Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

hoàn thiện công tác thẩm định dự án thủy điện nhỏ tại sở giao dịch iii - ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.22 KB, 115 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, các
doanh nghiệp phải mở rộng đầu tư và tích cực tìm ra các sản phẩm mới để đáp ứng
nhu cầu của thị trường. Điều này làm cho nhu cầu vốn đầu tư ngày càng trở nên cấp
thiết. Khi đó, việc vay vốn từ các ngân hàng thương mại (NHTM) để đầu tư trở thành
một giải pháp quan trọng.
Với nhu cầu năng lượng cho sản xuất và tiêu dùng hiện nay, đầu tư vào TĐN để
cung cấp cho lưới điện quốc gia hoặc từng khu vực là hướng đi đúng đắn, hệ thống
TĐN cung cấp và góp phần không nhỏ vào tổng sản lượng điện hiện nay của đất nước.
Đây là lĩnh vực cần vốn đầu tư lớn, tuy nhiên vốn tự có của các chủ dự án TĐN mới
chỉ có 10 - 20% tổng vốn đầu tư, số còn lại đều phải phụ thuộc vào nguồn vốn vay
ngân hàng.
Các ngân hàng vì thế cũng cần tăng cường việc cho vay và muốn cho vay đạt
hiệu quả, công tác thẩm định dự án đầu tư (DAĐT) của các NHTM cần phải chú trọng
và hoàn thiện vì đây là một trong những yếu tố quyết định trực tiếp đến hiệu quả kinh
doanh của mỗi ngân hàng và đồng thời góp phần vào thành công của Doanh nghiệp
vay vốn. Tuy nhiên, tại Sở Giao dịch III - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam,
công tác thẩm định dự án nói chung và thẩm định dự án thủy điện nhỏ (TĐN) nói riêng
mới chỉ dừng lại ở khâu thẩm định tài chính dự án, mà chưa đi sâu vào phân tích thẩm
định khâu kỹ thuật và kinh tế xã hội. Hơn nữa khi thẩm định khâu tài chính dự án sở
mới sử dụng một số chỉ tiêu cơ bản như NPV, IRR, T
hv
… làm căn cứ thẩm định.
Xuất phát từ thực tiễn đó, đề tài “Hoàn thiện công tác thẩm định dự án TĐN
tại Sở Giao dịch III - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” được tác giả lựa
chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về thẩm định dự án TĐN trong hoạt động
cho vay của NHTM.
- Phân tích và đánh giá về thực trạng công tác thẩm định dự án TĐN tại Sở


Giao dịch III - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án
TĐN tại Sở Giao dịch III - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác thẩm định dự án TĐN tại NHTM.
- Phạm vi nghiên cứu: Công tác thẩm định dự án TĐN tại Sở Giao dịch III -
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Nguồn dữ liệu:
+ Nguồn dữ liệu thứ cấp: Luận văn sử dụng nguồn dữ liệu thu thập từ các tài
liệu, thông tin nội bộ, dữ liệu từ một số NHTM khác và các số liệu qua mạng
Internet… Các nguồn dữ liệu này được trích dẫn trực tiếp trong luận văn và được ghi
chú chi tiết trong phần tài liệu tham khảo.
+ Nguồn dữ liệu sơ cấp: Luận văn lấy ý kiến từ phía các cá nhân là những
chuyên gia có kinh nghiệm và công tác lâu năm trong ngành, hiện đang giữ các vị trí
quan trọng tại Sở Giao dịch III - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
- Phương pháp phân tích dữ liệu: Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp
phân tích, so sánh, tổng hợp… được tác giả sử dụng để nghiên cứu.
5. Những đóng góp của đề tài nghiên cứu
Về lý luận:
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về công tác thẩm định DAĐT tại NHTM
Về thực tiễn:
- Phát hiện những thành công và các mặt còn hạn chế trong công tác thẩm định
dự án TĐN tại Sở Giao dịch III - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Giải thích
nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, từ đó
- Đề xuất các giải pháp nhằm giúp Sở Giao dịch III - Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam hoàn thiện công tác thẩm định dự án TĐN.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN THỦY
ĐIỆN NHỎ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Tổng quan DAĐT TĐN
1.1.1. Khái niệm và vai trò DAĐT
1.1.1.1. Khái niệm về DAĐT
DAĐT có thể được xem xét từ nhiều góc độ:
Về mặt hình thức: DAĐT là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết, có
hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch nhằm đạt được những kết quả và
thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Xét trên góc độ quản lý: DAĐT là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư,
lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế xã hội trong một thời gian dài.
Xét trên góc độ kế hoạch hóa: DAĐT là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết
của một công cuộc đầu tư sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội, làm tiền đề
cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Xét theo góc độ này, DAĐT là một hoạt động kinh
tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hóa nền kinh tế nói chung (Một đơn vị
sản xuất kinh doanh cùng một thời kỳ có thể thực hiện nhiều dự án).
Xét về mặt nội dung: DAĐT là tổng thể các hoạt động và chi phí cần thiết,
được bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch thời gian và địa điểm xác định để tạo
mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm thực hiện những mục
tiêu nhất định trong tương lai.
Như vậy, một DAĐT bao gồm 4 thành phần chính:
- Mục tiêu của dự án được thể hiện ở hai mức:
+ Mục tiêu phát triển thể hiện sự đóng góp của dự án vào việc thực hiện các
mục tiêu chung của một quốc gia. Mục tiêu này được thực hiện thông qua những lợi
ích dự án mang lại cho nền kinh tế - xã hội.
+ Mục tiêu trực tiếp của chủ đầu tư: Đó là các mục tiêu cụ thể cần đạt được của
việc thực hiện dự án. Mục tiêu này được thực hiện thông qua những lợi ích tài chính
mà chủ đầu tư thu được từ dự án.
- Các kết quả: Đó là những kết quả cụ thể, có thể định lượng được tạo ra từ các
hoạt động khác nhau của dự án. Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện được các mục
tiêu của dự án.
- Các hoạt động: Là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện trong dự

án để tạo ra các kết quả nhất định. Những nhiệm vụ hoặc hành động này cùng với một
lịch biểu và trách nhiệm cụ thể của các bộ phận thực hiện sẽ tạo thành kế hoạch làm
việc của dự án.
- Các nguồn lực: Về vật chất, tài chính và con người cần thiết để tiến hành các
hoạt động của dự án. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực này chính là vốn đầu tư
cần cho dự án.
1.1.1.2. Vai trò của DAĐT
Đối với Nhà nước và các định chế tài chính: DAĐT là cơ sở để thẩm định và ra
quyết định đầu tư, quyết định tài trợ vốn cho dự án.
Đối với chủ đầu tư:
DAĐT là căn cứ quan trọng nhất để quyết định bỏ vốn đầu tư.
DAĐT là cơ sở để xin phép được đầu tư (hoặc được ghi vào kế hoạch đầu tư)
và cấp giấp phép hoạt động.
DAĐT là cơ sở để xin phép được nhập khẩu máy móc thiết bị, xin hưởng các
khoản ưu đãi trong đầu tư.
DAĐT là phương tiện để tìm đối tác trong và ngoài nước liên doanh bỏ vốn đầu tư.
DAĐT là phương tiện thuyết phục các tổ chức tài chính tiền tệ trong và ngoài
nước tài trợ hoặc cho vay vốn.
DAĐT là căn cứ quan trọng để xem xét giải quyết các mối quan hệ về quyền lợi
và nghĩa vụ giữa các bên tham gia liên doanh, giữa liên doanh và Nhà nước Việt Nam.
Đây cũng là cơ sở pháp lý để xét xử khi có tranh chấp giữa các bên tham gia liên doanh.
1.1.2. Tổng quan về đầu tư TĐN
1.1.2.1. Khái quát về TĐN tại Việt Nam
Việt Nam có tiềm năng thủy điện dồi dào và phân bố trên hầu khắp các vùng
lãnh thổ. Với trên 2200 sông suối lớn nhỏ có chiều dài từ 10km trở lên, tổng tiềm năng
kỹ thuật được đánh giá vào khoảng 120 tỷ kWh, với công suất tương ứng khoảng
30.000 MW. Nếu xem xét thêm các yếu tố về kinh tế xã hội và tác động đến môi
trường thì tiềm năng kinh tế – kỹ thuật của thuỷ điện khoảng 83 tỷ kWh. Đến nay,
tổng công suất các nhà máy thủy điện đã được xây dựng là 4200 MW (năm 2003 sản
xuất 19 tỷ kWh, bằng 23% tổng tiềm năng kinh tế kỹ thuật).

Hiện tại, đã có một báo cáo chính thức đánh giá ở quy mô toàn quốc về TĐN là
Quy hoạch TĐN toàn quốc, công suất từ 5 -30 MW do Công ty Tư vấn Điện I soạn
thảo (2005). Sự phân bố các dự án TĐN đã được xác định ở 31 tỉnh, thành. Các tỉnh
Lào Cai, Yên Bái và Hà Giang ở miền Bắc, và Lâm Đồng ở miền Trung là những tỉnh
có tiềm năng TĐN lớn nhất (trên 200 MW). Tổng công suất thủy điện từ 5-30 MW
được xác định trong báo cáo này là 2.925 MW, dự kiến phát khoảng 13,3 TWh, với hệ
số phụ tải trung bình là 0,52.
Cũng theo Quy hoạch TĐN, phân bổ tiềm năng TĐN theo gam công suất như
bảng dưới đây.
Bảng 1.1: Tiềm năng kỹ thuật TĐN theo gam công suất
Dải công suất (MW) Tổng công suất (MW)
0.1- <1
126.8
1- <5
1 030.2
5- <10
1 048.3
10- <15
648.0
15- <20
562.8
20- <25
309.0
25- <30
290.0
Tổng (<=30MW) 4015.1
Nguồn: Dự thảo Chiến lược, Quy hoạch tổng thể phát triển NTLL-Viện Năng lượng, 2008
Trong năm 2007, trong một điều tra của Bộ Công thương về hiện trạng các dự
án TĐN nối lưới công suât dưới 30 MW, có tới 319 dự án với tổng công suất lắp đặt là
3.443 MW, hiện đang trong các giai đoạn phát triển khác nhau nhưng ít nhất đã có

biên bản ghi nhớ với EVN về việc mua bán điện. Như vậy số lượng thực tế các dự án
TĐN, chưa tính đến các dự án còn chưa tiến hành bàn bạc với EVN, đã lớn hơn dự báo
trong Quy hoạch TĐN. Kết quả điều tra được tổng hợp trong bảng sau:
Bảng 1.2: Hiện trạng các dự án TĐN
Tình trạng Số dự án Công suất đặt Cỡ trung
bình
MW MW
Có Biên bản ghi nhớ với EVN 178 2,175 12.2
Đang xây dựng, chưa có thông tin về giá bán 21 260 12.4
Đang xây dựng, đã thương thảo giá 67 630 9.4
Đang xây dựng, ký thoả thuận mua bán điện 11 101 9.2
Đang vận hành 42 278 6.6
Tổng 319 3,443 10.8
Nguồn: Bộ Công Thương, 2007 điều tra TĐN
1.1.2.2. Đặc điểm các dự án TĐN
Ngành điện là một ngành kinh tế chủ đạo có vị trí rất quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân. Ngành điện cung ứng mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống, sinh hoạt, lao động
sản xuất của tất cả các ngành và người dân. Trong đó thủy điện đóng góp một phần
không nhỏ vào quá trình sản xuất và cung cấp điện cho cả nước. Khi chủ đầu tư có ý
định đầu tư vào ngành thủy điện tại một địa điểm nào đó thì phải đảm bảo được rằng dự
án sẽ được nằm trong quy hoạch tổng thể ngành điện của Quốc gia. Dự án TĐN, cũng
như những dự án trong ngành thủy điện, thường có những đặc điểm như sau:
a. Phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nơi đặt địa điểm dự án
Về địa điểm đặt nhà máy và xây dựng tuyến đập: các công trình thủy điện để
phát điện phải sử dụng lượng nước chạy qua turbin để tạo điện năng. Nhà máy thủy
điện phải được được xây dựng khu vực miền núi, có địa hình cao để đảm bảo xây
dựng được hồ chứa tích nước hoặc tận dụng được thế năng dòng chảy để phát điện.
Những vùng này thường có địa hình, địa chấn phức tạp hơn các vùng đồng bằng nên
sẽ có những ảnh hưởng nhất định tới điều kiện thi công công trình, độ bền vững và độ
ổn định của công trình. Hậu quả của việc xảy ra sự cố của nhà máy thủy điện đối với

khu vực hạ lưu cực kỳ lớn nên trong mọi tình huống tính an toàn đối với khu vực dân
cư phía hạ lưu phải luôn được đặt hàng đầu. Việc lựa chọn địa điểm xây dựng tuyến
đập hết sức quan trọng nếu tuyến đập được đặt trên nền móng ổn định sẽ đảm bảo an
toàn và ngược lại, mặt khác quá trình lựa chọn địa điểm xây dựng tuyến đập cũng như
độ cao của đập trực tiếp quyết định đến công suất phát điện của nhà máy cũng như chi
phí đầu tư xây dựng nên cần xây dựng nhiều phương án để đánh giá so sánh lựa chọn
phương án tối ưu nhất.
Đánh giá: Do đó, việc thẩm định cần phải phân tích ưu nhược điểm của địa
điểm xây dựng nhà máy cũng như tuyến đập được lựa chọn, đưa ra các phương án so
sánh để đảm bảo địa điểm được lựa chọn là tối ưu trong bài toán hiệu quả kinh tế. Cần
quan tâm đến các yếu tố lịch sử của nơi xây dựng dự án như động đất, lũ quét, sạt lở
đất để đánh giá tiêu chuẩn xây dựng áp dụng đã phù hợp với cấp công trình chưa,
việc lựa chọn tuyến đập có thực sự an toàn.
- Điều kiện khí tượng - thủy văn là yếu tố rủi ro nhất của dự án thủy điện: nước
là nguồn “than trắng” trong quá trình phát điện của nhà máy thủy điện. Một trong những
yếu tố quyết định để thực hiện dự án ngành thủy điện đó là dòng chảy hàng năm của lưu
vực sông. Lưu lượng dòng chảy trung bình hàng năm là điều kiện đầu tiên và là yếu tố
quyết định trong việc lựa chọn công suất cho nhà máy thủy điện. Việt Nam có hệ thống
sông ngòi, ao hồ dày đặc. Các hệ thống sông đều có giá trị đáng kể về thủy lợi. Chỉ tính
riêng các con sông có chiều dài trên 100m thì Việt Nam đã có đến 2.360 con sông. Đi
theo dọc bờ biển, trung bình cứ 20 km lại gặp một cửa sông. Đây là điều kiện thuận lợi
để phát triển ngành thủy điện của Việt Nam. Ngoài ra, yếu tố khí tượng cũng là yếu tố
có tác động không nhỏ tới việc vận hành đúng công suất thiết kế của nhà máy.
Đánh giá: Trên cơ sở đặc điểm này của dự án thủy điện, trong quá trình thẩm
định các cán bộ thẩm định cần đặc biệt quan tâm đến độ tin cậy của các số liệu thủy
văn trong việc mô phỏng lưu lượng bình quân năm và cần đánh giá được rủi ro trong
trường hợp dòng chảy biến đổi bất lợi cho dự án.
b. Thị trường đầu ra tiềm năng
Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm gần
đây với tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm trên 7,5%, hoạt động sản xuất kinh doanh

và tiêu dùng xã hội ngày càng gia tăng. Do đó, nhu cầu điện năng cũng ngày càng lớn.
Đây là điều kiện thuận lợi cơ bản cho sự phát triển ngành điện nói chung và các nhà
máy thủy điện nói riêng.
Dự báo đến năm 2025, nhu cầu tiêu thụ điện vẫn tiếp tục tăng nhanh hơn GDP
(hệ số đàn hồi Điện/GDP lớn hơn 1). Đến năm 2010, nhu cầu điện toàn quốc khoảng
112 - 117 tỷ kWh; năm 2020 ước khoảng 294 - 306 tỷ kWh và năm 2025 ước khoảng
432 - 447 tỷ kWh. Tốc độ tăng nhu cầu điện bình quân giai đoạn 2001 - 2010 khoảng
14,7 - 15,8%; giai đoạn 2011 – 2020 ước khoảng 8,8 - 10,1%; giai đoạn 2021 - 2025
ước khoảng 7,2 - 8%.
Dự báo nhu cầu trên đòi hỏi ngành điện phải đẩy mạnh xây dựng thêm nhiều
nhà máy thủy điện, nhiệt điện than, nhiệt điện khí, điện nguyên tử đồng thời kết hợp
trao đổi, liên kết lưới điện với các nước trong khu vực để đáp ứng nhu cầu nội địa và
tiến tới xuất khẩu điện năng.
Trong những năm tới, tốc độ tăng trưởng nhu cầu sử dụng điện năng cả nước
tiếp tục tăng trưởng nhanh hơn so với tốc độ phát triển của các nguồn phát điện.
c. Chi phí đầu tư tương đối lớn
Tổng vốn đầu tư nhà máy thủy điện thường rất lớn: Các dự án về ngành điện
đều phải đầu tư cơ sở vật chất lớn và hiện đại, do đó nguồn vốn đầu tư rất lớn, thời
gian đầu tư xây dựng kéo dài. Dù rất nhiều tiềm năng nhưng thủy điện cũng kén nhà
đầu tư do gắn với nhiều yếu tố quan trọng như vốn, địa điểm, kỹ thuật, đầu ra Theo
số liệu thống kê để sản xuất được 1MW điện, ứng với sản lượng điện 4,2 triệu
kWh/năm, nhà đầu tư phải bỏ ra từ 20-23 tỷ đồng, thậm chí ở những địa bàn có địa
hình phức tạp thì suất đầu tư 1MW có thể lên tới 25 tỷ đồng, nên ngành này chỉ dành
cho những nhà đầu tư có tiềm lực tài chính vững vàng.
Tuy nhiên, chi phí vận hành nhà máy thủy điện thấp so với các dự án nguồn
điện khác, các dự án thuỷ điện hầu như không phải dùng nhiên liệu, do đó không phải
chịu cảnh tăng giá của nhiên liệu hoá thạch như dầu mỏ, khí gas tự nhiên hay than đá.
Chi phí nhân công trong quá trình hoạt động của dự án thuỷ điện cũng thấp bởi vì các
nhà máy này được tự động hoá cao và có ít người làm việc khi vận hành thông thường.
Theo tính toán của Bộ Công thương, chi phí vận hành và sửa chữa, bảo dưỡng hàng

năm chiếm từ 0,5 – 1% tổng chi phí đầu tư xây dựng và thiết bị, vì thế đây là một
trong những lợi thế của nhà máy thuỷ điện so với nhà máy nhiệt điện.
Đánh giá: Với tổng chi phí đầu tư lớn, trong quá trình thẩm định, cần xem xét
phương pháp xây dựng tổng mức đầu tư dự án, cụ thể khi xem xét tổng vốn đầu tư của
dự án thuỷ điện không nên lấy theo với những dự án thủy điện khác vì nếu xem xét
như vậy thì sự chênh lệch lớn sẽ dễ dẫn đến từ chối cho vay dự án. Để đảm bảo tính
khả thi của việc xây dựng dự án cần xem xét tính khả thi của nguồn vốn của chủ đầu
tư (vốn khả dụng) cũng như các nguồn vốn tài trợ khác.
d. Thời gian xây dựng, vận hành nhà máy thủy điện và thời gian thu hồi vốn thường
kéo dài
Dự án thuỷ điện có thời gian xây dựng và thời gian vận hành dài. Do quy mô
của một dự án thuỷ điện thường lớn, kỹ thuật thi công - xây dựng cũng tương đối phức
tạp nên muốn hoàn thành một dự án thuỷ điện thường mất nhiều thời gian (khoảng 3-5
năm tuỳ theo quy mô). Sỡ dĩ có sự kéo dài về thời gian này là do xây dựng nhà máy
thủy điện bao gồm rất nhiều hạng mục công trình như Hồ chứa nước; Đập chính; Đập
phụ; Tràn xả lũ; Đập tràn; Cống lấy nước; Kênh dẫn nước vào hồ; Cửa lấy nước;
Tuynel áp lực; Đường ống áp lực, nhà máy, đường dây tải điện….lại phải xây dựng
trong điều kiện địa hình phức tạp, trong khi đó các hạng mục hoàn chỉnh đòi hỏi phải
xây dựng đồng bộ thì mới có thể đưa vào vận hành và sử dụng.
Thời gian thu hồi vốn kéo dài, do tổng vốn đầu tư lớn, thời gian vận hành dài
nên thời gian thu hồi vốn đầu tư thường kéo dài.
Đánh giá: Với đặc điểm về thời gian của các dự án thủy điện, khi thẩm định,
cán bộ thẩm định cần quan tâm tới tiến độ sử dụng vốn đúng sát với tiến độ xây dựng
dự án. Nếu tiến độ sử dụng vốn tính không sát với tiến độ xây dựng dẫn tới tổng mức
đầu tư không chính xác (do sai lệch về lãi vay trong thời gian xây dựng) nên sẽ dẫn
đến đánh giá sai về hiệu quả kinh tế. Thời gian thi công đối với các dự án thủy điện
thường từ 2 – 4 năm nên việc tính toán chi phí dự phòng cho dự án cần phải lưu ý đến
yếu tố trượt giá. Do thời gian vận hành dự án kéo dài nên việc xem xét dòng tiền của
dự án phải xem xét phù hợp với thời gian thực tế vận hành dự án, cần lưu ý đến việc
thay thế thiết bị trong thời gian vận hành dự án. Theo cơ chế hiện nay, giá bán điện

của Việt Nam thấp hơn các nước trong khu vực, trong khi đó chi phí đầu tư lại lớn hơn
do thiết bị cơ điện phải nhập khẩu nên các dự án thường có thời gian thu hồi vốn lâu
nên cán bộ thẩm định cần lưu ý đến việc xác định thời gian cho vay phù hợp khả năng
trả nợ của dự án.
e. Dự án thuỷ điện có tính phức tạp cao về mặt kỹ thuật, tính đồng bộ đòi hỏi cao và
khối lượng thi công lớn
Do đặc thù ngành điện, các dự án thuỷ điện thường gắn với trình độ kỹ thuật
cao hơn những DAĐT phát triển thông thường. Hơn nữa, công nghệ kỹ thuật trong các
dự án phải đảm bảo sự đồng bộ với việc xây dựng hệ thống truyền tải và phân phối
điện năng. Không chỉ yêu cầu cao về mặt kỹ thuật, xây dựng dự án thuỷ điện phải thực
hiện một khối lượng thi công lớn cũng như cần tập trung nhiều nhân lực và thiết bị,
nguyên vật liệu trong khi tiến hành xây dựng.
Đánh giá: Cán bộ thẩm định khi xem xét các thiết bị của dự án thuỷ điện cần
chú ý đến tính đồng bộ kết hợp với sự phù hợp về chi phí của thiết bị. Một khía cạnh
kỹ thuật khác là khối lượng thi công lớn; vì vậy, cán bộ thẩm định khi đánh giá địa
điểm xây dựng dự án cần chú ý khoảng cách đến các vùng nguyên liệu xây dựng cũng
như mức độ thuận tiện khi vận chuyển nguyên liệu đến địa điểm dự án. Những yếu tố
trên sẽ ảnh hưởng lớn đến chi phí xây dựng dự án.
f. Phải đảm bảo được đầu ra trước khi tiến hành xây dựng nhà máy thủy điện
Hiện nay ở Việt Nam ngành điện là ngành kinh tế độc quyền: chỉ duy nhất có
Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) là người mua điện duy nhất và cũng là người bán
điện duy nhất đến người tiêu dùng. Do đó, việc tiêu thụ sản phẩm của các dự án thủy
điện có đặc điểm khác với sản phẩm của những dự án sản xuất khác đó là phải đảm bảo
được đầu ra trước khi xây dựng dự án. Tức là đàm phán thành công phương án đấu nối
với công ty mua bán điện EVN thì mới có thể hình thành dự án xây dựng nhà máy thủy
điện. Phương án đấu nối lưới điện bao gồm: công suất, điện năng, thời điểm dự kiến
mua bán điện, điểm đấu nối, điểm đặt thiết bị đo đếm mua bán điện, cấp điện áp mua
bán điện, thể hiện phương án mua bán điện trên bản đồ, sơ đồ lưới điện khu vực.
Tuy nhiên hiện nay tại Việt Nam việc đàm phán về phương án đấu nối giữa các
chủ đầu tư dự án thủy điện với EVN chưa thực sự đạt hiệu quả. Có không ít những dự

án đã khởi công xây dựng trong khi chưa đàm phán được phương án đấu nối. Nguyên
nhân của việc đàm phán không hiệu quả này chủ yếu là do EVN chưa làm đường dây
đến các TĐN mua điện. Trong khi nếu như chủ đầu tư bỏ tiền ra để đầu tư vào đường
dây truyền tải thì chi phí đầu tư lại vượt trội lên mà đường dây lại vẫn thuộc quyền sỡ
hữu của EVN hoặc nếu như vậy thì phải thỏa thuận lại giá mua điện thì chủ đầu tư mới
có thể thu hồi vốn mà mình bỏ ra đầu tư. Tuy nhiên EVN đến nay vẫn chưa có câu trả
lời rõ ràng cho các chủ đầu tư nên vẫn tồn tại những dự án dù đã đi vào vận hành, sản
xuất ra điện nhưng lại không phát huy được do chưa thỏa thuận được phương án đấu
nối và giá bán điện với EVN.
Đánh giá: Do những yếu tố trên nên cán bộ thẩm định cần phải quan tâm đến tài
liệu về thỏa thuận mua bán điện cũng như phương án đấu nối truyền tải điện lên hệ thống
điện quốc gia, đảm bảo có thể bán được điện ngay sau khi nhà máy xây dựng xong.
g. Các dự án thủy điện có sự tác động mạnh mẽ đến môi trường tự nhiên và môi
trường kinh tế - xã hội
Tác động đối với môi trường tự nhiên, không thể phủ nhận các dự án thủy điện
có sự tác động tiêu cực nhất định đến môi trường tự nhiên của khu vực đặt dự án như
làm thay đổi chế độ thủy văn, thay đổi hệ sinh thái khu vực xung quanh, gây hiện
tượng sói lở và bồi lắng đất Nhưng bên cạnh đó, các dự án thủy điện cũng có những
tác động tích cực tới môi trường như điều hòa vùng tiểu khí hậu, điều tiết nguồn nước
cho tưới tiêu trong nông nghiệp, hình thành hệ sinh thái mới trong lòng hồ thủy điện.
Vấn đề sử dụng nguồn nước một cách hợp lý có vai trò quan trọng đối với các
dự án thuỷ điện: Các dự án thuỷ điện trong cùng một hệ thống sông cần phải liên kết
chặt chẽ với nhau trong việc khai thác nguồn năng lượng từ nước bởi việc đầu tư xây
dựng thêm dự án thuỷ điện này có ảnh hưởng lớn đến sự hoạt động của dự án thuỷ
điện khác. Hoặc những nhà máy thủy điện ở thượng nguồn sông có sự ảnh hưởng nhất
định đến khu vực hạ lưu. Ngoài ra, xây dựng các dự án thuỷ điện vẫn đảm bảo phát
triển thuỷ lợi cũng là một vấn đề quan trọng. Hệ thống thuỷ lợi cần duy trì sao cho vừa
có đủ nước cho sản xuất nông nghiệp vừa có nước cho sinh hoạt của dân cư.
Tác động tới môi trường kinh tế - xã hội, tác động điển hình nhất đến môi
trường kinh tế - xã hội của các dự án thủy điện là tất cả các nhà máy thủy điện khi xây

dựng đều phải có hồ chứa nước, tùy theo quy mô dự án, tính chất dòng chảy, kiểu nhà
máy thì quy mô hồ chứa khác nhau và các hồ chứa chiếm vĩnh viễn một diện tích đất
rất lớn. Bên cạnh yếu tố mất đất sản xuất, phải di dân và tái định cư cho người dân ở
khu vực xây dựng nhà máy thì những các dự án này cũng mang lại những điều kiện
thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương như quy hoạch lại khu dân
cư, sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa.
Đánh giá: Với sự tác động như đã phân tích ở trên, trong quá trình thẩm định
cán bộ thẩm định cần đánh giá, so sánh những tác động tiêu cực và tích cực của các dự
án thủy điện đối với môi trường tự nhiên, môi trường kinh tế - xã hội không chỉ của
địa phương mà đôi khi phải tính đến phương diện quốc gia; đánh giá được phương án
di dân tái định cư có đảm bảo được mục tiêu đặt ra. Đặc biệt, đối với các dự án cùng
khai thác nguồn nước trên một hệ thống thủy văn cần có sự phân bổ và sử dụng nguồn
nước hợp lý.
1.2. Thẩm định dự án tại NHTM
1.2.1. Khái niệm chung về thẩm định dự án
Thẩm định DAĐT là việc tiến hành trong hoạt động đầu tư theo phương thức
dự án ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Tuỳ theo đặc thù, điều kiện kinh tế xã hội
cũng như thể chế kinh tế của mỗi nước mà quan niệm cũng như cách thức tổ chức
thẩm định DAĐT có sự khác biệt.
Theo mục tiêu đầu tư, Ngân hàng thế giới (WB) định nghĩa: thẩm định DAĐT
được hiểu là quá trình một cơ quan chức năng (nhà nước hoặc tư nhân) xem xét xem
một dự án có đạt được các mục tiêu kinh tế và xã hội đã đề ra và đạt được những mục
tiêu đó một cách có hiệu quả hay không. Với định nghĩa này, công tác thẩm định
DAĐT nhằm giúp đưa dự án đi theo đúng hướng, tạo nền móng cho việc thực hiện
DAĐT có hiệu quả.
Theo mục đích quản lý, thẩm định DAĐT được hiểu là việc xem xét, phân tích,
đánh giá DAĐT trên các nội dung cơ bản nhằm giúp cho việc ra quyết định đầu tư.
Thẩm định DAĐT được xem như một công cụ quản lý để góp phần nâng cao hiệu quả
đầu tư.
Trên góc độ kỹ thuật, thẩm định DAĐT được xem là một trong những kỹ thuật

phân tích, đánh giá dự án: Thẩm định DAĐT là hoạt động chuẩn bị dự án được thực
hiện bằng kỹ thuật phân tích dự án đã được thiết lập để ra quyết định thoả mãn các quy
định về thẩm định của nhà nước.
Theo nội dung chi tiết của dự án, thẩm định DAĐT là việc tiến hành xem xét
một cách toàn diện trên các nội dung của dự án từ pháp lý, công nghệ kỹ thuật, kinh tế
tài chính, tổ chức quản lý thực hiện đến hiệu quả của dự án. Quan điểm này cho rằng
thẩm định dự án cần có kỹ thuật và các phương pháp cụ thể đối với từng nội dung của
dự án.
Từ những phân tích trên đây, tác giả cho rằng khái niệm về thẩm định DAĐT
cần được xây dựng và hiểu thống nhất trên cơ sở khoa học. Trong quá trình xây dựng
cần phải xác định rõ phạm vi, bản chất cũng như mục đích của công tác thẩm định dự
án. Trên cơ sở đó, khái niệm về thẩm định DAĐT cần được bao quát, không xem xét
riêng cho một chủ thể cũng như một nguồn vốn cụ thể nào. Theo tác giả, khái niệm về
thẩm định DAĐT để ra quyết định đầu tư được diễn đạt như sau:
“Thẩm định DAĐT là quá trình xem xét, phân tích, đánh giá dự án một
cách khách quan, khoa học và toàn diện trên các nội dung, nhằm khẳng định tính
hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án trước khi quyết định đầu tư. Trong quá
trình thẩm định lại dự án, nhiều khi phải tính toán và phân tích lại dự án”.
1.2.2. Thẩm định dự án tại NHTM
1.2.2.1. Khái niệm về NHTM
NHTM đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát
triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác động rất lớn và quan
trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát
triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày
càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được.
Đối với mọi nền kinh tế trên thế giới, ngân hàng luôn là một trong các tổ chức
tài chính quan trọng nhất, có tầm ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế- xã hội của mỗi
quốc gia. Tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính
nói riêng, ngân hàng bao gồm nhiều loại nhưng chiếm tỷ trọng lớn nhất về cả quy mô
tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng chính là ngân hàng thương mại.

Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
- Ở Mỹ, NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài
chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
- Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “NHTM là những xí
nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới
hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính
họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
- Ở Việt Nam, theo Luật tổ chức tín dụng khoản 1 và khoản 7 Điều 20 đã xác
định "Tổ chức tín dụng là Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ
ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp
các dịch vụ thanh toán" và trong các loại hình tổ chức tín dụng thì " Ngân hàng là một
tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các
nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán".
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, là
một trong những định chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ
tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ
thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối
đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ
chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1.2.2.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng huy động tiền từ các thành phần kinh tế sau đó cho vay với lãi suất
cao hơn để hưởng chênh lệch. Một trong những nguồn tiền quan trọng là các khoản
tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm của khách hàng)
Để thu hút được nhiều tiền gửi của khách hàng trong môi trường cạnh tranh các
ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động khác nhau. Khách hàng gửi tiền được
trả lãi như phần thưởng về việc hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân

hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh.
NHTM được huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình
thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác;
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giáy tờ có giá khác để huy
động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước;
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và các tổ chức
nước ngoài;
- Vay vốn ngắn hạn của ngân hàng nhà nước;
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Hoạt động tín dụng
NHTM được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay,
chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các
hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.Trong các hoạt động cấp tín
dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Cho vay: NHTM được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau:
Cho vay thương mại: lúc đầu các ngân hàng chiết khấu thương phiếu, thực tế là
cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân
hàng để lấy tiền trước). Sau này ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng,
giúp họ có vốn khi cần để thực hiện sản xuất kinh doanh.
Cho vay tiêu dùng: trước đây ngân hàng ít cho vay đối với cá nhân và hộ gia
đình vì họ tin rằng các khoản cho vay này có độ rủi ro tương đối cao, dễ vỡ nợ. Sự gia
tăng thu nhập của khách hàng và sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng buộc họ
phải hướng tới người tiêu dùng là khách hàng tiềm năng. Đây là thị trường trong tương
lai sẽ mang lại nguồn thu nhập lớn và ổn định cho ngân hàng.
Tài trợ cho các dự án: Để phát triển nhanh kinh tế xã hội nước ta, nhu cầu về
vốn tài trợ cho xây dựng cơ sơ hạ tầng là rất lớn. Ngoài ra do nhu cầu mở rộng và phát
triển sản xuất, vốn đầu tư của các doanh nghiệp cũng không ngừng gia tăng tạo ra thị
trường rộng lớn cho các ngân hàng. Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong
việc tài trợ cho xây dựng nhà máy, khu công nghiệp, khu đô thị mới,… đặc biệt là

trong các ngành công nghệ cao. Loại hình này mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng
song đi kèm với nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro cao đến từ khách hàng hoặc là cơ chế
chính sách nhà nước hoặc thiên tai hiểm họa,….Đối với các dự án lớn, một ngân hàng
không thể cung cấp đủ vốn, có thể liên kết với các ngân hàng khác đồng tài trợ.
Bảo lãnh: Ngày nay, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển. Do
khả năng chi trả của ngân hàng rất lớn và ngân hàng nắm giữ tài khoản của khách hàng
nên ngân hàng rất có uy tín trong hoạt động bảo lãnh cho khách hàng. Các hình thức
bảo lãnh gồm có: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh đảm bảo chất lượng,…
Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một NHTM không
được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của NHTM.
Chiết khấu: NHTM được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn
hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy
tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
Cho thuê tài chính: NHTM được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải
thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của
công ty cho thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt
động của công ty cho thuê tài chính.
Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: khi mở tài khoản
giao dịch tại ngân hàng khách hàng sẽ nhận được nhiều tiện ích của thanh toán không
dùng tiền mặt: an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí, rút ngắn thời gian
kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Ngày nay giao dịch giữa các
ngân hàng ngày càng linh hoạt, thời gian chuyển tiền được rút ngắn, thanh toán qua
ngân hàng được mở rộng phạm vi, tạo nhiều tiện ích cho khách hàng.
Quản lý ngân quỹ: ngân hàng cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân
quỹ, quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng
dư tiền mặt tạm thời cho đến khi khách hàng cần đến thanh toán.
Bảo quản các vật có giá: khi nắm giữ các vật có giá như vàng, ngoại tệ, các giấy
tờ có giá,…có thể mang lại cho người nắm giữ nhiều rủi ro đến tính mạng và tài sản hơn
nữa không mang lại lãi lời gì cho họ. Ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật

có giá cho khách hàng trong kho bảo quản và khách hàng phải trả phí bảo quản.
Hoạt động khác
Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ: chính phủ giành quyền cấp phép hoạt
động và kiểm soát các ngân hàng. Khi thành lập, các ngân hàng phải cam kết thực hiện
với mức độ nào đó các chính sách của chính phủ và tài trợ cho chính phủ. Các ngân
hàng phải mua trái phiếu chính phủ theo tỷ lệ nhất định trên tổng số tiền huy động
được hoặc cho vay ưu đãi cho các doanh nghiệp của chính phủ.
Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn: ngân hàng đóng vai trò là người được ủy
thác quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ, chuyên gia tư vấn tài chính,….
Giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn của mình một cách hiệu quả nhất.
Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: nhu cầu của khách hàng ngày
càng đa dạng và phong phú. Vì thế để đáp ứng tốt nhất những nhu cầu đó các ngân
hàng đã bắt đầu phát triển dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ
hội mua bán cổ phiếu và trái phiếu mà không cần phải thông qua người kinh doanh
chứng khoán. Ngân hàng có thể thành lập công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới
chứng khoán.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: ngân hàng bán bảo hiểm cho khách hàng đảm
bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng gặp rủi ro, có tổn thất xảy ra như:
khách hàng bị tai nạn, rủi ro trong kinh doanh, mất khả năng thanh toán,….lúc đó ngân
hàng sẽ đứng ra thực hiện nghĩa vụ thanh toán hộ khách hàng của mình.
Cung cấp các dịch vụ đại lý: do chi phí mở chi nhánh mới rất tốn kém và mất
nhiều thời gian nên ngân hàng không thể thiết lập chi nhánh ở mọi nơi. Điều này làm
cho khả năng tiếp cận với khách hàng sẽ không cao. Do đó nhiều ngân hàng (thường là
các ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác làm các
dịch vụ như: thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu
mối trong đồng tài trợ,…
1.2.2.3. Sự cần thiết thẩm định dự án tại NHTM
Trong lĩnh vực ngân hàng, các NHTM xuất phát từ đặc điểm là những trung
gian tài chính hoạt động trong nền kinh tế, chịu ảnh hưởng sâu sắc của cơ chế thị
trường thì vấn đề hiệu quả và tính an toàn trong kinh doanh tiền tệ là yêu cầu quan

trọng hàng đầu. Hiệu quả và chất lượng của tín dụng trung dài hạn quyết định rất lớn
đến lợi nhuận cũng như khả năng phát triển của NHTM, đặc biệt là trong điều kiện
Việt Nam hiện nay, khi mà các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng chưa thật sự đa dạng.
Các khoản tín dụng do NHTM cung cấp phải đảm bảo được hiệu quả kinh tế: thu hồi
được vốn và lãi đúng hạn. Lãi thu được không những chỉ đủ bù đắp phần lãi mà ngân
hàng phải trả cho người gửi tiền và các chi phí cho vay khác, mà còn phải tạo ra lợi
nhuận cho hoạt động tín dụng.
Đối với các NHTM, thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng chủ yếu
trong tổng thu nhập của một ngân hàng (xấp xỉ 70%). Vì vậy, chất lượng tín dụng có
ảnh hưởng trực tiếp đến sự gia tăng thu nhập và giảm thiểu rủi ro của một ngân hàng.
Để có danh mục tín dụng có chất lượng tốt, phải dựa trên cơ sở các DAĐT tốt, có hiệu
quả tài chính tốt, khả năng thu hồi vốn nhanh… và để tìm ra các dự án này thì nhất
thiết phải thẩm định dự án.
Do đó, việc thẩm định dự án, phân tích thông tin để tìm ra những nhân tố tạo ra
lợi ích cũng như những nhân tố gây ra rủi ro là cực kỳ quan trọng trong nâng cao chất
lượng tài trợ dự án nói riêng và chất lượng tín dụng nói chung của các ngân hàng
thương mại. Tham gia kinh doanh trong kinh tế thị trường với đặc điểm cố hữu của nó
là đầy biến động và rủi ro thì yêu cầu nhất thiết đối với các NHTM khi cho các doanh
nghiệp vay vốn là phải tiến hành thẩm định các DAĐT một cách đầy đủ và toàn diện
trước khi tài trợ vốn.
Thẩm định DAĐT tại ngân hàng thương mại là việc tiến hành nghiên cứu, phân
tích một cách khách quan, khoa học và toàn diện tất cả các nội dung kinh tế - kỹ thuật
của dự án, đặt trong mối tương quan với môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội để cho
phép đầu tư và quyết định tài trợ vốn.
Sự cần thiết thẩm định dự án thể hiện ở vai trò của nó trong hoạt động của NHTM:
Thứ nhất, thẩm định DAĐT giúp Ngân hàng ra quyết định cho vay chính xác,
an toàn và hiệu quả. Thông qua thẩm định dự án, Ngân hàng sẽ định lượng chính xác
một số tham số cơ bản trong quá trình tài trợ vốn vay một cách hợp lý như số tiền cho
vay, thời gian giải ngân vốn, thời gian thu nợ … cũng như lường trước được rủi ro và
biện pháp giảm thiểu rủi ro.

Thứ hai, thẩm định DAĐT giúp Ngân hàng phân loại được các dự án do khách
hàng mang tới, tìm được các dự án phù hợp với định hướng đầu tư của Ngân hàng
trong tương lai. Từ đó, giúp Ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng nói chung.
Thứ ba, thẩm định DAĐT của Ngân hàng góp phần quan trọng vào việc hỗ trợ
các cơ quan quản lý hoạt động đầu tư, hỗ trợ khách hàng trong việc xây dựng và thực
hiện DAĐT.
Thứ tư, thẩm định dự án được xem như một công cụ cạnh tranh của các Ngân
hàng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.
Thẩm định DAĐT có tầm quan trọng như vậy nên việc thẩm định DAĐT tại
Ngân hàng là rất cần thiết để có thể thực hiện hoạt động tín dụng, tư vấn với chất
lượng cao, giữ vững và nâng cao uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng trong và
ngoài nước, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng trong điều kiện cạnh
tranh của cơ chế thị trường.
1.2.2.4. Nội dung thẩm định các dự án tại ngân hàng thương mại
Việc thẩm định DAĐT tại NHTM bao gồm nhiều nội dung và trải qua các công
đoạn từ việc thẩm định sơ bộ cho đến thẩm định chính thức, thẩm định kinh tế kỹ
thuật, thẩm định sự cần thiết và mục tiêu đầu tư của dự án, thẩm định thị trường của dự
án, thẩm định mô hình quản trị và nhân lực cho dự án, thẩm định tài chính dự án, thẩm
định khả năng trả nợ cho ngân hàng, thẩm định về các biện pháp bảo đảm tiền vay,
thẩm định về lợi ích kinh tế xã hội… Sau đây là sơ lược về các nội dung trong thẩm
định dự án tại NHTM:
Thẩm định sự cần thiết và mục tiêu đầu tư của dự án
Theo nội dung này NHTM cần đánh giá xem dự án có nhất thiết phải thực hiện
không? Tại sao phải thực hiện? Nếu được thực hiện thì dự án sẽ đem lại những lợi ích
gì cho chủ đầu tư, cho địa phương và nền kinh tế. Mục tiêu hướng đến của dự án là gì?
Các mục tiêu của dự án có phù hợp với mục tiêu chung của ngành, của địa phương hay
không? Dự án có thuộc diện nhà nước ưu tiên và khuyến khích đầu tư không?
Thẩm định nội dung thị trường của dự án
Nội dung thị trường của dự án được ngân hàng rất quan tâm vì khả năng hoàn
trả vốn vay ngân hàng của dự án phụ thuộc rất lớn vào sức cạnh tranh của sản phẩm

trên thị trường, đồng thời thị thường cũng là nơi đánh giá cuối cùng về chất lượng sản
phẩm, về khả năng tiêu thụ và về hiệu quả thực sự của dự án.
Vì vậy, thẩm định ngân hàng cần đặc biệt chú ý đến thị trường dự án trên các
khía cạnh sau:
(1) Thẩm định sản phẩm và thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án
(2) Đánh giá sản phẩm của dự án
(3) Đánh giá cơ sở dữ liệu, các phương pháp phân tích, dự báo cung cầu thị
trường về sản phẩm của dự án
(4) Đánh giá phương án tiếp thị, quảng bá sản phẩm của dự án, phương thức
tiêu thụ và mạng lưới phân phối sản phẩm
(5) Khả năng cạnh tranh và các phương thức cạnh tranh
(6) Kinh nghiệm và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ thị trường về sản phẩm
Thẩm định nội dung kỹ thuật của dự án
Thẩm định địa điểm xây dựng công trình: đánh giá sự phù hợp về quy hoạch
của địa điểm, tính kinh tế của địa điểm
Thẩm định về qui mô công suất: xem xét các yếu tố cơ bản để lựa chọn công
suất thiết kế và mức sản xuất dự kiến hàng năm của dự án
Thẩm định về công nghệ sản xuất: đánh giá mức độ phù hợp của công nghệ,
thiết bị mà dự án lựa chọn, uy tín của nhà cung cấp
Thẩm định về phương án sản phẩm
Thẩm định về sự lựa chọn máy móc thiết bị
Thẩm định về nguyên vật liệu sử dụng cho dự án: Nguồn cung cấp nguyên vật
liệu xa hay gần nơi xây dựng dự án, chú ý tính thời vụ của nguyên vật liệu, giá cả và
quy luật biến động giá cả
Thẩm định về năng lượng, nước sử dụng cho sản xuất của dự án
Thẩm định về kỹ thuật xây dựng của dự án
Thẩm định vấn đề xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường
Thẩm định về lịch trình thực hiện dự án
Thẩm định nội dung về mô hình tổ chức quản trị và nhân lực cho dự án
Thành công của một DAĐT, bên cạnh sự đầy đủ các yếu tố cơ sở vật chất như

nhà xưởng, thiết bị, nguyên vật liệu còn được quyết định rất lớn bởi trình độ và năng
lực của các nhà quản lý, bởi tay nghề của người lao động Do đó, khi thẩm định dự
án, việc xem xét về phương thức tổ chức quản trị dự án, về tính hợp lý trong bố trí lao
động thực sự là một nội dung không thể bỏ qua Những vấn đề chính cần xem xét là:
- Thẩm định về mô hình tổ chức quản trị của dự án: hình thức tổ chức quản lý
dự án, xem xét cơ cấu, trình độ tổ chức vận hành của dự án
- Thẩm định về lao động cho dự án: Đối với lao động trong nước, đối với lao
động nước ngoài, đánh giá nguồn nhân lực của dự án về số lao động, trình độ kỹ thuật
tay nghề, kế hoạch đào tạo
Thẩm định nội dung tài chính của dự án
Thẩm định về tổng vốn đầu tư của dự án: thẩm tra mức độ hợp lý của tổng vốn
đầu tư và tiến độ bỏ vốn
Thẩm định về nguồn vốn và sự đảm bảo của nguồn vốn tài trợ dự án
Thẩm định về chi phí sản xuất, doanh thu và thu nhập hàng năm của dự án
Tỷ suất chiết khấu
Dòng tiền của dự án
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án
- Tính chỉ tiêu NPV (hiện giá ròng)
- Tính chỉ tiêu tỷ suất nội hoàn (IRR)
Xác định điểm hoà vốn của dự án
Thẩm định về khả năng trả nợ cho ngân hàng
Xuất phát từ quan điểm của tín dụng là bên vay vốn (chủ đầu tư) phải hoàn trả
ngân hàng đầy đủ và đúng hạn số vốn gốc và lãi vay để NHTM có thể trả lại cho bên
được huy động vốn hoặc cho vay đối với dự án khác. Trong quá trình thẩm định
DAĐT, NHTM đặc biệt quan tâm đến khả năng hoàn trả của chủ đầu tư khi đến kỳ
hạn trả nợ. Khả năng trả nợ của một doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
Dự án đang xin vay là đầu tư mới hay tái đầu tư (theo chiều rộng hoặc theo chiều sâu),
nguồn trả nợ chủ yếu trông đợi vào khả năng sản xuất kinh doanh của dự án hay còn
có những nguồn bổ sung nào khác.
Thẩm định lợi ích kinh tế - xã hội qua các mặt:

Giá trị gia tăng của sản phẩm hàng hoá
Khả năng tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho người lao động
Mức độ đóng góp cho ngân sách (thuế, thuê đất, thuê tài sản cố định )
Góp phần phát triển các ngành khác, phát triển khu nguyên liệu
Góp phần phát triển kinh tế địa phương. Tăng cường cơ sở hạ tầng địa phương
(điện, nước, giao thông )
Phát triển các dịch vụ thương mại, du lịch tại địa phương (ngoại ứng tích cực)
và các ngoại ứng tiêu cực như: ô nhiễm môi trường, tiếng ồn, tệ nạn xã hội
Thẩm định các biện pháp bảo đảm tiền vay
Tài sản đảm bảo chính là nguồn trả nợ thứ hai khi thu nhập từ hoạt động của
dự án không đảm bảo để trả nợ. Tài sản đảm bảo cần được đánh giá một cách chính
xác làm cơ sở xác định hạn mức tín dụng và đảm bảo khả năng phát mại tài sản khi
cần thiết. Nội dung thẩm định tài sản đảm bảo bao gồm: thẩm định về tính chất pháp lý
của tài sản đảm bảo, thẩm định tính dễ chuyển nhượng của tài sản (khả năng thanh
khoản), thẩm định giá trị tài sản đảm bảo.
Trên đây là những nội dung căn bản trong bất cứ một quá trình thẩm định DAĐT
nào. Có thể nói, thẩm định DAĐT là một công việc hết sức phức tạp, đòi hỏi phải luôn
hoàn thiện qua thực tế chứ không phải chỉ tập trung vào lý thuyết. Vì vậy, việc không
ngừng nâng cao chất lượng công tác thẩm định DAĐT đối với các ngân hàng là điều rất
cần thiết để giảm thiểu rủi ro, phát huy hiệu quả hoạt động một cách tối đa.
1.2.2.5. Quy trình thẩm định dự án tại ngân hàng thương mại
Bộ phận thực hiện thẩm định dự án tại ngân hàng thương mại chính là bộ phận
thực hiện việc cấp tín dụng cho khách hàng. Tuy có sự khác nhau về bộ máy tổ chức
và quy mô của từng ngân hàng nhưng về cơ bản, bộ phận cấp tín dụng gồm phòng tín
dụng và phòng thẩm định - quản lý tín dụng. Quá trình thẩm định dự án được thực
hiện như sau:
Sơ đồ 1.1: Quy trình thẩm định dự án
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ dự án
Bước 2:
Bộ phận

tín dụng
- Thẩm định dự án
- Lập báo cáo đề xuất tín dụng
- Nếu dự án không hiệu quả, không đồng ý
cho vay thì thông báo từ chối cho vay gửi
khách hàng
- Nếu đồng ý cho vay dự án, chuyển bước 3
Bước 3: Bộ phận thẩm
định
- Thẩm định lại dự án
- Lập báo cáo thẩm định
Bước 4: Thông qua báo cáo thẩm định
Bước 5: Hoàn tất công việc thẩm định
Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ thẩm định. Cán bộ tín dụng tiếp nhận dự án từ chủ đầu
tư, yêu cầu chủ đầu tư phải cung cấp đầy đủ các hồ sơ về chủ đầu tư, về dự án, về tài
sản đảm bảo và các giấy tờ khác có liên quan.
Bước 2: Thẩm định của cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng căn cứ vào hồ sơ về
dự án mà chủ đầu tư cung cấp và thu thập thêm thông tin để thực hiện thẩm định dự án
theo các tiêu chí thẩm định và lập báo cáo thẩm định trình trưởng phòng tín dụng,
trưởng phòng tín dụng kiểm soát báo cáo thẩm định của cán bộ tín dụng.
Bước 3: Thẩm định của cán bộ thẩm định. Cán bộ thẩm định tiếp nhận hồ sơ từ
phòng tín dụng và tiến hành thẩm định lại dự án và tiến hành làm báo cáo thẩm định,
báo cáo đánh giá rủi ro của dự án, trình trưởng phòng thẩm định ký kiểm soát.
Bước 4: Thông qua báo cáo thẩm định. Căn cứ báo cáo thẩm định của phòng tín
dụng và báo cáo tái thẩm định của phòng thẩm định, cấp có thẩm quyền xem xét và
phê duyệt cấp tín dụng tài trợ dự án. Nếu vượt thẩm quyền, thì chuyển lên hội sở chính
thực hiện tái thẩm định và ra quyết định tài trợ dự án hay không.
Bước 5: Hoàn tất công việc thẩm định, ra quyết định cấp tín dụng tài trợ dự án,
thực hiện các bước để giải ngân và lưu trữ hồ sơ thẩm định…
1.2.2.6. Phương pháp thẩm định dự án tại ngân hàng thương mại

DAĐT là một hệ thống các hoạt động có cùng mục tiêu nên phương pháp phân
tích dự án về thực chất là phương pháp tiếp cận hệ thống, nó là cơ sở khoa học vững
chắc và được thế giới áp dụng rộng rãi. Trong đó, mỗi phần, mỗi nội dung, mỗi cấp độ
nghiên cứu có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, các thông tin định tính và định lượng hỗ
trợ nhau để làm rõ các nội dung nhằm đạt được tính trội của hệ thống là mục tiêu của
dự án. Thẩm định có ý nghĩa ở bất kỳ giai đoạn nào, cấp độ nào cũng đòi hỏi phải
đánh giá từng khía cạnh tài chính, kinh tế và xã hội của dự án để từ đó có cách nhìn
nhận khách quan, toàn diện về dự án đầu tư. Mỗi một nội dung thẩm định có tính đặc
thù cũng như căn cứ trên các phương tiện, điều kiện của người thẩm định mà xác định
phương pháp thẩm định cho phù hợp và hiệu quả nhất, đương nhiên mỗi một nội dung
thẩm định cần phải kết hợp đồng bộ nhiều phương pháp có thể.
Để đánh giá tính khả thi một dự án có nhiều phương pháp khác nhau, sau đây là
các phương pháp chính:
Phương pháp thẩm định theo trình tự: Việc thẩm định dự án được tiến hành
theo một trình tự từ tổng quát đến chi tiết, kết luận trước làm tiền đề cho kết luận sau:
Thẩm định tổng quát: là việc xem xét khái quát các nội dung cần thẩm định của
dự án, qua đó đánh giá một cách chung nhất tính đầy đủ, phù hợp, hợp lý của dự án
như: hồ sơ dự án, tư cách pháp lý của chủ đầu tư Thẩm định tổng quát cho phép hình
dung khái quát dự án, hiểu rõ quy mô và tầm quan trọng của dự án. Vì xem xét tổng
quát các nội dung của dự án nên ở giai đoạn này khó phát hiện được các vấn đề cần
phải bác bỏ hoặc các sai sót của dự án cần bổ sung hoặc sửa đổi. Chỉ khi tiến hành
thẩm định chi tiết, những vấn đề sai sót của dự án mới được phát hiện.
Thẩm định chi tiết: Được tiến hành sau thẩm định tổng quát. Việc thẩm định
này được tiến hành tỉ mỉ, chi tiết tới từng nội dung của dự án từ việc thẩm định các
điều kiện pháp lý đến việc thẩm định thị trường, kỹ thuật, tổ chức quản lý, tài chính và
kinh tế xã hội của dự án. Tuy nhiên, mức độ tập trung cho những nội dung cơ bản có
thể khác nhau tùy theo đặc điểm và tình hình cụ thể của dự án.
Phương pháp so sánh, đối chiếu các ch_ tiêu: đây là phương pháp được áp dụng
phổ biến và thông dụng đối với mọi dự án. Ưu điểm lớn của phương pháp này khắc
phục nhược điểm đối với người thẩm định không có am hiểu chuyên môn sâu về công

nghệ của dự án, khi đó việc so sánh sẽ giúp cho người thẩm định nghiên cứu có trọng
tâm và đặt ra các câu hỏi đúng. Việc thực hiện so sánh được tiến hành theo ba cách:
cách thứ nhất so sánh các nội dung tương tự của các chỉ tiêu, yêu cầu, quy định, tiêu
chuẩn của ngành, của Nhà nước với dự án; cách thứ hai so sánh các chỉ tiêu, thông số
của các dự án tương tự đã thực hiện với dự án đang tiến hành thẩm định; cách thứ ba
so sánh các chỉ tiêu, thông số của dự án theo thời gian trong quá trình dự án được hình
thành phát triển để chuẩn xác số liệu.
Phương pháp so sánh phụ thuộc rất lớn vào phương pháp nghiên cứu tài liệu,
phương pháp kinh nghiệm và phương pháp lôgic - lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu chính là bước đầu tiên để thu thập các thông
tin phục vụ cho việc thẩm định dự án, đặc biệt là việc nghiên cứu các điều kiện vĩ mô
ảnh hưởng đến sự hình thành và thực hiện DAĐT. Hồ sơ mà khách hàng gửi đến có
vai trò quan trọng trong việc xem xét quyết định tài trợ vì qua nghiên cứu hồ sơ tài liệu
của khách hàng mới thấy được tính đầy đủ, khách quan, lôgic, pháp lý và năng lực của
khách hàng; từ đó đưa ra các kết luận sơ bộ, các câu hỏi nghi vấn và các yêu cầu tiếp
theo để làm rõ các nội dung cần thẩm định.
Phương pháp kinh nghiệm luôn được đề cao trong công tác thẩm định dự án, có
kinh nghiệm người thẩm định mới có đủ kiến thức và cơ sở để so sánh, đánh giá tính
hiệu quả, phù hợp, có sự tích luỹ kiến thức và sai sót thường gặp của các dự án cùng
loại trước đó. Thông qua quá trình thẩm định lặp lại, nhận thức về dự án sẽ sâu sắc
hơn, nắm được các yếu tố khách quan tác động đến dự án và tồn tại trong dự án. Ngoài
nỗ lực của bản thân, để đạt được khả năng thẩm định độc lập và đạt yêu cầu cán bộ tín
dụng hoặc người được giao nhiệm vụ thẩm định cần có thời gian công tác trong ngành
khoảng 3-5 năm.
Phương pháp lôgic - lịch sử: phương pháp này được tiến hành theo một trình tự
từ tổng quát đến chi tiết, từ quá khứ đến hiện tại và từ đó rút ra các kết luận cũng như

×