nƣớc có năng suất đạt cao nhất trên thế giới với 34,37 tấn/ha, Thái Lan là
nƣớc là nƣớc có diện tích lớn thứ 2 trên Thế giới với 1.326,74 nghìn ha, thấp
hơn so với Brazil là 546,07 nghìn ha và có năng suất cao đứng thứ hai trên thế
giới (22,68 tấn/ha) thấp hơn so với Ấn Độ là 11,69 tấn/ha. Sản xuất sắn tại
Châu Á tăng ở mức cao 3%/năm trong thời gian cuối những năm 70 và đầu
80, những năm 90 sản xuất sắn phát triển chậm lại. Sản xuất sắn đƣợc phát
triển khá nhanh trở lại ở 3,3%/năm trong suốt 10 năm qua (Reinhardt Howeler
và Keith Fahrne 2008). Kết quả về sản xuất sắn ở một số nƣớc Châu Á giai
đọan 1970-2009 đƣợc thể hiện ở bảng 2.3.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Bảng 2.3: Diện tích, năng suất , sản lượng sắn của 5 nước ở Châu Á giai đoạn 1970 - 2009
Vùng
trồng
Năm
Chỉ tiêu
1970
1980
1990
2000
2005
2008
2009
Thái Lan
Diện tích (1.000ha)
224,00
1.121,44
1.487,54
1.130,88
985,91
1.183,54
1.326,74
Năng suất (tấn/ha)
15,32
14,75
16,85
17,18
17,18
21,25
22,68
Sản lƣợng (triệu tấn)
3,431
16,54
19,06
16,93
16,93
25,25
30,09
Indonesia
Diện tích (1.000ha)
1.398,07
1.412,48
1.248,00
1.213,46
1.213,46
1.193,32
1.175,67
Năng suất (tấn/ha)
7,49
9,72
12,53
15,92
15,92
18,09
18,75
Sản lƣợng (triệu tấn)
10,48
13,72
16,09
19,32
19,32
21,59
22,04
Việt Nam
Diện tích (1.000ha)
131,00
442,9
243,90
425,50
425,50
555,70
508,80
Năng suất (tấn/ha)
7,21
7,50
8,66
15,78
15,78
16,90
16,81
Sản lƣợng (triệu tấn)
0,945
3,32
1,98
6,72
6,72
9,39
8,557
Ấn Độ
Diện tích (1.000ha)
352,60
351,90
223,50
244,70
244,70
270,00
280,00
Năng suất (tấn/ha)
14,79
16,61
26,91
30,49
30,49
33,54
34,36
Sản lƣợng (triệu tấn)
5,21
5,84
6,01
7,46
7,46
9,05
9,62
Trung
Quốc
Diện tích (1.000ha)
160,69
238,37
239,11
260,75
260,75
270,58
270,58
Năng suất (tấn/ha)
11,88
14,62
15,97
15,40
15,40
16,30
16,67
Sản lƣợng (triệu tấn)
1,91
3,48
3,82
4,01
4,01
4,41
4,51
(Nguồn: FAOSTAT 2010) [31]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
Qua số liệu ở bảng 2.3 ta thấy nƣớc có diện tích, sản lƣợng sắn cao nhất
của Châu Á là Thái Lan với 1.326,74 nghìn ha và sản lƣợng đạt 30,09 triệu tấn,
kế đến là Indonexia với 1.175,67 nghìn ha và sản lƣợng là 22,04 triệu tấn.
Năng suất sắn của các nƣớc ở Châu Á trong các năm qua đều tăng nhanh, Ấn
Độ là nƣớc có năng suất sắn cao nhất thế giới (34,36 tấn/ha), kế đến là Thái
Lan (22,68 tấn/ha).
Diện tích sắn năm 2009 Thái Lan đạt cao nhất, tiếp đến là Indonexia,
Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc. Diên tích sắn của Thái Lan tăng nhanh năm
1980 là 1.121,44 ha, vào năm 1990 là 1.487,54 nghìn ha, đến những năm đầu
thế kỷ 21 diện tích sắn giảm nhiều (năm 2005 còn 985,91 nghìn ha) và tăng trở
lại ở năm 2008 là 1.183,54, vào năm 2009 lên 1.326,74 nghìn ha.
Diện tích, năng suất, sản lƣợng sắn của Việt Nam cũng tăng trở lại từ
năm 2005-2009 với 425,5 - 560,4 nghìn ha. Năm 2008 so với năm 1979, 1980,
1990, 2000 cũng không ngừng tăng lên và đạt 555,7 ha, năng suất đạt 16,9
tạ/ha và sản lƣợng 9,63 triệu tấn.
Tóm lại từ năm 1979 đến năm 2009 diện tích, năng suất, sản lƣợng sắn
của Thái Lan và Việt Nam, Trung Quốc đều tăng. Chỉ có Ấn Độ, Indonexia
diện tích tuy có giảm nhƣng năng suất và sản lƣợng cũng đều tăng đó là do áp
dụng những giống mới và kỹ thuật thâm canh cao vào sản xuất
Từ những năm 1980 diện tích sắn của Indonexia luôn giảm từ 1.412,48
nghìn ha, năm 2009 chỉ còn 1.175,67 nghìn ha. Ấn Độ và Trung Quốc là hai
nƣớc luôn giữ ổn định diện tích trồng sắn.
Qua phân tích tình hình sắn trên thế giới ta thấy rằng, sắn ngày càng có
vai trò kinh tế quan trọng và đa dạng trong việc phát triển hệ thống lƣơng thực
quốc gia trong hai thập kỷ tiếp theo.
Cây sắn có hệ thống cố định Cacbon cho phép cây tiếp tục quang hợp
trong quá trình thiếu nƣớc kéo dài [18]. Vì vậy, sắn hiện nay đang đƣợc sử
dụng nhƣ một nguyên liệu phù hợp để sản xuất thành ethanol trên toàn Châu
Á, Châu Phi và Mỹ Latinh. Nhiên liệu sinh học hiện có tầm quan trọng trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
cuộc sống hiện đại do nhiên liệu hóa thạch trên thế giới ngày một cạn kiệt và
trong thời gian gần đây giá nhiên liệu đã bắt đầu tăng vọt do các vấn đề chính
trị cũng nhƣ bảo vệ môi trƣờng vì cuộc sống của con ngƣời. Nên các nƣớc
đang phát triển đã bắt đầu sử dụng nhiên liệu sinh học nhƣ pha ethanol và
diezel sinh học (sản xuất từ các nguồn tái tạo) với nhiện liệu hóa thạch (xăng,
diezel) hoặc sản xuất nhiên liệu sinh học (UNEP 2009; Peter Baker 2009) [32].
Để có nguyên liệu thì một số nƣớc nhƣ Trung Quốc, Brazil, Nigeria, Thai Lan,
Indonexia, Colombia, Việt Nam và Campuchia đã thấy cây sắn đƣợc xem là
một cây trồng quan trọng để sử dụng cho việc sản xuất nhiên liệu sinh học.
2.2.1.2. Tình hình xuất, nhập khẩu sắn trên thế gới
Qua bảng số liệu 04 ta thấy:
Xuất khẩu sắn trên thế giới năm 2009 là 12,118 triệu tấn , trong đó tình
bột sắn là 4,651 triệu tấn, sắn lát và sắn viên là 7,802 triệu tấn. So với năm
2008 lƣợng sắn xuất khẩu năm 2009 tăng 2,968 triệu tấn. Thái Lan chiếm 85%
lƣợng xuất khẩu toàn cầu, kế đến là Indonexia và Việt Nam. Thị trƣờng xuất
khẩu sắn chủ yếu của Thái Lan là Trung Quốc và Đài Loan, Nhật Bản và cộng
đồng Châu Âu với tỷ trọng xuất khẩu sắn khoảng 40% bột và tinh bột sắn, 25%
là sắn lát và sắn viên. Nƣớc nhập khẩu sắn nhiều nhất hiện nay là Trung Quốc,
Nhật Bản, Indonexia, Malaysia.
Trung Quốc hiện là nƣớc nhập khẩu nhiều sắn nhất trên thê giới để làm cồn
sinh học (bio ethanol), tinh bột biến tính (modify starch), thức ăn gia súc và dùng
trong công nghiệp thực phẩm dƣợc liệu. Năm 2009 Trung Quốc đã nhâp khẩu
6.019.424 tấn sắn lát khô, trung bình mỗi tháng Trung Quốc nhập khẩu 501.618
tấn sắn lát khô, tháng thấp nhất là 259.886 tấn, tháng cao nhất là 616.875 tấn.
Trong đó nhập khẩu từ Thái Lan là 3.862.662 tấn, Việt Nam là 2.010.560 tấn,
Indonesia là 143.072 tấn và số lƣợng còn lại là nhập khẩu ở một số nƣớc khác
(Bảng 04). Để hạn chế việc nhập khẩu sắn từ các nƣớc khác và chủ động nguồn
cung cấp sắn cho các ngành công nghiệp thực phẩm, thức ăn gia súc và làm cồn
sinh học ở trong nƣớc, Trung Quốc đã có nhiều chính sách để tiếp tục mở rộng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
diện tích và nâng cao năng suất sắn trong nƣớc nhƣ: giời thiệu các giống sắn mới
hơn và nâng cao kỹ thuật trồng rừng kết hợp với trồng sắn.
Bảng 2.4. Tình hình xuất, nhập khẩu sắn toàn cầu giai đoạn 2006 - 2009
Đơn vị tính: triệu tấn
Thị trường sắn
2006
2007
2008
2009
1. Xuất khẩu sắn toàn cầu
10,245
10,922
9,150
12,118
Tinh bột sắn
4,852
4,686
4,265
4,651
Thái Lan
4,616
4,416
3,963
4,316
Việt Nam và các nƣớc khác
0,236
0,269
0,302
0,335
Sắn lát và sắn viên
5,692
6,506
5,187
7,802
Việt Nam
1,041
1,317
2,000
4,000
Thái Lan
4,348
4,824
2,848
3,450
Indonesia
0,132
0,210
0,170
0,160
Các nƣớc khác
0,108
0,156
0,169
0,919
2. Nhập khẩu sắn toàn cầu
8,964
9,240
6,810
7,766
Tinh bột và bột sắn
4,616
4,416
3,963
4,316
Trung Quốc
1,399
1,242
1,114
1,745
Nhật Bản
0,694
0,729
0,873
0,725
Malaysia
0,312
0,256
0,296
0,400
Indonesia
0,968
0,667
0,417
0,270
Các nƣớc khác
1,244
1,523
1,284
1,176
Sắn lát viên
4,348
4,824
2,848
3,450
Trung Quốc
3,693
3,168
1,214
3,000
Hàn Quốc
0,268
0,20
0,474
0,111
Cộng đồng Châu Âu
0,341
1,436
0,989
0,20
Các nƣớc khác
-0,224
0,200
1,170
0,319
Nguồn: Cassava FAO Food Outlook December 2009 [42]
Viện nghiên cứu Chính sách lƣơng thực trên Thế giới (IFPRI), đã tính
toán nhiều mặt và dự báo tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn toàn cầu với tầm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
nhìn đến năm 2020. Năm 2020 sản lƣợng sắn toàn cầu ƣớc đạt 275,10 triệu
tấn, trong đó sản xuất sắn chủ yếu ở các nƣớc đang phát triển là 274,7 triệu tấn,
các nƣớc đã phát triển khoảng 0,40 triệu tấn. Mức tiêu thụ sắn ở các nƣớc đang
phát triển dự báo đạt 254,60 triệu tấn so với các nƣớc đã phát triển là 20,5 triệu
tấn. Tốc độ tăng hàng năm của nhu cầu sử dụng sản phẩm sắn làm lƣơng thực,
thực phẩm và thức ăn gia súc đạt tƣơng ứng là 1,98% và 0,95%. Châu Phi vẫn
là khu vực dẫn đầu về sản lƣợng với dự báo đến năm 2020 sẽ đạt 168,6 triệu
tấn. Trong đó, khối lƣợng sản phẩm dùng làm lƣơng thục, thực phẩm là 77,2%,
làm thƣc ăn gia súc là 4,4%. Châu Mỹ la tinh giai đoạn 1993 - 2020, ƣớc tốc
độ tiêu thụ sản phẩm sắn hàng năm là 1,3%, so với châu Phi là 2,44% và châu
Á là 0,84 - 0,96%. Cây sắn lại giữ vai trò quan trọng trong nhiều nƣớc Châu Á,
đặc biệt là các nƣớc vùng Đông Nam Á nơi cây sắn có tổng diện tích đứng thứ
ba sau lúa và ngô, tổng sản lƣợng đứng thứ ba sau lúa và mía. Chiều hƣớng sản
xuất sắn phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh cây trồng. Giải pháp chính là tăng
năng suất bằng cách áp dụng giống mới và các biện pháp kỹ thuật tiến bộ.
2.2.2. Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn tại Việt Nam
Bảng 2.5. Diện tích, năng suất, sản lượng sắn của Việt Nam
giai đoạn 1995 - 2009
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
1995
277.400
7,79
2.211.675
1996
275,60
7,50
2.067.000
1997
245,40
9,45
2.404.080
1998
235,50
7,55
1.778.025
1999
226,80
7,99
1.805.328
2000
234,90
8,66
2.034.234
2001
250,00
8,30
2.075.000
2002
329,90
13,16
4.156.740
2003
371,00
14,06
5.226.102
2004
370,00
14,50
5.365.000
2005
390,00
14,60
5.700.000
2006
474,80
16,25
7.771.400
2007
560,00
15.89
8.900.000
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
2008
557,40
16,85
9.300.000
2009
508,80
16,81
8.557.000
(Nguồn: FAOSTAT 2010 [31])
Ở Việt Nam, sắn là một trong bốn cây trồng, có vai trò quan trọng trong
chiến lƣợc an toàn lƣơng thực sau lúa và ngô. Việt Nam là nƣớc nông nghiệp
với dân số trên 80 triệu ngƣời. Trong đó hiện có 5% hộ đói và 20% hộ nghèo
nên cây săn vẫn là nguồn thu nhập quan trọng của các hộ dân nghèo.
Ngoài ra cây sắn từ lâu đã trở thành cây có củ đứng hàng đầu về diện
tích và sản lƣợng so với cây có củ ở nƣớc ta và trở thành cây công nghiệp hàng
hoá xuất khẩu và làm thức ăn cho gia súc có giá trị kinh tế cao trong xu thế hội
nhập khu vực và thế giới.
Qua bảng số liệu 2.5 ta thấy: trong vòng 10 năm từ năm 2000-2009 diện
tích trồng sắn tăng từ 234,90 nghìn ha lên 508,80 nghìn ha và năng suất tăng từ
8,66 tấn/ha lên 16,81 tấn/ha. Sản lƣợng tăng gấp 4 lần từ 2.034 nghìn tấn lên
8.557 nghìn tấn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Bảng 2.6: Diễn biến diện tích, sản lượng sắn của các vùng trồng sắn ở Việt Nam từ năm 1995 - 2009
Năm
Vùng
Diện tích (1.000ha)
Sản lượng (1.000ha)
1995
2000
2005
2009
1995
2000
2005
2009
Đồng Bằng Sông Hồng
10,9
9,9
8,5
7,9
79,0
87,9
92,4
105,5
Vùng núi trung du phía Bắc
80,4
82,1
89,4
110,0
606,3
678,5
986,8
1.330,0
Vùng ven biển Trung Bộ
94,0
83,8
133,0
170,0
602,1
645,9
1.855,9
2.810,0
Vùng Tây Nguyên
32,6
38,0
89,4
150,0
283,7
351,5
1.446,6
2.400,0
Vùng Đông Nam Bộ
49,3
16,1
,98,8
115,0
560,8
154,3
2.270,5
2.700,0
Đồng Bằng Sông Cửu Long
10,2
7,7
6,4
7,5
79,6
68,2
64,0
110,0
Tổng
277,4
237,6
425,5
560,4
2211.5
1986.3
1143.2
9.455,0
Nguồn: [19]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Qua số liệu bảng 2.6. Cho thấy năm 2009 diện tích trồng sắn đã đạt
560.400 ha, trong đó khoảng 78% tổng diện tích đƣợc phân bố ở các bờ biển
miền Trung bộ, Tây Nguyên và Đông Nam bộ. Có thể thấy rằng việc sản xuất
sắn ở Việt Nam về diện tích và năng suất đã tăng nhanh ở miền Trung và khu
vực Đông Nam Bộ trong những năm gần đây và cây sắn là nguồn thu nhập quan
trọng của các hộ nông dân nghèo do sắn dễ trồng, ít kén đất, ít vốn đầu tƣ, phù
hợp sinh thái và điều kiện kinh tế nông hộ.
Về sử dụng sắn của ngƣời sản xuất thì sắn chủ yếu dùng để bán (48,6%)
kế đến dùng làm thức ăn gia súc (22,4%), chế biến thủ công (16,8%), chỉ có
12,2% dùng tiêu thụ tƣơi.
Toàn quốc hiện có trên 60 nhà máy chế biến tinh bột sắn với tổng công
suất khoảng 3,8 triệu tấn củ tƣơi/năm và nhiều cơ sở chế biến sắn thủ công rãi
rác ở hầu hết các tỉnh trồng sắn. Việt Nam hiện sản xuất mỗi năm khoảng
800.000 - 1.200.000 tấn tinh bột sắn, trong đó trên 70% xuất khẩu và gần 30%
tiêu thụ trong nƣớc. Sản phẩm sắn xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là tinh bột,
sắn lát và bột sắn. Thị trƣờng chính tiêu thụ sắn của Việt Nam là Trung Quốc,
Đài Loan, Nhật Bản, Singapo, Hàn Quốc.
Sản xuất lƣơng thực là ngành trọng tâm và có thế mạnh của Việt Nam nếu
về tầm nhìn đến năm 2020 thì Chính phủ Việt Nam chủ trƣơng đẩy mạng sản
xuất lúa, ngô và coi trọng việc sản xuất sắn, khoai lang ở những vùng, những vụ
có điều kiện phát triển. Thị trƣờng xuất khẩu sắn lát và tinh bột sắn Việt Nam dự
báo thuận lợi và có lợi thế cạnh tranh cao do có nhiều nhu cầu về chế biến bio-
ethanol, bột ngọt, thức ăn gia súc và những sản phẩm tinh bột biến tính. Diện
tích sắn của Việt Nam dự kiến ổn định khoảng 450 nghìn ha nhƣng sẽ tăng năng
suất và sản lƣợng sắn bằng cách chọn tạo về phát triển các giống sắn tốt có năng
suất củ tƣơi và hàm lƣợng tinh bột cao, xây dựng và hoàn thiện quá trình kỹ
thuật canh tác sắn bền vững và thích hợp với từng vùng sinh thái khác nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
2.3. Tình hình nghiên cứu về phân bón và một số biện pháp kỹ thuật thâm
canh sắn ở trên thế giới và trong nƣớc
2.3.1. Tình hình nghiên cứu trên Thế giới
2.3.1.1. Tình hình nghiên cứu chọn tạo giống sắn
Trên thế giới sắn đƣợc trồng chủ yếu bằng hom nên có lợi thế về mặt duy
trì các tính trạng tốt qua các thế hệ sinh sản vô tính (dòng vô tính) song lại có
khó khăn là hệ số nhân giống của sắn rất thấp (trung bình là 1:7). Quá trình chọn
tạo giống sắn cần phải có ít nhất 6 năm để xác định đƣợc dòng sắn triển vọng
[17]. Nguồn gen và cơ cấu giống sắn phù hợp cho mỗi vùng sinh thái có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu trong công tác cải tiến giống sắn. Sự phong phú, đa dạng về
nguồn gen và phƣơng pháp chọn, tạo vật liệu giống sắn triển vọng là cơ sở để
tạo ra giống tốt.
Trên thế giới, việc nghiên cứu giống sắn đƣợc thực hiện chủ yếu ở Trung
tâm Quốc tế Nông nghiệp Nhiệt đới - CIAT tại Colombia, Viện Quốc tế Nông
nghiệp Nhiệt đới - IITA tại Nigeria, cùng với các Trƣờng, Viện nghiên cứu quốc
gia ở những nƣớc trồng và tiêu thụ nhiều sắn; CIAT, IITA đã có những chƣơng
trình nghiên cứu rộng lớn đồng thời kết hợp chặt chẽ các chƣơng trình sắn của
mỗi quốc gia để tiến hành thu thập, nhập nội, chọn tạo và cải tiến giống sắn.
Mục tiêu của chiến lƣợc cải tiến giống sắn đƣợc thay đổi tuỳ theo sự cần thiết và
khả năng của từng chƣơng trình quốc gia đối với công tác tập huấn, phân phối
nguồn vật liệu giống ban đầu đã đƣợc điều tiết bởi các chuyên gia chọn tạo
giống sắn của CIAT [33].
CIAT là nơi bảo tồn nguồn gen giống sắn đứng hàng đầu của thế giới.
Nguồn gen giống sắn nêu trên đã đƣợc CIAT bảo tồn và đánh giá cẩn thận về
khả năng cho năng suất, giá trị dinh dƣỡng, thời gian sinh trƣởng, khả năng
chống chịu sâu bệnh hại cũng nhƣ thích ứng với sự thay đổi của môi trƣờng để
từ đó chọn ra những cặp bố mẹ phục vụ cho công tác cải tiến giống sắn nhằm
trao đổi quỹ gen đối với các nƣớc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
CIAT hiện có những nghiên cứu rất sâu về di truyền số lƣợng, ứng dụng
công nghệ sinh học trong chọn tạo, nhân giống và bảo tồn nguồn gen sắn, xây
dựng bản đồ gen; ứng dụng di truyền phân tử và công nghệ chuyển gen để tạo
giống sắn ngắn ngày, chất lƣợng cao, giàu protein, carotene và vitamin; đồng
thời chọn ra những giống sắn kháng bệnh virus, bệnh héo vi khuẩn
(Xanthomonas manihotis), bệnh đốm nâu lá (Cercospora spp.), bệnh thán thƣ
(Coletotrichum spp.), nhện (Tetranychus sp.), bọ phấn , rệp, sâu đục thân,…
Tại Châu Mỹ Latinh, chƣơng trình chọn tạo giống sắn của CIAT đã phối
hợp với CLAYUCA và những chƣơng trình sắn quốc gia ở các nƣớc Braxin,
Côlombia, Mêhicô, đồng thời cũng giới thiệu cho sản xuất ở các nƣớc này
những giống sắn tốt nhƣ SM 1433-4, CM 3435-3, SG 337-2, CG 489-31, MCol
72, AM 273-23, MBRA 383,…Do vậy đã góp phần đƣa năng suất và sản lƣợng
sắn trong vùng tăng lên một cách đáng kể [33].
Ở Châu Phi, CIAT phối hợp với IITA và các nƣớc Nigeria, Congo,
Ghana, Tanzania, Mozambique, Angola, Uganda cùng nhiều tổ chức quốc tế
nhƣ FAO, Bill Gates Foundation để nghiên cứu nhằm phát triển các giống sắn
mới ngắn ngày, chất lƣợng cao (giàu carotene, vitamin, protein,…) thích hợp ăn
tƣơi và có khả năng kháng bệnh virus (một loại bệnh dịch hại nghiêm trọng đối
với cây sắn ở châu Phi).
Tại Hội thảo Sắn Quốc tế lần thứ VIII tổ chức tại thủ đô Viên Chăn, Lào
ngày 20-24 tháng 10 năm 2008. Các nhà khoa học đã xác định tƣơng lai mới cho
sắn ở Châu Á là làm thực phẩm, thức ăn gia súc và nhiên liệu sinh học có lợi
cho ngƣời nghèo, mục tiêu là chọn tạo đƣợc những giống mới đáp ứng đƣợc yêu
cầu sử dụng cả củ và lá sắn làm thức ăn gia súc, phát triển mới trong chế biến
sắn, đặc biệt là làm nhiên liệu sinh học, tinh bột, tinh bột biến tính, màng phủ
sinh học, công nghiệp thực phẩm (Reinhardt Howeler 2010)[33].
Chƣơng trình sắn CIAT/ Colombia trong giai đoạn 1975-1995 đã cung
cấp trên 350.000 hạt sắn lai của 251 dòng, giống sắn tốt cho 9 nƣớc châu Á.
Trong giai đoạn 1995-2005, CIAT/ Colombia tiếp tục cung cấp 141.021 hạt lai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
của 1.331 cặp bố mẹ cho 11 nƣớc ở khu vực này. Từ đầu năm 1985 cho đến cuối
năm 2004 chƣơng trình sắn CIAT/Thái Lan đã cung cấp đƣợc gần 100.000 hạt
sắn lai cho các nƣớc Châu Á và CIAT/ Colombia [33].
Ấn Độ là nƣớc ở Châu Á có năng suất sắn cao đứng hàng đầu trên thế
giới. Cơ quan điều phối cải tiến giống sắn toàn Ấn Độ là Viện Nghiên cứu Cây
có củ (CTCRI) ở Trivandrum của tiểu bang Kerala. CTCRI đã thu thập, bảo
quản, đánh giá 1.354 mẫu giống sắn và lai tạo đƣợc hàng chục nghìn hạt sắn lai
phục vụ cho chƣơng trình chọn tạo các giống sắn mới. Gần đây, Ấn Độ có 5
giống sắn mới đƣợc nhà nƣớc công nhận là giống quốc gia, trong đó giống Sree
Prakash có nhiều triển vọng đạt năng suất củ tƣơi cao (35- 40 tấn/ha).
Thái Lan là nƣớc có chƣơng trình chọn tạo giống sắn lớn nhất Châu Á.
Những cơ quan nghiên cứu chọn tạo và phát triển giống sắn hiện nay là Trƣờng
Đại học Kasetsart (KU), Viện Tinh bột Sắn Thái Lan (TTDI) và Viện Nghiên
cứu Cây trồng Thái Lan (FCRI). Tại Trung tâm Nghiên cứu Cây trồng Rayong
(thuộc FCRI) mỗi năm có 15.000 - 20.000 hạt sắn lai F1 đƣợc khảo sát, đánh giá
và tuyển chọn. Những giống sắn mới năng suất cao, phẩm chất tốt đƣợc giới
thiệu trong thời gian gần đây có Kasetsart 50, Rayong 72, Rayong 5, Rayong 90,
Huay Bong 60, CMR 41-111-129.
Chƣơng trình cải tiến giống sắn của Trung Quốc đƣợc thực hiện chủ yếu
tại Học Viện Cây trồng Nhiệt đới Nam Trung Quốc (CATAS), Viện Nghiên cứu
Cây trồng Cận Nhiệt đới Quảng Tây (GSCRI). Những giống sắn mới năng suất
cao trong thời gian gần đây tại Trung Quốc có SC201, SC205, SC124, Nanzhi
188, GR911, GR 891.
Chƣơng trình chọn tạo giống sắn của Indonexia đƣợc tập trung thực hiện
tại trƣờng Đại học Branijaya và Viện Nghiên cứu Cây Lƣơng thực Marlang
(MARIF). Năm 1978, hai giống sắn mới đƣợc đƣa ra sản xuất là Adira 1 và
Adira 2, kế đó năm 1986 có giống Adira 4. Mới đây, MARIF công bố một số
giống sắn mới Marlang 1, Marlang 2, đồng thời đánh giá và tuyển chọn từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
21.200 hạt lai F1 của CIAT đƣợc một số dòng có triển vọng đang đƣợc khảo
nghiệm rộng rãi. (Somearjio Poespodansona và Yudi Widodo, 1995).
2.3.1.2. Tình hình nghiên cứu về đất trồng sắn, dinh dƣỡng và kỹ thuật
bón phân cho sắn
Trên thế giới cây sắn đƣợc trồng trong một phạm vi đất biến động
khá rộng từ cát nhẹ đến sét nặng, pH từ 3,5 đến 7,8, ngọai trừ đất úng nƣớc và
đất có hàm lƣợng muối cao. Sắn đạt năng suất cao trên đất có tƣới, hàm lƣợng
dinh dƣỡng cao, đất tơi xốp, có kết cấu trung bình, pH khoảng 7-8.
Theo tác giả Howeler, (1997) [35] cho rằng sắn đƣợc trồng trên đất
giầu dinh dƣỡng hoặc đƣợc bón đầy đủ và hợp lý các loại phân vô cơ, hữu cơ thì
sức sinh trƣởng tốt dẫn đến năng suất củ, năng suất sinh học, tỷ lệ tinh bột đạt
cao. Nếu sắn trồng trên đất nghèo dinh dƣỡng có sức sinh trƣởng yếu, năng suất
củ, năng suất sinh học và tỷ lệ tinh bột trong củ thấp; bón quá nhiều phân đặc
biệt là đạm đối với một số giống sắn có tốc độ sinh trƣởng nhanh sẽ dẫn đến
thân lá phát triển nhiều, năng suất sinh vật cao, năng suất củ tƣơi giảm, chỉ số
thu hoạch thấp. Cũng theo tác giả Howeler, (`1997) [35] nếu cung cấp P, K vƣợt
mức giới hạn cho phép sẽ ức chế đến sự hấp phụ các chất dinh dƣỡng khác nhƣ
Fe và Zn hoặc Ca, Mg làm cho sắn sinh trƣởng và phát triển kém, năng suất củ
giảm. Việc cung cấp dƣ thừa đạm dẫn đến cây sắn phát triển rất mạnh về thân lá,
ẩm độ không khí của bộ lá cao, không bào lá lớn, lá non hơn dẫn đến cây sắn dễ
bị sâu bệnh phá hoại. Bón phân dƣ thừa sẽ làm tăng giá thành sản xuất và đôi
khi làm giảm năng suất dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp. Chính vì vậy duy trì việc
cung cấp dinh dƣỡng cân đối cho cây sắn là rất cần thiết để đạt năng suất cao.
Tác giả Duangpatra(1987), [35], cho biết đạm là nguyên tố rất cần thiết
đối với sinh trƣởng và phát triển của cây sắn. Cây sắn hấp thu một lƣợng N rất
lớn từ đất, nên bón đạm làm tăng số lá trên thân, số đốt, số rễ củ và năng suất củ.
Tuy nhiên, theo các tác giả khác thì bón đạm làm giảm tỷ lệ tinh bột chứa trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
củ [35]. Ở các thí nghiệm dài hạn và ngắn hạn cho thấy sắn phản ứng với đạm
rất mạnh, nhất là trên các loại đất nghèo dinh dƣỡng. Phản ứng của sắn đối với
các liều lƣợng N khác nhau đã thể hiện rõ ngay từ năm thí nghiệm đầu tiên.
Ngoài ra có mối quan hệ khá rõ giữa lƣợng N bón vào đất và hàm lƣợng N chứa
trong thân lá sắn. Hàm lƣợng N trong thân lá tăng khi mức bón đạm tăng [42].
Tác giả Kanapaty, (1974) [39] cho rằng để đạt đƣợc mức năng suất củ
tƣơi 20 tấn/ha thì cây sắn đã hấp thu một lƣợng dinh dƣỡng là: 87kgN
+37,0kgP2O5 +177kgK2O +35,1kgMgO.
Theo tác giả Howeler, (1999) [43] nếu lúc thu hoạch ngƣời ta lấy toàn bộ
sinh khối của sắn có trên đồng ruộng (củ tƣơi, các bộ phận thân lá) thì họ đã lấy
đi hầu hết các chất hữu cơ do cây sắn hấp thụ đƣợc trong quá trình sinh trƣởng
và phát triển bao gồm 75% N, 92%Ca, 76,% Mg. Số liệu phân tích đƣợc cho
thấy tổ hợp lân chứa trong củ lúc thu hoạch tƣơng đƣơng với lƣợng P ở bộ phận
trên mặt đất (thân, lá) khi thu hoạch cộng với lƣợng P ở nhiều bộ phận lá đã
rụng (lá già). Riêng ở rễ và củ sắn thì tỷ lệ N, P, K bị lấy đi khi thu hoạch là
2:1:4. Song tính chung cho tất cả các bộ phận ở dƣới và trên mặt đất thì tỷ lệ này
là 3:1:3.
Theo tác giả Weite, (1996) [38] từ những kết quả nghiên cứu hơn 100 thí
nghiệm trên đồng ruộng của nông dân tại Thái Lan và Trung Quốc cho rằng cây
sắn phản ứng mạnh với mức bón phân N từ 50 đến 200kgN/ha nhƣng cũng có sự
khác nhau tuỳ theo giống (giống SC205 phản ứng với mức bón 200kgN/ha còn
giống SC201 ở mức 50kgN/ha).
Tác giả Howeler, (1981) khi tập hợp nhiều kết quả nghiên cứu về nhu cầu
dinh dƣỡng đối với cây sắn của các tác giả khác nhau trên thế giới đã đi đến kết
luận: Để đạt năng suất 15 tấn củ tƣơi/ha, cây sắn lấy đi lƣợng dinh dƣỡng trung
bình là 74kgN, 16kgP2O5, 87kgK2O, 27kg Ca và 12kg Mg. Nhiều công trình
nghiên cứu về bón N, P, K đơn lẻ hoặc kết hợp, so sánh phản ứng của cây sắn
đối với phân bón là tuỳ thuộc vào tình trạng dinh dƣỡng ban đầu của đất, điều
kiện sinh thái của vùng cũng nhƣ các loại phân và phƣơng pháp bón khác nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Kết quả nghiên cứu của Ashokan và Sreedhanan (1985) [36] về vai trò
của P2O5 cho thấy cây sắn hấp thu một lƣợng P2O5 rất thấp, nhƣng P2O5 có
tác dụng làm tăng tỷ lệ tinh bột và giảm axit cyanhydric (HCN) trong củ.
K là nguyên tố đƣợc cây sắn hấp phụ nhiều nhất và là nguyên tố hạn chế
năng suất củ của cây sắn. Theo tác giả Aiyer và cộng sự (1995) [37] triệu chứng
thiếu hụt K2O đƣợc đặc trƣng bởi sự giảm tốc độ sinh trƣởng của cây sắn và dễ
dàng nhận thấy triệu chứng thiếu K2O xuất hiện ở phiến lá và cuống những lá
già, thiếu K2O dẫn đến là những lá này bị rụng sớm. Khi cung cấp quá nhiều K
sẽ làm giảm sự hấp thu Mg và Ca. Theo các kết quả nghiên cứu khác tại
Côlombia [33] bón K2O làm tăng năng suất sắn từ 23,0 lên 43,7 tấn/ha và có sự
tƣơng quan thuận giữa năng suất và hàm lƣợng K2O chứa trong lá. Kết quả
nghiên cứu của Quinol và Amora (1987) [39] cho thấy trên đất độc canh sắn,
nếu hàng năm đều bón phân K2O đầy đủ thì năng suất sắn sẽ không bị giảm.
Những kết quả nghiên cứu khác tại Ấn Độ, Thái Lan, Indonexia, Philippin
và Trung Quốc cho thấy bón cân đối N, P, K có thể làm tăng năng suất sắn lên
48% so với không bón phân. Cũng theo các kết quả nghiên cứu tại các quốc gia
này thì mức bón NPK dao động trong khoảng: [100kgN + 50kgP2O5 +
100kgK2O]/ha; [60kgN + 60kgP2O5 + 120 kgK2O]/ha; [80kgN + 40kgP2O5 +
80kgK2O]/ha. Nghĩa là bón tỷ lệ NPK là: 2:1:2 và 2:2:4 đều cho năng suất và tỷ
lệ tinh bột cao, đồng thời có thể duy trì đƣợc độ phì của đất. Những công trình
nghiên cứu của tiến sĩ Lian [42] thực hiện trên đất than bùn ở Malayxia cho thấy
công thức bón N, P, K thích hợp cho sắn là: 150 - 250kgN + 30kgP2O5 + 80-
160 kgK2O/ha.
Theo kết quả của nghiên cứu Anneke M. Ferment và công sự (2005) ở
Châu Phi cụ thể là ở Kenya, Uganda mức phân bón là: 100kgN + 22kgP2O5 +
80kgK2O/ha là phù hợp để cho năng suất từ 14,4 - 25,7 tấn/ha.
2.3.1.3. Tình hình nghiên cứu mật độ, khoảng cách trồng thích hợp đối
với sắn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Trên thế giới mật độ và khoảng cách trồng sắn đã đƣợc nhiều nhà khoa
học tiến hành nghiên cứu.
Theo tác giả Ociano cho biết rằng khoảng cách trồng sắn thích hợp nhất
đối với giống sắn có mức độ phân cành ít, thân gọn là 75cm x 75 cm/cây
(17.700 cây/ha).
Theo tác giả Tongglum cho biết mật độ và khoảng cách trồng có sự ảnh
hƣởng khác biệt lớn đến năng suất. Khoảng cách mật độ trồng phụ thuộc vào
giống: Giống Rayong 2 mật độ trồng thích hợp có thể thay đổi từ 7.000 - 27.000
cây/ha, còn giống Rayong 3 là 10.000-15.000cây/ha.
Kết quả nghiên cứu của Weite cho rằng mật độ trồng sắn phụ thuộc vào
loại đất và mùa vụ trồng. Thƣờng những đất có độ phì cao thì trồng sắn với mật
độ thƣa còn đối với đất có thành phần dinh dƣỡng thấp thì trồng với mật độ dầy.
Mật độ trồng sắn còn liên quan đến đặc tính phân cành và sự sinh trƣởng thân lá
của từng giống: Giống phân cành nhiều, thân lá phát triển nhanh trồng với mật
độ thƣa và ngƣợc lại. Cũng theo tác giả Weite thì mật độ trồng thích hợp với các
giống sắn ở phía Nam Trung Quốc thay đổi từ 10.000 15.000 cây/ha.
Theo tác giả Villamayor mật độ trồng sắn chịu ảnh hƣởng bởi các đặc
điểm về hình thái của giống. Đối với những giống sắn ít phân nhánh có tán gọn
thì năng suất ít bị ảnh hƣởng bởi khoảng cách mật độ trồng. Trái lại những
giống phân cành nhiều thân lá phát triển mạnh trồng với mật độ cao năng suất sẽ
giảm. Mật độ trồng sắn thích hợp có thể thay đổi từ 13.00020.000 cây/ha.
Một số kết quả nghiên cứu khác của Malayxia và Indonexia cũng cho thấy
mật độ trồng sắn thích hợp với những giống sắn có thân lá phát triển mạnh và
phân nhánh nhiều là từ 10.000 12.000 cây/ha thì cho năng suất sắn đạt đƣợc
cao nhất.
2.3.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam:
2.3.2.1. Nghiên cứu về chọn tạo giống sắn
Trong nƣớc, theo tác giả Hoàng Kim, Phạm Văn Biên, cây sắn đƣợc du
nhập vào Việt Nam khoảng giữa thế kỷ 18. Trƣớc năm 1975 nguồn gen giống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
sắn đã đƣợc nhập nội và khảo sát tại Viện Khảo cứu Nông nghiệp Sài Gòn [1]; ở
phía Bắc cũng tiến hành một số thí nghiệm tập đoàn so sánh giống kết quả đã
chọn ra đƣợc giống sắn H34 thuộc nhóm sắn đắng có tỷ lệ tinh bột cao (>30%).
Trong giai đoạn 1975-1990, Trƣờng Đại học Nông nghiệp 3 - Bắc
Thái tiến hành thu thập đánh giá nguồn gen của 20 giống sắn và đã chọn đƣợc
giống sắn XVP là giống địa phƣơng tốt nhất ở các tỉnh phía Bắc. Trung tâm
Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hƣng Lộc (thuộc Viện Khoa học Kỹ
thuật Nông nghiệp Miền Nam) đã đánh giá nguồn gen của 33 giống sắn địa
phƣơng và cũng xác định đƣợc ba giống sắn tốt là HL23, HL24, HL20, đồng
thời 3 giống này mỗi năm đƣợc sản xuất nhân ra trồng trên 70.000 ha ở các tỉnh
phía Nam [8]. Vì những giống sắn mới đƣợc chọn lọc có năng suất bình quân
trong thí nghiệm đạt 15-25 tấn/ha, tỷ lệ tinh bột 20-25% nên đáp ứng đƣợc mục
tiêu đề ra là phục vụ cho nhu cầu lƣơng thực.
Trong giai đoạn 1991 - 2005, Chƣơng trình sắn Việt Nam đã hợp tác chặt
chẽ với CIAT, VEDAN và mạng lƣới Nghiên cứu sắn Châu Á để đẩy mạnh hoạt
động nghiên cứu và phát triển sắn với mục tiêu là chọn tạo ra những giống sắn
có năng suất củ tƣơi và tỷ lệ tinh bột cao, phục vụ cho chế biến công nghiệp;
đồng thời cũng tuyển chọn đƣợc những giống sắn ngắn ngày, đa dụng, thích hợp
cho cả chế biến công nghiệp cũng nhƣ nhu cầu về lƣơng thực ở vùng sâu, vùng
xa. Do đó đã tạo đƣợc bƣớc đột phá quan trọng trong nghề trồng sắn của Việt
Nam [13].
Các nghiên cứu chọn tạo và khảo nghiệm giống sắn nhập nội từ CIAT
thích hợp cho mục tiêu sản xuất cồn sinh học đang đƣợc thực hiện trong chƣơng
trình sắn Việt Nam. Với 24.073 hạt giống sắn nhập nội từ CIAT, 37.210 hạt
giống sắn lai tạo tại Việt Nam, 38 giống sắn tác giả và 31 giống sắn bản địa đã
chọn đƣợc 98 giống sắn triển vọng. Trong đó có ba giống KM140, KM98-5 và
KM98-7 đã đƣợc đƣa vào trồng tại nhiều địa phƣơng ở giai đoạn 2007 - 2009
[8].