Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng tmcp hàng hải việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 87 trang )

-1-
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi tiến hành quá trình đổi mới bắt đầu vào năm 1986, các doanh nghiệp
Việt Nam trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN), đã thể hiện sức bật
mạnh mẽ trong quá trình khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo, phát triển và tăng trưởng.
Thành công của các DNVVN đóng vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm và thu
nhập, giúp cải thiện mức sống của người dân, góp phần quan trọng vào công cuộc xóa
đói giảm nghèo. Đặc điểm hạn chế của các DNVVN là việc thiếu vốn, thiếu kinh
nghiệm hoạt động kinh doanh và kinh nghiệm quản lý điều hành đã tạo không ít khó
khăn cho các DNVVN. Hỗ trợ để phát triển các DNVVN đã được đưa vào chương
trình hành động của Chính phủ, trong đó việc hỗ trợ vốn cho các DNVVN hoạt động
là một yếu tố hết sức quan trọng. Hoạt động cho vay DNVVN nói chung và cho vay
ngắn hạn DNVVN nói riêng đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay nền
kinh tế của các ngân hàng thương mại, đem lại một nguồn lợi nhuận to lớn và chiếm tỷ
trọng cao trong cơ cấu thu nhập của các Ngân hàng. Tuy nhiên, sự biến động lớn của
nền kinh tế, sự non yếu của các DNVVN và môi trường kinh tế chưa đồng bộ tại Việt
Nam đã làm cho chất lượng cho vay DNVVN nói chung và cho vay ngắn hạn
DNVVN nói riêng trong những năm qua còn có nhiều hạn chế và bất cập.
Ý thức được tầm quan trọng trong việc cho vay các DNVVN. Trong những
năm gần đây Ngân hàng Thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam (Maritime Bank) đã
tập trung xây dựng chính sách cho vay ngắn hạn DNVVN, thiết kế và điều chỉnh quy
trình cho vay ngắn hạn DNVVN, đặc biệt đã thành lập riêng một khối chuyên doanh
triển khai hoạt động cho vay DNVVN bao gồm cả cho vay ngắn hạn. Hoạt động cho
vay ngắn hạn các DNVVN tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam đã đạt được
những thành tựu nhất định, như dư nợ cho vay được mở rộng, tỷ trọng doanh thu từ
hoạt động cho vay ngắn hạn DNVVN trong tổng doanh thu của Maritime Bank được
nâng cao Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại nhiều bất cập chưa
được giải quyết làm cho chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN còn ở mức thấp, như
chính sách cho vay còn chưa sát thực tế, quy trình cho vay còn rườm rà phức tạp, việc
kiểm soát rủi ro sau cho vay chưa được thực hiện đồng bộ, nợ quá hạn vẫn còn gia


tăng và ở mức cao…Từ những lý do đó, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng chất
lượng cho vay ngắn hạn DNVVN tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam để rút ra
-2-
những hạn chế còn tồn tại của hoạt động này, từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao
chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam có ý
nghĩa thực tiễn quan trọng. Chính vì vậy tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “Nâng cao
chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam ”.
2. Mục đích nghiên cứu
− Từ nghiên cứu những vấn đề lý luận về chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN tại
Ngân hàng thương mại, phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng cho vay ngắn
hạn DNVVN tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam.
− Từ những định hướng cho vay ngắn hạn DNVVN của Ngân hàng TMCP Hàng Hải
Việt Nam trong thời gian tới, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng cho vay ngắn hạn DNVVN tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
− Đối tượng nghiên cứu: chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN tại ngân hàng thương
mại
− Phạm vi nghiên cứu: Chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN tại Maritime Bank từ
năm 2008 đến năm 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu:
− Để thực hiện luận văn thạc sỹ này tác giả sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp Logic
hệ thống, thống kê, so sánh.
− Các phương pháp thực chứng, chuyên gia cũng được sử dụng để phân tích, đánh
giá thực trạng chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN tại Ngân hàng TMCP Hàng
Hải Việt Nam.
5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài các phần tài liệu tham khảo, Mục lục, Danh mục bảng biểu, Lời nói đầu,
Kết luận, bài luận văn thạc sỹ kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng cho vay ngắn hạn doanh nghiệp vừa

và nhỏ( DNVVN) tại Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN tại Ngân
hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Maritime Bank ).
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN tại
Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam.
-3-
Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng cho vay ngắn hạn
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại
1.1. Những vấn đề chung về Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN)
1.1.1. Khái niệm về DNVVN
Để định nghĩa về DNVVN trước hết cần tìm hiểu định nghĩa về Doanh nghiệp
là gì? Luật doanh nghiệp năm 2005 định nghĩa “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Các loại hình
doanh nghiệp có thể chia thành:
• Doanh nghiệp tư nhân
• Công ty TNHH
• Công ty Cổ phần
• Công ty Hợp danh
Không có một khái niệm chính xác về DNVVN. Các nước khác nhau có những
định nghĩa khác nhau về DNVVN, và trong một nước tùy trình độ phát triển của nền
kinh tế trong từng thời kỳ cũng có sự định nghĩa khác nhau về DNVVN. Hai tiêu chí
được sử dụng phổ biến nhất để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ là số lượng lao
động trung bình và tổng số vốn của doanh nghiệp.
Tại Việt Nam theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính
phủ định nghĩa về DNVVN: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh
doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký
không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300
người”. ngày 30/06/2009 Chính phủ đã ban hành nghị định số 56/2009/NĐ-CP về trợ
giúp và phát triển DNVVN thay thế nghị định số 90/2001/NĐ-CP một trong những nội

dung quan trọng của Nghị định thay thế là định nghĩa mới về DNVVN, Nghị định này
định nghĩa về DNVVN như sau:
“Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo
quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng
nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng
cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn
vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
-4-
Quy mô
Khu vực
Doanh nghiệp
siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao động
Tổng nguồn
vốn
Số lao động Tổng nguồn vốn Số lao động
I. Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến 200
người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100 tỷ
đồng

từ trên 200
người đến 300
người
II. Công
nghiệp và
xây dựng
10 người trở
xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến 200
người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100 tỷ
đồng
từ trên 200
người đến 300
người
III. Thương
mại và dịch
vụ
10 người trở
xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến 50
người
từ trên 10 tỷ

đồng đến 50 tỷ
đồng
từ trên 50 người
đến 100 người
Bảng 1.1: Định nghĩa DNVVN theo nghị định số 56/2009/NĐ-CP
1.1.2. Đặc điểm của DNVVN
- Các DNVVN hoạt động đa dạng, phong phú đóng góp nhiều lợi ích cho phát
triển kinh tế của đất nước
DNVVN hoạt động với quy mô vừa và nhỏ nên sẽ năng động, linh hoạt trước
sự biến động của thị trường. Các DNVVN có thể tiếp cận tất cả các mặt hàng kinh
doanh đa dạng, thay đổi phương hướng và lĩnh vực kinh doanh mới mà không gặp
nhiều khó khăn như những doanh nghiệp lớn. Địa bàn hoạt động của các DNVVN ở
khắp mọi nơi vùng sâu, vùng xa nơi mà các doanh nghiệp lớn không thể tiếp cận để
cung cấp sản phẩm hiệu quả. Chính vì vậy các DNVVN tạo điều kiện bố trí ngành
nghề hợp lý, cân bằng giữa các vùng miền, nâng cao hiệu quả nền kinh tế, dễ dàng
chuyển đổi cơ cấu ngành kinh tế, vùng kinh tế với chi phí thấp.
Lĩnh vực hoạt động của DNVVN tương đối đa dạng phong phú, doanh nghiệp
có thể cùng hoạt động, kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau. DNVVN với số
lượng đông đảo tạo nên thị trường cạnh tranh sôi động, lành mạnh và thúc đẩy sử dụng
vốn có hiệu quả.
Các DNVVN đóng góp đáng kể vào việc duy trì và phát triển các ngành nghề
truyền thống, giải quyết công ăn việc làm cho xã hội, tạo mặt hàng xuất khẩu và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- Quy mô vốn của các DNVVN hạn chế và vốn tích lũy để tái đầu tư ít
-5-
Nhìn chung quy mô vốn của các DNVVN là không cao. Nguồn tài chính của
các DNVVN hạn chế dẫn đến nguồn vốn đầu tư cho các doanh nghiệp còn hạn hẹp.
Nguồn vốn huy động của các DNVVN thường từ vốn huy động trong gia đình, bè bạn,
đôi khi còn không lập thành hợp đồng vay vốn, không đưa vào báo cáo tài chính của
doanh nghiệp nên các ngân hàng không dễ để nắm được chính xác nguồn tài chính của

các DNVVN.
Năng suất lao động thấp, hiệu quả hoạt động không cao nên quy mô tích lũy
thấp, dẫn đến việc sử dụng vốn tích lũy để tái đầu tư còn rất hạn chế, muốn mở rộng
hoạt động, không còn cách nào ngoài việc dựa vào nguồn vốn vay, trong đó có nguồn
vốn vay quan trọng từ các ngân hàng thương mại.
- Năng suất lao động thấp và chất lượng hàng hóa, sản phẩm không có tính
cạnh tranh
Năng suất lao động thấp, chất lượng hàng hóa thường không cao nên khả năng
cạnh tranh của hàng hóa kém và thị trường thường nhỏ hẹp. Nguyên nhân dễ thấy của
tình trạng này là cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ công nghệ yếu kém, lạc hậu, trình độ
tay nghề của công nhân thấp do số lượng công nhân đã qua đào tạo rất ít, đã tạo ra chất
lượng sản phẩm thiếu tính cạnh tranh. Bên cạnh đó cơ chế chính sách của Nhà nước
chưa đồng bộ và thiếu mạnh mẽ để bảo hộ và tạo điều kiện cho các DNVVN phát
triển, như về chính sách hỗ trợ vốn, chính sách bảo hộ bản quyền trí tuệ… Hay môi
trường kinh doanh thiếu minh bạch đã đẩy các DNVVN vào tình trạng vừa thiếu lực
đẩy để đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm, lại vừa phải đối phó với tình trạng hàng
giả, hàng nhái, lại vừa phải chịu áp lực từ chi phí chìm trong kinh doanh làm sức cạnh
tranh của các DNVVN bị giảm sút, thị trường nhỏ bé và không ổn định.
- Tổ chức thị trường thiếu bài bản và rất hạn chế trong việc tiếp cận thông tin
Khả năng tổ chức phát triển thị trường, tiếp cận thông tin và làm quen với các
thủ tục vay vốn của các DNVVN vẫn còn hạn chế. Không đủ khả năng xây dựng một
chiến lược kinh doanh dài hạn, xây dựng phương án kinh doanh và dự án đầu tư hiệu
quả.
Do quy mô nhỏ, không có mạng lưới rộng lớn nên không có hệ thống tiếp nhận
và cung cấp thông tin chuyên môn hiệu quả. Các DNVVN không nắm bắt được đầy đủ
tình hình thị trường bên ngoài doanh nghiệp như thị trường phát triển ngành, thị
trường nguyên liệu, mặt hàng, trình độ công nghệ, đối thủ cạnh tranh….
-6-
- Quản lý điều hành yếu kém và chủ yếu theo kinh nghiệm của người quản lý,
tài chính doanh nghiệp còn chưa được minh bạch hóa

Việc quản lý điều hành mang tính kinh nghiệm, trình độ quản lý kém, khả năng
tổ chức kinh doanh chưa cao, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, các chủ doanh
nghiệp thường không có kiến thức và trình độ chuyên môn về quản lý, không được đào
tạo bài bản.
Việc tổ chức kinh tế theo kiểu gia đình trị dẫn đến tính chuyên nghiệp không
cao. Việc ra quyết định quản lý thiếu mạnh mẽ và thiếu tính tự chủ, tính chuyên môn
hóa trong các bộ phận của doanh nghiệp.
Khả năng tổ chức hạch toán kế toán thiếu đồng bộ và không đầy đủ, số liệu
hạch toán không chính xác, không được kiểm toán. Đa số các DNVVN ngần ngại
minh bạch tình hình kinh doanh cho ngân hàng, có nhiều doanh nghiệp bán hàng
không tuân thủ chế độ phát hành hóa đơn. Vì vậy, ngân hàng khó có cơ sở để đánh giá
và quyết định cho vay.
- Các DNVVN đa phần là không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu tài sản thế
chấp khi làm thủ tục vay vốn tại các Ngân hàng thương mại
Tài sản của các DNVVN thường là hàng hóa, nguyên vật liệu, máy móc, nhà
xưởng…Tuy nhiên, các tài sản thuộc sở hữu của các DNVVN thường không đủ để bảo
đảm cho nhu cầu vay vốn tại các Ngân hàng thương mại, nên việc mượn tài sản, thậm
chí thuê tài sản để thế chấp ngân hàng là thường xảy ra, điều này là một yếu tố rất rủi
ro cho hoạt động cho vay các DNVVN của Ngân hàng thương mại, khi các quy định
của pháp luật về xử lý nợ và phát mại tài sản thế chấp còn thiếu đồng bộ và mạnh mẽ.
Nhiều DNVVN đặc biệt là các công ty TNHH, tài sản của thể nhân và tài sản
pháp nhân lẫn lộn, thiếu minh bạch nên ngân hàng rất khó thẩm định, đánh giá về năng
lực thực sự của khách hàng.
Từ những đặc trưng trên của các DNVVN thấy rằng các ngân hàng thương mại
phải rất quan tâm đến chất lượng cho vay khi quyết định tài trợ vốn cho các DNVVN
1.2. Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một loại hình trung gian tài chính quan trọng đối với nền kinh tế.
Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung
và của hệ thống tài chính nói riêng, trong đó các Ngân hàng thương mại thường chiếm

-7-
tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng là
tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân,
hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại Ngân hàng.
Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là
thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối
với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và thậm chí đối với cả các cơ quan của Nhà
nước. Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để
phục vụ cho việc mua hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, trang thiết bị tài sản cố
định. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng thanh toán cho các khoản mua hàng hóa
dịch vụ, họ thường sử dụng các dịch vụ thanh toán từ phía ngân hàng như thanh toán
qua Séc, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng, tài khoản điện tử…Các ngân hàng cũng là nơi các
doanh nghiệp hoặc các hộ gia đình, cá nhân tìm tới để xin tư vấn khi có nhu cầu về các
dịch vụ tài chính hoặc cần cung cấp các thông tin tài chính. Các khoản tín dụng của
ngân hàng cho Chính phủ (thông qua mua chứng Khoán chính phủ) là nguồn tài chính
quan trọng cho đầu tư phát triển, các ngân hàng là công cụ để nhà nước thực hiện các
chính sách về tiền tệ của mình.
Theo luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010 của Quốc
Hội định nghĩa “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả
các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của luật
này nhằm mục tiêu lợi nhuận” trong đó, hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh,
cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây:
 Nhận tiền gửi;
 Cấp tín dụng;
 Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”.
1.2.2. Các hoạt động chính của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng
và doanh nghiệp. Thành công của ngân hàng thương mại phụ thuộc vào năng lực xác
định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có
hiệu quả. Các hoạt động chính của Ngân hàng thương mại bao gồm:

1.2.2.1. Hoạt động huy động vốn
• Ngân hàng thương mại chủ yếu huy động vốn bằng phương thức nhận tiền gửi
của cá nhân, tổ chức kinh tế- xã hội
-8-
Các Ngân hàng thương mại có rất nhiều hình thức nhận tiền gửi như tiền gửi
tiết kiệm, tiền gửi thanh toán nhằm thu hút một lượng vốn lớn trong dân cư. Khi thu
nhập gia tăng, các hộ gia đình, cá nhân có dư thừa một lượng tiền nhất định. Các Ngân
hàng thương mại sẽ mở các tài khoản cá nhân, làm các sổ tiết kiệm để đáp ứng nhu cầu
cất trữ đảm bảo an toàn mà vẫn sinh lời của người dân, đồng thời sử dụng khoản tiền
nhàn rỗi đó vào hoạt động của mình. Còn các doanh nghiệp luôn duy trì một lượng
vốn nhất định để đáp ứng việc chi trả kịp thời cho đối tác hay còn gọi là luân chuyển
vốn. Nguồn vốn này được gửi vào tài khoản tiền gửi thanh toán tại các Ngân hàng
thương mại, vừa để thanh toán kịp thời, vừa được hưởng lãi suất không kỳ hạn.
Bên cạnh đó, do mục đích thanh toán hộ, các Ngân hàng thương mại thường có
thêm nguồn tiền gửi của các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác. Tuy
nhiên khối lượng này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong quy mô nguồn vốn của Ngân hàng.
• Ngân hàng thương mại huy động bằng việc vay các tổ chức tín dụng
Các Ngân hàng thường vay vốn của các Ngân hàng khác trên thị trường liên
Ngân hàng khi Ngân hàng thiếu tiền tạm thời vì lượng khách hàng có nhu cầu rút tiền
vượt quá khả năng chi trả nó phải đi vay trên thị trường liên Ngân hàng, tại đây luôn
sẵn có các Ngân hàng có dư thừa nguồn tiền do dự trữ. Việc cho vay được thông qua
các Ngân hàng đại lý hoặc Ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên lãi suất cho vay qua đêm
tùy từng thời điểm, có lúc lên rất cao, gia tăng chi phí và áp lực thanh khoản cho các
Ngân hàng đi vay, các Ngân hàng có dự trữ thiếu hụt phải trả khoản phí lớn trong một
thời gian rất ngắn để huy động nguồn vốn này.
Ngân hàng huy động trên thị trường vốn bằng cách phát hành các loại giấy tờ
có giá như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để bổ sung nguồn vốn kinh doanh. Đây là
nguồn vốn trung và dài hạn tại Ngân hàng để đáp ứng các khoản cho vay trung và dài
hạn, thông thường các khoản vay này không có đảm bảo. Các Ngân hàng lớn thường
dựa vào uy tín và tiềm lực tài chính của mình để huy động, các Ngân hàng nhỏ phải

thông qua các Ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh của các tổ chức khác. Khả năng
huy động này còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, uy tín của
thị trường tài chính trong nền kinh tế. Thị trường này phát triển sẽ tạo khả năng
chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng
-9-
• Ngân hàng thương mại còn huy động vốn bằng cách đi vay Ngân hàng Nhà
nước để đáp ứng nhu cầu chi trả kịp thời trong trường hợp bị thiếu hụt dự trữ.
Hình thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước là tái chiết khấu các giấy
tờ có giá hoặc tái cấp vốn. Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò là người cho vay cuối
cùng của các Ngân hàng thương mại. Khi đó Ngân hàng thương mại phải thực hiện các
điều kiện đảm bảo và kiểm soát, và chỉ có thể được vay theo một hạn mức nhất định.
1.2.2.2. Hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản đem lại nguồn thu lớn nhất cho các
Ngân hàng, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản, và cũng là hoạt động mang lại
rủi ro cao nhất đối với các Ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng bao gồm.
• Hoạt động cho vay
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó Ngân hàng giao cho khách
hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả
thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Thời gian nhất định ở đây chính là thời
hạn cho vay.
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu
nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng.
Dựa trên tiêu chí thời hạn cho vay có thể phân loại cho vay thành cho vay
ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn:
• Cho vay ngắn hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay đến 12
tháng.
• Cho vay trung hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay từ trên 12
tháng đến 60 tháng.
• Cho vay dài hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay trên 60 tháng

Dựa trên mục đích cho vay có thế chia thành:
• Cho vay phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh công thương Nghiệp.
• Cho vay tiêu dùng cá nhân
• Cho vay bất động sản
• Cho vay nông nghiệp
• Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu
-10-
• Hoạt động bảo lãnh
Bảo lãnh là việc Ngân hàng thương mại cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài
chính hộ khách hàng của mình trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng
nghĩa vụ như cam kết, mặc dù không xuất tiền ra, nhưng các Ngân hàng thương mại đã
cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
• Hoạt động cho thuê
Là việc Ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả
thuận nhất định. Sau một thời gian thoả thuận, khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho
Ngân hàng. Cho thuê có hai hình thức là cho thuê hoạt động và cho thuê tài chính.
Trong nhiều trường hợp khách hàng không đủ hoặc chưa đủ điều kiện để đi vay, để
mở rộng tín dụng Ngân hàng thương mại đã mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng
để cho khách hàng thuê. Vì tài sản thuộc sở hữu của Ngân hàng nên Ngân hàng có thể
thu hồi hoặc cho người khác thuê khi người thuê không trả nợ được để giảm bớt thiệt
hại cho Ngân hàng.
Hoạt động cho thuê bắt nguồn từ doanh nghiệp sản xuất hoặc cung cấp thiết bị,
nhà cửa có giá trị lớn, thời hạn sử dụng dài. Do người mua không đủ tiền mua, hoặc
chỉ có nhu cầu sử dụng trong thời gian ngắn hơn thời gian khấu hao của tài sản…đã
làm nảy sinh nhu cầu thuê, còn các doanh nghiệp sản xuất và cung cấp có nhu cầu tiêu
thụ để tăng doanh thu và giảm hao mòn của tài sản. Từ đó phát sinh nhu cầu đi thuê -
cho thuê.
• Chiết khấu thương phiếu
Là việc Ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của
thương phiếu trừ đi phần thu nhập của Ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa

đến hạn. Thu nhập của Ngân hàng qua hoạt động này chính là số tiền chiết khấu, do tối
thiểu có hai người cam kết trả tiền cho Ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu
tương đối cao. Thông qua chiết khấu thương phiếu, các doanh nghiệp có thể nâng cao
hiệu quả kinh doanh nhờ việc quay vòng vốn nhanh.
• Hoạt động tài trợ thương mại
-11-
Là công tác thanh toán xuất nhập khẩu của Ngân hàng và hoạt động thu lợi
nhuận từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ, hoạt động chuyển tiền và thu phí qua các L/C
xuất nhập khẩu và hoạt động tài trợ thương mại khác.
• Hoạt động dịch vụ
Bao gồm hoạt động thanh toán luân chuyển vốn giữa các doanh nghiệp, thu phí
từ các dịch vụ thẻ (ATM, tín dụng quốc tế), công tác tiền tệ kho quỹ, phát hiện, thu hồi
tiền giả và đảm bảo an toàn kho quỹ.
1.3. Hoạt động cho vay ngắn hạn DNVVN tại ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm cho vay ngắn hạn DNVVN
Cho vay ngắn hạn DNVVN là loại hình cho vay mà ngân hàng thương mại tài
trợ cho nhu cầu vốn ngắn hạn hoặc tài trợ cho tài sản lưu động của các DNVVN. Thời
hạn cho vay thường là đến 12 tháng.
1.3.2. Các hình thức cho vay ngắn hạn DNVVN của Ngân hàng thương mại
Các ngân hàng sẽ thỏa thuận hình thức cho vay ngắn hạn với khách hàng là các
DNVVN đi vay. Có hai hình thức thường hay được áp dụng khi cho vay ngắn hạn là:
Cho vay theo món: mỗi lần vay vốn DNVVN phải làm hồ sơ xin vay từng lần,
xin vay món nào làm hồ sơ xin vay món đó. Bộ phận cho vay phải tiến hành phân tích
hồ sơ xin vay và xem xét cho vay đối với từng hồ sơ cụ thể.
Cho vay theo hạn mức: là việc DNVVN làm một hồ sơ xin vay cho nhiều món
vay. Bộ phận cho vay sẽ xem xét, phân tích hồ sơ xin vay. Nếu đồng ý hai bên sẽ ký
kết hợp đồng tín dụng, trong đó sẽ xác định được hạn mức cho vay của khách hàng.
Hạn mức cho vay ở đây là mức dư nợ tốt đa mà DNVVN được duy trì tại một thời
điểm trong suốt thời hạn được cấp hạn mức cho vay.
1.3.3. Quy trình cho vay ngắn hạn DNVVN

Quy trình cho vay ngắn hạn là bảng tổng hợp mô tả các bước đi cụ thể từ khi
tiếp nhận nhu cầu vay vốn của khách hàng cho đến khi ngân hàng ra quyết định cho
vay, giải ngân và thanh lý hợp đồng vay vốn. Hầu hết các ngân hàng thương mại đều
tự thiết kế cho mình một quy trình cho vay cụ thể bao gồm nhiều bước đi khác nhau,
tùy theo đặc điểm tổ chức và quản trị.
Việc thiết lập và không ngừng hoàn thiện quy trình cho vay có một ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với hoạt động cho vay của ngân hàng. Về mặt hiệu quả, quy trình
-12-
cho vay hợp lý góp phần nâng cao chất lượng và giảm thiểu rủi ro của hoạt động cho
vay. Về mặt quản trị quy trình cho vay có tác dụng sau:
− Quy trình cho vay làm cơ sở cho việc phân định trách nhiệm và
quyền hạn của từng bộ phận liên quan trong quy trình cho vay.
− Quy trình cho vay là cơ sở để thiết lập các hồ sơ và thủ tục vay vốn
về mặt hành chính.
− Quy trình cho vay chỉ rõ mối quan hệ giữa các bộ phận liên quan
trong hoạt động tín dụng
Khách hàng:
Cung cấp tài
liệu và thông
tin
Nhân viên tín dụng:
Tiếp xúc, hướng
dẫn.
Phỏng vấn khách
hàng
Lập hồ sơ:
Giấy đề nghị vay.
Hồ sơ pháp lý
Phương án/Dự án
Thu thập thông

tin qua phỏng
vấn, viếng thăm,
trao đổi
Tổ chức phân tích và
thẩm định:
Hồ sơ pháp lý.
Bảo đảm nợ vay.
Kết quả ghi nhận:
Biên bản, báo cáo.
Tờ trình
Giấy tờ về bảo đảm
nợ
Cập nhật thông
tin thị trường,
chính sách,
khung pháp lý
Quyết định tín dụng:
Hội đồng phán
quyết.
Cá nhân phán
quyết.
Từ chối Giấy báo lý
do
Chấp thuận
Hợp đồng tín dụng:
Đàm phán.
Ký kết hợp đồng tín
dụng.
Ký kết hợp đồng phụ
khác

-13-
Sơ đồ 1.1: Quy trình cho vay cơ bản của Ngân hàng thương Mại.
Các bước cơ bản của một quy trình tín dụng:
Bước 1: Lập hồ sơ đề nghị cấp vay vốn
Lập hồ sơ vay vốn là khâu căn bản đầu tiên của quy trình cho vay, nó được thực
hiện ngay sau khi cán bộ tín dụng tiếp xúc với khách hàng có nhu cầu vay vốn. Lập hồ
sơ vay vốn là khâu quan trọng vì nó là khâu thu thập thông tin làm cơ sở cho việc thực
hiện các khâu kế tiếp, đặc biệt là khâu phân tích và ra quyết định cho vay.
Tùy theo quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng, loại sản phẩm yêu cầu vay
vốn, và quy mô của khoản vay, cán bộ tín dụng sẽ hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ với
Tổ chức kiểm soát:
Nhân viên kiểm toán.
Nhân viên tín dụng.
Thanh tra, kiểm soát
viên
Kiểm soát tín
dụng
Vi phạm hợp
đồng
Thu nợ cả gốc
và lãi
Đầy đủ và
đúng hạn
Thanh lý hợp đồng
tín dụng mặc nhiên
Biện pháp:
Cảnh báo, tăng cường kiểm soát,
ngừng giải ngân, tái xét tín dụng
Không đủ, không
đúng hạn

Thanh lý hợp đồng
tín dụng bắt buộc
Xử lý tại tòa án, cơ
quan có thẩm quyền
Không đủ, không
đúng hạn
Giải Ngân:
Chuyển tiền vào
TK của khách hàng.
Trả cho nhà cung
cấp.
-14-
những thông tin yêu cầu khác nhau. Nhìn chung, một bộ hồ sơ đề nghị vay vốn cần thu
thập những thông tin từ phía khách hàng như sau:
• Thông tin về năng lực pháp lý
• Thông tin về khả năng sử dụng và hoàn trả vốn của khách hàng.
• Thông tin về bảo đảm tín dụng.
Bước 2: Phân tích, thẩm định hồ sơ cho vay
Phân tích, thẩm định hồ sơ cho vay là phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng
của doanh nghiệp về việc sử dụng vốn vay, khả năng hoàn trả và khả năng thu hồi vốn
vay cả gốc và lãi. Mục tiêu của phân tích, thẩm định hồ sơ cho vay là tìm kiếm những
tình huống có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, tiên lượng khả năng kiểm soát những
loại rủi ro đó và dự kiến các biện pháp phòng ngừa và hạn chế thiệt hại có thể xảy ra.
Mặt khác, phân tích, thẩm định hồ sơ cho vay còn quan tâm đến việc kiểm tra tính
chân thực của hồ sơ vay vốn mà khách hàng cung cấp, từ đó nhận định về thái độ trả
nợ của khách hàng làm cơ sở quyết định cho vay.
Những nội dung chính của thẩm định hồ sơ vay vốn:
• Thẩm định tư cách của khách hàng vay vốn.
• Thẩm định tình hình tài chính của khách hàng.
• Thẩm định tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh hoặc dự án đầu

tư.
• Thẩm định tài sản bảo đảm.
• Thẩm định khả năng quản lý và kiểm soát rủi ro.
Bước 3. Quyết định và ký hợp đồng cho vay vốn
Sau quá trình phân tích, thẩm định hồ sơ vay Ngân hàng sẽ ra quyết định tài trợ
vốn cho doanh nghiệp hoặc từ chối cho vay. Đây là khâu cực kỳ quan trọng trong quy
trình cho vay vì nó ảnh hưởng rất lớn đến các khâu sau và ảnh hưởng đến uy tín, và
chất lượng hoạt động cho vay của ngân hàng.
Cơ sở của ra quyết định cho vay – trước hết cơ sở để ra quyết định cho vay là
dựa vào những thông tin thu thập và xử lý từ hồ sơ vay vốn, do giai đoạn trước chuyển
sang. Kế đến, dựa vào những thông tin khác hoặc thông tin cập nhật có liên quan,
chẳng hạn như thông tin cập nhật về thị trường, chính sách cho vay của Ngân hàng
Nhà nước, ngồn vốn cho vay của Ngân hàng, kết quả thẩm định các hình thức bảo đảm
nợ vay,…
-15-
Quyền phán quyết cho vay – Tùy theo quy mô vốn vay trong hồ sơ xin vay
của doanh nghiệp là lớn hay nhỏ mà quyền phán quyết cho vay được giao cho một cá
nhân hay một tập thể phụ trách. Hội đồng tín dụng, bao gồm những người có quyền
hạn và trách nhiệm quan trọng trong ngân hàng, thường phán quyết những hồ sơ vay
vốn có quy mô lớn, trong khi quyền phán quyết cho vay đối với những hồ sơ quy mô
nhỏ thường được giao cho một cá nhân phụ trách
Sau khi chấp thuận hoặc từ chối cho vay, tùy thuộc vào kết quả phân tích và
thẩm định ở khâu trước. Nếu chấp thuận cho vay, cán bộ tín dụng sẽ hướng dẫn khách
hàng ký kết hợp đồng tín dụng và làm tiếp các bước tiếp theo. Nếu từ chối cho vay,
ngân hàng sẽ có văn bản trả lời và giải thích rõ lý do cho khách hàng.
Bước 4: Giải ngân, thu nợ
Giải ngân là khâu tiếp theo sau khi hợp đồng tín dụng đã được ký kết. Giải ngân
là phát tiền vay cho khách hàng trên cơ sở mức cho vay đã được cam kết trong hợp
đồng tín dụng. Tuy là khâu tiếp sau của khâu quyết định cho vay nhưng giải ngân cũng
là khâu quan trọng vì nó góp phần vào việc phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai

sót ở các khâu trước. Ngoài ra, cách thức giải ngân còn góp phần vào việc kiểm tra,
kiểm soát xem vốn vay có được sử dụng đúng mục đích giải ngân đã cam kết hay
không. Nguyên tắc giải ngân là luôn gắn giữa sự vận động của tiền tệ với sự vận động
của hàng hóa hoặc dịch vụ đối ứng nhằm đảm bảo khả năng thanh toán và thu hồi nợ
sau này. Tuy nhiên, việc giải ngân cũng phải đảm bảo nguyên tắc thuận lợi tránh gây
khó khăn, phiền hà cho khách hàng.
Bước 5: Kiểm soát hoạt động cho vay ngắn hạn DNVVN
Kiểm soát là những phương pháp được thực hiện theo hệ thống để ngăn chặn
gian lận, giảm thiểu sai sót, khuyến khích hiệu quả hoạt động, và nhằm đạt được sự
tuân thủ các chính sách và quy trình được thiết lập. Hoạt động kiểm soát bao gồm
kiểm soát nội bộ và kiểm soát khách hàng
Kiểm soát nội bộ giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả thực thi chính sách cho
vay, giúp cán bộ tín dụng điều hành công việc có cơ chế, đúng pháp luật.
Kiểm soát khách hàng, đảm bảo khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích và
hiệu quả, Bên cạnh đó kiểm soát khách hàng giúp kịp thời phát hiện những rủi ro, sai
sót, lệch lạc trong hoạt động của khách hàng để có biện pháp khắc phục và ứng phó
kịp thời.
-16-
Thông qua hoạt động kiểm soát đảm bảo cho hoạt động ngân hàng thông suốt,
hiệu quả, đảm bảo lợi ích của ngân hàng. Nâng cao chất lượng công tác này sẽ góp
phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN.
Giám sát hoạt động vay vốn là khâu quan trọng nhằm mục đích đảm bảo cho
tiền vay được sử dụng đúng mục đích đã cam kết, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời
những sai phạm có thể ảnh hưởng đến quá trình thu nợ sau này. Các phương pháp
kiểm soát rủi ro cho vay có thể áp dụng bao gồm:
• Giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng.
• Cập nhật và phân tích báo cáo tài chính của khách hàng định kỳ.
• Giám sát khách hàng thông qua việc trả lãi, gốc định kỳ.
• Viếng thăm và kiểm soát địa điểm hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nơi
cư ngụ của khách hàng .

• Kiểm tra các hình thức bảo đảm tiền vay.
• Giám sát hoạt động khách hàng thông qua mối quan hệ với khách hàng khác.
• Giám sát khách hàng thông qua những thông tin thu thập khác
Bước 6. Thanh lý hợp đồng vay vốn
Quan hệ cho vay ngắn hạn DNVVN của ngân hàng với khách hàng kết thúc khi
ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi, khi đó hai bên sẽ làm thủ tục tái cấp hạn mức hoặc
chấm dứt quan hệ vay vốn, thanh lý hợp đồng cũ. Các khoản cho vay được đảm bảo
hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản cho vay an toàn. Một số trường hợp, các
khoản cho vay đã không được hoàn trả hoặc không được hoàn trả đúng kỳ hạn. Việc
thanh toán không đúng kỳ hạn cho ngân hàng cho thấy những “ trục trặc” trong hoạt
động của khách hàng vay vốn. Việc xem xét tìm ra nguyên nhân là quan trọng để giúp
ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan đến tính an toàn của các khoản
cho vay.
Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ nần dây dưa,
hoặc làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn, ngân hàng áp dụng phương án
thanh lý tài sản, các phương án nhằm thu hồi nợ vay như phong tỏa tài khoản, phát mại
tài sản, phát quyền đòi nợ, tước đoạt các khoản tiền gửi, bắt buộc nhận nợ…
Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính, nhưng vẫn kiên quyết tìm
cách khắc phục để trả nợ ngân hàng và vẫn có tiềm năng trả nợ. Ngân hàng có thể áp
-17-
dụng các phương pháp gia hạn nợ, giảm lãi, cơ cấu lại thời gian trả nợ hoặc cho vay
thêm.
1.3.4. Chính sách cho vay ngắn hạn DNVVN
Chính sách cho vay phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành
hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên
môn hóa trong phân tích hồ sơ vay vốn, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động cho
vay nhằm hạn chế rủi ro, và nâng cao khả năng sinh lời.
Chính sách cho vay của ngân hàng là cơ sở quan trọng để đảm bảo cho hoạt
động cho vay đi đúng quỹ đạo, góp phần quyết định đến sự thành công hay thất bại
của một ngân hàng. Một chính sách cho vay đúng đắn sẽ có tác dụng nâng cao chất

lượng hoạt động cho vay, thu hút thêm khách hàng, phân tán rủi ro, tuân thủ theo
pháp luật, chấp hành tốt chính sách của nhà nước, đảm bảo khả năng sinh lời cho
ngân hàng cũng như tạo động lực cho nền kinh tế và xã hội phát triển. Mỗi ngân hàng
thương mại đều có những đặc điểm riêng, và tùy thuộc vào tình hình của từng giai
đoạn cụ thể, các ngân hàng phải xây dựng cho mình một chính sách cho vay phù hợp,
với mỗi một giai đoạn chính sách cho vay có thể là mở rộng hoặc thu hẹp, chú trọng
đến một nhóm khách hàng nào đó…
Chính sách cho vay cần được xây dựng hợp lý, đúng đắn nhưng cần thiết phải
linh hoạt. Vì nếu chính sách cho vay được thực hiện quá cứng nhắc thì Ngân hàng khó
có thể thực hiện được khoản vay, giảm tính cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng.
Các nội dung chính của chính sách cho vay ngắn hạn DNVVN bao gồm:
+ Định hướng quan hệ
+ Chính sách về cấp vốn
+ Chính sách về lãi suất, phí
+ Chính sách về bảo đảm tiền vay
+ Các chính sách cho vay đối với khách hàng đặc thù
+ Chính sách cho vay đối với từng đối tượng khách hàng cụ thể
1.3.5. Các nguyên tắc cho vay
Hoạt động cho vay ngắn hạn DNVVN của ngân hàng thương mại cần phải tuân
theo một số những nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh
lời, các nguyên tắc này được cụ thể hóa trong các quy định của Ngân hàng Nhà nước
và của các Ngân hàng thương mại. Các nguyên tắc cho vay:
-18-
Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác định:
các khoản cho vay của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ tiền gửi của khách hàng và
các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả các khoản
gốc và lãi như đã cam kết. Do vậy, Ngân hàng cũng đòi hỏi khách hàng vay vốn phải
thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển.
Khách hàng phải cam kết sử dụng vốn vay theo mục đích được thỏa thuận
với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định khác của

ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các ngân hàng, bên
cạnh đó mỗi ngân hàng có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ ghi
trong hợp đồng cho vay giữa khách hàng với ngân hàng phải đảm bảo không trái
những quy định của pháp luật và phù hợp với cương lĩnh hoạt động của Ngân hàng.
Ngân hàng tài trợ vốn dựa trên phương án có hiệu quả của các doanh
nghiệp, thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất.
Phương án hoạt động có hiệu quả giúp các doanh nghiệp đi vay minh chứng cho khả
năng trả nợ của mình, các ngân hàng tin tưởng vào khả năng thu hồi vốn và lãi khi
phát vay. Các khoản tài trợ vốn của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản
cho các doanh nghiệp. Trong trường hợp xét thấy khoản vay kém an toàn, ngân hàng
đòi hỏi doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo khi đi vay.
1.4. Chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN của ngân hàng thương mại
1.4.1. Khái niệm chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN tại Ngân hàng
thương mại
Chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN được hiểu là mức độ đáp ứng kịp thời,
đầy đủ những nhu cầu vay vốn ngắn hạn một cách hợp lý của DNVVN, phù hợp với
khả năng của ngân hàng và đáp ứng tốt những mục tiêu của nhà quản trị ngân hàng
đưa ra mà chủ yếu là mục tiêu an toàn và lợi nhuận.
Như vậy, Qua khái niệm chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN có thể rút ra
những nội dung chính về chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN của ngân hàng thương
mại như sau:
• Chất lượng cho vay được thể hiện bằng mức độ đáp ứng kịp thời,
đầy đủ nhu cầu vay vốn ngắn hạn. Nó được thể hiện bằng sự hài lòng
của khách hàng khi đến vay vốn ngân hàng, sự tăng trưởng số lượng
khách hàng DNVVN cũng như sự tăng trưởng về dư nợ cho vay ngắn
-19-
hạn DNVVN. Để đạt được tiêu chí này thì các ngân hàng thương mại
phải có được chính sách cho vay hợp lý, linh hoạt, Quy trình cho vay
ngắn gọn, thủ tục cho vay đơn giản dễ thực hiện. Bên cạnh đó, thái độ
phục vụ của nhân viên ngân hàng, sự tiện lợi của các địa điểm giao dịch

cũng góp phần không nhỏ vào việc thực hiện tiêu chí đáp ứng đầy đủ kịp
thời nhu cầu vay vốn ngắn hạn của DNVVN.
• Đáp ứng tốt những mục tiêu của nhà quản trị ngân hàng đưa ra mà
chủ yếu là mục tiêu an toàn là lợi nhuận: Mục tiêu của nhà quản trị
ngân hàng thể hiện trong chiến lược phát triển toàn hệ thống, và cụ thể
hóa một phần trong chính sách cho vay ngắn hạn DNVVN trong từng
thời kỳ, thông thường mục tiêu chủ yếu là an toàn vốn vay và tạo ra lợi
nhuận. Chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN thực sự tốt khi hoạt động
cho vay ngắn hạn DNVVN đáp ứng tốt được các mục tiêu của nhà quản
trị ngân hàng đề ra trong chính sách cho vay ngắn hạn DNVVN trong từ
giai đoạn. Mặt khác, Ngân hàng là một đơn vị kinh tế hoạt động dưới sự
điều chỉnh của môi trường pháp luật và những quy định của Nhà nước,
do đó hoạt động cho vay ngắn hạn DNVVN phải tuân thủ các quy định
của pháp luật. Hoạt động cho vay ngắn hạn DNVVN có thể đáp ứng
được các chỉ tiêu khác của nhà quản trị ngân hàng đề ra, nhưng nếu hoạt
động này không tuân thủ pháp luật thì hoàn toàn không có chất lượng.
Tạo lợi nhuận cho ngân hàng và an toàn vốn vay: Mục tiêu quản trị
của các ngân hàng thương mại là mục tiêu lợi nhuận, hướng về lợi
nhuận. Do vậy, hoạt động của cả hệ thống nói chung và hoạt động cho
vay ngắn hạn DNVVN nói riêng đều được thiết lập, tổ chức vì mục tiêu
cuối cùng là lợi nhuận. chính vì vậy, chỉ tiêu lợi nhuận là chỉ tiêu quan
trọng phản ánh chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN. An toàn vốn vay
là một cơ sở giúp ngân hàng thực hiện được mục tiêu lợi nhuận. Các chỉ
tiêu phản ánh an toàn và tạo lợi nhuận cho ngân hàng là các chỉ tiêu phản
ánh về tình hình nợ quá hạn, tình hình nợ xấu của ngân hàng, chỉ tiêu
phản ánh tình hình tăng trưởng thu nhập từ cho vay ngắn hạn DNVVN,
cũng như tỷ lệ thu nhập từ cho vay ngắn hạn DNVVN trong tổng thu
nhập hoạt động toàn ngân hàng.
-20-
Với quan điểm về chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN như vậy cho thấy sự

cần thiết cần phải nâng cao chất lượng cho vay đối với các DNVVN, xét trên tất cả các
khía cạnh từ phía Ngân hàng thương mại, các doanh nghiệp; Ngân hàng nhà nước; Cơ
quan quản lý địa phương, Chính phủ…
1.4.2. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng cho vay ngắn hạn đối với
DNVVN
• Chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ cho vay ngắn hạn DNVVN
Dư nợ cho vay ngắn hạn DNVVN phản ánh quy mô vốn ngắn hạn tài trợ cho
các DNVVN. Tăng trưởng dư nợ cho vay ngắn hạn DNVVN là tiền đề để các ngân
hàng thương mại thực hiện các mục tiêu của mình trong hoạt động cho vay ngắn hạn
DNVVN, thể hiện mức độ cạnh tranh về hoạt động cho vay ngắn hạn DNVVN trên thị
trường và tăng trưởng dư nợ là bước đầu tiên để Ngân hàng thương mại thực hiện
mục tiêu lợi nhuận.
+ Chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ cho vay ngắn hạn DNVVN
Tăng trưởng dư nợ cho vay ngắn hạn DNVVN thể hiện rằng ngân hàng thương
mại đang gia tăng quy mô cho vay đối với DNVVN. Nó thể hiện các sản phẩm cho
vay ngắn hạn của Ngân hàng thương mại đang thu hút hay hấp dẫn các DNVVN, đáp
ứng đúng và đủ nhu cầu của đối tượng khách hàng này, đây có thể đánh giá phần nào
chất lượng cho vay ngắn hạn của ngân hàng là tốt, cạnh tranh, thuận tiện và quản lý
hoạt động cho vay ngắn hạn DNVVN tốt. Việc tăng trưởng quy mô dư nợ cho vay
ngắn hạn DNVVN là tiền đề tạo nên lợi nhuận cho ngân hàng, đánh giá khả năng cung
cấp vốn cho các DNVVN, cho nền kinh tế. Tuy nhiên, nó cũng làm gia tăng chi phí
của ngân hàng và làm tăng mức độ tiềm ẩn rủi ro trong thu hồi nợ đối với ngân hàng
nếu việc tăng dư nợ không dựa trên cơ sở thẩm định khách hàng kỹ. Do vậy, sử dụng
chỉ tiêu chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ cho vay DNVVN để xem xét tính hấp dẫn, độ thu
hút khách hàng, mức độ phục vụ các DNVVN của hoạt động cho vay ngắn hạn của
ngân hàng thương mại.
Tăng trưởng dư nợ cho vay
ngắn hạn DNVVN
=
(Dư nợ năm nay – dư nợ năm trước) x 100%

Dư nợ năm trước
-21-
• Chỉ tiêu chất lượng phục vụ của ngân hàng đối với các DNVVN
Chất lượng phục vụ phản ánh bằng sự hài lòng của khách hàng về tất cả các
dịch vụ chung của ngân hàng như năng lực đáp ứng nhu cầu của khách hàng khi đến
giao dịch với ngân hàng, độ tin cậy của khách hàng đối với thương hiệu của ngân
hàng; về thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng; độ sẵn có và mức độ tiện lợi, thân
thiện của các trung tâm giao dịch; thời gian xử lý giao dịch với khách hàng; thủ tục
linh hoạt hay cứng nhắc; sự cạnh tranh của các mức phí và lãi suất…
Để đo lường chất lượng phục vụ, thường các ngân hàng thương mại thông qua
hoạt động khảo sát chọn mẫu một số lượng khách hàng nhất định đã và đang giao dịch
tại ngân hàng, thông qua phỏng vấn hoặc phiếu điều tra với các tiêu chí được lập sẵn
theo ý đồ của nhà quản trị. Rõ ràng khi tỷ lệ khách hàng không vừa lòng với chất
lượng dịch vụ của ngân hàng càng cao thì phản ánh chất lượng cho vay ngắn hạn của
DNVVN thấp; Ngược lại, tỷ lệ khách hàng hài lòng với chất lượng phục vụ của ngân
hàng càng cao thể hiện rõ sự cuốn hút và hợp lý của dịch vụ ngân hàng, đây là tiền đề
để tăng trưởng dư nợ cho vay, tăng số lượng khách hàng DNVVN đến giao dịch với
ngân hàng. Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng là yếu tố quan trọng thúc đẩy
chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN.
• Các chỉ tiêu về mức độ an toàn vốn
Chức năng của ngân hàng là huy động vốn tiết kiệm và cho vay lại các cá nhân
và doanh nghiệp, hay nói một cách khác ngân hàng là một kênh dẫn vốn từ người có
dư nguồn vốn nhàn rỗi sang những người đang cần vốn để sử dụng đầu tư hoặc tiêu
dùng. Nguồn vốn cho vay từ vốn tự có của các ngân hàng là rất ít, do vậy trong trường
hợp khách hàng vay vốn không trả được nợ hoặc trả nợ không đủ và đúng hạn dễ dẫn
đến ngân hàng mất tính thanh khoản các nguồn vốn, hay ngân hàng không có đủ tiền
để thực hiện cam kết đối với những người gửi tiền, điều này làm giảm lòng tin của
người gửi tiền vào ngân hàng và dẫn đến khả năng người gửi tiền rút vốn ồ ạt ra khỏi
ngân hàng, làm nguy cơ khủng hoảng trong lĩnh vực ngân hàng, khủng hoảng tài chính
có thể xảy ra. Các vụ sụt đổ ngân hàng, các cơn hoảng loạn tài chính chỉ ra tính nhạy

cảm của hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng trước những
thay đổi bất thường trong nền kinh tế trong nước, khu vực và toàn cầu. Những tổn thất
-22-
to lớn trong các ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng tới sự ổn định chính
trị - kinh tế - xã hội và đời sống của các tần lớp dân cư. Vì vậy, sự an toàn của hệ
thống cũng như của mỗi ngân hàng là mối quan tâm thường xuyên của mỗi tầng lớp
dân cư, Chính phủ, Ngân hàng nhà nước cũng như của các nhà quản trị ngân hàng.
Cũng xuất phát từ những lý do đó việc đảm bảo an toàn vốn vay là rất quan
trọng đối với ngân hàng trong nghiệp vụ sử dụng vốn. Ngân hàng luôn phải tính toán
các nhu cầu của khách hàng và phải đáp ứng những nhu cầu hợp pháp đó một cách
thống nhất. Mỗi ngân hàng cũng phải biết xây dựng chính sách cho vay và quy chế
kiểm soát hoạt động cho vay để đảm bảo an toàn như an toàn về kho quỹ, tín dụng, các
loại tài sản khác.
Các chỉ tiêu chủ yếu đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động cho vay như sau:
+ Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn
=
Dư nợ quá hạn cho vay ngắn hạn DNVVN
Tổng dư nợ cho vay ngắn hạn DNVVN
“Nợ quá hạn” là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã
quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì chất lượng tín dụng (chất lượng cho vay) càng
thấp và ngược lại.
Trên thực tế các khoản vay chuyển trạng thái nợ quá hạn thường là những
khoản vay có vấn đề. Cũng có thể do khách hàng tạm thời mất cân đối trong vấn đề tài
chính hoặc tạm thời gặp khó khăn trong kinh doanh nhưng vẫn có thể trả được nợ, bên
cạnh đó cũng có khả năng doanh nghiệp mất hẳn khả năng trả nợ ngân hàng, rủi ro mất
vốn cao. Do vậy, việc quản lý các khoản nợ và thu nợ của khách hàng là hết sức quan
trọng.
Tỷ lệ nợ quá hạn là một chỉ tiêu quan trọng và phổ biến nhất khi đánh giá về
chất luợng cho vay của ngân hàng vì nó biểu hiện cho những rủi ro tiềm ẩn về khả

năng thu hồi nợ gốc và lãi mà ngân hàng sẽ phải đối mặt, nó cũng thể hiện trình độ và
chất lượng thẩm định, quản lý khách hàng của ngân hàng ra sao.
-23-
Theo Quyết định 493/2005/QĐ ngày 23/04/2005 của Thống đốc ngân hàng Nhà
Nước Việt Nam quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi
ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng thì nợ quá hạn được
chia ra thành bốn loại dựa trên mức độ rủi ro:
Nợ nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày; Các
khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại; Các khoản
nợ khác theo quy định.
Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 90 đến
180 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn
đã cơ cấu lại; Các khoản nợ khác theo quy định.
Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360
ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo
thời hạn đã cơ cấu lại; Các khoản nợ khác theo quy định.
Nợ nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: các khoản nợ quá hạn trên
360 ngày; Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời
hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại; Các khoản nợ khác
được phân loại vào nhóm 5 theo quy định.
Theo quy định này: “Nợ xấu” (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5
quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để
đánh giá chất lượng cho vay của các Ngân hàng. Rõ ràng, trong trường hợp nợ xấu
càng cao thì chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN càng thấp và ngược lại. Thậm chí
trong trường hợp cả bốn nhóm nợ có tỷ lệ cao thể hiện hoạt động của ngân hàng gặp
nhiều rủi ro, khả năng bảo toàn vốn thấp, khả năng mất vốn cao. Dẫu vậy, môi trường
kinh doanh luôn tiềm ẩn vô vàn những rủi ro nhất định của nó, cho nên các ngân hàng
đều chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn nào đó phù hợp với chiến lược kinh doanh và vào
từng giai đoạn cụ thể.
• Nhóm chỉ tiêu sinh lời từ vốn vay

Ngân hàng cho vay nhằm mục tiêu sinh lời, khoản mục cho vay thường chiếm
tỷ trọng cao nhất, khoảng từ 50 – 70% tổng tài sản. Hoạt động cho vay mạng lại thu
nhập lớn nhất cho ngân hàng. Thu dự tính từ hoạt động cho vay phụ thuộc vào quy
mô, thời gian và lãi suất cho vay và cả ba yếu tố này có quan hệ khăng khít. Trước hết
ngân hàng sử dụng mọi nỗ lực của mình để tăng quy mô hoạt động cho vay, như mở
-24-
rộng mạng lưới hoạt động, đa dạng hóa các loại hình cho vay; các sản phẩm cho vay,
phát triển công nghệ mới nhằm gia tăng các tiện ích cho khách hàng, giảm lãi suất
hoặc cung cấp các điều kiện ưu đãi…các biện pháp này một mặt làm tăng quy mô, mặt
khác cũng làm tăng chi phí. Do vậy, ngân hàng phải nghiên cứu và xác lập mối quan
hệ giữa các biện pháp tăng quy mô với thu nhập ròng từ hoạt động cho vay thông qua
chênh lệch lãi suất biên. Mối quan hệ này cho phép ngân hàng phân biệt lãi suất và các
điều kiện tài trợ khác với các khách hàng lớn, quan trọng, và liên kết với các tổ chức
tín dụng khác trên thị trường.
+ Chỉ tiêu tăng trưởng lợi nhuận cho vay ngắn hạn DNVVN
(Trong đó: LNCVNH DNVVN: Lợi nhuận từ cho vay ngắn hạn DNVVN).
Việc tăng lợi nhuận qua các năm là điều mong muốn của các nhà quản trị ngân
hàng. Nếu việc tăng trưởng dư nợ cho vay ngắn hạn DNVVN hay tăng trưởng số
lượng DNVVN vay vốn ngắn hạn là chỉ tiêu phản ánh về mặt lượng. Thì chỉ tiêu về
tăng trưởng lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh về mặt chất đối với hoạt động cho vay ngắn
hạn DNVVN Chỉ tiêu này càng lớn hơn 100% càng tốt.
+ Chỉ tiêu mức sinh lời
Chỉ tiêu này phản ánh mức thu nhập của ngân hàng khi ngân hàng cho DNVVN
vay ngắn hạn 1 đồng. Chỉ tiêu này càng lớn, càng tốt nó cho thấy rằng hiệu quả mang
lại từ hoạt động cho vay ngắn hạn là rất tốt.
1.4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN
• Các nhân tố chủ quan
Hoạt động cho vay ngắn hạn DNVVN chỉ thực sự được nâng cao khi hoạt động
cho vay ngắn hạn DNVVN của ngân hàng tuân theo đúng các nguyên tắc cho vay và
Tăng trưởng

LNCVNH DNVVN
=
(LNCVNHDNVVN năm nay – LNCVNH DNVVN năm trước) x 100%)
LNCVNH DNVVN năm trước.
Mức thu nhập/dư

nợ .
=
LNCVNHDNVVN
Tổng dư nợ cho vay ngắn hạn DNVVN
-25-
Ngân hàng có được một chính sách cho vay ngắn hạn DNVVN hợp lý, linh hoạt; Quy
trình cho vay chặt chẽ; Thủ tục cho vay ngắn gọn; Đặc biệt là công tác kiểm soát rủi ro
trong suốt quá trình cho vay được thực hiện kỹ lưỡng và kịp thời.
- Chính sách cho vay ngắn hạn DNVVN
Những mục tiêu cho vay ngắn hạn DNVVN, chương trình cho vay, đối tượng
cho vay, các biện pháp thực hiện cho vay ngắn hạn được quy định trong chính sách
cho vay ngắn hạn DNVVN của ngân hàng thương mại, Quy trình cho vay được xây
dựng, điều chỉnh dựa trên chính sách cho vay nhằm hiện thực quan điểm, mục tiêu của
nhà quản trị về cho vay ngắn hạn DNVVN.
Một chính sách cho vay đúng đắn, phù hợp với thực tế và linh hoạt không
những làm gia tăng số lượng khách hàng, tăng trưởng dư nợ cho vay ngắn hạn mà còn
hạn chế được những rủi ro tiềm ẩn khi cho vay các DNVVN, thu lợi cao cho ngân
hàng, tạo uy tín cho ngân hàng và thúc đẩy ngân hàng phát triển. Đấy cũng là nâng cao
chất lượng cho vay ngắn hạn DNVVN.
Với mức ảnh hưởng như vậy, chính sách cho vay phải được đánh giá định kỳ để
điều chỉnh cho hợp lý, kịp thời và phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội thực tế đối với
sự phát triển của các DNVVN. Mà điều này thường phải có thời gian để hoàn thiện.
- Quy trình cho vay ngắn hạn DNVVN
Mục tiêu từ phía các ngân hàng thương mại khi tham gia hoạt động cho vay

ngắn hạn DNVVN là lợi nhuận. Lợi nhuận từ dịch vụ cho vay ngắn hạn DNVVN có
được khi ngân hàng gia tăng được số lượng khách hàng DNVVN, tăng trưởng dư nợ
cho vay ngắn hạn DNVVN và cuối cùng là các khách hàng này thanh toán được đầy
đủ gốc, lãi đúng hạn. Mục tiêu này thực hiện tốt đến mức nào tùy thuộc vào việc ngân
hàng vận hành quy trình cho vay ngắn hạn DNVVN tốt đến đâu. Một quy trình cho
vay tốt là quy trình cho vay tạo điều kiện:
+ Giúp ngân hàng xác lập được nhiều giao dịch với khách hàng là các
DNVVN (Nguồn khách hàng có thể do tự các cán bộ tín dụng chủ động tìm
kiếm hoặc khách hàng tự tìm đến ngân hàng để xin vay) tạo cơ sở để tăng
dư nợ cho vay
+ Thẩm định được khách hàng một cách chính xác, kỹ lưỡng nhưng lại nhanh
chóng

×