Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

xây dựng và thực hiện chương trình xúc tiến xuất khẩu quốc gia của việt nam đối với nhóm hàng nông sản đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.09 KB, 89 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Luận văn Thạc sỹ khoa học chuyên ngành Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế
quốc tế (Kinh tế đối ngoại) với đề tài “Xây dựng và thực hiện chương trình xúc
tiến xuất khẩu quốc gia của Việt Nam đối với nhóm hàng nông sản đến năm
2015” được tác giả viết dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Thường Lạng.
Luận văn được viết trên cơ sở định hướng xuất khẩu, định hướng về phát triển thị
trường, ngành hàng và thực trạng xúc tiến xuất khẩu nông sản của Việt Nam nhằm
xây dựng một chương trình tổng thể để đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng nông sản,
đặc biệt là các nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam một cách bền vững,
chuyên nghiệp và hiệu quả.
Trong quá trình viết luận văn, tác giả có tham khảo và sử dụng những thông
tin, số liệu từ một số tài liệu, báo cáo chuyên ngành, một số tạp chí, báo điện tử,
website theo danh mục tài liệu tham khảo.
Tác giả cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng mình và không có
sự sao chép nguyên văn từ bất kỳ luận văn hay đề tài nghiên cứu nào hay nhờ
người khác làm hộ. Tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về cam đoan của mình.
Tác giả luận văn
Bùi Liên Thảo
MỤC LỤC
TÓM TẮT LUẬN VĂN i
1.1. Tầm quan trọng của Chương trình xúc tiến xuất khẩu quốc gia đối với nhóm hàng
nông sản [8] [10] [12] [13] 4
1.1.1. Các khái niệm liên quan 4
1.1.2. Nội dung của Chương trình xúc tiến xuất khẩu quốc gia của Việt Nam đối với nhóm
hàng nông sản đến năm 2015 7
1.1.3. Vai trò của Chương trình XTXK quốc gia đối với nhóm hàng nông sản 9
2.2.1. Thực trạng xây dựng Chương trình XTXK quốc gia của Việt Nam đối với nhóm
hàng nông sản giai đoạn 2006-2010 26
2.2.2. Thực trạng thực hiện Chương trình XTXK quốc gia của Việt Nam đối với nhóm
hàng nông sản giai đoạn 2006-2010 28
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


STT
Chữ viết
tắt
Nghĩa đầy đủ
Tiếng Anh Tiếng Việt
1
AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do Asean
2
ASEM
The Asia - Europe
Meeting
Diễn đàn hợp tác Á Âu
3 ASEAN Association of South East
Asia Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á
4 EU European Union Liên minh Châu Âu
5 FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
6 FTA Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do
7 GlobalGA
P
Global Good Agricultural
Practice
Tiêu chuẩn thực hành sản xuất
nông nghiệp tốt toàn cầu
8 NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn
9 VietGAP Vietnamese Good
Agricultural Practices
Tiêu chuẩn thực hành sản xuất

nông nghiệp tốt của Việt Nam
10 XTXK Xúc tiến xuất khẩu
11 XTTM Xúc tiến thương mại
12 WTO World Trade
Organization
Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
BẢNG
Bảng 2.1: KNXK nông sản trong tổng KNXK của cả nước giai đoạn 2006-2010
Error: Reference source not found
Bảng 2.2: Số liệu xuất khẩu một số nông sản chủ yếu giai đoạn 2007-2010 Error:
Reference source not found
Bảng 2.3: Tổng hợp các hoạt động XTXK quốc gia đối với nhóm hàng nông sản
theo nội dung (giai đoạn 2006-2010) Error: Reference source not found
BIỂU ĐỒ
TÓM TẮT LUẬN VĂN i
1.1. Tầm quan trọng của Chương trình xúc tiến xuất khẩu quốc gia đối với nhóm hàng
nông sản [8] [10] [12] [13] 4
1.1.1. Các khái niệm liên quan 4
1.1.2. Nội dung của Chương trình xúc tiến xuất khẩu quốc gia của Việt Nam đối với nhóm
hàng nông sản đến năm 2015 7
1.1.3. Vai trò của Chương trình XTXK quốc gia đối với nhóm hàng nông sản 9
2.2.1. Thực trạng xây dựng Chương trình XTXK quốc gia của Việt Nam đối với nhóm
hàng nông sản giai đoạn 2006-2010 26
2.2.2. Thực trạng thực hiện Chương trình XTXK quốc gia của Việt Nam đối với nhóm
hàng nông sản giai đoạn 2006-2010 28
TÓM TẮT LUẬN VĂN
Việt Nam là nước có nền kinh tế nông nghiệp phát triển lâu đời. Với đặc thù
là ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động, nông nghiệp Việt Nam góp phần giải
quyết việc làm cho phần lớn lao động ở nông thôn, góp phần ổn định đời sống một

bộ phận không nhỏ dân cư, đảm bảo ổn định xã hội.
Trong thời kỳ đầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH), sản
phẩm nông nghiệp là một nguồn xuất khẩu chủ yếu tạo ra tích lũy ban đầu cho đất
nước. Nhờ những sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu mà Nhà nước có ngoại tệ để
nhập khẩu máy móc, thiết bị cũng như nguyên, nhiên, vật liệu cần thiết cho sự phát
triển công nghiệp, xây dựng và các hoạt động dịch vụ khác. Thực tế cho thấy hiện
nay nhiều mặt hàng nông sản có những đóng góp rất tích cực vào việc tăng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam như gạo, cà phê, rau quả, hạt điều, chè, Các sản
phẩm nông sản Việt Nam đang ngày càng chiếm một thị phần không nhỏ trên
thương trường quốc tế.
Mặc dù là nước có sản lượng xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản đứng đầu
trên thế giới (như gạo, cà phê, hạt điều) nhưng giá trị xuất khẩu những mặt hàng
này vẫn phụ thuộc rất lớn vào biến động giá cả quốc tế. Bên cạnh giá cả bấp bênh,
thị trường và đơn đặt hàng không ổn định là những yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến
sản xuất nông sản trong nước cũng như tác động sâu sắc tới đời sống của người làm
nông nghiệp.
Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa và tự do hóa thương mại là một tất yếu
khách quan mà không một quốc gia nào có thể bỏ qua. Việt Nam cũng đang hội
nhập ngày càng sâu sắc hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới thông qua việc
tham gia vào các tổ chức khu vực và quốc tế như ASEAN, AFTA, ASEM, WTO,
Việc tham gia ngày càng sâu rộng vào sân chơi thương mại thế giới khiến cho các
nền kinh tế càng phụ thuộc và ảnh hưởng lẫn nhau nhiều hơn. Cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới 2008-2009 đã chứng minh sự mong manh của nền kinh tế thế giới,
và trong khủng hoảng, nông nghiệp đã thể hiện vai trò là “trụ đỡ” của nền kinh tế
i
Việt Nam khi kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông lâm thuỷ sản vẫn tăng bù vào
sự giảm sút của các nhóm hàng xuất khẩu nhiên liệu, khoáng sản, hàng chế biến
công nghiệp và thủ công mỹ nghệ. Tuy nhiên, hiện nay nhóm hàng nông sản của
Việt Nam đã tới hạn về số lượng do bị hạn chế về cơ cấu (diện tích, năng suất, thời
tiết, ). Vì vậy định hướng xuất khẩu mặt hàng nông sản trong thời gian tới là đẩy

mạnh xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, tăng cường các sản phẩm
chế biến, những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu
thô. Do đó, cần thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao chất lượng, tăng giá trị
hàng hoá xuất khẩu, đặc biệt là đối với mặt hàng nông sản, trong đó việc xây dựng
một chương trình tổng thể nhằm đưa các sản phẩm nông sản của Việt Nam chiếm
lĩnh thị trường xuất khẩu, nâng cao kim ngạch xuất khẩu và có đóng góp ngày càng
hiệu quả cho nền kinh tế đất nước là điều hết sức cần thiết. Với mục tiêu đó, tác giả
lựa chọn đề tài “Xây dựng và thực hiện chương trình xúc tiến xuất khẩu quốc gia
của Việt Nam đối với nhóm hàng nông sản đến năm 2015” để nghiên cứu.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
trình bày trong 3 chương.
Chương 1 - Lý luận chung về xây dựng và thực hiện chương trình xúc tiến
xuất khẩu quốc gia đối với nhóm hàng nông sản
Chương 2 - Thực trạng xây dựng và thực hiện chương trình xúc tiến xuất
khẩu quốc gia của Việt Nam đối với nhóm hàng nông sản
Chương 3 - Phương hướng và giải pháp xây dựng và triển khai thực hiện
chương trình xúc tiến xuất khẩu quốc gia của Việt Nam đối với nhóm hàng nông
sản đến năm 2015
CHƯƠNG 1 – LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN
CHƯƠNG TRÌNH XTXK QUỐC GIA CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI NHÓM
HÀNG NÔNG SẢN
Xúc tiến xuất khẩu nông sản là hoạt động hết sức quan trọng nhằm khuyến
khích và hỗ trợ đẩy mạnh việc trao đổi sản phẩm nông nghiệp với các đối tác
thương mại nước ngoài. Một nền kinh tế cần tích cực thực hiện các biện pháp xúc
ii
tiến xuất khẩu vì xúc tiến xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác
những cơ hội mà tự do hóa thương mại tạo ra.
Việt Nam là một nước nông nghiệp truyền thống, sản xuất, xuất khẩu nông
nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân cũng như trong việc
ổn định xã hội, do đó, việc xây dựng Chương trình XTXK quốc gia của Việt Nam

đối với nhóm hàng nông sản là hết sức cần thiết. Chương trình XTXK quốc gia góp
phần đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, nâng cao giá trị gia tăng cho hàng nông sản
xuất khẩu; hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, kỹ năng xúc tiến xuất
khẩu, đồng thời Chương trình cũng góp phần định hướng cho các hoạt động XTXK
đối với nhóm hàng nông sản trong thời gian tới.
Chương trình XTXK quốc gia của Việt Nam đối với nhóm hàng nông sản
đến năm 2015 là tổng hợp các hoạt động xúc tiến được xây dựng một cách đồng bộ,
có tổ chức, có phương pháp trên cơ sở nhu cầu của doanh nghiệp, định hướng phát
triển ngành nông nghiệp cũng như định hướng phát triển xuất khẩu giai đoạn 2011-
2015 nhằm đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản. Nội dung của Chương trình
XTXK quốc gia đối với nhóm hàng nông sản đến năm 2015 rất đa dạng, bao gồm
các hoạt động thông tin thương mại, hoạt động quảng bá, hỗ trợ thâm nhập thị
trường nước ngoài cho sản phẩm nông sản xuất khẩu, hoạt động phát triển thị
trường xuất khẩu, hoạt động tổ chức tham gia hội chợ triển lãm trong và ngoài
nước, hoạt động hỗ trợ xây dựng và quảng bá thương hiệu nông sản, hoạt động đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Việt Nam là nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu một số sản phẩm nông
nghiệp như lúa gạo, cà phê, hạt điều, cao su, hồ tiêu, nhưng giá trị xuất khẩu chưa
cao, chưa xây dựng được những thương hiệu có uy tín, xứng đáng với tiềm năng
của nước ta. Nghiên cứu kinh nghiệm về xây dựng chiến lược phát triển nông
nghiệp, xúc tiến xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của hai quốc gia có những
điều kiện tương đồng với Việt Nam hoặc có điều kiện ít thuận lợi hơn Việt Nam là
Thái Lan và Trung Quốc, luận văn đã rút ra được những bài học hết sức có ý nghĩa
cho phát triển nông nghiệp của Việt Nam.
iii
Thứ nhất, cần xây dựng được những chương trình xúc tiến đẩy mạnh xuất
khẩu hiệu quả nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm nông sản xuất khẩu;
Thứ hai, tăng cường công tác định hướng của Chính phủ, tập trung phát triển
cây trồng hàng hóa có khả năng cạnh tranh cao, những mặt hàng nông sản thế mạnh;
Thứ ba, hỗ trợ nâng cao chất lượng nông sản, xây dựng thương hiệu mạnh

cho nông sản xuất khẩu;
Thứ tư, xây dựng chính sách chiến lược định hướng và thu hút đầu tư để phát
triển thế mạnh của từng vùng miền, kể cả những vùng có điều kiện khó khăn nhằm
xây dựng vùng sản xuất nông nghiệp mũi nhọn.
CHƯƠNG 2 – THỰC TRẠNG XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN
CHƯƠNG TRÌNH XTXK QUỐC GIA CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI NHÓM
HÀNG NÔNG SẢN
Từ khi Việt Nam bắt đầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới đến nay, hoạt
động xúc tiến xuất khẩu ngày càng được quan tâm và đầu tư thích đáng. Xúc tiến
xuất khẩu nông sản của Việt Nam được thực hiện thông qua nhiều nguồn ở nhiều
cấp độ và với nhiều thành phần tham gia. Nhờ có những hoạt động xúc tiến tích
cực, xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã có những bước chuyển biến đáng kể, kim
ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng nông sản chủ lực tăng cao, nhiều mặt hàng
đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD (gạo, cao su, hạt điều). Hoạt động XTXK của ngành
nông nghiệp đã dần dần được các doanh nghiệp, các Bộ ngành, Chính phủ quan
tâm, tạo điều kiện thuận lợi nên đã thu được những kết quả tích cực. Chương trình
XTXK đối với nhóm hàng nông sản bước đầu đã được xây dựng một cách có trọng
tâm, trọng điểm, có định hướng; hàng nghìn lượt doanh nghiệp kinh doanh xuất
khẩu nông sản đã được hỗ trợ tham gia các hoạt động XTXK nhằm nâng cao năng
lực, kỹ năng và tư duy XTXK; thị trường xuất khẩu truyền thống được củng cố, thị
trường xuất khẩu mới được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh. Tuy nhiên,
về tổng thể, xúc tiến xuất khẩu ngành nông nghiệp vẫn còn manh mún, chưa có sự
phối hợp các nguồn lực để thực hiện những chương trình mang tầm cỡ quốc gia,
chưa tạo được tiếng vang lớn.
iv
Thời gian qua, Chương trình XTXK quốc gia của Việt Nam đối với nhóm
hàng nông sản do các Hiệp hội và các cơ quan XTTM ngành nông nghiệp chủ trì
xây dựng thực hiện. Tuy nhiên, do chưa có sự chỉ đạo thống nhất nhiều chương
trình còn trùng lắp, chồng chéo, gây lãng phí nguồn lực. Việc xây dựng Chương
trình cũng chưa có phương pháp cụ thể nên hiệu quả thực hiện không cao. Giai

đoạn 2006-2010, nhóm hàng nông sản được Nhà nước ưu tiên hỗ trợ về mặt kinh
phí tương đối nhiều so với các ngành hàng xuất khẩu khác, tuy nhiên các chương
trình XTXK quốc gia đối với nhóm hàng này chủ yếu vẫn tập trung vào các hoạt
động XTXK truyền thống, những hoạt động XTXK mới, chuyên sâu chưa được chú
ý và đầu tư đúng mức, qui mô các chương trình được thực hiện vẫn còn nhỏ lẻ, cục
bộ, tổ chức rời rạc do năng lực xây dựng và thực hiện Chương trình XTXK quốc gia
của các đơn vị chủ trì ngành nông nghiệp còn yếu, hiệu quả của nhiều chương trình
XTXK chưa cao, nhất là những chương trình có sự hỗ trợ kinh phí từ nguồn ngân
sách Nhà nước. Nguyên nhân của những bất cập hạn chế trong quá trình xây dựng
và thực hiện Chương trình XTXK đối với nhóm hàng nông sản là do thiếu một
chương trình xúc tiến tổng thể ngành nông nghiệp, nguồn kinh phí dành cho hoạt
động xúc tiến xuất khẩu ngày càng eo hẹp, năng lực và kinh nghiệm của đội ngũ
nhân sự trong xây dựng và thực hiện XTXK còn yếu. Do đó, để tăng cường hiệu
quả hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam thời gian tới, trước hết cần thiết
phải xây dựng một chương trình xúc tiến đồng bộ với các hoạt động xúc tiến đa
dạng, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, Bộ, ngành liên quan, được Nhà nước hỗ
trợ một phần kinh phí thực hiện, có cơ chế kiểm tra giám sát chặt chẽ, đảm bảo hiệu
quả thực hiện, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam.
CHƯƠNG 3 – PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ
TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH XTXK QUỐC GIA CỦA
VIỆT NAM ĐỐI VỚI NHÓM HÀNG NÔNG SẢN ĐẾN NĂM 2015
Để đạt được mục tiêu đẩy mạnh và đổi mới hoạt động XTXK, hỗ trợ thúc
đẩy phát triển thương mại quốc tế đối với nhóm hàng nông sản mà Việt Nam có
tiềm năng và thế mạnh, tiến tới chuyên nghiệp hóa hoạt động xúc tiến xuất khẩu
v
trong ngành nông nghiệp nhằm xây dựng thương hiệu, tăng cường khả năng cạnh
tranh của hàng nông sản Việt Nam, tiến tới phát triển và ổn định vững chắc thị
trường tiêu thụ hàng nông sản Việt Nam ở nước ngoài, Chương trình XTXK quốc
gia của Việt Nam đối với nhóm hàng nông sản đến năm 2015 sẽ được xây dựng
theo hướng: đồng bộ và đầy đủ về nội dung và hình thức xúc tiến, tập trung vào các

thị trường trọng điểm, có tiềm năng theo hướng khai thác lợi thế tại những thị
trường đã ký kết FTA đồng thời củng cố và mở rộng vững chắc thị phần hàng nông
sản của Việt Nam tại thị trường EU, Bắc Mỹ, tạo bước đột pháp mở rộng thị trường
xuất khẩu tại Nga và Đông Âu, Mỹ La tinh, Tây Á, Nam Á và Châu Phi; dưới sự
chỉ đạo thống nhất của Bộ NN&PTNT.
Trên cơ sở đó, luận văn đã nghiên cứu và đưa ra một chương trình tổng thể
bao gồm những hoạt động cần phải thực hiện để đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu
nông sản, như: Tổ chức và tham gia hội chợ triển lãm trong và ngoài nước; Tổ
chức đoàn khảo sát giao thương tại thị trường nước ngoài; Thuê chuyên gia hỗ trợ
việc tư vấn phát triển sản phẩm xuất khẩu; Đào tạo và nâng cao năng lực, nghiệp
vụ XTXK, kỹ năng kinh doanh thương mại ở nước ngoài; Tổ chức hội nghị quốc
tế ngành hàng xuất khẩu tại Việt Nam; Tổ chức tiếp xúc các nhà nhập khẩu nước
ngoài vào Việt Nam giao dịch mua hàng; Hỗ trợ xây dựng thương hiệu và xúc tiến
quảng bá thương hiệu nông sản; Thông tin thương mại; và các hoạt động xúc tiến
thương mại khác.
Chương trình XTXK quốc gia của Việt Nam đối với nhóm hàng nông sản
đến năm 2015 được đề xuất trong luận văn là chương trình khung, trên cơ sở đó,
hàng năm các đơn vị chủ trì sẽ xây dựng đề án cụ thể với phương án triển khai và
dự toán kinh phí chi tiết, gửi Bộ NN&PTNT xem xét duyệt cấp kinh phí. Kinh phí
xây dựng chương trình được đưa ra trên cơ sở tỷ lệ kinh phí được phê duyệt hỗ trợ
giai đoạn 2006-2010, cũng như có bổ sung cho một số nội dung XTXK mới cần đẩy
mạnh trong giai đoạn 2011-2015 nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động XTXK nhóm
hàng nông sản.
vi
Luận văn cũng đã đề xuất các giải pháp nhằm triển khai một cách hiệu quả
các hoạt động thuộc Chương trình XTXK quốc gia đối với nhóm hàng nông sản
bao gồm các giải pháp về đảm bảo tài chính, về nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực và năng lực của các cơ quan xúc tiến thương mại, về tăng cường công tác định
hướng của các Bộ, ngành, về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ công tác xúc
tiến xuất khẩu ngành nông nghiệp, … Bên cạnh đó, để Chương trình XTXK quốc

gia đối với nhóm hàng nông sản đến năm 2015 đem lại những kết quả tích cực,
cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành, các địa phương và các đơn vị
tham gia trong công tác định hướng, xây dựng cũng như việc triển khai và giám
sát thực hiện chương trình.
vii
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam là nước có điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp, nhiều
mặt hàng nông sản của Việt Nam hiện nay đang ngày càng chiếm thị phần không
nhỏ trên thị trường thế giới và đóng góp tích cực vào việc tăng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước. Trong thời gian tới, xuất khẩu nông sản vẫn được xem là một trong
những mặt hàng chủ lực để phát triển đất nước.
Những năm vừa qua, hoạt động xúc tiến xuất khẩu nhóm hàng nông sản
bước đầu được chú trọng nhằm đẩy mạnh và nâng cao kim ngạch xuất khẩu nhưng
kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, nhiều mặt hàng nông sản của
Việt Nam có sản lượng xuất khẩu đứng đầu thế giới (như gạo, cà phê, hạt điều)
nhưng giá trị xuất khẩu vẫn phụ thuộc rất lớn vào biến động giá cả quốc tế. Nguyên
nhân là do hoạt động xúc tiến xuất khẩu còn manh mún, nhỏ lẻ, cục bộ, các hoạt
động xúc tiến mới, chuyên sâu chưa được chú ý đầu tư đúng mức nên hiệu quả của
nhiều chương trình chưa cao, nhất là những chương trình có sự hỗ trợ kinh phí từ
ngân sách Nhà nước. Đặc biệt, ngành nông nghiệp còn thiếu rất nhiều những
chương trình xúc tiến hữu hiệu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu bền vững nhóm hàng
nông sản.
Trên cơ sở trình bày thực trạng xây dựng và thực hiện chương trình XTXK
đối với nhóm hàng nông sản của Việt Nam giai đoạn 20065-2010, phân tích những
thành công và bất cập, hạn chế cũng như nguyên nhân dẫn tới những bất cập, hạn
chế đó, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp xây dựng một chương trình
xúc tiến tổng thể nhằm đẩy mạnh xuất khẩu bền vững nhóm hàng nông sản của
Việt Nam.
Với mục tiêu đó, luận văn lựa chọn đề tài “Xây dựng và thực hiện chương

trình xúc tiến xuất khẩu quốc gia của Việt Nam đối với nhóm hàng nông sản đến
năm 2015”.
1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Cho đến nay, ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến
đề tài:
Dự án “Xây dựng chương trình xúc tiến thương mại ngành nông nghiệp và
phát triển nông thôn giai đoạn 2009-2015 và Định hướng đến năm 2020 của Bộ
NN&PTNT” (2009). Dự án đã phân tích thực trạng xúc tiến thương mại của ngành
nông, lâm, thủy sản từ đó đưa ra định hướng thực hiện xúc tiến thương mại, đẩy
mạnh xuất khẩu đến năm 2020.
Luận văn thạc sỹ kinh tế của Nguyễn Thúy Nga (2003) “Nâng cao năng lực
cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu trên thị trường Liên Bang Nga”.
Luận văn đã phân tích thế mạnh, hạn chế của hàng nông sản Việt Nam cũng như
đặc điểm thị trường Liên Bang Nga, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao năng
lực cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sang thị
trường này.
Luận án tiến sĩ kinh tế của Đỗ Thị Hương (2010) “Hoàn thiện hoạt động xúc
tiến nhằm thúc đẩy xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường EU”.
Luận án đã phân tích tình hình thực hiện các hoạt động xúc tiến của doanh nghiệp
Việt Nam từ đó đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động xúc tiến xuất khẩu vào
thị trường EU. Tuy nhiên, luận án chưa đề cập đến việc xây dựng và thực hiện
chương trình xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn phân tích thực trạng chương trình XTXK nông sản, đánh giá những
thành công và hạn chế trong việc xây dựng và thực hiện chương trình XTXK đối
với nhóm hàng nông sản giai đoạn 2006-2010, phân tích nguyên nhân của những
hạn chế và đề xuất phương hướng, giải pháp xây dựng và triển khai thực hiện
chương trình xúc tiến xuất khẩu quốc gia của Việt Nam đối với nhóm hàng nông
sản đến năm 2015.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc xây dựng và thực hiện
chương trình xúc tiến xuất khẩu nhóm hàng nông sản của Việt Nam.
2
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng chương trình xúc tiến
xuất khẩu đối với nhóm hàng nông sản của Việt Nam, từ đó đề xuất chương trình
xúc tiến xuất khẩu tổng thể đối với nhóm hàng này đến năm 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích,
tổng hợp tài liệu; phương pháp thống kê; phương pháp khảo sát thực tiễn; phương
pháp dự báo.
Những thông tin sử dụng trong luận văn được lấy từ một số tài liệu, báo cáo
chuyên ngành, một số tạp chí, báo điện tử, website của các tổ chức xúc tiến thương
mại quốc tế, các hiệp hội ngành hàng Việt Nam, được thống kê trong danh mục
tài liệu tham khảo.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
trình bày trong 3 chương.
Chương 1 - Lý luận chung về xây dựng và thực hiện Chương trình XTXK
quốc gia đối với nhóm hàng nông sản.
Chương 2 - Thực trạng xây dựng và thực hiện Chương trình XTXK quốc gia
đối với nhóm hàng nông sản giai đoạn 2006-2010.
Chương 3 - Phương hướng và giải pháp xây dựng và triển khai thực hiện
Chương trình XTXK quốc gia của Việt Nam đối với nhóm hàng nông sản đến
năm 2015.
3
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH
XÚC TIẾN XUẤT KHẨU QUỐC GIA ĐỐI VỚI
NHÓM HÀNG NÔNG SẢN

1.1. Tầm quan trọng của Chương trình xúc tiến xuất khẩu quốc gia đối
với nhóm hàng nông sản [8] [10] [12] [13]
1.1.1. Các khái niệm liên quan
1.1.1.1. Xúc tiến xuất khẩu
Trước khi đề cập đến khái niệm xúc tiến xuất khẩu, có thể xem xét một số
khái niệm có liên quan đến xúc tiến xuất khẩu như khái niệm “xúc tiến”, “xuất
khẩu” và “xúc tiến thương mại”.
Từ điển tiếng Việt 1997 của Trung tâm Từ điển học, NXB Đà Nẵng định
nghĩa “Xúc tiến là làm cho tiến triển nhanh hơn”. Còn Từ điển Oxford Advanced
Learners’ Dictionary định nghĩa từ “promotion” (từ tương đương trong tiếng Anh
liên quan đến thương mại) là các hoạt động được thực hiện nhằm tăng doanh số của
một sản phẩm, dịch vụ nào đó.
Trên quan điểm marketing, xúc tiến là “hoạt động đặc biệt, có chủ đích được
định hướng vào việc chào hàng, chiêu khách và xác lập một quan hệ thuận lợi nhất
giữa doanh nghiệp với các đối tác và tập hợp khách hàng tiềm năng” (Theo Dennis
W. Goodwin).
Luật Thương mại Việt Nam 2005, Chương 1, Mục 1, Điều 1 định nghĩa “xúc
tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung
ứng dịch vụ thương mại, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại,
trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại”
Như vậy, có thể thấy xúc tiến thương mại có phạm vi lớn, bao gồm cả xúc
tiến mua và xúc tiến bán. Khi tính đến yếu tố địa lý là biên giới quốc gia thì xúc tiến
mua là xúc tiến nhập khẩu còn xúc tiến bán là xúc tiến xuất khẩu. Tuy nhiên, hiện
nay ở Việt Nam vì hoạt động xuất khẩu thu hút sự quan tâm chính của các các cơ
4
quan Chính phủ và doanh nghiệp nên “xúc tiến thương mại” vẫn hay được đề cập
đến như là “xúc tiến xuất khẩu”.
Xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ của một quốc gia cho phần còn
lại của thế giới dựa trên cơ sở dùng tiền tệ làm chức năng thanh toán. Hình thức ban
đầu của xuất khẩu chỉ là trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia nhưng cho đến nay nó

đã thay đổi rất mạnh và được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng và các cấp độ
khác nhau. Xuất khẩu có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Hoạt
động xuất khẩu tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của
mình, tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm, v.v. Vì vậy, hiện nay chính phủ các nước rất coi
trọng việc đẩy mạnh xuất khẩu thông qua các hoạt động xúc tiến.
Như vậy, xúc tiến xuất khẩu là các chương trình được xây dựng nhằm
khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu thông qua các hoạt động hỗ trợ
phát triển sản phẩm, tìm kiếm thị trường, hỗ trợ tài chính cho việc vận chuyển hàng
hoá, đào tạo, các kế hoạch bảo lãnh thanh toán, tổ chức và tham gia hội chợ thương
mại, thăm viếng thương mại, đặt đại diện thương mại ở nước ngoài, v.v.
Ở cấp độ vĩ mô, xúc tiến xuất khẩu là xây dựng chương trình và thi hành các
chính sách, các hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của nhiều ngành hàng, nhiều mặt
hàng, của cộng đồng doanh nghiệp với những công cụ, phương tiện và cách thức
đều mang tính cộng đồng, ở cấp độ quốc gia. Một nền kinh tế cần phải tích cực thực
hiện các biện pháp xúc tiến xuất khẩu vì xúc tiến xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi
cho việc khai thác những cơ hội mà tự do hoá thương mại tạo ra. Ở cấp độ vi mô,
khi doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu đưa hàng hóa và dịch vụ của mình qua biên
giới quốc gia thì hoạt động marketing mà doanh nghiệp tiến hành cho mặt hàng hay
dịch vụ là hoạt động xúc tiến xuất khẩu.
1.1.1.2. Xúc tiến xuất khẩu nông sản
Xúc tiến xuất khẩu nông sản là các hoạt động được thực hiện nhằm khuyến
khích và hỗ trợ đẩy mạnh việc trao đổi sản phẩm nông nghiệp với các đối tác
thương mại nước ngoài.
5
Đối với nhiều nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, nông nghiệp là
ngành kinh tế chủ chốt. Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng
trong nước; cung cấp nguyên liệu đầu vào cho công nghiệp chế biến; tạo công ăn
việc làm cho phần lớn lao động. Tuy nhiên, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp ban đầu thường gặp rất nhiều khó khăn khi tham gia vào các quan

hệ thương mại với nước ngoài và lúng túng để tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Nguyên nhân chủ yếu là do sự thiếu hiểu biết về những thách thức phức tạp trong
thương mại quốc tế, thiếu thông tin về thị trường xuất khẩu, năng lực marketing
yếu, thiếu nguồn lực để thực hiện giao dịch thương mại một cách hiệu quả với đối
tác nước ngoài. Do đó, hoạt động xúc tiến xuất khẩu nông sản là hết sức cần thiết để
tăng sản lượng và giá trị xuất khẩu nhằm thu ngoại tệ phục vụ nhu cầu phát triển
của nền kinh tế quốc dân.
Các hoạt động xúc tiến xuất khẩu nông sản có thể được thực hiện trên hai
cấp độ: cấp độ doanh nghiệp và cấp độ quốc gia. Ở cấp độ doanh nghiệp, hai
phương diện xuất khẩu thường được chú trọng là: (i) tăng cường xuất khẩu những
sản phẩm hiện có thông qua việc duy trì thị trường truyền thống và tìm kiếm những
thị trường mới; và (ii) phát triển những dòng sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao,
có khả năng đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Ở cấp độ quốc gia, xúc tiến xuất khẩu nông
sản là một phần trong định hướng và chiến lược phát triển kinh tế toàn diện của
Chính phủ thông qua các công cụ kinh tế phù hợp. Vì vậy, việc thiết kế những chính
sách thương mại liên quan là chìa khoá thành công của các chương trình xúc tiến
xuất khẩu của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, việc đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông sản được thực hiện
chủ yếu thông qua các hoạt động xúc tiến xuất khẩu truyền thống như tổ chức, tham
gia hội chợ triển lãm trong và ngoài nước, tổ chức khảo sát thị trường, tìm kiếm cơ
hội kinh doanh, cung cấp thông tin thương mại quốc tế ngành nông nghiệp cho các
doanh nghiệp xuất khẩu và đào tạo nâng cao năng lực. Các hoạt động xúc tiến xuất
khẩu khác như tư vấn phát triển sản phẩm, thị trường, hỗ trợ xây dựng và phát triển
thương hiệu, tư vấn kinh doanh chưa thực sự được chú trọng và đầu tư đúng mức.
6
1.1.1.3. Chương trình xúc tiến xuất khẩu quốc gia của Việt Nam đối với nhóm
hàng nông sản
Chương trình XTXK quốc gia của Việt Nam đối với nhóm hàng nông sản là
tổng hợp các hoạt động xúc tiến được xây dựng một cách đồng bộ, có tổ chức dựa
trên định hướng phát triển ngành nông nghiệp cũng như định hướng phát triển xuất

khẩu giai đoạn 2011-2015 nhằm đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản.
Chương trình XTXK quốc gia của Việt Nam đối với nhóm hàng nông sản
được xây dựng nhằm mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh cho sản phẩm nông sản
xuất khẩu, xúc tiến phát triển thương hiệu nông sản xuất khẩu, tạo điều kiện thuận
lợi cho nông sản Việt Nam thâm nhập thị trường nước ngoài và phát triển thị trường
xuất khẩu. Để thực hiện mục tiêu đó, Chương trình sẽ được xây dựng với nhiều hoạt
động qui mô và đa dạng, được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí thực hiện.
Các hoạt động được đề xuất trong Chương trình XTXK quốc gia của Việt
Nam đối với nhóm hàng nông sản bao gồm hoạt động tham gia hội chợ triển lãm
quốc tế, tổ chức đoàn giao thương với đối tác nước ngoài, cung cấp thông tin
thương mại, xây dựng thương hiệu cho các nông sản xuất khẩu chủ lực, đào tạo
nâng cao năng lực cho các cán bộ làm công tác xúc tiến, Các hoạt động này sẽ
góp phần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản duy trì, củng cố,
tiếp cận và phát triển bạn hàng, thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm hội
nhập sâu rộng và bền vững.
1.1.2. Nội dung của Chương trình xúc tiến xuất khẩu quốc gia của Việt
Nam đối với nhóm hàng nông sản đến năm 2015
Chương trình XTXK của Việt Nam đối với nhóm hàng nông sản đến năm
2015 bao gồm nhiều hoạt động nhằm hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu nông sản nâng
cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu và tăng kim ngạch xuất khẩu mặt
hàng nông sản trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, được
thực hiện trong giai đoạn 5 năm. Nội dung bao gồm:
(i) Hoạt động thông tin thương mại nhằm cung cấp thông tin thương mại
quốc tế ngành hàng cho doanh nghiệp xuất khẩu, thông tin về đối tác thương mại,
7
thông tin cơ hội kinh doanh, kết nối doanh nghiệp, thông tin thị trường, Nhờ có
những thông tin về tình hình giá cả quốc tế, biến động cung cầu trên thị trường, các
doanh nghiệp có thể phân tích, đánh giá, làm cơ sở xây dựng chiến lược sản xuất,
kinh doanh hiệu quả, người nông dân ổn định tâm lý để yên tâm sản xuất, các nhà
hoạch định chính sách có cơ sở để đưa ra định hướng phát triển ngành hàng. Các

hoạt động thông tin khác sẽ giúp doanh nghiệp tìm kiếm đối tác, thẩm định đối tác
để phát triển xuất khẩu bền vững, tránh rủi ro trong việc thực hiện hoạt động kinh
doanh ở nước ngoài.
(ii) Hoạt động quảng bá, hỗ trợ thâm nhập thị trường nước ngoài cho sản
phẩm nông sản xuất khẩu. Nông sản Việt Nam có nhiều ưu điểm và lợi thế cạnh
tranh so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, thực tế là hàng
nông sản Việt Nam ít có tiếng tăm hơn so với các sản phẩm cùng loại của các nước
khác như gạo Thái Lan, cà phê Braxin, chè Đài Loan,…
Do đó, giá trị xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam còn thấp, thị trường
xuất khẩu không ổn định, giá cả bấp bênh. Vì vậy, việc quảng bá, thâm nhập thị
trường nước ngoài cho sản phẩm nông sản của Việt Nam là hết sức cần thiết nhằm
đẩy mạnh giá trị và sản lượng xuất khẩu của mặt hàng này trong giai đoạn tới.
(iii) Hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu. Trong bối cảnh nền kinh tế
thế giới ngày càng có những biến động sâu sắc và khó lường, cạnh tranh trong
thương mại quốc tế ngày càng gay gắt thì việc duy trì thị trường truyền thống đi đôi
với tìm kiếm, mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu mới, đối tác, bạn hàng mới
là hết sức cần thiết để đẩy mạnh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng nông sản
nói riêng. Hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu bao gồm tổ chức các đoàn
nghiên cứu, khảo sát thị trường, giao dịch thương mại ở nước ngoài, tổ chức mời
các nhà nhập khẩu nước ngoài đến Việt Nam giao dịch mua hàng, tổ chức hội thảo
quốc tế về ngành hàng xuất khẩu.
(iv) Hoạt động tổ chức tham gia hội chợ triển lãm trong và ngoài nước. Đây
là một trong những hoạt động xúc tiến truyền thống được rất nhiều quốc gia sử
dụng nhằm mở rộng quan hệ bạn hàng, thị trường. Việc tổ chức và tham gia các hội
8
chợ triển lãm ở trong và ngoài nước sẽ giúp doanh nghiệp giữ vững mối quan hệ với
các bạn hàng thân thiết, thị trường truyền thống đồng thời thiết lập được quan hệ
hợp tác kinh doanh với nhiều đối tác mới, mở rộng thị trường xuất khẩu.
(v) Hỗ trợ xây dựng, phát triển và quảng bá thương hiệu. Thương hiệu là tài
sản vô hình nhưng hết sức quan trọng, quyết định sự tồn tại lâu dài và bền vững của

sản phẩm trên thị trường. Vì vậy, việc xây dựng, phát triển và quảng bá thương hiệu
sẽ góp phần đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, mở rộng thị trường, nâng cao giá trị gia
tăng cho hàng xuất khẩu, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu.
(vi) Hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là nhân
tố quyết định sự thành công của hoạt động xúc tiến. Việc được trang bị tốt, đầy đủ
những kiến thức về thương mại quốc tế, đàm phán quốc tế, marketing xuất khẩu sẽ
giúp cho các cán bộ thực hiện công tác xúc tiến xuất khẩu chủ động và tự tin trong
hội nhập, tránh bị đối tác lợi dụng, gây khó dễ, ép giá, tránh vi phạm những rào cản
trong thương mại quốc tế, nhờ đó đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá.
1.1.3. Vai trò của Chương trình XTXK quốc gia đối với nhóm hàng nông sản
1.1.3.1. Chương trình góp phần đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, nâng cao giá
trị gia tăng cho hàng nông sản xuất khẩu
Việt Nam có nhiều sản phẩm nông sản thế mạnh và ngày càng chiếm thị
phần không nhỏ trên thị trường thế giới nhưng giá trị xuất khẩu hàng nông sản của
Việt Nam vẫn còn phụ thuộc rất lớn vào biến động giá cả trên thị trường quốc tế.
Các hoạt động xúc tiến xuất khẩu hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tiếp cận mở rộng
thị trường, bạn hàng, hỗ trợ xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị gia tăng cho
hàng nông sản, cũng như phát huy tối đa những lợi thế so sánh riêng có của hàng
nông sản Việt Nam. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang có nhiều biến động và
bất ổn như hiện nay, các hoạt động xúc tiến đã góp phần không nhỏ trong việc đẩy
mạnh xuất khẩu nông sản, tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản nói riêng và GDP
của nền kinh tế nói chung. Nhu cầu của thị trường đối với hàng nông sản của Việt
Nam tăng còn giúp đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp trong nước, góp phần
giải quyết công ăn việc làm cho lực lượng lao động ngày càng tăng của Việt Nam,
đảm bảo ổn định cho đời sống của người nông dân.
9
1.1.3.2. Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, kỹ
năng xúc tiến xuất khẩu
Trong xu thế hội nhập quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đang từng bước
chuyển mình, phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu để hội nhập với thế giới.

Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), bên cạnh những thời cơ không thể phủ nhận, doanh nghiệp xuất khẩu của
Việt Nam cũng phải đối đầu với những khó khăn, thách thức không nhỏ, cũng như
sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt ở cả thị trường trong nước lẫn thị trường nước
ngoài. Trong khi đó, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của Việt Nam chủ yếu
là doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh nghiệm hợp tác quốc tế chưa nhiều, độ nhạy bén
và khả năng thích ứng với những biến động của thị trường thế giới chưa cao nên
các hoạt động xúc tiến xuất khẩu nông sản có vai trò hết sức quan trọng trong việc
hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm hội
nhập sâu rộng và bền vững.
Thông qua chương xúc tiến xuất khẩu quốc gia, các doanh nghiệp được tạo
điều kiện tiếp cận nguồn thông tin thương mại cập nhật về giá cả, cung cầu thị
trường, về các hiệp định thương mại, thuế quan, hàng rào phi thuế quan, về cơ hội
kinh doanh, tìm kiếm đối tác. Đây là những thông tin rất hữu ích nhằm giúp doanh
nghiệp chủ động trước những thay đổi của thị trường. Ngoài ra, chương trình còn hỗ
trợ doanh nghiệp tham gia các hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở nước ngoài như tham
gia hội chợ triển lãm quốc tế, tham gia các đoàn khảo sát thị trường, giao dịch
thương mại nhằm tìm kiếm đối tác, phát triển thị trường xuất khẩu. Chương trình
cũng hỗ trợ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhằm nâng
cao khả năng cạnh tranh, năng lực xuất khẩu và năng lực hội nhập kinh tế quốc tế
của các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản.
1.1.3.3. Chương trình góp phần định hướng cho các hoạt động XTXK đối với
nhóm hàng nông sản đến năm 2015
Chương trình XTXK quốc gia của Việt Nam đối với nhóm hàng nông sản là
chương trình được xây dựng dựa trên cơ sở định hướng phát triển xuất khẩu quốc
10
gia và định hướng phát triển của ngành hàng đến năm 2015. Do đó, các hoạt động
được đề xuất trong chương trình cũng góp phần định hướng cho hoạt động xúc tiến
xuất khẩu của các doanh nghiệp và các tổ chức xúc tiến xuất khẩu từ Trung ương
đến địa phương.

1.2. Căn cứ và phương pháp xây dựng Chương trình XTXK quốc gia của
Việt Nam đối với nhóm hàng nông sản [2] [3] [4] [5] [9] [11] [25]
1.2.1. Căn cứ xây dựng Chương trình
1.2.1.1. Nhu cầu của doanh nghiệp
Thời gian qua, xúc tiến xuất khẩu nhóm hàng nông sản đã có những thành
tựu đáng mừng thể hiện ở việc kim ngạch xuất khẩu tăng đáng kể, nhiều mặt hàng
nông sản chủ lực của Việt Nam đã xây dựng được vị thế trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, các hoạt động xúc tiến xuất khẩu vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, qui mô
chưa lớn, chưa tạo được tiếng vang. Nhiều doanh nghiệp mặc dù có nhu cầu nhưng
cũng chưa tiếp cận được với các Chương trình xúc tiến xuất khẩu từ Trung ương
đến địa phương. Nguyên nhân là do kinh phí dành cho Chương trình chưa tương
xứng với tầm quốc gia của các hoạt động XTXK, vẫn còn tồn tại nhiều đầu mối làm
đơn vị chủ trì các hoạt động XTXK, mỗi đơn vị lại ưu tiên cho các doanh nghiệp
hội viên tham gia khiến cho nhiều doanh nghiệp chưa có điều kiện được hưởng lợi
từ Chương trình. Thêm vào đó, việc tồn tại nhiều đầu mối chủ trì các hoạt động
XTXK cấp quốc gia cũng khiến cho các hoạt động chưa nhất quán, chưa tạo được
sự liên kết giữa các ngành nhằm đẩy mạnh hiệu quả xúc tiến xuất khẩu.
Do đó, việc xây dựng một chương trình XTXK tổng thể cho ngành nông
nghiệp đến năm 2015, thống nhất một đầu mối chủ trì tổ chức thực hiện nhằm tạo
điều kiện cho đông đảo doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có thể tham gia
hưởng lợi là hết sức cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cộng đồng
doanh nghiệp về xúc tiến xuất khẩu.
1.2.1.2. Định hướng xuất khẩu nông sản đến năm 2015
- Về thị trường: Trong thời gian tới, định hướng xuất khẩu của nông sản Việt
Nam là chú trọng các thị trường có sức mua lớn như Nhật, Mỹ, EU, đồng thời tăng
11
cường mở rộng thị phần các thị trường Trung Quốc, Hồng Kông, Asean, Hàn Quốc,
Đài Loan, Việc tìm kiếm thị trường mới, thị trường khe, thị trường ngách để chủ
động phòng ngừa những đột biến thị trường cũng là một mục tiêu của ngành nông
nghiệp. Do đó, Chương trình XTXK quốc gia của Việt Nam đối với nhóm hàng

nông sản đến năm 2015 sẽ đẩy mạnh tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại,
thực hiện quảng bá sản phẩm nông sản vào các thị trường lớn, tiềm năng như EU,
Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Nga, đồng thời, quan tâm mở rộng thị trường mới ở
các khu vực Trung Đông, Bắc Phi, Trung Nam Mỹ và khai thông trở lại thị trường
Đông Âu.
- Về sản phẩm xuất khẩu: định hướng xuất khẩu đối với nhóm hàng nông sản
đến năm 2015 là phát triển các loại cây trồng hàng hoá có khả năng cạnh tranh
mạnh, hiệu quả cao phục vụ thị trường xuất khẩu. Đồng thời không ngừng nâng cao
chất lượng nông sản, tăng cường những sản phẩm có giá trị gia tăng cao nhằm tăng
kim ngạch xuất khẩu. Trên cơ sở định hướng đó, Chương trình XTXK quốc gia của
Việt Nam đối với nhóm hàng nông sản đến năm 2015 sẽ đề xuất nhiều chương trình
nhằm đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
như gạo, cà phê, hạt điều, hạt tiêu, cao su, chè. Những hoạt động nhắm tới việc thực
hiện định hướng này bao gồm cung cấp thông tin thương mại nhằm kịp thời dự báo
nhu cầu và diễn biến thị trường cho doanh nghiệp và người sản xuất để chủ động
điều tiết giữa sản xuất và tiêu thụ; xây dựng và quảng bá thương hiệu nhằm nâng
cao hiệu quả xuất khẩu nông sản, …
1.2.1.3. Định hướng xúc tiến xuất khẩu đến năm 2015
Định hướng xúc tiến xuất khẩu đến năm 2015 là đẩy mạnh và đổi mới
phương thức xúc tiến xuất khẩu, duy trì các hoạt động XTXK truyền thống đồng
thời tích cực triển khai các hoạt động XTXK mới nhằm nâng cao hiệu quả XTXK.
Trên cơ sở đó, Chương trình XTXK quốc gia của Việt Nam đối với nhóm hàng
nông sản đến năm 2015 sẽ đề xuất một hệ thống đồng bộ các hoạt động XTXK từ tổ
chức tham gia hội chợ triển lãm, khảo sát thị trường, quảng bá thương hiệu đến việc
thực hiện các hoạt động xúc tiến trong nước hướng tới mục tiêu xuất khẩu nhằm tiết
12
kiệm chi phí đồng thời nâng cao hiệu quả cho các hoạt động xúc tiến như mời đoàn
doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam mua hàng, tổ chức hội nghị quốc tế về
ngành hàng xuất khẩu, tổ chức hội chợ thương mại quốc tế ngành nông nghiệp,
1.2.2. Qui trình xây dựng và thực hiện Chương trình

Chương trình XTXK quốc gia đối với nhóm hàng nông sản đến năm 2015
được xây dựng và thực hiện theo một qui trình chặt chẽ và logic nhằm đảm bảo hiệu
quả thực hiện cũng như hiệu quả quản lý.
Đầu tiên, trên cơ sở nghiên cứu thị trường và định hướng phát triển thị
trường của từng ngành hàng, các đơn vị chủ trì sẽ đưa ra được yêu cầu đối với hoạt
động xúc tiến xuất khẩu ở từng thị trường mục tiêu của ngành hàng mình, từ đó xây
dựng đề án Chương trình xúc tiến xuất khẩu quốc gia để trình các cấp có thẩm
quyền phê duyệt.
Sau khi nhận được đề án của các đơn vị chủ trì, dựa trên các tiêu chí đánh giá
đề án XTXK quốc gia, các cấp có thẩm quyền sẽ xem xét, thẩm định để phân loại
đề án đạt, đề án đạt nhưng cần bổ sung để yêu cầu các đơn vị chủ trì làm rõ hoặc đề
án không đạt và ra quyết định phê duyệt.
Trên cơ sở quyết định phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền, các đơn vị chủ
trì tiến hành triển khai thực hiện đề án theo đúng tiến độ và nội dung được phê
duyệt. Nếu có bất kỳ sự thay đổi nào trong quá trình thực hiện đề án (về nội dung,
về thời gian, về kinh phí, ), đơn vị chủ trì cần báo cáo cơ quan có thẩm quyền để
xin phép điều chỉnh bổ sung hoặc chấm dứt thực hiện.
Sau khi hoàn thành đề án, đơn vị chủ trì có trách nhiệm báo cáo kết quả thực
hiện chương trình với cơ quan có thẩm quyền theo đúng qui định.
1.2.3. Phương pháp xây dựng Chương trình
Chương trình XTXK quốc gia đối với nhóm hàng nông sản đến năm 2015
được xây dựng theo phương pháp chuyên gia.
Do đặc điểm của các đề án xúc tiến nhằm đẩy mạnh xuất khẩu là xây dựng
kế hoạch cho tương lai, các số liệu định lượng thường không đầy đủ, chưa đủ tầm
bao quát lớn hoặc việc thu thập, xử lý các số liệu trong quá khứ và hiện tại để xác
13
định xu hướng vận động của hiện tượng trong tương lai gặp khó khăn nên thường
phải dựa trên những nhận xét, phán đoán mang tính chất định tính, vì vậy phương
pháp chuyên gia là phương pháp phù hợp nhất để sử dụng trong việc xây dựng
Chương trình XTXK đối với nhóm hàng nông sản đến năm 2015. Phương pháp

chuyên gia là phương pháp xây dựng chương trình dựa trên những ý kiến của các
chuyên gia có kinh nghiệm, có trình độ, có hiểu biết sâu rộng về lĩnh vực cụ thể để
có thể đưa ra những phán đoán và những gợi ý đáng tin cậy.
Khi áp dụng phương pháp chuyên gia vào công tác xây dựng Chương trình
XTXK quốc gia của Việt Nam đối với nhóm hàng nông sản đến năm 2015 cần thiết
phải lựa chọn các chuyên gia đảm bảo tiêu chuẩn, cụ thể:
- Chuyên gia phải có trình độ hiểu biết chung cao;
- Có kiến thức sâu về lĩnh vực xúc tiến thương mại và xuất khẩu nông sản;
- Có khả năng phân tích và đánh giá một cách sâu sắc xu hướng thị trường,
xu hướng phát triển sản phẩm nông sản và đưa ra được những gợi ý, định hướng,
khuyến nghị về việc xây dựng chương trình XTXK quốc gia đối với nhóm hàng
nông sản.
Việc trưng cầu ý kiến các chuyên gia có thể thực hiện trực tiếp hoặc gián
tiếp, có thể trưng cầu ý kiến từng cá nhân hoặc lấy ý kiến của một nhóm các chuyên
gia thông qua thảo luận tập thể. Ý kiến đánh giá và gợi ý, định hướng của chuyên
gia là cơ sở cho việc xây dựng Chương trình XTXK hiệu quả.
Thông thường, khi xây dựng Chương trình XTXK nông sản, các đơn vị chủ
trì cần tham vấn các tham tán thương mại để tìm hiểu thông tin về thị trường, tham
vấn các chuyên gia từ các cơ quan chuyên ngành (Bộ NN&PTNT, Bộ Công
Thương, các Vụ, Viện chiến lược, ) để biết về xu hướng phát triển sản phẩm, định
hướng xuất khẩu nông sản cũng như định hướng xuất khẩu chung đối với hàng hóa.
Các đơn vị chủ trì cũng cần tìm hiểu nhu cầu của các doanh nghiệp về phát triển thị
trường, định hướng đẩy mạnh xuất khẩu nhằm xây dựng các chương trình xúc tiến
thiết thực, đáp ứng được đòi hỏi của cộng đồng doanh nghiệp đối với công tác
XTXK. Ngoài ra, tuỳ từng chương trình xúc tiến cụ thể, các đơn vị chủ trì sẽ lên
14

×