Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận môn lý thuyết tài chính tiền tệ TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ VÀ LẠM PHÁT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.22 KB, 22 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ-TP HCM
KHOA KIỂM TOÁN
ĐỀ TÀI 4: TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ VÀ LẠM PHÁT
Giảng viên hướng dẫn : Trưong Minh Tuấn
Nhóm thực hiện : nhóm ?
Lớp : VB15KI001

Các thành viên của nhóm:
1. Hà Thị Kim Ngân STT:…………Chữ ký:
2. Nguyễn Minh Hải STT:………… Chữ ký:
3. Phạm Nguyễn Quỳnh Lan STT:………… Chữ ký:
4. Nguyễn Quốc Hùng STT:………… Chữ ký:
5. Hoàng Trọng Phú STT:………… Chữ ký:
- 1 -
A. Lý luận cơ bản về lạm phát và tỷ giá hối đoái:
1. Lạm phát:
a. Các khái niệm:
Nhiều nhà kinh tế học đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ lạm
phát nhưng nói chung chưa có một sự thống nhất hoàn toàn. Một số định
nghĩa lạm phát như sau:
- Lạm phát là một phạm trù kinh tế khách quan phát sinh từ chế độ lưu
thông tiền giấy. Điều này xuất phát từ chỗ tiền giấy chỉ mang giá trị
danh nghĩa không mang giá trị nội tại. Do đó, khi có hiện tượng thừa
tiền giấy trong lưu thông, lượng tiền thừa này sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Theo quan điểm cổ điển thì lạm phát xảy ra khi số tiền lưu hành vượt
quá dự trữ vàng làm đảm bảo của ngân hàng phát hành.
- Quan điểm khác lại cho rằng lạm phát là sự mất cân đối giữa tiền và
hàng trong nền kinh tế.


Nói chung, lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu
cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa
tăng lên đồng loạt. Vì vậy, các nhà kinh tế sử dụng chỉ số giá cả, thông
thường là chỉ số giá tiêu dùng để xác định mức độ lạm phát của nền kinh tế.
Cách xác định như sau:
b. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát:
Có nhiều nhân tố khác nhau gây ra lạm phát, để giải thích các nhân tố này
chúng ta có thể xem xét các lý thuyết sau:
• Lý thuyết số lượng tiền tệ và lạm phát:
- Quan điểm các nhà thuộc trường phái tiền tệ: Theo quan điểm này, khi
cung tiền tăng sẽ làm tổng cầu tăng (đường tổng cầu dịch chuyển sang
phải) sẽ làm sản lượng tăng, thất nghiệp giảm, khi đó các nhà sản xuất
sẽ mở rộng hoạt động, làm cho chi phí tăng lên đường cung dịch
chuyển sang trái từ đó làm cho giá cả hàng hóa tăng. Nếu cung tiền
tăng trong thời gian dài sẽ làm cho giá cả hàng hóa liên tục tăng và dẫn
đến lạm phát.
- Quan điểm thuộc trường phái của Keynes: Quan điểm của trường phái
Keynes cũng giống với quan điểm trường phải tiền tệ, tuy nhiên trường
- 2 -
phái này còn đưa vao yếu tố như chính sách tài khóa và những cú sốc
của cung để phân tích. Trong chính sách tài khóa, khi Chính phủ chi
tiêu tăng sẽ làm đường cầu tăng hay cú sốc kinh tế là chi phí của các
nhà sản xuất tăng cao, làm cho đường cung dịch chuyển sang trái cơ
chế tiếp tục như trên
• Chính sách tài khóa và lạm phát: Nguyên nhân được đề cập chủ yếu là để
giải thích cho trường hợp khi thiếu hụt tài khóa liên tục, Chính phủ tài
trợ bằng cách cung tiền liên tục (in thêm tiền) thì sẽ dẫn đến lạm phát
tăng.
• Lý thuyết lạm phát do cầu kéo: Trường hợp này xảy ra khi tổng cầu tăng
nhanh hơn sự gia tăng của tổng cung dẫn đến đường cầu liên tục dịch

chuyển sang phải làm giá cả hàng hóa tăng liên tục kéo theo sự gia tăng
của lạm phát. Một số nguyên nhân làm tổng cầu tăng: do chính sách mở
rộng tiêu dùng, do chính sách mở rộng tiền tệ (cung tiền tăng liên tục)…
• Lý thuyết lạm phát do chi phí đẩy: Trường hợp này xảy ra khi chi phì gia
tăng một cách độc lập với tổng cầu, đường cung dịch chuyển sang trái
làm lạm phát tăng. Chi phí tăng cao có thể do áp lực tăng chi phí tiền
lương công nhân từ chính phủ, doanh nghiệp muốn lợi nhuận nhiều hơn
nên tăng giá bán, do công ty phải nhập khẩu nguyên vật liệu trong khi tỷ
giá hối đoái cao làm giá chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng, hoặc do
thiếu hụt nguồn nguyên vật liệu đầu vào nên sản phẩm tạo ra khá khan
hiếm
c. Tác động của lạm phát:
• Tác động phân phối lại thu nhập và của cải:
Tác động này xuất phát từ những sự khác nhau trong các loại tài sản và nợ
nần của nhân dân. Khi lạm phát xảy ra, những người có tài sản, những người
đang vay nợ là có lợi vì giá cả các loại tài sản nói chung đều tăng lên, còn giá
trị đồng tiền thì giảm xuống. Ngược lại, những người làm công ăn lương,
những người gửi tiền, những người cho vay là bị thiệt hại.
• Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm:
Trong điều kiện nền kinh tế chưa đạt đến mức toàn dụng, lạm phát vừa phải
sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong
lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, kích thích
sự tiêu dùng của chính phủ và nhân dân.
- 3 -
Lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch biến: khi lạm paht1 tăng lên
thì thất nghiệp giảm xuống và ngược lại khi lạm phát giảm xuống thì thất
nghiệp tăng lên.
• Các tác động khác:
- Thay đổi cơ cấu nền kinh tế: vì khi làm phát tăng cao và không dự
đoán trước được, các nhà kinh doanh thường hướng đầu tư vào những

khu vực hàng hóa có giá cả tăng lên cao, những ngành sản xuất có chu
kỳ ngắn thời gian thu hồi vốn nhanh, hạn chế đầu tư vào những ngành
sản xuất có chu kỳ dài, thời gian thu hồi vốn chậm.
- Lạm phát xảy ra làm cho đồng tiền trong nước mất giá so với ngoại tệ,
từ đó làm tăng tỷ giá hối đoái.
- Do tác động làm phân phối lại thu nhập và của cải (người cho vay bị
thiệt so với người đi vay), nếu lạm phát cao và siêu lạm phát xảy ra sẽ
làm cho hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình trạng khủng
hoảng; nguồn gửi tiền sẽ bị sụt giảm nhanh chóng, nhiều ngân hàng bị
phá sản do mất khả năng thanh toán.
- Trong thời kỳ lạm phát giá cả hàng hóa – dịch vụ tăng lên một cách
vững chắc, bên cạnh đó tiền lương danh nghĩa cũng theo xu hướng
tăng lên, vì vậy thu nhập thực tế của người lao động nói chung có thể
giữ vững, tăng lên hoặc giảm đi chứ không phải bao giờ cũng suy
giảm.
- Ngoài ra, lạm phát còn gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước bằng việc
bào mòn giá trị thực của những khoản công phí. Đặc biệt khi lạm phát
cao kéo dài và không dự đoán trước được làm cho nguồn thu ngân
sách nhà nước bị giảm do sản xuất bị suy thoái.
- Tuy nhiên, lạm phát cũng có tác động làm gia tăng số thuế nhà nước
thu được trong những trường hợp nhất định. Nếu hệ thống thuế tăng
dần (thuế suất lũy tiến) thì tỷ lệ lạm phát cao hơn sẽ đẩy người ta
nhanh hơn sang nhóm phải đóng thuế cao hơn, và như vậy chính phủ
có thể thu được nhiều thuế hơn mà không phải thông qua luật.
2. Tỷ giá hối đoái:
a. Khái niệm:
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế liên quan đến việc tính toán và so
sánh giá trị giữa hai đồng tiền. Hoặc tỷ giá hối đoái là hệ số quy đổi của một
- 4 -
đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác. Hay tỷ giá hối đoái là giá cả

đơn vị tiền tệ của một nước được biểu hiện bằng khối lượng các đơn vị tiền
tệ nước ngoài.
b. Vai trò của tỷ giá hối đoái:
Trong nền kinh tế mở, tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng rất lơn đối với hoạt động
thương mại quốc tế, trạng thái cán cân thanh toán, tốc độ tăng trưởng kinh tế,
việc làm và lạm phát.
• Tỷ giá hối đoái và hoạt động thương mại quốc tế:
- Khi tỷ giá hối đoái thay đổi, đồng nghĩa với sức mua của hai đồng tiền
thay đổi, điều này làm cho giá cả hàng hóa xuất – nhập khẩu của hai
quốc gia trong hệ tỷ giá trên thị trường quốc tế cũng thay đổi. Từ đó
làm ảnh hưởng đến quy mô thương mại quốc tế.
- Chẳng hạn, khi đồng nội tệ mất giá thì giá cả hàng hóa xuất khẩu của
quốc gia đó trên thị trường quốc tế trở nên rẻ hơn, đồng nghĩa là sức
cạnh tranh của hàng hóa đó trên thị trường quốc tế cao hơn, mức cầu
mở rộng và khối lượng hành hóa xuất khẩu sẽ gia tăng – quy mô
thương mại quốc tế tăng. Nền kinh tế thu được nhiều ngoại tệ và cán
cân thanh toán được cải thiện. Ngược lại khi đồng nội tệ tăng giá, xuất
khẩu giảm, nhập khẩu tăng.
- Tuy nhiên, khi đồng nội tệ mất giá thì cán cân thanh toán không thể
thay đổi ngay mà còn phụ thuộc vào thời gian thích ứng đối với việc
thay đổi giá cả hàng hóa của người tiêu dùng trong nước và nước
ngoài. Trong thời gian đầu, cán cân thanh toán có thể bị giảm đi, sau
đó mới đạt trạng thái cải thiện dần.
• Tỷ giá hối đoái và lạm phát, tăng trưởng kinh tế và việc làm:
- Khi đồng nội tệ mất giá sẽ kích thích xuất khẩu, từ đó gây tác động lan
truyền thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và tạo việc làm ổn định
cho người lao động. Tuy nhiên, đồng nội tệ mất giá (tỷ giá hối đoái
tăng) sẽ làm cho giá cả hàng hóa nhập khẩu tăng cao, mặt bằng giá cả
trong nước tăng cao và sức ép lạm phát trong nước trở nên mạnh mẽ
hơn.

- Ngược lại, khi đồng nội tệ lên giá thì hàng hóa nhập khẩu từ nước
ngoài trở nên rẻ hơn, từ đó làm phát trong nước giảm thấp vì những
hàng hóa đó đều được tính vào trong chỉ số giá cả trong nước. Nhưng
- 5 -
đồng nội tệ lên giá sẽ làm hạn chế hoạt động xuất khẩu, thu hẹp sản
xuất trong nước và thất nghiệp gia tăng.
c. Các nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái:
• Trong dài hạn: Có 4 yếu tố tác động đến tỷ giá: mức giá cả, thuế quan và
hạn ngạch, sở thích hàng nội so với hàng ngoại và năng suất được xem xét
trên góc độ một yếu tố này tác động đến tỷ giá như thế nào trong khi các
yếu tố còn lại không đổi.
- Mức giá cả hàng hóa: Trong dài hạn, một sự tăng lên mức giá của một
quốc gia (so với mức giá nước ngoài) dẫn đến đồng tiền của quốc gia
đó giảm giá, và một sự giảm đi mức giá của quốc gia đó dẫn đến đồng
tiền của quốc gia đó lên giá.
- Hàng rào thương mại: là thuế quan và hạn ngạch. Sự gia tăng hàng rào
thương mại (là tăng thuế quan hoặc giảm hạn ngạch) sẽ dẫn đến đồng
tiền của quốc gia có khuynh hướng lên giá trong dài hạn.
- Sở thích hàng nội so với hàng ngoại: Nhu cầu xuất khẩu của một quốc
gia gia tăng dẫn đến đồng tiền của quốc gia đó lên giá trong dài hạn;
ngược lại, nhu cầu nhập khẩu hàng hóa của một quốc gia gia tăng dẫn
đến đồng nội tệ mất giá.
- Năng suất lao động: Trong dài hạn, khi năng suất lao động của một
quốc gia cao hơn quốc gia khác, thì đồng tiền của quốc gia đó lên giá.
• Trong ngắn hạn:
- Sự thay đổi lãi suất tiền gửi ngoại tệ và tiền gửi nội tệ: Trong điều kiện
nền kinh tế mở, nếu lãi suất trong nước cao hơn lãi suất ngoại tệ hay
lãi suất trên thị trường quốc tế, sẽ thu hút những dòng vốn trên thị
trường quốc tế chảy vào trong nước hay sẽ làm gia tăng sự chuyển hóa
lượng ngoại tệ trong nước sang đồng nội tệ để hưởng lãi suất cao. Khi

đó cung ngoại tệ trong nước sang đồng nội tệ tăng lên, từ đó làm cho
đồng nội tệ lên giá và ngược lại. Nếu mức lãi suất thực giữa các quốc
gia ngang bằng nhau thì các luồng vốn quốc tế không tiếp tục chảy vào
hay chảy ra ngoại đối với một quốc gia.
- Chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ: Khi chính phủ thực hiện thay
đổi các chính sách kinh tế vĩ mô và làm ảnh hưởng đến các chỉ số về
tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát, bội chi ngân sách… tất cả đều
gây ảnh hưởng đến sự thay đổi tỷ giá hối đoái.
- 6 -
- Yếu tố tâm lý: Từ các sự kiện kinh tế, chính trị… người ta dự đoán
chiều hướng phát triển của thị trường và thực hiện những hành động
đầu tư về ngoại hối, làm cho tỷ giá có thể đột biến tăng, giảm trên thị
trường.
B. Quan điểm về mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái:
 Theo bài nghiên cứu: “Tác động của chính sách tỷ giá đến lạm phát ở
Việt Nam” của ThS. Nguyễn Thị Thái Hưng (Quan điểm 1)
1. Các kênh tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát
Trong nền kinh tế mở, tỷ giá tác động gián tiếp đến lạm phát chủ yếu
thông qua các con đường: xuất khẩu ròng, cán cân thanh toán, giá hàng hóa
nhập khẩu và đây đều là mối quan hệ đồng biến.
a. Kênh thứ nhất : tác động của tỷ giá tới lạm phát thông qua xuất khẩu
ròng
Khi đồng nội tệ giảm giá so với đồng ngoại tệ, xuất khẩu ròng tăng
lên. Do xuất khẩu ròng là một phần của tổng cầu AD, nên khi xuất khẩu
ròng tăng đường AD dịch chuyển sang phải(mô hình AD-AS) tác động
làm lạm phát tăng.
b. Kênh thứ hai: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua cán cân thanh toán.
Cơ chế tác động này có hai giai đoạn.
- Khi tỷ giá tăng, xuất nhập khẩu ròng tăng, đường IS dịch chuyển sang
phải( mô hình IS-LM). Lãi suất trong nước tăng lên,trong ngắn hạn

luồng vốn đổ vào đầu tư trong nước tăng(đầu tư trực tiếp và gián tiếp)
làm cán cân vốn tăng lên từ đó cán cân thanh toán tổng thể cải thiện.
- Khi cán cân thanh toán tổng thể thặng dư sẽ có hai khả năng xảy ra: (1)
NHTW sẽ phải cung ứng thêm tiền mua ngoại tệ nhằm giữ tỷ giá
không giảm xuống để khuyến khích xuất khẩu hạn chế nhập khẩu.
Nhưng điều này cũng làm lượng cung tiền tăng lên, đường LM dịch
chuyển sang phải(mô hình IS-LM) cân bằng tiền hàng trong nền kinh
tế thay đổi, lạm phát tăng.
(2) Nếu NHTW không vì mục tiêu định giá đồng nội tệ thấp nhắm khuyến
khích xuất khẩu, khi cán cân thanh toán tổng thể thặng dư thì lượng
ngoại tệ trong nền kinh tế tăng lên. Với những nước có nền kinh tế bị
đô la hóa cao, tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế tăng gây
sức ép lên giá cả và đẩy lạm phát tăng lên.
- 7 -
c. Kênh thứ ba: Tác động của tỷ giá đến lạm phát thông qua giá hàng nhập
khẩu.
Khi tỷ giá danh nghĩa tăng làm giá hàng nhập khẩu tăng và ngược lại.
Nếu hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất giá tăng dẫn đến chi phí đầu vào
tăng, sản phẩm đầu ra củng phải tăng giá. Nếu là hàng nhập khẩu tiêu
dùng, khi tỷ giá tăng dẫn đến giá của hàng hóa tính bằng nội tệ tăng
củng là nguyên nhân gây lạm phát. Đặc biệt, ảnh hưởng của giá nhập
khẩu đến lạm phát càng biểu hiện rõ khi Quốc gia có tỷ lệ nhập
khẩu/GDP lớn.
Ngoài ra, còn một nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát kỳ vọng. Việc điều
chỉnh tỷ giá liên tục của NHTW có thể khiến cho lãi suất huy động đồng nội
tệ tăng cao. Làm giảm lòng tin của dân chúng và nhà đầu tư khi có sự kỳ
vọng giảm giá của đồng nội tệ trong tương lai, gây ra vòng xoáy “lạm phát –
tỷ giá”.
2. Thực trạng tác động của tỷ giá tới lạm phát ở Việt Nam.
Trong giai đoạn 1980 – 1990 khi bắt đầu cải cách, Việt Nam đã trải qua

giai đoạn siêu lạm phát, sau đó chỉ có giai đoạn 1997-2003 lạm phát duy trì ở
mức độ thấp <5% và ổn định. Sau giai đoạn này, lạm phát tiếp tục gia tăng và
biến động khó lường.
Giai đoạn 1999 -2003 tỷ lệ lạm phát thấp, riêng năm 2000 còn rơi vào tình
trạng giảm phát nhẹ mặc dù trong suốt giai đoạn này cung tiền và tốc độ tăng
trưởng tín dụng khá cao(30 -40%/ năm) và VNĐ phá giá mạnh( khoảng 36%
trong giai đoạn 1997-2003). Tuy nhiên,để đánh giá tác động của tỷ giá tới
diển biến lạm phát giai đoạn 1997 – 2011 khá khó khăn.
Giai đoạn 1997-1999 lạm phát được kiềm chế do tác động ổn định của tỷ giá
không nhiều mà chủ yếu là do kết quả của những chính sách khác. Trong hai
năm 1998 và 1999 tỷ giá tăng mạnh nhưng lạm phát vẫn ở mức thấp, cho
thấy ảnh hưởng của tỷ giá đến lạm phát giai đoạn này rất hạn chế. Năm 2000-
2003 lạm phát và tỷ giá duy trì ổn định.
Sau một giai đoạn lạm phát ở mức thấp, năm 2004 lạm phát tăng lên mức
9,5% do nguyên nhân: (1) tác động của việc tăng cung tiền (2) biến động trên
thế giới làm tăng giá một số mặt hàng nhập khẩu như xăng dầu, sắt thép…(3)
tổng cầu tăng lên sau giai đoạn khủng hoảng cùng với sự tăng lên của tiền
lương danh nghĩa khiến giá cả tăng lên.
- 8 -
Năm 2006 lạm phát giảm nhẹ so với 2 năm trước đó, tuy nhiên khi NHNN
thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với kỳ vọng lạm phát dẫn đến lạm
phát thực tế tăng lên ở giai đoạn tiếp theo của chu kỳ kinh tế. Chính sách tỷ
giá chỉ có tác động cộng hưởng với tác động của chính sách tiền tệ chứ
không có tác động trực tiếp tới lạm phát.
Kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO (11/2006) luồng vốn nước ngoài vào Việt
Nam rất lớn, để ổn định tỷ giá hối đoái NHNN phải tăng cung tiền để hút
ngoại tệ vào làm tăng áp lực lạm phát.
Ngoài ra trong một thời gian dài NHNN “neo” giá VND quá lâu vào đồng
USD. Trong khi đó đồng USD liên tục mất giá so với đồng tiền mạnh khác,
làm cho mức độ mất giá của đồng VND so với các đồng tiền khác càng trầm

trọng. Chính sự mất giá của đồng VND làm cho giá cả hàng hóa nhập khẩu
trở nên đắt đỏ. Điều này khiến chi phí sản xuất của các doanh nghiệp tăng,
kéo theo giá thành sản phẩm tăng.
Khi lạm phát tăng, NHNN lại thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt làm tăng
lãi suất VND, điều này nếu không được thực hiện một cách chặt chẻ có tính
toán thì Việt Nam lại rơi vào vòng xoáy “tỷ giá – lạm phát – lãi suất – tỷ
giá”.
Và Việt Nam là quốc gia có tỷ trọng nhập khẩu cao, trong giai đoạn 2000-
2010 tỷ trọng nhập khẩu/GDP trung bình là 75,98%. Vì vậy trong trường hợp
tỷ giá tăng liên tục sẽ càng làm tăng chỉ số giá hàng nhập khẩu và tác động
làm tăng lạm phát.
Tóm lại, tỷ giá có tác động nhất định đến lạm phát ở Việt Nam, tùy thuộc vào
từng thời kỳ cho thấy sự tác động này có thể nhiều hay ít. Việc duy trì tỷ giá
danh nghĩa ổn định, ít biến động là nổ lực rất lớn của NHNN trong việc ổn
định thị trường tiện tệ và giá VND, nhưng kết quả lạm phát ở Việt Nam vẫn
ở mức cao và không ổn định. Vì vậy, trong thời gian tới việc điều hành chính
sách tỷ giá phải được NHNN tính toán kỹ các tác động giữ tỷ giá và lạm phát
để góp phần kiềm chế lạm phát nhắm đạt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô mà
Chính Phủ đề ra.
 Theo bài nghiên cứu: “Ổn định tỷ giá trong mối quan hệ với ổn định lạm
phát ở Việt Nam” của ThS. Nguyễn Huyền Diệu: (Quan điểm 2)
Tại hầu hết các nước công nghiệp có thị trường tài chính phát triển, đặc biệt tại
những nước theo đuổi khuôn khổ mục tiêu lạm phát, công cụ phổ biến nhất của
chính sách tiền tệ là lãi suất. Việc thay đổi lãi suất điều hành của ngân hàng
- 9 -
trung ương sẽ tác động đến sản lượng và giá cả theo bốn kênh chủ yếu: lãi suất
thị trường, tín dụng, giá tài sản và tỷ giá. Khi thực hiện chính sách thắt chặt tiền
tệ bằng cách tăng lãi suất, sẽ làm tăng giá trị đồng nội tệ (tỷ giá giảm), từ đó làm
tăng giá trị hàng hóa trong nước so với nước ngoài, xuất khẩu tăng, nhập khẩu
giảm dẫn đến hiệu ứng “nhập khẩu lạm phát” giảm dẫn đến lạm phát giảm. Với

hiệu ứng “nhập khẩu lạm phát” là nói đến “hiệu ứng trung chuyển tác động của
tỷ giá”- ERPT, có thể hiểu nôm na là nếu cơ chế ERPT diễn ra hoàn hảo thì 1%
tăng lên của tỷ giá có thể khiến giá hàng hóa nhập khẩu tính bằng nội tệ tại quốc
gia nhập khẩu tăng lên 1%, giả định các nhân tố khác không thay đổi. Đồng thời,
giá hàng hóa nhập khẩu được tính trong chỉ số giá xác định lạm phát, khi giá
hàng hóa nhập khẩu tăng thì lạm phát cũng tăng. Thông qua việc nghiên cứu
ERPT cho thấy tỷ giá và lạm phát có mối quan hệ 2 chiều: Việc phá giá đồng
nội tệ có thể làm gia tăng lạm phát, nhưng sự ổn định của lạm phát với kỳ vọng
lạm phát được “neo” chắc chắn có thể là nền tảng làm giảm đi tác động ERPT
của tỷ giá.
Hiện trạng tại Việt Nam, cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ không bắt đầu từ lãi
suất mà từ lượng cung tiền Chính Phủ phê duyệt, tỷ giá vừa là công cụ của chính
sách tiền tệ vừa là mục tiêu trung gian. Tỷ giá là công cụ tiền tệ khi Ngân hàng
Nhà nước quy định tỷ giá bình quân liên ngân hàng, các Ngân hàng thương mại
dựa vào đó mà cộng thêm biên độ giao dịch theo đúng quy định. Tỷ giá là mục
tiêu trung gian khi Ngân hàng Nhà nước mua bán ngoại tệ để đạt mức tỷ giá
bình quân liên ngân hàng như mong muốn.
Theo kết quả đúc kết từ các nghiên cứu và nhận định của tác giả thì tỷ giá
USD/VND với lạm phát CPI tỷ lệ thuận và trong khi lạm phát chưa thể giảm
xuống mức thấp nhanh chóng, tỷ giá ổn định sẽ giúp lấy lại niềm tin vào giá trị
đồng Việt Nam. Vì nền sản xuất của Việt Nam có giá trị gia tăng thấp, phụ
thuộc phần lớn vào nguồn máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu nhập khẩu.
Đơn cử như ngành hàng dệt may hiện đang là ngành hàng xuất khẩu chủ lực của
nước ta thì cũng phải nhập khẩu đến 90% nguyên liệu. Hay thậm chí nước ta là
nước nông nghiệp, có thế mạnh về các sản phẩm nông nghiệp như lúa gạo, thủy
sản xuất khẩu nhưng từ phân bón, thuốc trừ sâu đến thức ăn chăn nuôi cũng đều
phải nhập từ nước ngoài. Với một nền kinh tế phụ thuộc vào bên ngoài lớn như
vậy, tác động gián tiếp của việc tăng tỷ giá đến lạm phát CPI thông qua tăng chi
phí sản xuất do tăng giá nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị tính
bằng VND thì có thể sẽ tương đối lớn.

- 10 -
 Theo bài nghiên cứu: “Hiệu ứng trung chuyển tác động của tỷ giá đến
giá cả và lạm phát” của TS. Nhật Trung và TS. Nguyễn Hồng Nga:
(Quan điểm 3)
Tác giả nhận định mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát thông qua nghiên cứu về
hiệu ứng trung chuyển tác động của tỉ giá (Exchange rate pass - through,
ERPT). Hiệu ứng này được hiểu là mức % thay đổi giá trong nước tính bằng
đồng tiền của nước nhập khẩu khi tỉ giá tiền tệ giữa các đối tác thương mại thay
đổi 1%, tức là nghiên cứu về độ co giãn của giá trong nước so với tỷ giá. Vấn đề
này có hai khía cạnh: (1) có thể nghiên cứu mối tương quan giữa giá hàng nhập
khẩu và tỉ giá; (2) mối quan tâm đặc biệt là tác động của tỉ giá đến mức giá
chung (chẳng hạn được biểu hiện thông qua chỉ số giá tiêu dùng CPI).
I. Khảo lược về lí thuyết hiệu ứng trung chuyển của tỉ giá:
1/ Cơ chế tác động của tỉ giá đến giá trong nước:
Cái gì là nguyên nhân của ERPT? Tại sao tỉ giá có thể tác động đến giá
trong nước của một quốc gia?
Ngay từ năm 1953, khi bảo vệ cơ chế tỉ giá thả nổi, Milton Friedman đã
dựa trên lập luận rằng, cơ chế tỉ giá thả nổi có thể làm thay đổi nhanh chóng
giá tương đối giữa các quốc gia: “Tăng tỉ giá làm giá hàng hóa nước ngoài
trở nên rẻ hơn khi tính bằng nội tệ, ngay cả khi giá của chúng tính bằng ngoại
tệ không thay đổi, và hàng hóa trong nước trở nên đắt hơn khi tính bằng ngoại
tệ, ngay cả khi giá của chúng không thay đổi nếu tính bằng nội tệ. Điều này
làm tăng nhập khẩu và giảm xuất khẩu”. Các giả thiết của Friedman là giá
hàng hóa tính bằng ngoại tệ của nhà sản xuất cố định và tồn tại hiệu ứng trung
chuyển tác động của tỉ giá đến người mua hàng hóa ở mức độ lớn (trung
chuyển toàn phần sang giá hàng nhập khẩu).
- 11 -
Có tối thiểu ba kênh mà thông qua đó, giá tiêu dùng thích ứng với những thay
đổi của tỉ giá danh nghĩa: trực tiếp, gián tiếp và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hiệu ứng trực tiếp: Chuỗi hiệu ứng trực tiếp bao gồm thay đổi trực

tiếp giá cả các hàng hóa nhập khẩu trung gian và nhập khẩu tiêu dùng cuối
cùng do thay đổi tỉ giá.
Hiệu ứng gián tiếp: Chuỗi hiệu ứng gián tiếp dựa trên giả thuyết về sự
thay thế lẫn nhau của hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu.
Hiệu ứng gián tiếp bao gồm sự thay thế giữa hàng hóa sản xuất trong nước và
hàng hóa nhập khẩu tiêu dùng cuối cùng trên thị trường nội địa (sự thay thế
bên trong, internal substitution) và trên thị trường nước ngoài (sự thay thế
bên ngoài, external substitution).
- 12 -
Hiệu ứng FDI: Sự giảm giá mạnh của đồng Rúp năm 1998 đã làm
giảm mạnh cầu đối với nhiều loại hàng hóa nhập khẩu và giảm mạnh tiền
lương danh nghĩa tính bằng ngoại tệ. Trước đó, các tập đoàn xuyên quốc gia
đã cung cấp nhiều hàng hóa vào nước Nga, trong thời gian khủng hoảng phải
đối mặt với tình thế lưỡng nan: hoặc đánh mất thị phần thị trường xuất khẩu
của mình hay bắt đầu xây dựng cơ sở sản xuất tại nước Nga nhằm tận dụng
các lợi thế so sánh về tiền lương và công nghệ. Nhiều tập đoàn đã mở chi
nhánh và dịch chuyển các cơ sở sản xuất vào nước Nga (FDI flows). Tăng
trưởng sản xuất làm tăng cầu lao động và tăng tiền lương. Đến lượt mình,
điều này đã đẩy giá tăng lên.
Tóm lại, có một số cơ chế song hành, thông qua đó, giá cả trong nước
phản ứng với những thay đổi của tỉ giá danh nghĩa.
2/ Học thuyết ngang giá sức mua (PPP) và những nguyên nhân làm cho
tỉ giá lệch khỏi PPP:
Hiệu ứng trung chuyển tác động của tỉ giá đối với giá trong nước là
nhân tố then chốt trong việc lan truyền các cơn sốc trong một nền kinh tế
mở. Nhưng các mô hình kinh tế vĩ mô truyền thống lại ít quan tâm đến vấn đề
này. Chẳng hạn, đa số các mô hình tiền tệ với giá thả nổi ủng hộ học thuyết
ngang giá sức mua và do đó, ERPT là toàn phần.
Học thuyết ngang giá sức mua (Quy luật một giá) - cơ sở luận của
ERPT, cho rằng sự trung chuyển tác động của tỉ giá sang giá trong nước phải

là toàn phần (độ co giãn phải bằng 100%) và hoàn toàn không có một cơ hội
nào cho kinh doanh chênh lệch giá trong dài hạn. Vì vậy, nghiên cứu ERPT
đồng nghĩa với nghiên cứu PPP. Quy luật một giá giữa một quốc gia với
phần còn lại của thế giới có thể minh họa như sau:
P = P* x E
Trong đó, P - giá trong nước, P* - giá ngoài nước, E - tỉ giá được đo
bằng số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ (tỉ giá trực tiếp). Dựa vào giả
thiết này là một trong những mô hình kinh tế vĩ mô Obstfeld & Rogoff
(1995, 1998, 2000), trong đó, giá trong nước được cố định theo đồng tiền của
nước nhà sản xuất, do đó, giá tiêu dùng thay đổi theo quan hệ 1 - 1 với tỉ giá.
Nhưng ngay cả trong khuôn khổ mô hình cung cầu giản đơn, trong đó,
quy luật một giá được tuân thủ thì vẫn có những khác biệt về hiệu ứng trung
chuyển tác động của tỉ giá đối với giá trong nước (ERPT) giữa các nước.
Trong một nền kinh tế lớn, hiệu ứng lạm phát do sự giảm tỉ giá nội tệ được
- 13 -
kết hợp với sự giảm giá toàn cầu (do cầu thế giới giảm), từ đó làm giảm
ERPT. Trong một nền kinh tế nhỏ, một sự giảm tỉ giá nội tệ không ảnh
hưởng đến giá thế giới, do đó, ERPT phải là toàn phần (100%) trong mô
hình này. Do đó, ngay cả trong khuôn khổ mô hình đơn giản này (mô hình
ủng hộ quy luật một giá), ERPT không đồng nhất ở các quốc gia và sẽ cao
hơn ở các nền kinh tế nhỏ so với các nền kinh tế lớn.
Mô hình lí thuyết của PPP dựa trên nhiều giả thiết mà trong thế giới
thực rất khó xẩy ra, chẳng hạn, giả thiết về cạnh tranh hoàn hảo và chi phí vận
chuyển bằng 0. Các kiểm định thực nghiệm chứng minh rằng ERPT trong
nhiều trường hợp, không đạt mức toàn phần (# 1 hoặc 100%). Isards (1977)
là một trong những người đầu tiên nghi ngờ khả năng kinh doanh chênh lệch
giá trên phạm vi toàn cầu có thể giảm chênh lệch giá cả giữa các quốc gia đến
mức chi phí vận chuyển.
Có nhiều lí thuyết giải thích tại sao ERPT không đạt mức toàn phần.
Mô hình của Obstfeld & Rogoff (2000) cho rằng sự tồn tại chi phí vận

chuyển làm tăng giá trị hàng hóa nhập khẩu và phân đoạn thị trường. Ngay cả
khi hàng hóa nhập khẩu là hoàn toàn có thể thay thế hàng hóa sản xuất ở
trong nước, thì chúng cũng không thể được tiêu thụ với khối lượng lớn (tỉ lệ
nhập khẩu nhỏ), bởi vì giá của chúng tương đối cao. Trong trường hợp này,
sự thay đổi tỉ giá tác động yếu đến sự biến động của chỉ số CPI.
Một phương pháp tiếp cận tương tự (McCallun & Nelson (1999) cho
rằng bản thân hàng hóa chỉ chiếm một tỉ lệ không lớn so với phần cá nhân tiêu
thụ. Người tiêu dùng cũng sẵn sàng thanh toán các dịch cụ marketing, các
dịch vụ phân phối và dịch vụ bán lẻ mà thông qua các kênh này, hàng hóa đến
tay người tiêu dùng. Có thể, các khoản chi phí này chiếm tỉ trọng khá lớn
trong giá trị của hàng hóa. Khi đó, những thay đổi của tỉ giá sẽ không tác
động lớn đến giá trị hàng hóa tiêu dùng cuối cùng, bởi vì chúng chỉ tác động
đến một phần không lớn giá trị của hàng hóa. Burstein, Neves & Rebelo
(2002) và Burstein, Eichenbaum & Rebelo (2002) cho rằng vai trò của hàng
hóa và dịch vụ trung gian nội địa trong khu vực phân phối là khá quan trọng
về mặt lượng, nhưng không thể giải thích đầy đủ những khác biệt của ERPT.
Mức ERPT thấp có thể không phải là kết quả của sự cố định tương đối
giá cả, mà là chính sách phân biệt hóa về giá tối ưu.
Thay thế và bổ sung cho phương pháp tiếp cận nêu trên là mô hình
Bachetta & Wincoop (2002). Trong mô hình của mình, các tác giả bỏ qua chi
phí phân phối và tập trung vào chiến lược định giá tối ưu của công ty. Luận
- 14 -
cứ của mô hình là ở chỗ, đồng tiền được chọn để định giá phụ thuộc vào mức
độ cạnh tranh hàng nhập khẩu với hàng hóa sản xuất trong nước. Nếu mức độ
cạnh tranh là cao thì các công ty nhập khẩu sẽ định giá bằng nội tệ, do đó,
ERPT bằng 0. Ngay cả khi công ty đối mặt với vấn đề rủi ro tỉ giá, nó cũng
không muốn thay đổi giá cả hàng tiêu dùng cuối cùng để bảo vệ thị phần. Như
vậy, mức độ cạnh tranh giữa nhà nhập khẩu và nhà sản xuất trong nước càng
lớn thì ERPT trong ngành càng nhỏ.
Một phương pháp tiếp cận khác cho rằng hàng hóa nhập khẩu là hàng

hóa trung gian và tồn tại sản phẩm thay thế được sản xuất trong nước. Các
nhà sản xuất trong nước sử dụng hàng hóa nhập khẩu trung gian để sản xuất
hàng hóa tiêu dùng cuối cùng. Giá cả hàng hóa tiêu dùng cuối cùng có thể
được ấn định bằng nội tệ, còn hàng hóa nhập khẩu trung gian có thể được ấn
định bằng đồng tiền nhà xuất khẩu. Do đó, nhà nhập khẩu có thể thay thế
hàng nhập khẩu bằng hàng hóa sản xuất trong nước nếu như tỉ giá thay đổi
theo hướng bất lợi. Obstfeld (2001) khẳng định trong một nền kinh tế như
vậy, có thể tồn tại “hiệu ứng chuyển đổi chi tiêu” đáng kể (expenditure-
switching effect), theo đó, không phải người tiêu dùng thay thế hàng nhập
khẩu bằng hàng sản xuất trong nước mà là nhà sản xuất trong nước. Mặt khác,
Devereux, Engel & Tille (1999) lưu ý rằng khả năng thay thế hàng nhập
khẩu bằng hàng hóa sản xuất trong nước của các nhà phân phối hàng hóa
nhập khẩu được định giá bằng ngoại tệ là nhỏ. Do vậy, mức độ thay thế hàng
hóa xác định độ lớn “hiệu ứng chuyển đổi chi tiêu” và ERPT.
3/ Nguyên nhân của những khác biệt về ERPT:
Nhiều kiểm định thực nghiệm cho thấy rằng ERPT có sự khác biệt tùy
thuộc vào mỗi nước và thời gian, cũng như giữa giá cả ở các mắt xích của dây
chuyền sản xuất (giá nhập khẩu, giá nhà sản xuất và giá tiêu dùng) và giá cả
của các ngành trong phạm vi một quốc gia.
Trên phạm vi ngành, ERPT phụ thuộc vào chiến lược định giá của
công ty, đến lượt nó, chiến lược định giá lại phụ thuộc vào cơ cấu ngành.
Nhiều nghiên cứu gần đây tập trung vào nghiên cứu chiến lược định giá và
thay đổi mức lợi nhuận của công ty (hiệu số giữa giá bán và giá thành sản
phẩm) nhằm đối phó với sự thay đổi của tỉ giá.
Cơ sở lí luận của đa số các nghiên cứu này là công trình nghiên cứu của
Donbursch (1987), trong đó, những khác biệt về ERPT được lí giải thông
qua các mô hình lí thuyết tổ chức công nghiệp, mà cụ thể là, mức độ tập trung
hóa của thị trường, mức độ thâm nhập của hàng hóa nhập khẩu và tính thay
- 15 -
thế giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa sản xuất trong nước. Donbursch cho

rằng các ngành có tính cạnh tranh càng cao (lợi nhuận biên nhỏ) và tỉ trọng
hàng nhập khẩu trong tổng doanh thu bán hàng càng lớn thì ERPT càng lớn.
Nếu thị trường cạnh tranh không hoàn hảo và được phân đoạn, phản
ứng của các công ty đối với biến động của tỉ giá có thể khác nhau. Ví dụ, nếu
công ty có quyền lực thị trường, và họ kì vọng tối đa hóa lợi nhuận của mình,
ERPT sẽ phụ thuộc nhiều vào các nhân tố khác (Phillips, 1998). Ngược lại,
nếu công ty hướng đến mục tiêu tối đa hóa thị phần của mình, ERPT sẽ nhỏ
hơn (Hooper & Mann, 1989; Ohno, 1990). Hơn nữa, nếu tồn tại khả năng
phân biệt hóa giá cả giữa các thị trường, có thể phát sinh tình huống “định
giá theo thị trường”, dẫn đến việc hình thành ERPT khác nhau trên các phân
đoạn thị trường khác nhau (Krugman, 1986; Gagnon & Knetter, 1992). Cuối
cùng, chiến lược định giá của công ty phụ thuộc vào kì vọng biến động tương
đối của tỉ giá trong tương lai và khung thời gian dự báo (Froot & Klemperer,
1988; Ohno, 1990).
Trên cơ sở các nguyên tắc này, Feinberg (1986, 1989) kết luận, ERPT
đến giá của nhà sản xuất trong nước sẽ mạnh hơn ở các ngành có mức độ tập
trung nhỏ hơn và ở các ngành, nơi có tỉ trọng nhập khẩu cao hơn. Yang
(1997) cho rằng, ERPT có mối tương quan cùng chiều với mức độ phân biệt
hóa sản phẩm (nghĩa là có mối tương quan nghịch với khả năng thay thế của
hàng hóa) và có mối tương quan nghịch với độ co giản của chi phí biên theo
sản lượng.
Menon (1996) đã đánh giá ERPT đến giá cả một số nhóm hàng hóa
riêng biệt và phát hiện rằng, ERPT tỉ lệ nghịch với các hạn chế định lượng
(quota) đối với nhập khẩu, kiểm soát của nước ngoài (sự hiện diện của tập
đoàn đa quốc gia), mức độ tập trung hóa sản xuất, mức độ phân biệt hóa sản
phẩm và tỉ lệ nhập khẩu trong tổng doanh thu bán hàng và tỉ lệ thuận với độ
co dãn thay thế giữa hàng nhập khẩu và hàng trong nước. Một phần kết luận
của Menon có sự đối lập với kết luận của Yang và một số tác giả khác.
Trên phạm vi quốc gia, ERPT phụ thuộc vào ba nhân tố chính: độ co
dãn tương đối của cầu và cung, môi trường kinh tế vi mô và các điều kiện

kinh tế vĩ mô (Phillips, 1988).
Thứ nhất, trong điều kiện không phát sinh các cơn sốc khác, độ co dãn
của cầu và cung theo giá là các nhân tố quyết định độ lớn của ERPT. Đối với
hàng hóa xuất khẩu, mức độ của ERPT sẽ càng lớn nếu độ co dãn của cầu
càng lớn và độ co dãn của cung càng thấp. Đối với hàng hóa nhập khẩu thì
- 16 -
ngược lại, ERPT sẽ càng lớn nếu độ co dãn của cầu càng nhỏ và độ co dãn
của cung càng lớn (Spitaller, 1980). Do đó, ERPT phải là toàn phần (bằng 1)
trong một nền kinh tế nhỏ, bởi vì cầu đối với xuất khẩu là co dãn tuyệt đối và
cung nhập khẩu là co dãn tuyệt đối do quốc gia đó không có khả năng tác
động đến thị trường thế giới.
Thứ hai, nếu như xem xét các mô hình kinh tế vi mô của lí thuyết tổ
chức công nghiệp thì có thể kết luận rằng tỉ trọng nhập khẩu càng lớn thì
ERPT đến giá trong nước càng mạnh. Cũng vậy, các công trình nghiên cứu
gần đây về giả thiết định giá theo thị trường (“pricing-to-market hypothesis”)
của Krugman (1987) và Marston (1990) cho thấy tác động của việc định giá
đến ERPT. Knettter (1993) kết luận rằng ngành nghề, chứ không phải quốc
tịch của công ty mới có ảnh hưởng nhiều hơn đến hành vi định giá của công
ty. Như vậy, những khác biệt về ERPT giữa các quốc gia có thể là do những
khác biệt về cơ cấu các ngành ở các quốc gia đó. Nếu như công ty ít quan tâm
đến chiến lược định giá trên các thị trường nhỏ, hiệu ứng “pricing-to-market”
sẽ yếu và do đó, ERPT sẽ mạnh hơn trong các nền kinh tế nhỏ.
Thứ ba, Mann (1986) trong công trình nghiên cứu của mình, đã khảo
sát một số biến kinh tế vĩ mô có thể ảnh hưởng đến độ lớn của ERPT. Ông
cho rằng, tỉ giá thường xuyên biến động có thể làm giảm ERPT bởi vì, các
nhà nhập khẩu có thể thiên về điều chỉnh tỉ suất lợi nhuận hơn là giá cả. Wei
& Parsley (1995) và Engel & Rogers (1998) đã cung cấp những bằng chứng
thực nghiệm để khẳng định giả thiết này ở phạm vi ngành và sản phẩm. Do
đó, ERPT phải thấp hơn ở các nước có tỉ giá biến động thường xuyên hơn.
Tuy nhiên, nếu như công ty kì vọng rằng sự thay đổi của tỉ giá có tính

chất lâu dài, chứ không phải mang tính tạm thời thì nhiều khả năng, công ty
sẽ thay đổi giá cả hàng hóa, chứ không phải tỉ suất lợi nhuận, nên dẫn đến
việc ERPT sẽ cao hơn. Vì vậy, ERPT phải cao hơn ở các nước, nơi mà
những thay đổi của tỉ giá thường kéo dài hơn (tỉ giá ổn định hơn).
Một biến kinh tế vĩ mô khác có ảnh hưởng đến độ lớn của ERPT - đó là
tính ổn định của tổng cầu (Mann, 1986). Nhưng thay đổi của tổng cầu cùng
với dao động của tỉ giá có ảnh hưởng đến tỉ suất lợi nhuận của nhà nhập khẩu
trên thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, đồng thời làm giảm ERPT. Vì vậy,
ERPT phải thấp hơn ở các quốc gia có tổng cầu biến động nhiều hơn.
Đồng tiền định giá hàng hóa cũng ảnh hưởng đến ERPT. Lí do lựa chọn
đồng tiền định giá, được nghiên cứu ở nhiều công trình khoa học (Bachetta &
Van Wincoop, 2001; Devereux & Engel, 2001; Giovannini, 1998) được
- 17 -
cho là tính ổn định của nội tệ. Một nước với đồng tiền quốc gia kém ổn định
có tỉ lệ nhập khẩu khá lớn được định giá bằng ngoại tệ thì việc yết giá bằng
ngoại tệ cũng sẽ có lợi hơn đối với các công ty chỉ kinh doanh trên thị trường
nội địa. Trong tình huống này, tỉ giá có những tác động không chỉ đối với giá
hàng hóa nhập khẩu, mà còn đối với giá hàng hóa phi ngoại thương (non-
tradables), và ERPT sẽ toàn phần (Tsesliuk, 2002).
Một nhân tố khác giải thích những khác biệt về ERPT giữa các quốc
gia có thể là những khác biệt trong mức lạm phát. Taylor (2000) khẳng định
môi trường lạm phát ở trong nước càng thấp và ổn định thì ERPT cũng càng
nhỏ. Giả thiết của Taylor về mối quan hệ giữa lạm phát và ERPT đã được
kiểm định trong bài viết “Exchange Rate Pass-Through To Domestic Prices:
Does The Inflationary Environment Matter?” của Ehsan U. Choudhri và
Dalia S. Hakura vào năm 2001.
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho thấy ERPT giảm dần khi tình hình
kinh tế vĩ mô ổn định hơn, cạnh tranh tăng lên và hành vi của các công ty
hướng đến việc tối đa hóa thị phần của mình. Theo kết luận của Dubravko &
Marc (2002), ERPT đã giảm từ giữa những năm 90 ở các nước đang phát

triển, có thể là do các điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định hơn và kết quả của các
cuộc cải cách cơ cấu được thực hiện trong thời gian gần đây.
II. Những kết quả nghiên cứu định lượng ERPT của một số quốc gia trên
thế giới:
Phần này tác giả tìm hiểu và phân tích các nghiên cứu trước đây và giới thiệu
một số kết quả định lượng ERPT của các quốc gia phát triển và đang phát triển.
4/ Các nước phát triển:
Các phản ứng của giá nhập khẩu cho thấy sự trung chuyển những dao
động của tỉ giá đến giá nhập khẩu tại hầu hết các nước trong mẫu nghiên cứu
là đáng kể, nhưng không đạt mức toàn phần; tuy vậy, sự trung chuyển tác
động của tỉ giá đến chỉ số PPI và CPI là khá khiêm tốn ở hầu hết các nước
nghiên cứu; tỉ trọng nhập khẩu cao, tỉ giá ổn định, ít biến động, GDP it biến
động và năng lực cạnh tranh kém hơn gắn với hiệu ứng trung chuyển tác động
của tỉ giá (ERPT) đến lạm phát trong nước cao hơn, cho dù mối tương quan
này tồn tại trong thời gian ngắn đối với chỉ số CPI.
5/ Các nước đang phát triển
Kết luận của các tác giả đối với các nước đang phát triển thuộc mẫu
nghiên cứu chỉ khẳng định một phần giả thiết này. Mối quan hệ giữa lạm phát
- 18 -
quán tính (inflation persistence) được đo lường bởi độ co dãn của lạm phát
quá khứ (theo trục hoành) và độ co dãn của tỉ giá (hệ số ERPT) là nghịch
chiều một cách rõ ràng và được minh họa trên biểu đồ 5. Mức quán tính của
lạm phát ở các thị trường mới nổi càng thấp thì hệ số ERPT càng cao. Các tác
giả không đưa ra luận cứ giải thích trực giác về mối tương quan này, nhưng
cho rằng nó khá mạnh về mặt thống kê. Trong khi đó, độ biến động của lạm
phát (được đo bằng độ lệch chuẩn của lạm phát bình quân quý) lại có mối
tương quan thuận với độ co dãn của tỉ giá (hệ số ERPT)
6/ ERPT của Việt Nam
Cho đến nay, nghiên cứu định lượng về ERPT đến giá cả, lạm phát ở
Việt Nam không nhiều.

Bài viết nghiên cứu lượng hóa ERPT, đánh giá tác động của tỉ giá đối
với lạm phát, từ đó, có những khuyến nghị chính sách thích hợp. Lưu ý rằng,
tác giả định nghĩa ERPT theo nghĩa hẹp, theo đó, ERPT là phần trăm thay đổi
giá nhập khẩu khi tỉ giá tiền tệ giữa nước nhập khẩu và nước xuất khẩu thay
đổi 1%. ERPT được gọi là toàn phần khi những thay đổi của tỉ giá được trung
chuyển toàn bộ sang giá nhập khẩu; trong khi đó, ERPT được gọi là không
toàn phần khi toàn bộ những thay đổi của tỉ giá không được trung chuyển
sang giá nhập khẩu. Tác giả sử dụng phương pháp tiếp cận VAR để nghiên
cứu ERPT (Đây cũng là phương pháp mà McCarthy đã sử dụng trong nghiên
cứu ERPT của các nước phát triển). Dữ liệu tháng được sử dụng trong giai
đoạn từ tháng 1 năm 2001 đến tháng 2 năm 2007 với 73 quan sát. Tỉ giá hiệu
lực danh nghĩa (NEER) được sử dụng vì nó phản ảnh tốt hơn tỉ giá giữa đồng
tiền Việt Nam với đồng tiền các đối tác thương mại, được tính bằng số đơn vị
nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ. Do đó, một sự gia tăng của NEER có nghĩa là
VND giảm giá và ngược lại.
Độ co dãn của giá nhập khẩu trong năm thứ nhất bình quân bằng 0,61;
nghĩa là 61% thay đổi của tỉ giá được trung chuyển sang giá nhập khẩu. Đặc
biệt, các giai đoạn từ 5 đến 7 cho thấy sự trung chuyển còn hơn cả toàn phần.
Điều này là hợp lí, bởi vì phần lớn các hợp đồng nhập khẩu dựa trên cơ sở
giao hàng trong tương lai. Khi nhà xuất khẩu và nhập khẩu phát hiện cơn sốc
tỉ giá vào thời điểm kí hợp đồng, họ sẽ đưa những thay đổi này vào hợp đồng
được giao hàng trong các tháng sau. Tác động của tỉ giá đến giá nhập khẩu
được loại bỏ hoàn toàn vào tháng thứ 15 sau các cơn sốc tỉ giá. Trong 15
tháng này, độ co giãn giá nhập khẩu dao động trong khoảng 0.07 và 1.32, hay
bình quân là 0.61.
- 19 -
So với độ co dãn giá nhập khẩu, ERPT là nhỏ và chậm hơn. Một cơn
sốc dương của tỉ giá dẫn đến một cơn sốc dương của CPI từ giai đoạn thứ 5
đến giai đoạn thứ 15. Phản ứng cao nhất của CPI nằm ở giai đoạn thứ 10 và
11 sau cơn sốc tỉ giá và chỉ số CPI tăng 0.21% khi nội tệ giảm giá 1%. Mặc

dù vậy, ERPT bình quân trong năm thứ nhất là 0.08, thấp hơn kết quả đo
lường của IMF năm 2003 là 0.25 trong năm thứ nhất. Có một số nguyên nhân
giải thích cho những thay đổi này. Thứ nhất, chỉ số CPI bình quân trong giai
đoạn 1995 – 2003 được sử dụng trong nghiên cứu của IMF là 5.9%, cao hơn
mức 4.9% trong giai đoạn 2001 – 2007. Giả thiết Taylor (2000) cho rằng môi
trường lạm phát thấp hơn, nhìn chung, sẽ làm giảm ERPT. Do đó, lạm phát
thấp hơn ở giai đoạn 2001- 2007 so với giai đoạn 1995-2003 có thể giai thích
hiện tượng này. Thứ hai, tình trạng đô la hóa thấp hơn trong giai đoạn 2001-
2007 có thể là nhân tố khác giải thích sự sụt giảm ERPT. Thứ ba, việc tự do
hóa lãi suất từ năm 2000 có thể làm giảm ERPT.
Trong nghiên cứu của Tran Mai Anh và Nguyen Dinh Minh Anh, bằng
công cụ VAR, cho kết quả ERPT bình quân đến giá nhập khẩu và giá tiêu
dùng lần lượt là 0.13 và 0.065 trong 6 tháng đầu.
Như vậy, cả hai kết quả định lượng ERPT trên đều thấp một cách bất
thường so với các kết quả nghiên cứu ERPT tại các nền kinh tế phát triển và
mới nổi. Trong khi đó, về mặt lí thuyết và thực tiễn, Việt Nam có đủ các nhân
tố để có một mức ERPT cao hơn: lạm phát, tỉ lệ nhập khẩu/GDP cao; đồng
nội tệ kém ổn định; năng lực cạnh tranh nền kinh tế kém; mức độ đô la hóa
nền kinh tế còn cao.
Vì vậy có thể thấy kết luận chung của tác giả: mức thay đổi giá trong
nước tính bằng đồng tiền của nước nhập khẩu, chủ yếu là hàng nhập khẩu sẽ
bị ảnh hưởng bởi tỉ giá tiền tệ giữa các đối tác thương mại thay đổi.
C. Biện luận các quan điểm nghiên cứu:
Qua việc tìm hiểu các bài nghiên cứu trên, một nhận xét chung mà các tác giả
đều nhận định là: mối quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát là mối quan hệ nguyên
nhân - kết quả, tỷ giá là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát, tỷ giá
tăng sẽ làm tăng chỉ số lạm phát và tác động này là tác động gián tiếp.
Thật vậy, chỉ số lạm phát được xác định từ chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Chỉ số
giá tiêu dùng được xác định thông qua giá cả các hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
phổ biến của người dân. Đối với nước ta là 1 nước nhập siêu, một trong những

mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là các nguyên liệu đầu vào, như: phân bón, thức ăn
- 20 -
gia súc, thuốc trừ sâu, hay đối với ngành dệt may cũng là một ngành khá phát
triển ở nước ta cũng phải nhập nguyên liệu bông, sợi từ nước khác… và hàng
hóa tiêu dùng có mẫu mã đa dạng và chất lượng hơn. Như vậy giá trị hàng nhập
khẩu là 1 bộ phận cấu thành giá trị của CPI. Khi xét các yếu tố khác không thay
đổi, nếu tỷ giá tăng (đồng nội tệ mất giá so với đồng ngoại tệ) sẽ có các yếu tố
thay đổi kéo theo: giá trị hàng nhập khẩu cũng tăng theo, dẫn đến sự gia tăng giá
cả tiêu dùng trong nước từ đó làm chỉ số lạm phát tăng; hoặc nhìn chung làm
cho lãi suất đồng ngoại tệ trong nước tăng hơn các quốc gia khác, dẫn đến nhiều
nguồn vốn ngoại tệ chảy vào, từ đây nếu Ngân hàng trung ương mua ngoại tệ
thừa này để đảm bảo tỷ giá không thay đổi làm cho cung tiền tăng dẫn đến lạm
phát tăng, và nếu Ngân hàng trung ương không mua ngoại tệ và quốc gia đang bị
đô la hóa cao thì cũng dẫn đến lạm phát cao; hay xuất khẩu ròng tăng nên nhu
cầu hàng hóa đó tăng, giá trong nước sẽ tăng làm lạm phát tăng.
Trong trường hợp, lạm phát tăng không vì nguyên nhân tỷ giá thì đến lượt
lạm phát sẽ làm ảnh hưởng tỷ giá thông qua sức mua đồng nội tệ. Khi lạm phát
tăng sức mua đồng nội tệ giảm so với ngoại tệ, làm cho tỷ giá hối đoái tăng và
khi lạm phát giảm, sức mua đồng nội tệ tăng so với ngoại tệ, làm cho tỷ giá hối
đoái có xu hướng tăng.
Một kết luận nữa của các bài nghiên cứu trên là khi phá giá đồng nội tệ 1%
(tăng tỷ giá 1%) thì lạm phát cũng thay đổi nhưng tỷ lệ thay đổi của lạm phát có
tương ứng với 1% hay nhỏ hơn 1% bao nhiêu thì còn cần có thời gian để các nhà
kinh tế học nghiên cứu và xác định.
Tuy nhiên, việc giảm tỷ giá có làm giảm lạm phát thì chưa có kết quả chắc
chắn. Theo bài nghiên cứu “Tác động của tỷ giá tới lạm phát” của tác giả Phí
Đăng Minh, đăng trên trang web của Ngân hàng nhà nước, có viện dẫn kinh
nghiệm của 02 nước Mêhicô và Nhật Bản:
Mêhicô:
Đầu những năm 90, chính phủ rất coi trọng chính sách kiềm chế lạm phát,

khi xây dựng các các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, tỷ lệ lạm phát luôn được để ở mức
thấp. Tuy nhiên, trong khi thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, chính phủ
không chú ý hạn chế việc tăng lương. Do nhiều nguyên nhân, trong đó có việc
tăng lương mạnh, làm cho lạm phát cao lên trên mức dự báo.
Chính phủ đặt nhiều kỳ vọng vào chính sách tỷ giá để thực hiện mục tiêu
kiềm chế lạm phát, chính phủ đã cho đồng Peso tăng giá tới 40%. Trong khi
tăng tỷ giá đồng peso, khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hóa giảm xút, cán
- 21 -
cân thanh toán xấu đi, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế. Năm 1993 kinh tế
Mêhicô bắt đầu đình trệ, dòng vốn tư bản từ nước ngoài liên tục tháo chạy.
Đến tháng 12 năm 1994, Mêhicô buộc phải công bố đồng Peso phá giá
15,3%. Tuy nhiên do việc điều chỉnh tỷ giá quá chậm, biên độ phá giá không
lớn, cho nên tác dụng của việc phá giá rất hạn chế, dòng vốn nước ngoài tháo
chạy ồ ạt. Trong những ngày cuối năm 1994, đồng Peso phá giá thêm 40%. Chỉ
số giá cả tiêu dùng tăng vọt, năm 1994 chỉ số CPI là 7%, đến năm 1995 tăng lên
35%. Từ năm 1994 đến năm 1996, tính theo số lũy kế, về mặt danh nghĩa đồng
Peso mất giá tới 150%. Cuối cùng điều tồi tệ nhất đã tới, Mêhicô rơi vào cuộc
khủng hoảng tiền tệ.
Nhật bản:
Từ thập kỷ 90 đến nay, Nhật bản là nước có nền kinh tế phát triển mạnh, dự
trữ ngoại hối hùng hậu, cán cân thương mại luôn thặng dư. Tuy nhiên, sau khi
ký kết đồng thuận với Mỹ, đồng Yên nhật buộc phải điều chỉnh lên giá tới 10%.
Chỉ trong vòng 5 năm, Nhật bản bị rơi vào tình trạng giảm phát. Tình trạng giảm
phát kéo dài, làm cho nền kinh tế sa lầy, chính sách tiền tệ, tỷ giá mất tác dụng.
Đặc biệt từ năm 2008 đến nay, chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ và
suy thoái kinh tế quốc tế, Nhật bản càng gặp nhiều khó khăn. Năm 2009 GDP
của Nhật bản giảm tới trên 5%, chính phủ đã phải sử dụng gói kích thích kinh tế
trị giá tới trên 275 tỷ USD để đối phó với khủng hoảng, song kết quả mang lại
rất hạn chế, tình trạng giảm phát không được cải thiện.
Cho thấy việc tỷ giá giảm có làm giảm lạm phát được hay không còn cần

phải có thời gian để nghiên cứu. Vì ở mỗi quốc gia, chính sách tiền tệ khác nhau
nên ảnh hưởng của tỷ giá đến làm phát có thể khác nhau. Khi chỉ xét 02 yếu tố
tỷ giá và lạm phát thay đổi, những yếu tố khác không đổi thì tỷ giá có ảnh hưởng
đến lạm phát và ngược lại, nhưng trong thực tiễn ngoài tỷ giá và lạm phát còn
nhiều yếu tố khác cũng thay đổi liên tục theo nhiều hướng khác nhau và riêng
bản thân yếu tố lạm phát còn bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong
trường hợp đó, tỷ giá không phải là nguyên nhân gây nên lạm phát thì có làm
giảm tỷ giá cũng không làm giảm lạm phát.
KẾT LUẬN:
Tóm lại, tỷ giá tăng chắc chắn sẽ làm tăng lạm phát, nhưng tỷ giá giảm thì
cần có thời gian nghiên cứu thêm để xác định lạm phát trong trường hợp của
mỗi quốc gia. Và khi lạm phát tăng sẽ chắc chắn làm tăng tỷ giá, lạm phát giảm
sẽ làm giảm tỷ giá./.
- 22 -

×