MỤC LỤC
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU LAO ĐỘNG
1.1 Khái niệm và đặc trưng sư di chuyển quốc tế về lao động
1.1.1Khái niệm về sự di chuyển quốc tế về lao động
Muốn hiểu được khái niệm “ di chuyển quốc tế về lao động” thì trước hết cần phải
hiểu sức lao động là gì? Theo Karl Marx: Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ
năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống và được
người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
Vậy khái niệm sự di chuyển quốc tế về lao động là hiện tượng trong đó người lao
động ở quốc gia này di chuyển sang một quốc gia khác có kèm theo việc thay đổi chỗ ở
tạm thời hoặc vĩnh viễn nhằm thực hiện các mục đích khác nhau ở nước ngoài. Thực tế
cho thấy, sức lao động không thể tách rời người lao động, vì thế có thể gọi di chuyển sức
lao động là di chuyển lao động.
Nếu việc di chuyển sức lao động chỉ diễn ra trong phạm vi một nước, thì đó là di cư
nội địa. Còn nếu việc di chuyển sức lao động vượt ra khỏi phạm vi một nước hoặc mang
tính chất liên quốc gia thì được gọi là di cư lao động quốc tế.
Một công dân nào đó khi ra khỏi một nước, thì người đó được gọi là người xuất cư,
còn sức lao động của anh ta được gọi là sức lao động xuất khẩu. Sức lao động này có thể
trở thành lao động hay không còn tùy thuộc vào một số điều kiện khác.
Việc người lao động của một quốc gia ra hẳn nước ngoài và bán sức lao động cho
các ông chủ ( tư nhân hoặc Nhà nước) được gọi là xuất khẩu trực tiếp sức lao động. Còn
nếu người lao động bán sức lao động của mình cho các doanh nghiệp, tổ chức ở trong
nước có chủ là người nước ngoài hoặc có người nước ngoài tham gia thì được gọi là xuất
khẩu tại chỗ sức lao động.
Trong phạm vi một nước, khi người lao động ở nước ngoài vào, thì người đó được
gọi là người nhập cư và sức lao động của anh ta được gọi là sức lao động nhập khẩu. Nếu
người xuất cư này trở về quốc gia của mình, được gọi là tái nhập cư. Đại lượng tuyệt đối
về tông số người nhập cư và xuất cư được gọi là khối lượng di cư sức lao động, còn hiệu số
giữa số lượng người nhập cư và xuất cư được gọi là mức chênh lệch di cư.
1.1.2 Các đặc trưng của sự di chuyển quốc tế về lao động
Thứ nhất, đa số lao động di chuyển từ các nước đang phát triển không có nghề
nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp.
Lao động di chuyển từ các nước đang phát triển chủ yếu là lao động phổ thông. Do
1
không có chuyên môn nghề nghiệp nên lao động thường tập trung vào những lĩnh vực như
xây dựng, khai mỏ, nông nghiệp và giúp việc gia đình
Tuy nhiên, những nước tiếp nhận nguồn lao động này từ các nước đang phát triển có
thời hạn không dài ( từ 3-5 năm) nhằm tránh các hậu quả xã hội của nhóm lao động di cư
không nghề hoặc bán chuyên nghiệp để lại.
Thứ hai, lao động di chuyển tăng nhanh thể hiện ở mức tăng liên kết thị trường lao
động.
Singapore phát triển kinh tế dựa vào chiến lược sử dụng lao động du cư thông qua cơ
chế quota và thu thuế. Từ những năm 1980, sự bùng nổ kinh tế của Malaysia và Thái Lan
dẫn tới việc thiếu hụt lao động ở các nước này. Do đó, Malaysia và Thái Lan đã thực hiện
chiến lược mở cửa đối với lao động di cư từ các nước khác trong khu vực. Asean đang tập
trung phát triển một thị trường chung đối với việc di chuyển tự do người lao động và xóa
bỏ yêu cầu visa từ lao động trong khu vực. Philippines là nước có số lao động di cư ra
nước ngoài nhiều nhất – đó là những chuyên gia và lao động có kỹ năng chuyên môn – di
cư tới các nước khác nhau trên thế giới.
Một số nhóm có chuyên môn, kỹ năng nhất định thì chỉ di cư tới một số nước. Ví dụ,
lao động giúp việc gia đình chủ yếu tập trung ở Hồng Kông và Ả rập, lao động trong lĩnh
vực nghệ thuật di cư tới Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Đông Nam Á khác. Các chuyên
gia công nghệ thông tin và y tá di cư tới Mỹ và Anh. Rõ ràng, sự chuyên môn hóa thị trường
lao động làm tăng mỗi liên kết giữa các thị trường lao động của các quốc gia trong khu vực.
Thứ ba, đa số lực lượng lao động di cư là nữ
Hai thập kỷ gần đây, di cư lao động nữ chiếm tỉ lệ ngày càng tăng. Theo báo cáo của
Action Aid, lực lượng di cư đang có xu hướng nữ hóa, 81% lao động di cư từ Indonesia
( năm 2004), 72% lao động di cư từ Philippines ( năm 2006) và 60% lao động di cư từ Việt
Nam ( năm 2006) là lao động nữ. Do sự phát triển của ngành nghề chế tạo và dịch vụ cũng
như nhu cầu giúp việc gia đình tăng đã dẫn đến nữ hóa dòng lao động di cư của các nước
đang phát triền. Di cư lao động nữ thường tập trung nhiều ở Philippines và Indonesia.
Thứ tư, di cư lao động có tính chất bất hợp pháp gia tăng.
Mạng lưới di cư bất hợp pháp ngày càng được lựa chọn do những kênh nhập cư bất
hợp pháp đang ngày càng bị thu hẹp. Các nước đang phát triển châu Á đều có số lượng lao
động di cư bất hợp pháp cao hơn người lao động đi cư hợp pháp.
Nguyên nhân di cư bất hợp pháp gia tăng là do chính sách quản lý di cư thiếu chặt
2
chẽ và mong muốn của các chủ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm và bóc lột lao động dễ
dàng. Di cư bất hợp pháp có thể thỏa mãn nhu cầu sử dụng lao động hiệu quả, song không
đảm bảo quyền lợi và điều kiện an toàn cho người lao động. Di cư bất hợp pháp từ các
nước đang phát triển thường tập trung tới các quốc gia có mức thu nhập cao hơn, môi
trường sống ưa thích hơn như Bắc Mỹ, Tây Âu, Pháp, Itali,
1.2 Nguyên nhân và động lực thúc đẩy sự di chuyển quốc tế về lao động
Việc di chuyển quốc tế về lao động với nhiều mục đích và lí do khác nhau, có thể vì
lí do kinh tế hoặc phi kinh tế. Nếu những đợt di cư quốc tế vào thế kỉ 19 và trước đó là do
muốn thoát khỏi áp bức tôn giáo hoặc chính trị ở Châu Âu, thì những đợt di chuyển lao
động quốc tế, đặc biệt từ sau khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai với động cơ chủ yếu
là mong muốn kiếm được tiền công và thu nhập cao hơn ở nước ngoài.
Việc quyết định di chuyển lao động ra nước ngoài vì lí do kinh tế có thể được lí giải
giống như bất kì quyết định đầu tư nào khác, bao gồm cả chi phí và lợi ích. Các khoản chi
phí bao gồm: chi phí đi lại và tiền công bị mất trong suốt quá trình tìm việc làm và nghiên
cứu việc làm ở quốc gia mới đến, ngoài ra còn có các chi phí khác: loại bỏ các mối quan hệ
cũ, cần phải làm quen với phong tục, tập quán mới, ngôn ngữ mới, và các rủi ro trong việc
tìm kiếm việc làm, nhà cửa và nhiều vấn đề khác ở một nơi hoàn toàn mới và xa lạ. Xu
hướng tất yếu là các chi phí này sẽ giảm nhiều vì trong thực tế, các cuộc di cư thường diễn
ra từng đợt và có tính chất dây chuyền với nhiều người di cư đến những nơi đã có những
người di cư cùng quê hương đã đến trước đó
Các lợi ích từ việc di chuyển sức lao động quốc tế có thể tính bằng mức tiền công và
thu nhập thực tế cao hơn, do người di cư kiếm được ở nước ngoài trong suốt thời gian họ
sinh sống và làm việc. Số tiền này chắc chắn nhiều hơn số tiền mà họ có thể kiếm được
trong nước. Họ có thể đạt được những kết quả khác nhờ di chuyển sức lao động ra nước
ngoài. Đó là cơ hội và điều kiện tốt hơn trong học tập văn hóa và học nghề, con cái họ có
điều kiện thuận lợi để kiếm việc làm tốt hơn trong nước và do đố những lợi ích thu được
luôn vượt quá chi phí cho việc di chuyển sức lao động. Đây là một trong những động lực
quyết định thúc đẩy di cư phát triển.
1.3 Các tác động của di chuyển lao động quốc tế và xu hướng di chuyển
quốc tế về lao động trong thực tế
Di chuyển lao động quốc tế có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế, văn hóa
– xã hội của cả thế giới, đồng thời cũng có những tác động không chỉ tích cự mà còn cả
3
tiêu cực đối với nước có lao động di cư đi mà cả đối với những nước có lao động di chuyển
đến.
1.3.1 Đối với quốc gia có lao động di cư sang quốc gia khác ( nước xuất
khẩu lao động)
1.3.1.1 Tác động tích cực
Di cư lao động quốc tế có tác dụng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế: Tác động này được thể hiện trên hai phương diện.
Thứ nhất, sử dụng toàn bộ nguồn lực của quốc gia để làm tăng thêm thu nhập quốc
dân. Di cư lao động tạo cơ hội cho một bộ phận người lao động đang bị thất nghiệp hoặc
thiếu việc làm có cơ hội sản xuất hàng hóa và dịch vụ ở nước khác làm tăng thu nhập cho
bản thân người lao động và gia đình họ.
Thứ hai là nâng cao tiềm lực kinh tế thông qua khoản thu ngân sách từ người lao
động và các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Di chuyển lao động trên phạm vi quốc tế
làm giảm sự căng thẳng của quan hệ cung cầu về lao động ở thị trường trong nước, đưa
mặt bằng thu nhập của người lao động trong nước tiến gần đến thu nhập của người lao
động ở nước ngoài, từ đó làm tăng thu nhập cho bản thân người lao động và xã hội, góp
phần tăng sức mua, tăng cầu, mở rộng thị trường hàng hóa và tạo điều kiện cho sản xuất
hàng hóa và dịch vụ phát triển.
Góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Dưới tác động của các qui luật kinh tế và vai trò chủ động quản lí, điều tiết, định
hướng kinh tế vĩ mô của Nhà nước, xuất khẩu lao động có sức lan tỏa nhanh trong nền
kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và kinh tế theo ngành, theo vùng, theo
hướng mở.
Tạo việc làm, góp phần ổn định xã hội và an ninh quốc phòng
Phần lớn lao động được đưa ra nước ngoài là những người dân cư ở nông thôn đang
thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp. Việc tạo công ăn việc làm của những nguơif này ở nước
ngoài được coi là một giải pháp hữu hiệu vừa tăng thu nhập cho chính người lao động, lại
góp phần ổn định an ninh xã hội.
Góp phần phát triển nguồn nhân lực đất nước
Nhờ có di cư lao động mà các nhà nước phải quan tâm và có chính sách đào tạo lại
cho bộ phận lao động này góp phần từng bước làm tăng chất lượng nguồn nhân lực. Đại đa
số lao động đi làm việc ở nước ngoài đều có điều kiện nâng cao khả năng chuyên môn, tay
4
nghề, kỹ năng làm việc của họ Thông qua xuất khẩu lao động mà người lao động đến
làm việc tại các nhà máy xí nghiệp ở nước ngoài có công nghệ tiên tiến, tác phong công
nghiệp và kinh nghiệm quản lý hiện đại. Đồng thời, tạo cho họ có điều kiện tiếp xúc và
quen dần với thế giới bên ngoài cả về cách tư duy và tác phong công nghiệp. Vì vậy, sau
khi kết thúc thời gian làm việc ở nước ngoài thì trình độ tay nghề, tác phong, kỷ luật lao
động, trình độ ngoại ngữ và hiểu biết của người lao động được cải thiện đáng kể, tạo ra
một đội ngũ lao động có chất lượng cao, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của
quốc gia.
Thực tế cho thấy, một lượng lớn lao động trước khi đi xuất khẩu lao động là nông
dân, sau thời gian làm việc ở nước ngoài họ đã trở thành những người công nhân hiện đại
có tay nghề tốt, trình độ ngoại ngữ và tác phong công nghiệp đáp ứng được nhu cầu của
các nhà đầu tư nước ngoài.
Đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất kinh doanh.
Khi làm việc ở nước ngoài, người lao động được tiếp cận với những công nghệ tiên
tiến, với các tiến bộ khoa học và kỹ thuật mới, họ có thể học hỏi, bắt trước và khi về nước
sẽ mang các kiến thức, kinh nghiệm của mình áp dụng vào sản xuất kinh doanh tại quê
hương bản quán của họ. Đây chính là đội ngũ lao động có thể thực hiện việc chuyển giao
công nghệ nhanh nhất và hiệu quả nhất nhằm đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, cũng
như thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Di cư lao động ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế đối ngoại,
góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế thế giới và phân công lao động quốc tế, thúc
đẩy các quan hệ tín dụng, tài chính, quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, góp phần đẩy mạnh
xuất khẩu hàng hóa. Di cư lao động còn tạo điều kiện mở rộng việc giao lưu văn hóa và
tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.
1.3.1.2 Các tác động tiêu cực
Gây khan hiếm cục bộ về lao động trong nội địa
Ở một số nước tại một số thời điểm và ở một số nơi có thế có hiện tượng khan hiếm
lao động trong các lĩnh vực cần lao động giản đơn cũng như lao động đòi hỏi tay nghề cao,
nhất là ở những nước và khu vực có tốc độ phát triển kinh tế cao, phong trào xuất khẩu lao
động tăng mạnh nhưng lại thiếu kế hoạch để phát triển nguồn nhân lực. Mặt khác, hiện
tượng “ chảy máu chất xám’’ ra nước ngoài cũng gây khó khăn về việc tìm lao động phù
5
hợp đối với nước xuất khẩu lao động, chủ yếu là các nước đang phát triển trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn- xã hội
Khi người lao động ra nước ngoài làm việc, ngoài những kiến thức, tay nghề tiếp thu
từ nước ngoài, không ít người trong số họ còn tiếp nhận cả những thói hư, tật xấu của xã
hội mà họ đã từng sống và làm việc, nhất là những người lao động có trình độ thấp. Khi về
nước họ mang theo những thói hư tật xấu đó, do vậy mà những thói hư tật xấu này có tác
động tiêu cực đến đời sống xã hội tại quê hương bản quán của họ. Mặt khác, ngoại tệ mà
những người lao động này gửi về cho gia đình trong một số trường hợp không được những
người thân sử dụng hiệu quả, bị tiêu sài hoang phí như ăn chơi, cờ bạc, nghiện hút Làm
cho một số người trong gia đình của người lao động lười lao đọng, gây mất trật tự xã hội.
Mặt khác, khi người lao động ra nước ngoài làm việc, thiếu vắng trụ cột gia đình gây mất
tâm lý không tốt đến người thân ở quê nhà có thể dẫn đến những bi kịch gia đình như con
cái hư hỏng, vợ chồng ly dị, ốm đau bệnh tật
1.3.2 Đối với nước nhập khẩu lao động
1.3.2.1 Tác động tích cực
Giải quyết nhu cầu thiếu hụt lao động
Việc nhập khẩu lao động đã góp phần cải thiện tình hình khan hiếm lao động tại
nước tiếp nhận, làm tăng cung lao động, giảm căng thẳng về quan hệ cung cầu trên thị
trường lao động.
Đặc biệt là những công việc mà lao động bản xứ không muốn làm hoặc không quen
làm như công việc nặng nhọc, bẩn thỉu, độc hại, đơn điệu và những công việc có mức thu
nhập thấp hoặc công việc mà thị trường trong nước bị thiếu
Tiết kiệm các chi phí đầu tư ban đầu cho người lao động
Việc nhập khẩu lao động tiết kiệm cho nước nhập cư một khoản chi phí đầu tư ban
đầu đáng kể. Vì nếu không nhập khẩu lao động, thì nước tiếp nhận phải bỏ một khoản chi
phí để nuôi dưỡng và đào tạo cho các công dân nước mình cho đến khi họ đến tuổi lao
động. Trong khi đó, nước tiếp nhận hầu như không phải bỏ ra một khoản chi phí nào để
nuôi dạy những người lao động đến tuổi trưởng thành. Mặt khác, nhập khẩu lao động có
tay nghề còn tiết kiệm cho nước nhập cư một khoản chi phí đào tạo không nhỏ.
Góp phần phát triển kinh tế và tăng tích lũy cho xã hội
Lao động nhập cư khi tham gia quá trình sản xuất, tiêu dùng tại nước nhập khẩu lao
6
động sẽ góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của nước tiếp nhận lao động. Đồng thời,
thông qua các khoản đóng góp của mình như thuế thu nhập, phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế và các loại phí khác đã làm tăng thêm, thậm chí một phần đáng kể khoản tài sản tích
lũy cho nước tiếp nhận.
1.3.2.2 Tác động tiêu cực
Gây trì trệ trong việc áp dụng tiến bộ khoa học và đổi mới công nghệ
Chủ sử dụng lao động ở nước tiếp nhận lao động thường sử dụng lao động không
lành nghề nhằm làm giảm chi phí nên ít qua tâm đến việc áp dụng những tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào sản xuất cũng như đổi mới các trang thiết bị, công nghệ hiện đại, cản trở việc
phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường tại nước nhập cư
Một số ngành quá phụ thuộc vào lao động nhập cư
Một số ngành kinh tế như khai khoáng, xây dựng, sản xuất theo dây chuyền, chăm
sóc sức khỏe, khi sử dụng nhiều lao động nhập cư, sẽ lệ thuộc vào nguồn lao động nước
ngoài và ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững vào nền kinh tế. Vì lao động nhập cư
thường chỉ đến làm việc trong khoảng thời gian ngắn từ 3 đến 5 năm, nên luôn không ổn
định về số lượng và trình độ chuyên môn. Mặt khác, việc nhập khẩu lao động còn phụ
thuộc vào chính sách tái nhập cư của chính phủ và tình hình kinh tế chính trị, quan hệ kinh
tế đối ngoại giữa hai nước, chính điều đó đã làm cho chủ sử dụng lao động khó chủ động
trong việc hoạch định chính sách phát triển sản xuất kinh doanh của mình.
Tạo ra cộng đồng lao động nhập cư tại nước tiếp nhận lao động
Việc tiếp nhận một số lượng lớn lao động từ nước ngoài tạo ra cộng đồng nhập cư từ
các nước khác nhau. Những người lao động nhập cư này đến mang theo không chỉ những
điều tốt, mà cả những thói hư tật xấu trong lối sống, sinh hoạt làm ảnh hưởng đến an ninh
trật tự xã hội, gây mất đoàn kết cộng đồng, gây nên những phản ứng bài xích dân tộc có
thể làm xấu đi quan hệ hữu nghị giữ các nước. Các nước nhập cư đều có hệ thống pháp
luật tiếp nhận lao động nước ngoài theo hướng bảo vệ quyền lợi cho công dân nước mình,
làm cho người lao động nước ngoài không được hưởng các quyền lợi như công dân nước
sở tại. Mặt khác, do hạn chế về ngoại ngữ nên việc chấp hành pháp luật khó khăn, do chưa
hiểu nền văn hóa. Đây là các nguyên nhân dẫn đến người lao động nước ngoài trở nên tự ti,
sống khép kín, dễ vi phạm pháp luật hoặc không biết vận dụng kiến thức pháp luật để bao
vệ quyền lợi của chính mình.
1.4 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động quốc tế.
1.4.1 Giải quyết việc làm cho người lao động
Hiện nay trên thế giới, do sự phát triển không đồng đều về số lượng, chất lượng
7
nguồn nhân lực giữa các quốc gia, như các quốc gia phát triển lại có nguồn nhân lực chất
lượng cao, nhưng lại thiếu nguồn nhân lực làm những công việc có chuyên môn thấp, trong
khi ở các nước đang phát triển và các nước quốc tế thứ ba lại thừa một nguồn lực đáng kể
có trình độ tay nghề thấp, và thiếu những chuyên gia, những người làm việc có tay nghề
cao. Vì vậy, nạn thất nghiệp không chỉ diễn ra ở các nước kém và đang phát triển, mà còn
xảy ra ở các quốc gia có phát triển. Ví dụ, ở Việt Nam, theo số liệu của Tổng cục thống kê
tính đến tháng 6 năm 2013, tỉ lệ thất nghiệp chung của cả nước là 2,28%, trước đó năm
2012 tỉ lệ thất nghiệp chỉ ở 1,99%, so với mức 2,8% và 2,2% năm 2010 và 2011. Tương tự,
ở Mỹ, theo báo cáo của Bộ Lao động Mỹ công bố, tính đến tháng 3 năm 2013, tỉ lệ thất
nghiệp ở Mỹ đã giảm từ 7,9% xuống còn 7,7% thấp nhất kể từ tháng 12 năm 2008. Nạn
thất nghiệp dường như cũng không buông tha Hàn Quốc, một trong những nền kinh tế mới
nổi ở châu Á, khi sinh viên tốt nghiệp đại học được đánh giá là “ tràn lan tìm việc một
cách vô vọng” trên thị trường lao động. Tính đến đầu năm 2013, tỉ lệ thất nghiệp ở Hàn
Quốc đã chạm mức kỉ lục với 3,2%, so với 3,4% trong năm 2012.
Do vậy, để giải bài toán về sự thiếu hụt nguồn cung cầu lao động và nạn thất nghiệp
ở hầu hết các quốc gia, hoạt động xuất khẩu lao động đã có những bước phát triển mạnh
mẽ góp phần vào việc luân chuyển nguồn lao động còn thừa ở quốc gia này, sang những
nơi thiếu nguồn lực đó, góp phần rất lớn vào tạo công ăn việc làm cho người lao động,
cũng như giải quyết nhu cầu về nguồn nhân lực, giảm thiểu nạn thất nghiệp để phát triển
kinh tế xã hội của hầu hết các quốc gia.
Ví dụ: Nhật Bản là nước có trình độ phát triển cao, có những chuyên gia rất giỏi về
lĩnh vực ô tô, điện tử, cầu đường, tuy nhiên ở chính Nhật Bản, lại thiếu trầm trọng một
nguồn nhân lực làm những công việc có trình độ thấp, lương thấp mà người dân bản xứ ít
người làm. Vì vậy, Nhật Bản cũng là nước xuất khẩu rất lớn nguồn lao động chất lượng
cao sang các nước đang phát triển khác như Việt Nam, Lào, đồng thời lại nhập khẩu trở
lại Nhật Bản số lượng lớn lao động từ các nước đang phát triển khác như Việt Nam qua
hình thức thực tập sinh, hay xuất khẩu lao động. Điều đó được thể hiện rất rõ qua số lượng
lao động Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản qua các năm như 35000 thực tập sinh năm
2011, tăng lên đến 7000 lao động vào năm 2012, và ước tính vào năm 2013, số lượng này
sẽ vào khoảng 8000-9000 lao động, góp phần giải quyết một khối lượng công ăn việc làm
rất lớn cho người lao động Việt Nam, đồng thời cũng góp phần cung ứng nguồn nhân lực
dồi dào cho phía Nhật Bản phát triển kinh tế của đất nước họ.
8
1.4.2 Hiệu quả về kinh tế của hoạt động xuất khẩu lao động quốc tế.
Xuất khẩu lao động góp phần giải quyết nạn thất nghiệp ở các nước đang phát triển,
với nguồn nhân lực có sức khỏe tốt, chăm chỉ, nhưng trình độ của người lao động chưa
cao; hay thậm chí là ở những nước phát triển, nơi mà có nguồn lao động có trình độ cao
nhưng ở các nước đó không cung cấp đủ việc làm cho người lao động. Không những vậy,
hoạt động xuất khẩu lao động còn mang về một lượng ngoại tệ rất lớn, góp phần phát triển
kinh tế xã hội của đất nước đi xuất khẩu lao động.
Nhìn chung, đối với người lao động: tạo ra thu nhập bằng 10-15 lần so với thu nhập
trong nước của họ. Một phần số tiền này được người lao động và gia đình họ tiêu xài
cho đời sống hàng ngày, một phần được để dành để đầu tư, sản xuất kinh doanh, từ đó
tạo thêm việc làm cho bản thân, gia đình và xã hội.
Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp nhận được khoản chi phí dịch vụ từ
tiền lương cơ bản của người lao động.
Đối với nhà nước, hoạt động xuất khẩu lao động giúp giải quyết được tình trạng thiếu
việc làm và thu được một khoản ngoại tệ lớn cho phát triển đất nước.
Đối với doanh nghiệp của nước nhập khẩu lao động cũng tận dụng được một nguồn
nhân lực dồi dào, chăm chỉ, có sức khỏe tốt, và đặc biệt là giá rẻ hơn khi thuê nhân công
bản địa, góp phần rất lớn trong việc giảm chi phí lương cho người lao động, giảm chi phí
sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, và tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trường,
và cuối cùng tạo được một nguồn lợi nhuận vô cùng lớn cho doanh nghiệp đó.
1.4.3 Hiệu quả xã hội của hoạt động xuất khẩu lao động quốc tế
Hoạt động xuất khẩu lao động giúp giải quyết được một phần tình trạng thất nghiệp
và thiếu việc làm cho toàn xã hội, đặc biệt là lực lượng lao động là thanh niên, từ đó giảm
các tệ nạn xã hội do người lao động không có việc làm gây nên.
Hơn nữa, người lao động đi làm nước ngoài nâng cao được trình độ chuyên môn, kĩ
thuật, ngoại ngữ, tiếp thu được những công nghệ tiên tiến, tác phong công nghiệp, từ đó,
hình thành đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn và kĩ thuật cao, và khi họ hết hạn làm
việc ở nước ngoài, và trở về nước làm việc, chính họ sẽ góp phần lớn vào việc phát triển
kinh tế cho đất nước.
Để đánh giá được hiệu quả xã hội của hoạt động xuất khẩu lao động, cũng cần phải
dựa trên một số chỉ tiêu khác như việc đào tạo người lao động về tiếng và chuyên môn, kỹ
năng làm việc của người lao động có đáp ứng được với môi trường làm việc của nước tiếp
9
nhận lao động hay không. Ví dụ, Việt Nam muốn xuất khẩu lao động sang thị trường Nhật
Bản, vốn là một thị trường khó tính với yêu cầu rất ngặt nghèo về trình độ và kỷ luật lao
động, thì người lao động Việt Nam cần phải được đào tạo bài bản về tiếng, về chuyên môn,
và có hiểu biết về thị trường lao động này, để đến khi sang Nhật Bản làm việc, có thể dễ
dàng thích nghi và đáp ứng được yêu cầu làm việc của nước bạn. Chỉ có như vậy, thì lao
động Việt Nam mới có nhiều cơ hội hơn để được tiếp nhận sang Nhật Bản vào các năm sau
đó.
Các vấn đề khác như chế độ bảo hiểm, phúc lợi xã hội cho người xuất khẩu lao động
sang thị trường nước ngoài cũng là một yếu tố quan trọng cần tính tới. Khi người lao động
lần đầu tiên sang nước ngoài làm việc, không quen với môi trường làm việc và khí hậu
khắc nghiệt của một số nước như Hàn Quốc, Nhật Bản vốn rất lạnh vào mùa đông, người
lao động dễ bị các bệnh ảnh hưởng tới sức khỏe của họ, đồng thời họ cũng có thể gặp
những rủi ro như mất trộm, bị cướp, bị bắt cóc khi đang làm việc ở nước ngoài. Vì vậy,
một chính sách phúc lợi xã hội tốt, cũng như chế độ bảo hiểm công bằng phải được kí kết
trước khi xuất nhập khẩu lao động, để đảm bảo được lợi ích cao nhất cho người lao động
yên tâm làm việc ở nước ngoài.
1.5 Kinh nghiệm XKLĐ của một số nước và vận dụng vào Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước có lượng xuất khẩu lao động rất lớn,
tuy nhiên hiệu quả do hoạt động này mang lại cho đất nước chưa thật sự bền vững và lâu
dài như một số đất nước trong khu vực như Philippines, Indonesia, Thai Lan. Xét thấy, về
điều kiện kinh tế xã hội, các nước này cũng là những nước có xuất phát điểm tương tự như
Việt Nam, tuy nhiên nhờ vào những đường lối đúng đắn, họ đã thu được những lợi ích rất
lớn của hoạt động xuất khẩu lao động. Vì vậy, tìm hiểu những bài học kinh nghiệm của đất
nước họ, chúng ta hoàn toàn có thể áp dụng vào Việt Nam, để thu được những lợi ích tích
cực hơn.
1.5.1 Kinh nghiệm XKLĐ của một số nước
1.5.1.1 Kinh nghiệm XKLĐ của Philippines
Philippin hiện được xem là nước đứng đầu trong việc phát triển và liên tục cải tiến cơ
chế quản lý di cư. Thập kỷ 70 và đầu những năm 80 lao động Philippin chủ yếu làm việc ở
Ả Rập Xê út. Ngày nay Philippin đưa lao động đi làm việc ở hơn 160 nước trên thế giới
với nhiều loại nghề và lĩnh vực cũng như các hình thức cung ứng lao động.
Hai năm 1998 - 1999, mỗi năm lao động Philippin đã đáp ứng được khoảng 830.000
chỗ làm việc. Đó là nhờ khả năng nắm bắt cơ hội việc làm ở nước ngoài và việc xây dựng
10
thành công cơ chế tiếp cận thị trường, phổ biến thông tin và thương lượng các hợp đồng.
Về chính sách, để đẩy mạnh xuất khẩu lao động, Chính phủ Philippin đã thành lập 3
cơ quan chuyên nghiệp trực thuộc Bộ lao động và việc làm là: Ban phát triển việc làm
ngoài nước, Hội đồng thủy thủ Quốc gia và văn phòng dịch vụ việc làm. Chính phủ tạo
mọi điều kiện và đảm bảo quyền lợi cho mỗi người dân muốn làm việc trong nước hoặc
nước ngoài, tạo mọi điều kiện cho việc tự do lựa chọn việc làm phù hợp với lợi ích quốc
gia. Tạo điều kiện và quản lý di cư lao động, tăng cường mạng lưới các văn phòng việc
làm công cộng và hợp lý hoá sự tham gia của khu vực tư nhân vào việc tuyển và bố trí việc
làm cho người lao động ở trong và ngoài nước.
Để đẩy mạnh việc xuất khẩu lao động có hiệu quả, Philippines có một số biện pháp
sau: Xây dựng nhu cầu tiếp thị việc làm ngoài nước, xây dựng chính sách, thiết lập hệ
thống tiếp thị, thiết kế chương trình và chiến lược tiếp thị. Với những chính sách trên,
Philippines có thể nhanh chóng xác định nhu cầu lao động còn thiếu của các thị trường
tiềm năng như Nhật Bản, Hàn Quốc, và kí kết các hiệp định có lợi cho việc xuất khẩu
lao động của nước mình sang các thị trường đó, xây dựng các chương trình đào tạo người
lao động để đáp ứng được yêu cầu khắt khe của nước tuyển dụng lao động Với những
giải pháp đó, lao động Philippines ngày càng “ có giá” trong thị trường lao động xuất khẩu
sang các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
1.5.1.2 Kinh nghiệm XKLĐ của Thái Lan
Thái Lan bắt đầu xuất khẩu lao động từ những năm 1970, khi ở Trung Đông "bùng
nổ" xây dựng công trình khai thác dầu lửa. Số lượng lao động Thái Lan đi làm việc ở nước
ngoài tăng dần lên qua các năm 293 người năm 1973, 3.870 người năm 1977 lên 21.500
người 1980, gần 110.000 năm 1982 và bắt đầu giảm mạnh vào năm 1985. Những năm đầu
1990 số lao động Thái Lan ra nước ngoài làm việc lại tăng lên, đặc biệt trong những năm
cuối 1990 trung bình hàng năm Thái Lan đưa được khoảng 200.000 lao động ra nước ngoài
làm việc, trong đó hơn 50% là đến Đài Loan. Lượng tiền chuyển về nước của người lao
động qua hệ thống ngân hàng Thái Lan cũng tăng dần lên từ 52 tỷ Bath năm 1997 lên gần
60 tỷ Bath/năm (tương đương với 1,5 tỷ USD/năm) trong năm 1998 và 1999. Ngoài ra, còn
một số lượng tiền của người lao động gửi về nước qua các con đường khác.
Phần lớn lao động Thái Lan ra nước ngoài làm việc chủ yếu là lao động không nghề
có trình độ tiểu học làm các công việc có tay nghề thấp, chiếm khoảng 50% số lượng lao
động xuất khẩu. Người đi lao động xuất khẩu chủ yếu từ vùng nông thôn, nhiều nhất từ
khu vực Đông Bắc Thái Lan nơi cuộc sống còn nhiều khó khăn. Trong những năm cuối
11
1990 Thái Lan đưa hơn 10.000 lao động/năm đi làm nông nghiệp ở Israen và hơn 100.000
lao động/năm sang làm việc ở Đài Loan trong các lĩnh vực nghề may, lắp ráp điện tử, giúp
việc gia đình và xây dựng.
Về chính sách, Thái Lan thực hiện chính sách tự do hoá XKLĐ. Thời kỳ đầu hoạt
động XKLĐ do cá nhân người lao động và các đại lý tuyển lao động tư nhân thực hiện.
Nhiều lao động Thái Lan đi làm việc ở nước ngoài bằng visa du lịch sau đó ở lại và làm
việc bất hợp pháp. Tuy nhiên, sau đó để bảo vệ quyền lợi cho người lao động ở nước
ngoài, Chính phủ thành lập Văn phòng Quản lý việc làm ngoài nước thuộc Tổng cục Lao
động Bộ Nội vụ. Chức năng của Văn phòng này là giám sát hoạt động của các đại lý tuyển
lao động tư nhân, xây dựng các tiêu chuẩn, điều kiện làm việc và bảo vệ lao động ở nước
ngoài.
Về chủ chương, Chính phủ Thái Lan đã áp dụng các biện pháp mới trong việc thúc
đẩy lao động Thái Lan ra nước ngoài làm việc để làm giảm nhẹ tình trạng thất nghiệp trong
nước và tăng nguồn thu ngoai tệ sau khủng hoảng kinh tế khu vực 1997 -1998. Cùng với
việc những người có trình độ học vấn và tay nghề thấp đi làm những công việc giản đơn ở
nước ngoài, Chính phủ cũng đã bắt đầu chú ý đến đào tạo tay nghề cho lực lượng lao động
để phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động hiện đại, đòi hỏi kỹ thuật và tay nghề cao.
Chính phủ cũng đã ưu tiên để ủng hộ các chính sách về thị trường lao động ngoài nước một
cách tích cực, tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực trong nước. Bên cạnh đó các biện
pháp bảo vệ người lao động làm việc ở nước ngoài cũng được chú ý và là cần thiết.
1.5.1.3 Kinh nghiệm XKLĐ của Indonesia
Indonesia cũng là một nước xuất khẩu lao động lâu năm, ngay từ những năm 1930
đến những năm 1950 đã có hơn 200.000 người Indonesia di cư lao động sang các đảo của
Malaysia. Theo số liệu của Bộ Nhân lực Indonesia thì số lượng lao động Indonesia ra nước
ngoài làm việc trong giai đoạn 1969 đến 1993 là 877.400 (số lượng tăng lên rất nhanh từ
7.400 người trong những năm 1970 lên đến hơn 405.000 người những năm 1989 - 1993 là
hơn 465.000 người). Vào những năm 1994 - 1998 số lượng người lao động Indonesia làm
việc ở nước ngoài đã gia tăng rõ rệt từ 2,1 triệu người lên 3,2 triệu người. Vào năm 1999
số lượng lao động muốn tìm kiếm việc làm ở nước ngoài gia tăng đáng kể. Bộ Nhân lực đã
thống kê trong năm 1999 có khoảng 2,3 triệu người đăng ký muốn làm việc ở nước ngoài.
Năm 2000, sức ép từ nạn thất nghiệp đã trở nên nghiêm trọng do mức tăng trưởng kinh tế
năm 1999 chỉ đạt mức 4%. Từ tháng 1/1999 đến tháng 6/2000, theo thống kê, Chính phủ
12
đã đưa được khoảng 590.000 lao động sang làm việc ở nước ngoài. Nguồn thu nhập ngoại
tệ chuyển về nước từ năm 1996 đến năm 1999 vào khoảng 2,72 tỷ USD, trong đó lớn nhất
là từ khu vực Châu Á Thái Bình Dương, tiếp sau đó là khu vực Trung Đông. Tiền chuyển
về từ các lao động làm việc ở khu vực Châu Mỹ và Châu Âu thấp hơn, chỉ chiếm 2,3%
tổng số tiền chuyển về nước. Riêng năm 1999 và 4 tháng đầu năm 2000 tổng số ngoại tệ do
lao động di cư chuyển về nước đạt gần 1,7 tỷ USD (đây là số ngoại tệ chuyển theo đường
chính thức, số thực tế có thể lớn hơn nhiều).
Thị trường lao động của Indonesia ở nước ngoài tập trung vào các nước và khu vực
như Đông Nam Á (Malaysia, Singapore,Brunei), Đông Bắc Á (Đài Loan, Hàn Quốc và
Nhật Bản), Trung Đông, Bắc Mỹ, Úc và Tây Âu. Trong đó tập trung nhiều nhất là A Rập
Saudi, Malaysia. Singapo, Đài Loan, Hà Lan, Mỹ.
Một điều cần ghi nhận rằng số lớn lao động đi làm việc ở nước ngoài trong giai đoạn
từ 1994 - 1998 chiếm ưu thế là các lao động có nghề. Số lao động bán lành nghề có khoảng
1.136.021 người, trong khi đó số lao động bán lành nghề có khoảng 325.021 người. Công
nhân xây dựng của Indonesia được ưa thích hơn công nhân xây dựng của các nước khác ở
Malaysia.
Tỷ lệ lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài so với lao động nam đã tăng lên trong
những năm gần đây (1998 - 2000) và chiếm ưu thế, trong đó: 43% đi làm giúp việc gia
đình; 22% làm việc trong các nhà máy; 15% làm việc trong lĩnh vực trồng trọt; 6% trong
giao thông vận tải và còn lại làm trong các lĩnh vực khác.
Để đẩy mạnh xuất khẩu lao động, Indonesia xây dựng chính sách về hệ thống tuyển
mộ và đào tạo lao động, chính sách đưa lao động ra nước ngoài làm việc và chính sách
quan hệ hợp tác lao động với nước ngoài. Chính phủ Indonesia can thiệp vào hoạt động
xuất khẩu lao động thông qua quản lý và chỉ đạo chương trình việc làm ngoài nước. Năm
1994 Chính phủ đã ban hành nghị định số PER - 02/MEN 1994, trong đó quy định các thủ
tục và hệ thống tuyển mộ lao động; các điều kiện và yêu cầu của tổ chức tuyển mộ; quy
trình đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, trình tự giải quyết tranh chấp và các vấn đề
pháp lý. Quy định này đảm bảo cho người lao động không bị lạm dụng bóc lột và đảm bảo
được tiền lương phù hợp cho họ, an toàn về công việc của họ ở nước ngoài cho đến khi họ
về nước.
Năm 1999, Chính phủ đã thông qua Bộ Nhân lực thực hiện cải cách về chính sách và
chiến lược đối với XKLĐ nhằm đạt được mục đích, thể hiện ở bốn điểm: Thứ nhất, giảm
13
tỷ lệ thất nghiệp trong nước theo hướng năm sau thực hiện tốt hơn năm cũ; Thứ hai, cải
thiện việc bảo vệ lao động ở nước ngoài bằng việc kí các Hiệp định với các nước nhập
khẩu lao động, đặt đại sứ quán ở nước bản xứ, đào tạo người lao động tốt về tiếng để họ tự
bảo vệ mình khi đi làm việc ở nước ngoài; Thứ ba, nâng cao kỹ năng về chuyên môn, về
ngoại ngữ của lao động xuất khẩu để sẵn sàng đi làm việc ở nước ngoài, giúp người lao
động có thể thích nghi nhanh với môi trường làm việc ở nước nhập khẩu lao động và tạo ra
tính cạnh tranh cho nguồn lao động cho xuất khẩu so với các nước khác trong khu vực và
trên thế giới; Thứ tư, tăng nguồn thu ngoại tệ mạnh, không những góp phần cải tạo cuộc
sống của người lao động, mà còn góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Kế hoạch XKLĐ dựa trên ba điểm: Nguồn lao động có kỹ năng, mở rộng cơ hội làm
việc ở nước ngoài và những thành tựu đạt được trong hoạt động XKLĐ của những năm
trước đó. Mục tiêu của chính sách này là đạt được cả về số lượng và chất lượng, theo dự
kiến của Chính phủ là trong thời gian từ năm 1999 đến năm 2003 đưa được khoảng 2,8
triệu lao động Indonesia (trong đó bao gồm1.490.000 lao động chính thức là 1.310.000 lao
động không chính thức), thu được khoảng 13 tỷ USD (trong đó bao gồm 7,5 tỷ USD từ số
lao động chính thức và 5,5 tỷ USD từ số lao động không chính thức). Sự đánh giá này dựa
trên cơ sở số lao động nói trên sẽ làm việc ở nước ngoài từ hai năm trở lên và mỗi lao động
chỉ sử dụng 30% trong tổng số tiền kiếm được vào nhu cầu tiêu dùng hàng ngày ở nước
ngoài, và 70% còn lại sẽ được chuyển về Indonesia, trong đó số tiền công mà lao động
chính thức ở nước ngoài kiếm được khoảng 350 USD mỗi tháng 250 USD mỗi tháng.
1.5.2 Bài học kinh nghiệm về xuất khẩu lao động cho Việt Nam
Từ kinh nghiệm xuất khẩu lao động của các nước Thái Lan, Philippines, Indonesia
và một số nước khác, Việt Nam có thể học hỏi để có các chiến lược, và biện pháp hiệu quả
để tăng cường hoạt động XKLĐ cho nước mình như:
Một là, Việt Nam nên triển khai các chương trình hỗ trợ đào tạo lao động xuất khẩu.
Hai là, về công tác quản lý lao động: Bộ lao động – thương binh và xã hội cần phối
hợp với các bộ ngành liên quan tăng cường công tác quản lý, bảo vệ quyền lợi của người
lao động làm việc tại nước ngoài.
Ba là, tăng cường công tác điều tra, giám sát trong các hoạt động xuất khẩu lao động,
xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong việc xuất khẩu lao động.
Bốn là, cho phép và khuyến khích tối đa các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu
lao động.
14
Năm là, mở rộng thị trường xuất khẩu lao động: Nhà nước cần khuyến khích hỗ trợ
và tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động tiến hành thăm dò, tìm kiếm
và mở rộng thị trường phù hợp với trình độ, tay nghề và chất lượng nguồn nhân lực Việt
Nam.
Sáu là, đào tạo nghề, dạy ngoại ngữ, tuyên truyền, phổ biến luật pháp, văn hóa, của
nước tiếp nhận lao động, giáo dục định hướng cho người lao động.
Bảy là, hỗ trợ tài chính trong xuất khẩu lao động, hỗ trợ người lao động một phần các
chi phí về đào tạo tay nghề, chi phí về học ngoại ngữ và cho người lao động vay tín chấp
theo lãi suất ưu đãi.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
LAO ĐỘNG VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HÀN QUỐC
2.1 Đặc điểm về thị trường lao động Hàn Quốc
15
Hàn Quốc là quốc gia thuộc nhóm các nước công nghiệp mới NICs. Hiện nay, Hàn
Quốc đang trong quá trình phát triển mạnh mẽ, do vậy nhu cầu và áp lực về nguồn lao
động và công việc rất lớn. Tuy nhiên, dân số của Hàn Quốc đang lão hóa dần và nguồn lao
động trẻ không còn đủ cung ứng cho các doanh nghiệp. Trước tình hình đó, bài toán tìm
nhân lực từ nhiều nước trên giới thế giới đã được tính đến và xu thế này sẽ còn phát triển
mạnh hơn.Với dân số đang lão hóa nhanh chóng, Hàn Quốc đã qua cái thời của một quốc
gia có lực lượng lao động hùng hậu, giờ đây các doanh nghiệp nước này đang lo tìm kiếm
lao động ngoài làm việc tại các nhà máy và nông trại. Số lượng người nhập cư đã tăng gấp
bảy lần, đạt 1,5 triệu từ năm 2000, chiếm 2,8% dân số của xứ sở kim chi. Những người
nhập cư có thể tăng hơn 6% vào năm 2030, chính phủ Hàn Quốc cho biết.” Đây là điều
không thể tránh khỏi vì chúng tôi phải tăng lượng lao động nước ngoài để thúc đẩy nền
kinh tế”. Các nhà xuất khẩu Hàn Quốc lo lắng người lao động lớn tuổi chỉ làm công việc
giản đơn khiến họ tốn chi phí nhưng không hiệu quả, và đa số các công ty Hàn Quốc
không thể tránh khỏi việc thuê lao động nước ngoài để có thể hoạt động tốt, và thậm chí
nhu cầu lao động nước ngoài không ngừng tăng cao theo các năm. Theo ước tính, chỉ tiêu
cho người lao động có tay nghề thấp sang Hàn Quốc trong năm 2013 là 62000 người, tăng
so với năm 2012 là 57000 người.
So sánh với nguồn lao động đến từ các quốc gia khác, chủ sử dụng Hàn Quốc đánh giá
khá cao trình độ, tay nghề, cũng như tính chăm chỉ, cần cù, sáng tạo của lao động Việt
Nam Nhu cầu lao động của Hàn quốc là rất lớn, ngành nghề sản xuất chế tạo vẫn luôn có
nhu cầu sử dụng và tiếp nhận lao động nhập cư với số lượng lớn nhất ( chiếm 78% tổng số
lao động Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc theo lĩnh vực năm 2010). Bên cạnh nhu cầu
lao động bình thường mà người Hàn Quốc không muốn làm thì Hàn Quốc đang cần nhiều
chuyên gia chăm sóc sức khỏe, y tá, hộ lý chăm sóc người già và các chuyên gia giỏi trong
lĩnh vực tin học điện tử. Hiện nay, Hàn Quốc cũng cần nhiều lao động có nghề, những lao
động có nghề thực thụ thường dễ được tuyển chọn hơn trong chương trình cấp phép cho lao
động nước ngoài của Hàn quốc. Đặc biệt, Hàn Quốc đều có chương trình tuyển chọn lao
động kỹ thuật cao, chuyên gia cho một số nghề với chế độ cấp visa dài hạn ưu tiên đặc biệt.
2.2 Thực trạng về hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam sang thị
trường Hàn Quốc
Với nguồn lao động dồi dào, chăm chỉ, có tay nghề, lại có nền văn hóa Á châu với
nhiều nét tương đồng với đất nước Hàn Quốc, không khó gì có thể lí giải tại sao Hàn Quốc
16
là một thị trường xuất khẩu lao động truyền thống, và có số lượng ngày càng tăng của Việt
Nam. Điều đó được thể hiện không chỉ qua qui mô, và số lượng lao động năm sau luôn cao
hơn năm trước, tỉ trọng và cơ cấu lao động, cũng như nguồn thu nhập từ hoạt động xuất
khẩu lao động sang Hàn Quốc ngày càng tăng, đem lại một nguồn ngoại tệ rất lớn cho Việt
Nam.
2.2.1 Quy mô và tỉ trọng lao động
2.2.1.1 Quy mô
Việt Nam xuất khẩu lao động sang Hàn Quốc từ khá sớm, bắt đầu từ năm 1992, bằng
việc kí hợp đồng xuất khẩu các thuyền viên với phía Hàn Quốc. Hoạt động xuất khẩu lao
động sang Hàn quốc thời kì sơ khai diễn ra khá chậm rãi, tuy nhiên đến giai đoạn từ năm
2002 đến nay, hoạt động xuất khẩu lao động từ Việt Nam sang Hàn Quốc ngày càng hoạt
động khởi sắc hơn, với số lượng lao động liên tục tăng lên, năm sau thường cao hơn năm
trước. Điều đó được thể hiện khá rõ trong biểu đồ sau đây.
Nguồn: Cục quản lí lao động ngoài nước
Từ biểu đồ trên ta thấy, giai đoạn từ năm 2002-2005, hoạt động xuất khẩu lao động
từ Việt Nam sang Hàn Quốc tăng mạnh từ 1190 người lao động đến 12.102 người lao
động, số lượng lao động năm 2005 tăng gấp hơn 10 lần so với giai đoạn năm 2002.
Đây có thể nói là kết quả của Chương trình cấp phép việc làm cho lao động nước
ngoài (gọi tắt là EPS) và có hiệu lực từ tháng 8/2004. Theo quy định của Luật này, các
doanh nghiệp Hàn Quốc khi không tuyển dụng được lao động trong nước sẽ được phép
tuyển dụng lao động nước ngoài với số lượng nhất định, Bộ Lao động Hàn Quốc đã lựa
chọn và ký Bản ghi nhớ với 15 quốc gia, trong đó có Việt Nam. Điều đó có ý nghĩa rất lớn
17
đối với Việt Nam, khi mà nước ta có nguồn lao động dư thừa khá lớn, tỉ lệ thất nghiệp cao
đặc biệt vào các vụ nông nhàn, người lao động nước ta có sức trẻ và sự chăm chỉ, được các
chủ sở hữu Hàn Quốc đánh giá cao. Vì vậy, trong giai đoạn này, nguồn lao động có sự gia
tăng đột biến, tạo một làn sóng mới về xuất khẩu lao động từ Việt Nam sang Hàn Quốc.
Tiếp tục được sự ảnh hưởng tích cực của làn sóng xuất khẩu lao động diễn ra từ giai
đoạn trước ( 2002 - 2005), giai đoạn năm 2006-2008, số lao động Việt Nam sang Hàn
Quốc liên tục tăng, năm sau tăng liên tục so với năm trước đó, với 10577 người năm 2006,
tăng lên đến 12187 lao động năm 2007, và số lượng lao động năm 2008 là 12398 người.
Tuy nhiên đến năm 2009, số lượng lao động Việt Nam sang Hàn Quốc giảm đột
ngột. Nếu như năm 2008, cả nước có 12.398 người lao động sang Hàn Quốc làm việc thì
năm 2009 con số chỉ dừng lại ở 4.837 người, chỉ bằng 1/3 so với năm 2008.
Sự suy giảm đột ngột số lượng lao động xuất khẩu sang Hàn Quốc năm 2009 là do
ảnh hưởng khách quan của cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra vào năm 2008 mang lại. Cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã khiến nền kinh tế của các nước suy thoái trầm trọng, dẫn
đến giảm nhu cầu tuyển dụng lao động. Và Hàn Quốc cũng là nước chịu ảnh hưởng từ đợt
suy thoái kinh tế này.Tuy nhiên dù có suy giảm nhưng chủ sử dụng nước sở tại vẫn rất
"chuộng" lao động Việt Nam. Bằng chứng là Việt Nam vẫn dẫn đầu về số lượng lao động
nhập cảnh Hàn Quốc trong số 15 quốc gia tham gia chương trình cấp phép cho lao động
nước ngoài làm việc ở Hàn Quốc (EPS).
Bước sang năm 2010, nền kinh tế đã được hồi phục, lượng lao động Việt Nam sang
Hàn Quốc đã trở lại đà tăng trưởng như trước đây, đạt con số 8628 lao động. Đặc biệt đến
năm 2011 số lao động Việt Nam sang Hàn Quốc đạt hơn 15000 người, đây là số lượng lao
động cao nhất từ trước đến nay. Kết quả này là do hạn ngạch lao động của Hàn Quốc dành
cho lao động Việt Nam tăng lên.Trung tâm Lao động ngoài nước cũng cho biết từ đầu năm
đến 31-8-2011 có 14.134 lao động Việt Nam sang Hàn Quốc làm việc, chiếm 29.4% trong
tổng số hạn ngạch tiếp nhận 48000 lao động nước ngoài vào Hàn Quốc năm 2011, dẫn đầu
15 quốc gia phái cử lao động theo chương trình EPS. Tuy nhiên, do phần lớn hạn ngạch năm
2011 đã được sử dụng, nên số lượng lao động Việt Nam không nhiều vào quí IV năm 2011.
Năm 2012 là năm mà việc xuất khẩu lao động sang Hàn Quốc gặp khó khăn lớn mà
nguyên nhân xuất phát từ chính những người lao động, lượng lao động xuất khẩu chỉ còn
9228 người.
Nguyên nhân của vấn đề này là do đến năm 2012, số lao động Việt Nam bỏ trốn và
18
cư trú bất hợp pháp tại Hàn quốc đã lên đến hơn 50% lượng lao động xuất khẩu sang Hàn
Quốc và Việt Nam cũng là nước có tỉ lệ lao động bỏ trốn cao nhất trong số các nước phái
cử. Trước tình hình đó, tháng 10/2012, Bộ trưởng Bộ Lao động Hàn Quốc đã có văn bản
gửi Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH VN thông báo “tạm dừng tiến trình thỏa thuận giữa hai bên
về chương trình cấp phép việc làm cho lao động Việt Nam”. Đây là một tổn thất lớn đối
với Việt Nam.
2.2.1.2. Tỉ trọng
Không chỉ chiếm lợi thế về qui mô lao động Việt Nam được xuất khẩu ngày càng
tăng cao sang Hàn Quốc, Hàn Quốc còn là một trong những thị trường xuất khẩu lao động
có tỉ trọng khá lớn của Việt Nam. Điều đó được thể hiện khá rõ trong biểu đồ dưới đây.
Nhìn vào biểu đồ ta có thể thấy tỉ trọng lao động xuất khẩu lao động Việt Nam sang
Hàn Quốc liên tục tăng cao trong giai đoạn từ năm 2002-2008. Đặc biệt, kể từ năm 2008,
Hàn Quốc đứng thứ hai về số lượng Việt Nam sang làm việc, tỉ lệ này có giảm đáng kể vào
năm 2009 do các nguyên nhân khách quan như đã được trình bày ở phần Qui mô và số
lượng lao động bên trên. Tuy vậy, tỉ trọng lao động lại có chuyển biến tích cực vào các
năm sau đó, và nếu tính đến năm 2012, tỉ trọng lao động từ Việt Nam sang Hàn Quốc đã
trở về mức cân bằng so với các thị trường khác như Nhật Bản, Malaysia. Điều đó thể hiện
sức hấp dẫn của thị trường lao động Hàn Quốc đối với lao động Việt Nam, so với các thị
trường khác như Đài Loan, Malaysia, Nhật Bản.
Nguồn: Cục quản lí lao động ngoài nước
2.2.2 Cơ cấu lao động xuất khẩu Việt Nam
Về cơ cấu lao động xuất khẩu Việt nam sang Hàn Quốc năm 2010 theo lĩnh vực, ta
thấy lao động Việt Nam tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp. Điều này được lý
giải là bởi Hàn Quốc là một quốc gia có nền công nghiệp phát triển, dẫn đến nhu cầu tuyển
19
dụng công nhân những ngành công nghiệp, chế tạo cao, chiếm đến 78%. Hơn nữa, lao
động Việt Nam vốn cần cù trong lao động, ham học hỏi, sáng tạo, dễ thích nghi với môi
trường nên các công ty Hàn Quốc ưa thích tuyển dụng, với các lĩnh vực khác như xây dựng
9%, nông nghiệp 10%, ngư nghiệp 2%, dịch vụ 1%. Sở dĩ các ngành khác như xây dựng,
nông nghiệp tuyển ít lao động Việt Nam hơn là vì ở các ngành này ở Hàn Quốc cũng phát
triển với tỉ trọng thấp hơn so với các ngành công nghiệp và dịch vụ, riêng ngành dịch vụ
chiếm tỉ trọng rất ít vì đa phần người dân Hàn Quốc làm trong lĩnh vực này, nên Hàn Quốc
ít có nhu cầu tuyển dụng lao động nước ngoài làm việc trong các ngành dịch vụ của nước
này.
Nguồn: Cục quản lí lao động ngoài nước
Ngư nghiệp cũng là nghề chiếm số đông lao động Việt Nam với 2%. Nước ta bắt đầu
xuất khẩu thuyền viên tàu cá từ năm1992. Tính đến năm 2011, cả nước có khoảng 40
doanh nghiệp đã và đang cung ứng thuyền viên đánh cá cho các đội tàu của Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan, với tổng số khoảng 20 nghìn lượt người. Nhiều công ty có số lượng
thuyền viên đưa đi hàng năm cao như: LOD, INMASCO, TTLC, SERVICO HANOI, TSC,
Vạn Hoa…Tuy nhiên,nguồn cung hạn hẹp: giới hạn ở 3 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng
Bình. Các doanh nghiệp có hợp đồng cung ứng đều đổ xô về 3 tỉnh này để tuyển người.Khi
được tuyển dụng, các ứng viên sẽ được đào tạo hai tháng về giáo dục định hướng và sau đó
sẽ xuất cảnh sang Hàn Quốc làm việc trong thời hạn ba năm, thu nhập cơ bản khoảng
20
900.000 won/tháng (tương đương 830 USD).Sở dĩ, thuyền viên đánh cá có số lượng lao
động Việt Nam đông vì Việt Nam vốn là nước có truyền thống đánh bắt thủy sản. Hơn
nữa, đại bộ phận những ngư dân ở Việt Nam có đời sống rất khó khăn, nên khi có cơ hội
để đổi đời họ sẵn sàng đi đăng kí xuất khẩu lao động.
Như vậy, có thể thấy cơ cấu ngành nghề lao động Việt Nam xuất khẩu sang Hàn
Quốc tương đối là đa dạng, tuy nhiên chất lượng lao động còn một số hạn chế như tác
phong công nghiệp thấp, ngoại ngữ kém, tính kỉ luật chưa cao.
2.2.3 Thu nhập của lao động Việt Nam
Dưới đây là bảng thu nhập trung bình của người lao động tại một số quốc gia và
vùng lãnh thổ, trong đó có Hàn Quốc.
Hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam sang Hàn Quốc, đã mang lại cho người lao
động một mức thu nhập cao, gấp hàng chục lần so với thu nhập của họ trong nước, với
mức tiền lương theo tháng 800-900 USD, thời gian làm thêm nhiều, lại không phải đóng
góp thêm bất cứ một khoản nào và mỗi tháng người lao động Việt Nam có thể tích lũy
được từ 850-950 USD. Đây thực sự là một mức thu nhập đáng kể so với các thị trường
21
xuất khẩu lao động khác như Nhật Bản với 640-820USD, Đài Loan với 660-840USD,
Hơn nữa, hàng năm, ngoại hối do xuất khẩu lao động sang Hàn Quốc gửi về qua đường
chính thức là 760 triệu USD, đây là một nguồn ngoại tệ lớn cho Việt Nam giúp phát triển
đất nước. Nhìn chung, có thể thấy rằng Hàn Quốc là một thị trường nhập khẩu lao động
tương đối tốt với người lao động Việt Nam, mà Việt Nam cần phải có các biện pháp để duy
trì và tăng số lượng lao động được xuất khẩu sang thị trường này.
2.2.4 Thời hạn lao động Việt Nam tại Hàn Quốc
Theo quy định của phía Hàn Quốc sau khi kết thúc 3 năm làm việc chính thức, nếu
người lao động Việt Nam nếu không được chủ sử dụng lao động ký hợp đồng tái tuyển
dụng thì phải về nước; trường hợp được chủ sử dụng lao động ký hợp đồng tái tuyển dụng
thì được phép ở lại Hàn Quốc tiếp tục làm việc với thời gian là 1 năm 11 tháng.
Hiện nay, Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành một số chính sách nhằm khuyến khích
người lao động các nước bao gồm Việt Nam về nước đúng hạn, trong đó có chính sách
cho phép người đi xuất khẩu lao động được gia hạn lần đầu ngay tại Hàn Quốc với thời
gian gia hạn là 1 năm 11 tháng. Tổ chức những lao động về nước đúng hạn (sau khi kết
thúc hợp đồng 3 năm và thời gian gia hạn 1 năm 11 tháng), được quay trở lại Hàn Quốc
làm việc nếu đạt yêu cầu tại kỳ kiểm tra tiếng Hàn tổ chức 3 tháng/lần.
Đặc biệt, nếu lao động không đổi nơi làm việc và trở về nước đúng thời hạn hợp
đồng thì sau 3 tháng xuất cảnh lại được phép tái nhập cảnh Hàn Quốc làm việc ở công ty
cũ mà không phải dự kiểm tra tiếng Hàn, tuy vậy rất nhiều người đi lao động Việt Nam vẫn
chưa biết tới chính sách mới này của Hàn Quốc.
2.3 Đánh giá hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam sang thị trường Hàn
Quốc
2.3.1 Những thành tựu
Thị trường Hàn Quốc là một trong những thị trường nhập khẩu lao động Việt Nam
lớn hiện tại đứng thứ hai chỉ sau Đài Loan, Việt Nam cũng đứng đầu trong 15 quốc gia
theo chương trình EPS xuất khẩu lao động sang thị trường Hàn Quốc. Nguyên nhân của
hiện tượng này là do chủ lao động Hàn Quốc khá ưa chuộng lao động Việt Nam do tính
chăm chỉ, cần cù, thông minh, thích nghi nhanh với môi trường làm việc của đất nước bản
xứ. Hơn nữa, làm việc ở Hàn Quốc công việc khá nhiều và ổn định, người lao động Việt
Nam có cơ hội có thu nhập cao hơn là khi đi xuất khẩu lao động ở các thị trường khác như
Malaysia, Đài Loan
Cơ cấu ngành nghề có sự dịch chuyển sang các ngành nghề chứa hàm lượng chuyên
22
môn cao, kĩ thuật cao, 85% lao động Việt Nam làm lĩnh vực chế tạo. Điều này có thể giải
thích bởi phần lớn nhu cầu nhập khẩu lao động của Hàn Quốc nằm ở các công ty chế tạo
máy móc, thiết bị điện tử, khi mà nguồn lao động trong nước Hàn Quốc không đáp ứng đủ.
Mặt khác các ngành khác như dịch vụ, nghề cá, nông nghiệp có nhu cầu tuyển lao động
nước ngoài làm việc khá thấp so với các ngành công nghiệp.
Trong những năm gần đây, Việt Nam và Hàn Quốc đã kí kết các Hiệp định thỏa
thuận về hợp tác lao động với các nước và vùng lãnh thổ có tiếp nhận lao động Việt Nam
nhằm tạo khung pháp lí để đưa lao động đi và quản lí, bảo vệ quyền lợi của người lao động
ở Hàn Quốc: Chương trình thẻ vàng- Chương trình “ thẻ vàng” về hợp tác lao động kỹ
thuật cao, do tổ chức Công nghệ-Công nghiệp Hàn Quốc (KOTEF) quản lí (năm 2005);
Chương trình thuyền viên cá- Hiệp hội Thương mại Thủy sản Hàn Quốc (KFTA); Chương
trình EPS- Thực hiện thỏa thuận giữa Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Lao
động Hàn Quốc bắt đầu triển khai thực hiện từ tháng 8/2004.
Xuất khẩu lao động cũng đã mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho quôc gia mỗi năm
người lao động ở Hàn Quốc gửi về trung bình 760 triệu USD. Nhờ có nguồn tiền này mà
cuộc sống của thân nhân gia đình có người đi xuất khẩu được cải thiện rõ rệt, giảm tỉ lệ
thất nghiệp trong nước, mở rộng sản xuất kinh doanh, Người lao động sau một thời gian
làm việc ở Hàn Quốc được nâng cao tay nghề, trình độ ngoại ngữ, rèn luyện được tính kỉ
luật và có tác phong công nghiệp. Đó là một hiêu quả to lớn từ việc xuất khẩu lao động
sang Hàn Quốc nói riêng và các thị trường khác nói chung.
Công tác quản lí, bảo vệ quyền lợi của lao động Việt Nam ở Hàn Quốc được tăng
cường, chú trọng, Hệ thống quản lí lao động Việt nam làm việc Hàn Quốc bao gồm: Cơ
quan đại diện ngoại giao, Ban quản lí lao động hoặc tùy viên lao động, cán bộ chuyên trách
quản lí lao động và đại diện của các doanh nghiệp, phần lớn các doanh nghiệp đưa lao
động sang Hàn Quốc đều có văn phòng đại diện để quản lí lao động, bảo vệ quyền lợi của
người lao động và kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến người lao động.
Công tác thông tin tuyên truyền về hoạt động xuất khẩu lao động được đẩy mạnh.
Nhờ đó, đã nâng cao nhận thức của cơ quan chính quyền giúp người lao động về hoạt động
xuất khẩu lao động, tăng cường sự công khai, minh bạch trong xuất khẩu lao động, góp
phần hạn chế được tình trạng lừa đảo trong xuất khẩu lao động. Người lao động và doanh
nghiệp Việt Nam đưa người đi làm ciệc ở nước ngoài sẽ phải tuân thủ theo Bộ quy tắc ứng
xử do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội giới thiệu sau khi hoàn thiện dựa trên cơ sở
23
pháp luật Việt Nam và luật pháp quốc tế về lao động di cư, các công ước quốc tế
2.3.2 Những hạn chế
Thực trạng cư trú bất hợp pháp vẫn diễn ra, bỏ hợp đồng trước thời hạn, tự do
chuyển xưởng, làm giảm uy tín của lao động Việt Nam.
Trong số các lao động nước ngoài thì lao động Việt Nam chiếm tỉ lệ chuyển xưởng
cao nhất, chiếm 35% đứng dầu trong số 15 quốc gia phái cử trong khi Thái Lan 8,0%,
Philippin 10,1%, Indonessia 11,7%.
Tỉ lệ lao động Việt Nam cư trú bất hợp pháp ở Hàn Quốc cũng chiếm một lượng lớn
và tăng nhanh qua các năm: Theo thống kê của Bộ Tư pháp Hàn Quốc, năm 2010: có
khoảng 12.618 người lao động Việt Nam sống bất hợp pháp ở Hàn Quốc, trong đó, số lao
động di cư theo chương trình cấp phép lao động nước ngoài hết hạn ở lại hoặc trốn ra nước
ngoài là 8.640 người, lao động đi theo chương trình tu nghiệp sinh la 4.044 người và
thuyền viên làm việc trên các tàu đánh cá là 114 người. Năm 2011: có khoảng 15.000
người VN đang cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc, trong đó, khoảng gần 13.000 lao động
thì số lao động đi theo chương trình cấp phép lao động nước ngoài (EPS) hết hạn ở lại hoặc
trốn ra ngoài hiện có khoảng hơn 8.000 người. Năm 2012: quý II-2012, trong số khoảng
2.000 lao động hết hạn hợp đồng vẫn có trên 1.200 lao động không về nước, quý III-2012,
khoảng 1.500/2.500 lao động hết hạn hợp đồng tiếp tục bỏ trốn
Tỉ lệ lao động Việt Nam bỏ hợp đồng trốn ra nước ngoài làm việc khá cao, làm cho
quản lí nước ngoài có nhận thức không tốt về kỉ luật lao động của người lao động Việt
Nam.
Mặc dù lao động Việt Nam luôn đạt điểm cao trong các kì thi tiếng Hàn (gần 80%
ứng viên dự tuyển trong các đợt kiểm tra) nhưng thực tế khi nhập cảnh Hàn Quốc, có
những lao động thậm chí không nói được câu nào tiếng Hàn.
Tình hình lao động trở về từ Hàn Quốc sau khi đã hoàn thành thời gian làm việc vẫn
chưa được tận dụng trong khi nguồn lao động này có kĩ năng, có kinh nghiệm làm việc
hiệu quả tại Hàn Quốc ước tính chỉ khoảng 20% lao động trở về tìm được công việc ổn
định đúng với tay nghề.
Hiện nay chỉ có duy nhất Trung tâm lao động ngoài nước đưa lao động sang Hàn
Quốc theo chương trình EPS, vẫn còn nhiều “công ty ma” xuất hiện lừa đảo lao. Riêng lao
động là thuyền viên cá nghề cá (nhất là đánh bắt xa bờ), Hiệp hội nghề cá Hàn Quốc vẫn
tiếp nhận lao động Việt Nam thông qua các doanh nghiệp xuât khẩu lao động. Nhưng các
doanh nghiệp này làm ăn còn nhiều bất cập, gần đây liên tiếp xảy ra các vụ việc liên quan
24