Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với hoạt động xuất khẩu hàng hóa việt nam sang thị trường eu mở rộng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.76 KB, 113 trang )

4
CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LIÊN KẾT, HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG EU
1.1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ HÌNH THỨC LIÊN KẾT HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
Liên kết và hội nhập kinh tế quốc tế đang là một xu hướng tất yếu của thời
đại ngày nay. Xu thế này mang đến cho các quốc gia rất nhiều cơ hội phát triển
song cũng đưa lại khơng ít khó khăn mà các quốc gia phải đối mặt và giải quyết.
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của liên kết kinh tế quốc tế
1.1.1.1 Khái niệm
Liên kết kinh tế quốc tế là quá trình hợp nhất các nền kinh tế của các
quốc gia trong một hệ thống kinh tế thống nhất với các mối quan hệ kinh tế
được sắp xếp trong một trật tự nhất định trên cơ sở thỏa thuận giữa các nước
thành viên.
Liên kết kinh tế quốc tế làm tăng cường quá trình phối hợp và điều chỉnh
lợi ích và lợi thế của các thành viên, giảm thiểu những chênh lệch về trình độ
phát triển và thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế phát triển cả về khối lượng và
cường độ, cả về chiều rộng và chiều sâu.
1.1.1.2 Đặc trưng của liên kết kinh tế quốc tế
Thứ nhất, liên kết kinh tế quốc tế hình thành và phát triển là do sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng. Q trình này có nguồn
gốc từ sự phân cơng lao động quốc tế theo chiều sâu trên cơ sở việc ứng dụng
nhanh chóng và có hiệu quả những tiến bộ khoa học công nghệ.
Thứ hai, liên kết kinh tế quốc tế là một hoạt động tự giác của các Chính
phủ trên cơ sở nhận thức được những lợi ích do quá trình này mang lại. Liên kết
kinh tế quốc tế tạo ra khuôn khổ lớn hơn về mặt kinh tế và pháp lý cho cuộc


5


cạnh tranh kinh tế giữa các chủ thể thuộc nền kinh tế của các nước thành viên và
tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế quốc tế.
Thứ ba, liên kết kinh tế quốc tế là một giải pháp hợp lý để xử lý mối quan
hệ có tính chất đối nghịch nhau giữa các xu hướng tự do hóa thương mại và bảo
hộ mậu dịch trong chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia, tạo điều
kiện cho các quốc gia khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế phát triển
trong khu vực, nâng cao hiệu quả của từng nền kinh tế và của cả liên kết kinh tế.
Thứ tư, liên kết kinh tế quốc tế góp phần loại bỏ tính biệt lập của nền kinh
tế và chủ nghĩa cục bộ của từng quốc gia trong nền kinh tế thế giới. Đây là quá
trình mở rộng giao lưu về mọi mặt giữa các cộng đồng người và làm cho các quốc
gia trở nên gần gũi nhau hơn trong các mối quan hệ, giảm bớt những cuộc xung
đột cục bộ và góp phần giữ gìn hịa bình, ổn định trong khu vực và thế giới.
1.1.2 Bản chất và tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.2.1 Khái niệm và bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiện trong vài thập kỷ
gần đây, nhưng cho đến nay vẫn đang tồn tại các cách hiểu khác nhau về hội
nhập kinh tế quốc tế.
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng hiện nay khái niệm tương
đối phổ biến được nhiều nước chấp nhận về hội nhập như sau: Hội nhập kinh tế
quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế
khu vực và tồn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên có sự ràng
buộc theo những quy định chung của khối. Nói một cách khái quát nhất, hội nhập
kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mơ hình kinh tế mở, tự nguyện
tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hóa và
tự do hóa thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác.
Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết 6 vấn đề chủ yếu:
Một là đàm phán cắt giảm thuế quan; Hai là giảm, loại bỏ hàng rào phi
thuế quan; Ba là giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế; Bốn là điều chỉnh



6
các chính sách thương mại khác; Năm là triển khai các hoạt động văn hóa, giáo
dục, y tế…có tính chất toàn cầu.
Về bản chất, hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện chủ yếu ở một số mặt sau:



Hội nhập kinh tế quốc tế là sự đan xen, gắn bó và phụ htuộc lẫn nhau
giữa các nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế thế giới.



Hội nhập kinh tế quốc tế là q trình xóa bỏ từng bước và từng phần
các rào cản về thương mại và đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự
do hóa kinh tế.



Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho việc thực hiện các công
cuộc cải cách ở các quốc gia nhưng đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép
đối với các quốc gia trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế,
đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mơ.



Hội nhập kinh tế quốc tế chính là tạo dựng các nhân tố mới và điều
kiện mới cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế
trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao và hiện đại của lực lượng
sản xuất.




Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự khơi thơng các dịng chảy nguồn
lực trong và ngồi nước, tạo điều kiện mở rộng thị trường, chuyển
giao công nghệ và các kinh nghiệm quản lý.

1.1.2.2. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng khách quan.
Ngày nay, một mặt do trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất làm
cho tính chất xã hội hóa của chính nó càng vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc
gia, lan tỏa sang các quốc gia khu vực và thế giới nói chung và mặt khác, tự do
hóa thương mại cũng đang trở thành xu hướng tất yếu và được xem là nhân tố
quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của mọi quốc
gia. Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới theo định hướng phát triển
của mình đều điều chỉnh các chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ
bỏ các hàng rào thương mại, tạo điều kiện cho việc lưu chuyển các nguồn lực và


7
hàng hóa tiêu dùng giữa các quốc gia ngày càng thuận lợi hơn, thơng thống hơn.
Như vậy, mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập để phát triển, trong bối
cảnh cạnh tranh gay gắt đều phải chú ý đến các quan hệ trong và ngoài khu vực.
Về lâu dài, cũng như trước mắt, việc giải quyết các vấn đề của quốc gia đều phải
tính đến và cân nhắc với xu hướng hội nhập tồn cầu để đảm bảo lợi ích phát
triển tối ưu của mỗi quốc gia. Việt Nam cũng khơng nằm ngồi q trình này.
Trong điều kiện hội nhập, các quốc gia dù giàu có hoặc phát triển đến đâu cũng
khơng thể tự mình đáp ứng được tất cả các nhu cầu của chính mình. Trình độ
phát triển càng cao càng phụ thuộc với mức đọ nhiều hơn vào thị trường thế
giới. Đó là một vấn đề có tính quy luật. Những quốc gia chậm trễ trong hội nhập
kinh tế quốc tế thường phải trả giá bằng chính sự tụt hậu của mình, ngược lại
với những nước vội vã không phát huy nội lực, không chủ động hội nhập cũng

đã bị trả giá.
1.1.3 Các tác động của liên kết, hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.3.1 Những tác động tích cực
Liên kết, hội nhập kinh tế quốc tế có những tác động tích cực đến các
nước thành viên thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
Một là khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của các nước thành viên, hình
thành cơ cấu kinh tế khu vực phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi và tăng cường
phát triển các quan hệ thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu và
nhập khẩu.
Hai là tạo nên sự ổn định trong quan hệ giữa các nước nhằm đạt đến các
mục tiêu của quá trình liên kết.
Ba là hình thành cơ cấu kinh tế quốc tế mới với những ưu thế về quy mô
và nguồn lực phát triển, tạo việc làm cho dân cư và gia tăng phúc lợi của tồn
thể cộng đồng.
Bốn là hình thành cơ cấu kinh tế quốc tế mới với những ưu thế về quy mô
và nguồn lực phát triển, tạo việc làm cho dân cư và gia tăng phúc lợi của toàn


8
thể cộng đồng.
Năm là tạo động lực cạnh tranh, kích thích việc ứng dụng các thành tựu
khoa học, cơng nghệ mới ở các quốc gia và doanh nghiệp.
Sáu là điều chỉnh chính sách phát triển của các quốc gia để tương thích và
phù hợp với chính sách phát triển của toàn thể liên kết.
Bảy là tiết kiệm được các loại chi phí quản lý, chi phí hải quan cửa khẩu
và các loại chi phí giao dịch khác.
1.1.3.2 Những tác động tiêu cực
Các tác động chủ yếu của liên kết và hội nhập kinh tế quốc tế tới từng
quốc gia thành viên và đối với nền kinh tế thế giới chủ yêu thể hiện ở những
điểm sau:

Một là tạo ra sự cạnh tranh giữa các nước thành viên khi hình thành một
thị trường thống nhất, gây xáo trộn các quan hệ kinh tế đã được hình thành trong
từng nền kinh tế của từng nước, làm phá sản doanh nghiệp và có thể ảnh hưởng
đến công ăn việc làm của dân cư trong các nước thành viên.
Hai là gây ra tình trạng chia cắt thị trường thế giới, hình thành các nhóm
lợi ích cục bộ và làm chậm tiến trình tồn cầu hóa nền kinh tế thế giới.
1.1.4 Các loại hình liên kết, hội nhập kinh tế quốc tế
Liên kết hội nhập kinh tế quốc tế được xem xét theo các góc độ khác
nhau. Tương ứng với mỗi góc độ xem xét có những hình thức liên kết nhất định.
Thứ nhất, theo góc độ chủ thể có liên kết nhỏ và liên kết lớn. Liên kết nhỏ
là loại hình liên kết giữa các cơng ty hoặc giữa các doanh nghiệp. Hình thức này
được thực hiện ở từng khâu của quá trình sản xuất bao gồm nghiên cứu, thiết kế,
thử nghiệm chế tạo sản phẩm mới, chun mơn hóa và hợp tác hóa sản xuất các
sản phẩm và chi tiết sản phẩm, liên kết trong tiêu thụ, quảng cáo, vận tải và thực
hiện các dịch vụ sau bán hàng. Liên kết lớn là liên kết giữa các chính phủ giữa
các nước thành viên thông qua việc ký kết các Hiệp định quốc tế. Hình thức liên
kết lớn gồm có liên kết giữa các quốc gia và liên kết siêu quốc gia. Liên kết giữa


9
các quốc gia là loại hình liên kết trong đó cơ quan lãnh đạo liên kết là đại biểu
của các quốc gia thành viên tham gia với các quyền hạn chế. Các quyết định của
liên kết chỉ có tính chất tham khảo đối với các nước thành viên còn quyết định
cuối cùng do từng chính phủ quyết định. Liên kết siêu quốc gia là liên kết trong
đó cơ quan lãnh đạo là đại diện của các quốc gia có những quyền rộng lớn.
Thứ hai, căn cứ vào các cấp độ của liên kết có khu vực mậu dịch tự do,
liên minh thuế quan, thị trường chung, đồng minh kinh tế và liên minh tiền tệ.
Khu vực mậu dịch tự do (Free Trade Area): Đây là một hình thức liên kết
trong đó các nước thành viên thỏa thuận hạ thấp hoạc loại bỏ các hàng rào thuế
quan và phi thuế quan để hàng hóa và dịch vụ được di chuyển tự do giữa các

nước. Mức thuế quan nhập khẩu thường được hạ thấp xuống còn 0 – 5%. Tuy
nhiên, các nước thành viên vẫn duy trì chính sách thương mại quốc tế độc lập
với các nước không phải là thành viên.
Đồng minh thuế quan (Custom Union): Đây là một liên minh trong đó
những nội dung về các thỏa thuận được đưa ra trong Khu vực mậu dịch tự do
tức là các rào cản thương mại giữa các nước thành viên được loại bỏ. Tuy nhiên,
một đặc điểm nổi bật trong loại hình này là các nước thành viên cùng thống nhất
chính sách thuế quan với các nước không phải là thành viên. Hình thức liên kết
này cao hơn so với khu vực mậu dịch tự do.
Thị trường chung (Common Market): Thị trường chung là một hình thức
liên kết cao hơn so với các hình thức liên kết trên đây. Nó có những nội dung
giống với khu vực mậu dịch tự do là loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế
quan. Đồng thời, nó có đặc điểm tương tự với hình thức đồng minh thuế quan.
Tuy nhiên, nội dung liên kết của nó rộng hơn so với các hình thức trên thể hiện
ở việc các hàng hóa sức lao động và vốn đầu tư được di chuyển tự do giữa các
thành viên. thị trường chung Châu Âu (EEC) trước đây là một ví dụ cho hình
thức liên kết này.
Liên minh tiền tệ (Monetary Union): Liên minh tiền tệ là một hình thức


10
liên kết trong đó các nước thành viên cùng phối hợp và thống nhất các chính
sách tiền tệ, giao dịch tiền tệ quốc tế, dự trữ tiền tệ, phát hành đồng tiền tập thể.
Đồng thời các quốc gia thống nhất chính sách tỷ giá hối đối, duy trì chế độ tỷ
giá hối đoái được điều tiết trong một giới hạn nhất định để ổn định các quan hệ
tiền tệ trong liên kết. Đây là hình thức liên kết cao hơn so với các hình thức liên
kết trên đây. Liên minh tiền tệ Châu Âu là một ví dụ điển hình của loại hình liên
kết này.
Liên minh kinh tế (Economic Union): Liên minh kinh tế là một hình thức
phát triển cao trong liên kết kinh tế khu vực. Đặc trưng của hình thức liên kết này

là các thành viên có thể là hai hoặc nhiều hơn thành lập thị trường chung, nghĩa là
các hàng hóa, dịch vụ, sức lao động và vốn đầu tư được di chuyển một cách tự do.
Các nước có biểu thuế quan chung với các nước khơng phải là thành viên.
1.2 Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển của EU
1.2.1 Sự ra đời của Cộng đồng châu Âu
Cộng đồng than thép châu Âu, tổ chức tiền thân của EU: Ngày 18/2/1951,
Hiệp ước thành lập cộng đồng than thép châu Âu (ECSC) được 5 nước Đức, Bỉ,
Hà-Lan, Lúc-xem-bua, và I-ta-lia cùng Pháp ký tại Paris, và ngày 23/7/1952,
Cộng đồng Than Thép Châu Âu chính thức ra đời.
Sự ra đời tiếp theo của EEC và Euratom: Hội nghị liên chính phủ tại
Venise ngày 29/5/1956 chấp thuận tiến hành đàm phán để đi đến thành lập Cộng
đồng kinh tế châu Âu (EEC) và Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu
(Euratom). Ngày 25/3/1957, Hiệp ước thành lập hai Cộng đồng nói trên được ký
kết, và ngày 1/1/1958 hai Cộng đồng này chính thức ra đời.
1.2.2 Sự hình thành liên minh tiền tệ châu Âu
Trong lĩnh vực tiền tệ, cuối năm 1958, Hiệp định về Tiền tệ Châu Âu đã bắt
đầu có hiệu lực. Đến đầu năm 1972, cùng với kinh tế, giai đoạn đầu của một liên
minh tiền tệ đã được chuẩn bị những điều kiện cần thiết. Tháng 5/1998, Hội
đồng đặc biệt của Liên minh Châu Âu đã đưa ra quyết nghị rằng 11 nước thuộc


11
EU đã thoả mãn các điều kiện phát hành một đồng tiền chung. Trải qua bao năm
thăng trầm nhưng đúng theo kế hoạch, từ 1/1/1999, 11 trong số 15 thành viên
EU là Áo, Bỉ, Luc-xem-bua, Phần-lan, Pháp, Ai-len, Đức, I-ta-lia, Hà-Lan, Bồđào-nha và Tây-ba-nha đã thơng qua đồng tiền chính thức được lưu hành trên
toàn lãnh thổ 12 nước được gọi là khu vực EURO, đánh dấu một thắng lợi vĩ đại
về những nỗ lực của Liên minh tiền tệ Châu Âu.
1.2.3 Thể chế của liên minh Châu Âu
Nghị viện Châu Âu: Nghị viện Châu Âu là cơ quan lập pháp của EU, gồm
626 nghị sĩ của các nước thành viên và được chia thành 18 ủy ban. Nghị viện

châu Âu có chức năng thơng qua nhân sách, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các
chính sách của EU, cùng hội đồng châu Âu quyết định trong một số lĩnh vực.
Nghị viện cũng có quyền bãi miễn ủy viên Uỷ ban châu Âu.
Hội đồng liên minh châu Âu: Hội đồng Liên minh châu Âu có trách nhiệm
cơ bản là thực hiện quyền lập pháp cùng với Nghị viện châu Âu; Phối hợp để
ban hành chính sách kinh tế lớncủa các nước thành viên; Thay mặt Liên minh ký
kết các hiệp định quốc tế song hoặc đa biên hay với các tổ chức quốc tế; cùng
tham gia quản lý ngân sách với Nghị viện; Ra những quyết định cần thiết để thực
hiện chính sách đối ngoại và an ninh.
Uỷ ban châu Âu: Uỷ ban châu Âu là lực lượng chỉ huy của Liên minh. Uỷ
ban có quyền dự thảo pháp luật trình Nghị viện và Hội đồng Liên minh châu Âu.
Là cơ quan hành pháp, Uỷ ban có trách nhiệm thực thi pháp luật, thực hiện các
chương trình ngân sách đã được Nghị viện và Hội đồng thông qua; Theo dõi việc
thực thi các Hiệp ước và cùng Tòa tư pháp đảm bảo luật pháp Cộng đồng được
thực thi nghiêm chỉnh; Thay mặt Liên minh trên trường quốc tế và đàm phán các
thỏa thuận quốc tế, chủ yếu trong lĩnh vực thương mại và hợp tác kinh tế.
Trên đây là “bộ ba” lập pháp và hành pháp quan trọng và chủ yếu của Liên
minh Châu Âu. Ngồi ra, cịn có hai cơ quan khá quan trọng đó là Tồ án và
Viện Kiểm Kế Châu Âu.
Tòa án châu Âu: đặt trụ sở tại Luxemborg, gồm 15 thẩm phán và 9 trạng sư


12
do các chính phủ thỏa thuận bổ nhiệm. Tịa án có vai trị độc lập, có quyền bác
bỏ những quy định của các tổ chức của Uỷ ban châu Âu, văn phịng chính phủ
các nước nếu bị coi là khơng phù hợp với luật của EU.
Tịa kiểm tốn châu Âu: có chức năng kiểm tra các khoản tài chính của EU
để đảm bảo tính hợp pháp của các khỏan thu chi, đồng thời phối hợp với các cơ
quan thể chế khác của EU để thực hiện các hoạt động có liên quan đến tài chính
của mình.

Ngồi các thể chế trên, EU cịn có hệ thống các ủy ban khu vực hay ủy ban
kinh tế xã hội đại diện cho quan điểm và quyền lợi của các tổ chức xã hội. Các
ủy ban này sẽ tham vấn về những vấn đề liên quan đến chính sách kinh tế xã hội.
Các ủy ban này cũng có thể đưa ra quan điểm riêng của mình về những vấn đề
mà ủy ban cho là quan trọng.
1.2.4 Mục đích mở rộng của EU
Kể từ khi thành lập, EU liên tục được củng cố và mở rộng. Cho tới nay,
xét về mặt thời gian, Liên minh châu Âu đã 5 lần mở rộng thông qua việc kết
nạp các nước thành viên mới.
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, và ngay cả các nhà lãnh đạo EU cũng
thừa nhận là mục đích đầu tiên, trước mắt và bao trùm lên chiến lược mở rộng
lần này là mục tiêu chính trị. Việc mở rộng lần này là một cơ hội lịch sử nhằm
thống nhất Châu Âu sau nhiều thế hệ chia rẽ và đối đầu, nó cịn có ý nghĩa hàn
gắn một Châu Âu bị chia rẽ và tạo ra một khối đồn kết hơn của các cơng dân
Châu Âu. Sau sự kiện 11/9/2001 tại Hoa Kỳ, một Châu Âu mạnh và đoàn kết là
vấn đề quan trọng hơn bao giờ hết để củng cố an ninh khu vực, và khi đó sẽ tăng
cường được uy tín chính trị của EU trên trường quốc tế, để có thể làm đối trọng
với Hoa Kỳ trong việc giải quyết các vấn đề tồn cầu.
Về mục đích kinh tế, trong những năm đầu khi mở rộng, các nhà lãnh đạo
EU không tham vọng nhiều trong việc cải thiện tình trạng kinh tế trì trệ của họ,
vì các thành viên cũ phải tập trung nguồn lực để cải cách thể chế của Liên minh


13
vốn đang rất quan liêu và cồng kềnh, cho phù hợp với một Liên minh gồm 25
đến 28 thành viên. Hơn nữa các thành viên cũ phải tập trung nguồn lực để cải
cách cơ cấu kinh tế của các thành viên mới cho đồng nhất với cơ cấu kinh tế của
các thành viên cũ, đồng thời để nâng mức sống của cộng đồng dân cư khu vực các
thành viên mới chỉ bằng 24% mức GDP đầu người trung bình ở các thành viên cũ.
Tuy nhiên, khi lượng người tiêu dùng tăng lên, thị trường được mở rộng

sẽ kích thích kinh tế phát triển. Việc Châu Âu liên minh lại với nhau sẽ đưa đến
một châu lục mạnh hơn và ổn định hơn, bổ sung cho nhau về nhiều lĩnh vực như
thị trường tiêu thụ sản phẩm, lao động, đầu tư,.v.v., như vậy có thể giúp Châu
Âu tận dụng được những lợi thế trong một thị trường nội địa thống nhất. Một thị
trường lớn như vậy sẽ tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư và tạo thêm nhiều việc làm
cho công dân trong khối, tăng cường sự thịnh vượng cho cả thành viên cũ và
mới. Khi vai trị vị trí của EU trong nền kinh tế thế giới được tăng cường và cải
thiện hơn thì sẽ có tác động rất lớn đến tiếng nói chính trị, an ninh, thương mại
và các lĩnh vực quản lý toàn cầu khác của EU trên trường quốc tế.
Hộp 1: Niên biểu của EU
9-5-1950: trong diễn văn lấy cảm hứng từ Jean Monnet, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Robert
Schuman đề xuất rằng Pháp, Đức và bất kỳ quốc gia châu Âu nào muốn tham gia hãy cùng liên kết
quản lý chung về than và thép (“Tuyên bố Schuman”).
18-4-1951: Sáu ưnớc (Bỉ, Pháp, Đức, Italia, Lucxămbua, Hà Lan) Ký Hhiệp ươc Paris về
thành lập Cộng đồng than và thép Châu Âu (ECSC).
25-3-1957: Các hiệp ước thành lập Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) và Cộng đồng năng lượng
nguyên tử châu Âu (EURATOM) được 6 nước ký kết (Bỉ, Pháp, Đức, Italia, Lúcxămbua, Hà Lan) tại
Rome, và hiện nay vẫn được nhắc tới với tên gọi Các hiệp ước Rome.
1-7-1967: Hiệp ước sáp nhập để gắn kết các cộng đồng châu Âu lại (ECSC, EEC,
EURATOM) bắt đầu có hiệu lực. Kể từ đó, các cộng đồng châu Âu sẽ có duy nhất một Uỷ ban và một
Hội đồng.
13-3-1979: Hội đồng châu Âu họp tại Paris đã cho ra đời Hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS)
7-10-1979: Bầu cử Quốc hội châu Âu lần đầu tiên theo chế độ phổ thông đầu phiếu trực tiếp.
17-2-1986: Đạo luật về một châu Âu đơn nhất sửa đổi Hiệp ước Rome được ký kết.
1-7-1990: Giai đoạn đầu tiên của Liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu (EMU) được thực hiện.
Bốn nước thành viên (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hy Lạp và Ailen) được dành cho quy chế ngoại


14
lệ.

16-12-1991: “Các thoả ước châu Âu” được ký kết với Ba Lan, Hunggari và Tiệp Khắc. Một
Hiệp ước dự thảo được ký kết tại Maastricht sau khi kết thúc Hội nghị liên chính phủ về Liên minh
kinh tế và tiền tệ.
7-2-1992: Hiệp ước về Liên minh Châu Âu được Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Tài
chính các nước ký kết tại Maastricht.
22-6-1993: Hội đồng Châu Âu họp tại Copenhagen cam kết rằng các nước Trung và Đông Âu sẽ
trở thành thành viên chính thức ngay khi họ thoả mãn được các điều kiện tiền đề về kinh tế và chính trị.
1-1-1994: Giai đoạn II của Liên minh kinh tế và tiền tệ bắt đầu và Viện Tiền tệ châu Âu
(EMI) được thành lập.
17-6-1997: Hội đồng châu Âu họp tại Amsterdam và đưa ra dự thảo Hiệp ước mới.
30-3-1998: Một cuộc gặp cấp bộ trưởng đã khởi động cho quá trình gia nhập của 10 nước
Trung và Đơng Âu, Síp và Manta.
3-5-1998: một Hội đồng đặc biệt quyết định rằng 11 nước thành viên đã đáp ứng được yêu
cầu về sử dụng đồng tiền chung kể từ ngày 1-1-1999. Chủ tịch của Ngân hàng Trung ương châu Âu
được bổ nhiệm.
1-1-1999: Đồng Euro chính thức ra đời tại các quốc gia: Áo, Bỉ, Phần Lan, Đức, Ailen, Italia,
Lucxămbua, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha.
7-8-12-2000: Một Hiệp ước mới được ký kết tại Nice, ngay sau khi kết thúc Hội nghị liên
chính phủ (IGC).
15-12-2001: Tuyên bố Laeken khởi động cho quá trình cải cách Hiến pháp.
28-2-2002: Các đồng nội tệ quốc gia hết giá trị pháp lý tại EMU. Hội nghị về cải cách thể chế
được bắt đầu tại Brussels (Brucxen).
9-10-2002: Uỷ ban tuyên bố rằng 8 nước Trung và Đơng Âu (Ba Lan, Cộng hồ Séc,
Hunggari, Xlơvakia, Xlơvenia, Extơnia, Lýtva, Látvia) cộng với Síp và Manta sẽ đáp ứng được tiêu
chuẩn Copenhagen vào năm 2002.
25-10-2002: Một Hội đồng châu Âu đặc biệt được triệu tập tại Brussels đã thông qua đề xuất
của Uỷ ban châu Âu.
28-10-2002: Một khuôn khổ đầu tiên của Hiến pháp Châu Âu được Chủ tịch Hội nghị Châu
Âu Valery Giscar d’Estaing đưa ra.
12-13-12-2002: Hội đồng châu Âu họp tại Copenhagen chính thức kết thúc các cuộc đàm

phán xin gia nhập đối với 8 nước Trung và Đơng Âu +Manta và Síp; một khoản tài chính trọn gón
được nhất trí dành cho mỗi nước trong các năm 2004 – 2005 – 2006.
1-2-2003: Hiệp ước Nice bắt đầu có hiệu lực.
16-4-2003: Các hiệp ước kết nạp thành viên mới được ký kết tại Athens.
20-6-2003: Bản dự thảo Hiến pháp được đệ trình ra cuộc họp tại Saloniki của người đứng
đầu nhà nước và chính phủ các nước thành viên.
5-2004: Mười quốc gia thành viên mới gia nhập EU.


15
1.3. SỰ CẦN THIẾT ĐẨY MẠNH QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM EU
1.3.1 Về phía EU
Theo đánh giá một cách khách quan và đầy đủ về tiềm năng và vai trị
của Việt Nam đối với EU thì Việt Nam trước hết có vị trí địa lý, chính trị thuận
lợi cho giao lưu quốc tế. Với vị trí trung tâm của Đông Nam Á, Việt Nam được
như “ngã sáu mặt tiền của bán đảo Đơng Dương, là cửa ngõ nhìn ra Thái Bình
Dương của bán đảo này. Trong con mắt của châu Âu, Việt Nam là một thị
trường đầy hấp dẫn với tiềm năng to lớn về kinh tế, tài nguyên và con người.
Ngồi ra, Việt Nam cịn là nguồn cung cấp nguyên liệu khá dồi dào cho
các nhà đầu tư từ châu Âu, mặc dù tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam tính
trên đầu người khơng phải giàu. Những đánh giá cao của các nước châu Âu về
Việt Nam được khẳng định trong lời nói của Chủ Tịch Uỷ ban châu Âu, ông
Jacques Delors, khi Thủ tướng võ Văn Kiệt tới thăm các nước EU tháng 6/1995:
“Liên minh châu Âu khơng thể có mặt ở khắp nơi trên thế giới, nhưng Việt Nam
là nước phải được ưu tiên. Cộng đồng sẽ dành cho Việt Nam tình cảm xứng
đáng, sự giúp đỡ và hợp tác cần thiết”.
Qua đó, có thể nói việc thúc đẩy hợp tác kinh tế quốc tế nói chung và
thương mại nói riêng của Việt Nam với EU là hết sức cần thiết và quan trọng,
nó giúp cho EU khai thác những lợi thế của Việt Nam ngày càng thuận lợi, tăng
cường vị thế của Việt Nam trên thị trường này.

1.3.2 Về phía Việt Nam
Việc tăng cường hợp tác kinh tế thương mại với các quốc gia châu Âu
có ý nghĩa to lớn, tác động tích cực đến việc triển khai chính sách đối ngoại rộng
mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam, góp
phần ổn định để xây dựng đất nước, tạo một thị trường tiềm năng to lớn hơn cho
nền kinh tế Việt Nam, đồng thời cũng phù hợp với xu hướng tồn cầu hóa, hợp
tác và phụ thuộc lẫn nhau để cùng nhau phát triển. Vì vậy việc thiết lập và tăng


16
cường quan hệ hợp tác thương mại với EU là phù hợp với xu thế chung đó.
Trong khu vực châu Âu, EU là một trung tâm kinh tế mạnh, có vai trò
lớn trong nền kinh tế và thương mại thế giới. EU cũng là đơn vị giao dịch thống
nhất lớn nhất thế giới, chiếm tới 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa
tồn cầu. Vai trị quan trọng của EU trong mậu dịch tồn cầu sẽ cịn lớn hơn với
kế hoạch mở rộng và phát triển trong 5-10 năm tới, trong đó có việc đón nhận
các thành viên mới ở Đông Âu. EU với tư cách là một Liên minh kinh tế và tiền
tệ lớn, một trong ba trung tâm kinh tế của thế giới, đã có ảnh hưởng không nhỏ
đến sự phát triển kinh tế thương mại của Việt Nam trong thập kỷ 90 thế kỷ 20.
Những tác động tích cực của EU đối với kinh tế Việt Nam sẽ góp phần củng cố
và hồn thiện hơn mối quan hệ thương mại Việt Nam- EU nói riêng và cũng như
ASEAN- EU nói chung trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21.
Bên cạnh đó, trên cơ sở lý thuyết về lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh
tương đối thì cơ cấu kinh tế của Việt Nam và các nước châu Âu hồn tồn có thể
bổ sung cho nhau. Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam lại là
những mặt hàng mà thị trường châu Âu có nhu cầu nhập khẩu lớn và ngược lại.
Quan hệ thương mại Việt Nam- EU được phát triển, mở rộng, Việt Nam
có điều kiện đẩy mạnh xuất nhập khẩu, trao đổi hàng hóa với nước ngồi, góp
phần cân bằng cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu, hạn chế và phân tán rủi ro
thương mại, tránh bị phụ thuộc vào một thị trường. Đồng thời, thị trường Việt

Nam sẽ trở nên phong phú hơn, đa dạng và nhộn nhịp hơn các hàng hóa nhập
khẩu từ châu Âu, người tiêu dùng có nhiều cơ hội chọn lựa các mặt hàng nhập
khẩu từ châu Âu. Ngồi ra, Việt Nam cũng có điều kiện tham gia vào phân công
lao động quốc tế qua các chương trình hợp tác liên doanh, tạo điều kiện đầu tư,
phát triển chiều sâu theo hướng chun mơn hóa sản xuất quốc tế. Cụ thể, thị
trường Việt Nam sẽ trở nên hấp dẫn hơn và do đó thu hút được nhiều hơn các
dịng vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi và hỗ trợ phát triển chính thức cùng với
những cơng nghệ mới, hiện đại, kỹ năng quản lý đi kèm theo, không những từ


17
các nhà đầu tư châu Âu mà cả các nhà đầu tư nước ngoài khác trên thế giới và
trong khu vực. Với sự gia tăng về bổ sung tài chính như vậy, Việt Nam sẽ có
điều kiện để tăng cường sản lượng công nghiệp của các ngành công nghiệp, tăng
kim ngạch xuất nhập khẩu, thúc đẩy quá trình mở rộng dung lượng thị trường
trong và ngồi nước, khai thơng một số thị trường mà trước đay Việt Nam còn
bỏ trống, tạo lợi thế cho hàng Việt Nam thâm nhập ổn định vị các thị trường
này. Khơng những thế, Việt Nam sẽ có cơ hội để trả nợ cũ, cân đối ngân sách,
tăng nguồn thu ngoại tệ, mua mới các trang thiết bị, máy móc hiện đại cải tiến
các điều kiện sản xuất, nâng cấp cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phần tiêu dùng thường
xuyên và đáp ứng các nhu cầu phát sinh.
Như vậy, sự tăng cường các hoạt động trao đổi thương mại giữa Việt
Nam và EU cho phép các yếu tố sản xuất đang được sử dụng ở trong nước được
phân bổ lại một cách hiệu quả hơn; đồng thời tối đa hóa giá trị sử dụng, khai
thác, tăng mức độ mở rộng quy mơ chun mơn hóa sản xuất, tận dụng đợc quy
luật hiệu quả tăng dần theo quy mơ sản xuất, đem lại lợi ích cao về mặt kinh tế.
Thêm vào đó, Việt Nam có cơ hội thuận lợi để đối chiếu, tham khảo, học hỏi
kinh nghiệm về quản lý, kỹ thuật sản xuất.., đào tạo được một nguồn nhân lực
dồi dào và có chất lượng, đáp ứng nhu cầu kỹ thuật công nghệ trong thời gian
mới, đồng thời cung cấp công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho

người lao động, góp phần phát triển xã hội.
1.4 THỊ TRƯỜNG EU
1.4.1 Đặc điểm của thị trường EU
EU là một thị trường rộng lớn với khoảng 490 triệu dân của 25 nước
thành viên, mỗi nước thành viên lại có đặc điểm tiêu dùng riêng. Do đo, có thể
thấy rằng, thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng và phong phú về chủng loại
hàng hóa. Có những loại hàng rất dược ưa chuộng ở thị trường Pháp, Italia hay
Bỉ nhưng lại không được người tiêu dùng Anh, Ailen, Đan Mạch hoặc Đức thích
dùng. Tuy có những khác biệt nhất định về tập quán, thị hiếu tiêu dùng giữa các


18
thị trường của từng quốc gia trong khối EU, nhưng 15 nước thành viên cũ đều là
những quốc gia nằm ở khu vực Tây Bắc Âu nên có những điểm tương đồng về
kinh tế và văn hóa.
Ngày nay, những tập quán, tâm lý xã hội, văn hoá đặc thù của dân tộc
khơng phải là rào cản q khó khăn để vượt qua. Hơn nữa, do xu thế tồn cầu
hố, khu vực hố mạnh mẽ nên trong kinh doanh có những yếu tố văn hố ngày
càng gần với thơng lệ, chuẩn mực quốc tế. Mặt khác, thị trường EU thống nhất
cho phép tự do lưu chuyển sức lao động, hàng hoá và vốn giữa các nước thành
viên. Do đó, thị trường EU có tính đa dạng trong sự thống nhất.
1.4.1.1 Tập quán, thị hiếu tiêu dùng và kênh phân phối
Tập quán và thị hiếu tiêu dùng
Do trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các nước thành viên khá đồng
đều và có những điểm tương đồng về địa lý, văn hố, cho nên người dân thuộc
khối EU có những điểm chung về sở thích và thói quen tiêu dùng.
Đối với hàng may mặc và giầy dép: Người dân Áo, Đức và Hà Lan chỉ
mua hàng may mặc và giầy dép khơng chứa chất nhuộm có nguồn gốc hữu cơ
(Azo - dyes). Khách hàng EU đặc biệt quan tâm tới chất lượng và thời trang của
hai loại sản phẩm này. Nhiều khi yếu tố thời trang lại có tính quyết định cao hơn

nhiều so với giá cả. Đối với nhóm hàng giầy dép: Người tiêu dùng EU đang có
xu hướng đi giày vải. Đối với hai mặt hàng này nhu cầu thay đổi nhanh chóng,
đặc biệt về mẫu mốt.
Đối với thuỷ hải sản: Một điểm đáng lưu ý là EU đang có xu hướng giảm
tiêu dùng súc sản, gia cầm và tăng tiêu dùng thủy hải sản. Tuy nhiên, người tiêu
dùng EU không mua những sản phẩm thuỷ hải sản nhập khẩu bị nhiễm độc do
tác động của môi trường hoặc do chất phụ gia không được phép sử dụng. Với
sản phẩm thuỷ hải sản đã qua chế biến, người Châu Âu chỉ dùng những sản
phẩm đóng gói có ghi rõ tên sản phẩm nơi sản xuất, các điều kiện bảo quản và sử
dụng, mã số và mã vạch. Họ tẩy chay các loại thuỷ hải sản nhập khẩu có chứa


19
khuẩn salmonella, độc tố lustamine, nhiễm V.Parahaemoliticus, nhiễm
V.cholesae. Người Châu Âu ngày càng ăn nhiều thuỷ hải sản vì họ cho rằng sẽ
giảm được béo mà vẫn khoẻ mạnh.
Người tiêu dùng EU có sở thích và thói quen sử dụng các sản phẩm có
nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới. Họ cho rằng, những nhãn hiệu này gắn liền với
chất lượng sản phẩm và có uy tín lâu đời, cho nên dùng những sản phẩm mang
nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất an toàn về chất lượng và an toàn cho người sử dụng.
Nhiều trường hợp, những sản phẩm này giá rất đắt nhưng họ vẫn mua và khơng
thích thay đổi sang các sản phẩm không nổi tiếng khác cho dù giá rẻ hơn nhiều.
Đặc biệt đối với những sản phẩm của nhà sản xuất khơng có danh tiếng thì rất
khó tiêu thụ vì họ cho rằng mua những sản phẩm như vậy sẽ không đảm bảo chất
lượng về vệ sinh thực phẩm và an toàn cho người sử dụng, do đó khơng an tồn
đối với sức khoẻ và cuộc sống của họ.
EU là một trong những thị trường lớn trên thế giới cũng như Mỹ, nhưng
khác với thị trường Mỹ ở chỗ EU là một cộng đồng kinh tế mạnh, trung tâm văn
minh lâu đời của nhân loại, do đó sở thích của người tiêu dùng Châu Âu rất cao
sang. Họ có thu nhập, mức sống cao và khá đồng đều, yêu cầu khắt khe về chất

lượng và độ an tồn của sản phẩm nói chung, cịn đối với thực phẩm thì chất
lượng và vệ sinh là hàng đầu. Yếu tố quyết định tiêu dùng ở thị trường này là
chất lượng hàng hố chứ khơng phải là giá cả đối với đại đa số các mặt hàng
được tiêu thụ trên thị trường này.
Thị trường EU về cơ bản cũng giống như một thị trường quốc gia, do vậy
có 3 nhóm người tiêu dùng khác nhau: Một là, nhóm có khả năng thanh toán ở
mức cao, chiếm gần 20% dân số của EU, dùng hàng có chất lượng tốt nhất và giá
cả cũng đắt nhất hoặc những mặt hàng hiếm và độc đáo; Hai là, nhóm có khả
năng thanh tốn ở mức trung bình, chiếm 68% dân số, sử dụng chủng loại hàng
có chất lượng kém hơn một chút so với nhóm 1 và giá cả cũng rẻ hơn; Ba là,
nhóm có khả năng thanh tốn ở mức thấp hơn so với hàng của nhóm 2. Hàng hố
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường này gồm cả hàng cao cấp lẫn hàng


20
bình dân phục vụ cho mọi đối tượng. Đối tượng tiêu dùng hàng Việt Nam là
nhóm hai và ba. Các đối thủ cạnh tranh chính của hàng Việt Nam là hàng Trung
Quốc và hàng của các nước ASEAN khác.
Xu hướng tiêu dùng trên thị trường EU đang có những thay đổi như:
khơng thích sử dụng đồ nhựa mà thích dùng đồ gỗ, thích ăn thuỷ hải sản hơn ăn
thịt, yêu cầu về mẫu mốt và kiểu dáng hàng hoá thay đổi nhanh, đặc biệt đối với
những mặt hàng thời trang như giầy dép, quần áo. Cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học cơng nghệ, sở thích và thói quen tiêu dùng của người Châu Âu
đang có xu hướng chuyển từ những sản phẩm chất lượng cao, giá đắt, vịng đời
sản phẩm dài sang những sản phẩm có chu trình sống ngắn hơn, giá rẻ hơn và
phương thức dịch vụ tốt hơn. Tuy vậy, chất lượng hàng hoá vẫn là yếu tố quyết
định đối với phần lớn các mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này.
Kênh phân phối
Hệ thống phân phối EU về cơ bản cũng giống như hệ thống phân phối của
một quốc gia, gồm mạng lới bán buôn và mạng lới bán lẻ. Hiện nay, cuộc cách

mạng khoa học công nghệ ở Tây Âu đã dẫn tới sự thay đổi cơ cấu các ngành
kinh tế, kéo theo sự biến đổi về cơ cấu ngành kinh tế, kéo theo là trào lưu “Nhất
thể hoá” và “Tổ chức lại” các cơng ty xun quốc gia.
“Nhất thể hố” hay là sự sát nhập hợp nhất của các công ty xun quốc
gia. Q trình này đang diễn ra sơi động trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất đến
lu thông, và biểu hiện đậm nét ở các ngành: hàng không, sản xuất ơtơ, tài chính ngân hàng - bảo hiểm.
Trào lưu “Tổ chức lại” cũng không kém phần sôi động thơng qua việc tìm
nguồn cung ứng từ nước ngồi, tập trung vào việc phát triển những sản phẩm
công nghệ cao ở trong nước và hoạt động tiếp thị.
Các công ty xun quốc gia EU thường phát triển theo mơ hình gồm:
ngân hàng hoặc cơng ty tài chính, nhà máy, cơng ty thương mại, siêu thị, cửa
hàng .v.v… Các công ty xuyên quốc gia tổ chức mạng lưới tiêu thụ hàng của
mình rất chặt chẽ, họ chú trọng từ khâu đầu tư sản xuất hoặc mua hàng đến khâu


21
phân phối hàng cho mạng lới bán lẻ.
Hình thức tổ chức phổ biến nhất của các kênh phân phối trên thị trường
EU là theo tập đồn và khơng theo tập đồn. Kênh phân phối theo tập đồn có
nghĩa là các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu cả một tập đoàn chỉ cung cấp cho các hệ
thống cửa hàng siêu thị của tập đồn này mà khơng cung cấp hàng cho hệ thống bán
lẻ của tập đồn khác. Cịn kênh phân phối khơng theo tập đồn hay gọi là kênh phân
phối tự do gồm các nhà sản xuất và nhập khẩu của tập đồn này, ngồi việc cung
cấp hàng hố cho hệ thống bán lẻ của tập đồn mình cịn cung cấp hàng hoá cho hệ
thống bán lẻ của tập đồn khác và các cơng ty bán lẻ độc lập.
Hệ thống phân phối của EU đã hình thành lên một tổ hợp rất chặt chẽ và
có nguồn gốc lâu đời. Tiếp cận được hệ thống phân phối này không phải là việc
dễ đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam, vì các nhà bán bn và bán lẻ trong hệ
thống phân phối của EU thường có quan hệ làm ăn lâu đời và rất ít khi mua hàng
của các nhà cung cấp khơng quen biết cho dù giá hàng có rẻ hơn nhiều bởi uy tín

kinh doanh với khách hàng của họ được đặt lên hàng đầu. Muốn giữ được điều
này thì hàng phải đảm bảo chất lượng và nguồn cung cấp ổn định. Vì vậy, các
nhà xuất khẩu của ta muốn tiếp cận các kênh phân phối chủ đạo trên thị trường
EU thì phải tiếp cận được với các nhà nhập khẩu EU. Thực hiện điều này có thể
bằng cách xuất khẩu trực tiếp hoặc liên doanh với các công ty xuyên quốc gia
EU để trở thành công ty con.
1.4.2 Chính sách ngoại thương của EU
Đặc điểm cơ bản nhất trong chính sách ngoại thương EU là tất cả các
thành viên của EU đều áp dụng một chính sách ngoại thương chung đối với các
nước ngồi khối. Chính sách ngoại thương của EU bao gồm: Chính sách thương
mại tự trị và chính sách thương mại dựa trên nguyên tắc: khơng phân biệt đối xử,
minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng. Các biện pháp được áp dụng
phổ biến trong chính sách này là thuế quan, hạn chế về số lượng hàng rào kỹ


22
thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu.
1.4.2.1 Biểu thuế quan thống nhất (CCT – Common Custom Tariff)
EU áp dụng biểu thuế quan chung (CCT) đối với các mặt hàng công
nghiệp. Đây là công cụ chủ yếu trong chính sách thương mại của liên minh.
Các thành phần của CCT bao gồm danh mục các mặt hàng tính thuế, các
qui định về cách tính thuế, miễn hoặc giảm thuế, xuất xứ hàng hố. Hiệp ước
Roma có quy định điều khoản theo đó các thành viên EC ln sẵn sàng đàm
phán nhằm cắt giảm các mức thuế quan chung. Khi CCT đã được xây dựng ở các
mức thì các thành viên phải có nghĩa vụ áp dụng chúng theo một cách thống
nhất. Điều này liên quan đến danh mục các mặt hàng, thủ tục tính thuế và các
quy định về xuất xứ hàng hoá kết hợp với việc thực hiện chương trình ưu đãi
thuế quan phổ cập (GSP).
Muốn nắm được các đặc điểm trong chính sách ngoại thương EU, cần
phải nghiên cứu biểu thế quan có liên quan đến xuất xứ của hàng hoá. Xuất xứ

hàng hoá của EU được quy định như sau:
- Đối với các sản phẩm hoàn toàn được sản xuất tại lãnh thổ nước hưởng
GSP như: khoáng sản, động thực vật, thuỷ sản đánh bắt trong lãnh hải và các
hàng hoá sản xuất từ sản phẩm đó được xem là có xuất xứ và được hưởng GSP.
- Đối với các sản phẩm sản xuất tại nước hưởng GSP (tính theo giá xuất
xưởng) phải đạt 60% tổng trị giá hàng liên quan. Tuy nhiên, đối với một số nhóm
hàng thì hàm lượng này thấp hơn. EU quy định cụ thể tỷ lệ trị giá và công đoạn gia
cơng đối với một số nhóm hàng mà u cầu phần trị giá sáng tạo thấp hơn 60%.
EU còn quy định xuất xứ cộng gộp, theo đó hàng của một nước có thành
phần xuất xứ từ một nước cùng một tổ chức khu vực cũng được GSP thì các thành
phần đó cũng được xem là có xuất xứ từ nước liên quan. Đây là đặc điểm về xuất
xứ của EU mà các doanh nghiệp Việt Nam cần hết sức lưu ý và vận dụng.
1.4.2.2 Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) của EU
Chế độ GSP là một biện pháp đẩy mạnh thương mại của EU đối với các
nước đang và chậm phát triển (trong đó có Việt Nam) với mục đích giúp cho


23
hàng hóa của nước này tăng khả năng thâm nhập vào thị trường EU thông qua
một số ưu đãi thuế quan nhất định, từ đó thúc đẩy kinh tế của các nước này phát
triển. Chế độ GSP được xây dựng dựa trên ngun tắc tự nguyện, khơng địi hỏi
có đi có lại, đơn phương quyết định.
Chương trình này trong những năm gần đây được cụ thể hoá ở một số văn
bản sau: Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập sửa đổi bắt đầu áp dụng cho giai
đoạn 1/1/2002 đến 31/12/2004 (đã gia hạn hết năm 2005). Hệ thống mới này đã
kết hợp với sáng kiến “Mọi sản phẩm trừ vũ khí _ EBA” dành cho các nước kém
phát triển nhất có hiệu lực từ 5/3/2001. Tuy nhiên, có 3 mặt hàng có lộ trình tự
do hố riêng tự do hố hồn tồn. Gạo sẽ giảm 20% vào ngày 1/9/2006, 50% vào
1/9/2007, 80% vào ngày 1/7/2006, 50% vào ngày 1/7/2007, 80% vào 1/7/2008
và tự do hố hồn tồn vào 1/7/2009.

Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập dành cho 143 nước độc lập và 36 nước
và khu vực lãnh thổ thuộc địa. Hệ thống GSP mới đã đơn giản hoá việc phân loại
sản phẩm hàng hoá từ 4 loại là không nhạy cảm, rất nhạy cảm, nhạy cảm và bán
nhạy cảm thành 2 loại là không nhạy cảm và nhạy cảm.
Nhóm 1- sản phẩm rất nhạy cảm bao gồm: phần lớn là nơng sản và một số
ít sản phẩm cơng nghệp tiêu dùng như chuối tươi, chuối khô, dứa tươi, dứa hộp
(lượng đường không quá 17% trọng lượng), quần áo may sẵn, nguyên liệu thuốc
lá, lụa tơ tằm… được hưởng mức thuế GSP bằng 85% thuế suất MFN. Đây là
nhóm mặt hàng mà EU hạn chế nhập khẩu.
Nhóm 2 – sản phẩm nhạy cảm: chủ yếu là thực phẩm, đồ uống, hóa chất,
ngun liệu, hàng thủ cơng (gạch lát nền, đồ sứ), giày dép, hàng điện tử dân
dụng, xe đạp, ô tô, đồ chơi trẻ em được hưởng mức thuế GPS bằng 70% thuế
suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng mà EU khơng khuyến khích nhập khẩu.
Nhóm 3 – sản phẩm bán nhạy cảm: bao gồm phần lớn thủy sản đông lạnh
(tôm, cua, mực đông lạnh, cá tươi ướp lạnh), một số ngun liệu và hóa chất, hàng
cơng nghiệp dân dụng (máy điều hòa, máy giặt, tủ lạnh)…được hưởng mức thuế


24
GSP bằng 35% thuế suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng EU khuyến khích nhập khẩu.
Nhóm 4 – sản phẩm không nhạy cảm: chủ yếu là một số loại thực phẩm,
đồ uống (nước khoáng, bia, rượu) nguyên liệu (than đá, dầu thô, cao su,…), nông
sản (dừa cả vỏ, hạt điều)…được hưởng mức thuế GSP bằng 0% đến 10% thuế
suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng EU đặc biệt khuyến khích nhập khẩu.
Các biện pháp khuyến khích trong GSP của EU so với ưu đãi mà các nước
và khu vực dành cho các nước đang phát triển vào loại thấp nhất. Theo GSP của
EU bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/1999 thì những trường hợp sau được hưởng
ưu đãi thêm:
+ Bảo vệ quyền lợi của người lao động: nước hưởng GSP cần chứng minh
trong các văn bản pháp quy của mình có các quy định về các tiêu chuẩn áp dụng

các nguyên tắc về tổ chức, đàm phán tập thể và tuổi lao động tối thiểu.
+ Bảo vệ môi trường: các văn bản pháp quy của nước hưởng GSP phải có
các quy định áp dụng các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường.
Uỷ ban châu Âu đề xuất hệ thống ưu đãi thương mại cho giai đoạn
2006-2008 dành cho các nước hưởng lợi có nhu cầu nhất, đơn giản hơn và
khuyến khích phát triển bền vững:
Ngày 20/10/2004, Uỷ ban châu Âu đã thông qua một đề xuất bao gồm
những chi tiết về hệ thống ưu đãi thương mại EU (Hệ thống Ưu đãi Phổ cập –
GSP) cho giai đoạn 2006-2008. Đề xuất này được xây dựng trên hướng dẫn của
Uỷ ban châu Âu ban hành trong tháng 7/2004.
GSP là một cơng cụ chính để giúp các nước đang phát triển giảm nghèo
đói bằng cách khuyến khích xuất khẩu sang châu Âu. Đề xuất của Uỷ ban là
nhằm cải thiện hệ thống hiện tại trong một số lĩnh vực: đơn giản hoá (cắt giảm từ
5 xuống 3 thoả thuận); mở rộng diện sản phẩm; tập trung lợi ích vào những mặt
hàng mà các nước đang phát triển đang cần nhất; thiết lập các lợi ích GSP bổ
sung (GSP +) nhằm khuyến khích phát triển bền vững. Văn bản này sẽ được gửi
đến các thành viên EU, Nghị viện châu Âu và Uỷ ban Kinh tế và Xã hội để


25
thông qua và đi vào thực hiện ngày 1/7/2005.
Nội dung chủ yếu của đề xuất:
Một GSP mới đơn giản hơn: Năm nhóm GSP hiện tại được giảm xuống
cịn 3 nhóm gồm:
- Giảm 3,5% trong tổng thuế quan thông thường cho các sản phẩm nhạy
cảm, giảm thuế quan xuống 0 cho các sản phẩm không nhạy cảm),
- Được xuất khẩu “Mọi thứ trừ vũ khí” đem lại tiếp cận khơng thuế quan
và không hạn ngạch cho tất cả các sản phẩm cho 50 nước nghèo nhất thế giới;
- Cơ chế mới về “GSP +” nhằm dành ưu đãi thuế quan cho những nước
dễ bị tổn thương, những nước đáp ứng các tiêu chuẩn mới về phát triển bền vững

và quản lý tốt (giảm xuống thuế suất 0 cho tổng số 7200 sản phẩm); Cơ chế này
thay thế ba cơ chế khuyến khích cũ (thuốc; xã hội và các thoả thuận mơi trường)
GSP mới sẽ được áp dụng trong suốt 3 năm mà khơng có thay đổi nào.
GSP mới sẽ mở rộng thêm gần 300 sản phẩm được hưởng ưu đãi.
GSP sẽ chỉ được rút bỏ khỏi các nhóm sản phẩm của một hoặc một vài
nước – khi mà những sản phẩm này đã đạt mức cạnh tranh trên thị trường Cộng
đồng và khơng cịn cần tới GSP. Việc xem xét sẽ dựa trên một tiêu chí đơn giản:
khi một nhóm sản phẩm (“phần” của mã hải quan) từ một nước cụ thể vượt quá
15% tổng nhập khẩu EU cho cùng một loại sản phẩm theo GSP trong 3 năm liên
tục. Việc xem xét loại bỏ này không phải là một khoản phạt, mà là một dấu hiệu
rằng GSP đã thực hiện thành công chức năng tạo nên luồng xuất khẩu; và do vậy
GSP sẽ mang lại lợi ích tốt hơn cho các nước yếu nhất và dễ tổn thương nhất.
GSP mới sẽ linh hoạt hơn về quy tắc xuất xứ: Sự tích lũy khu vực cần được
tăng cường để cho phép các thành viên của một nhóm khu vực (ASEAN, …) sử
dụng tốt hơn những ưu đãi, do vậy thúc đẩy hợp tác khu vực. Đặc biệt, tích lũy khu
vực sẽ được thông qua việc loại bỏ các tiêu chuẩn nguyên tắc giá trị gia tăng. Hơn
nữa, sẽ có tích lũy giữa các khu vực nếu các quốc gia quan tâm yêu cầu nó.
Hệ thống GSP+ được đưa ra dựa trên các tiêu chí rõ ràng, minh bạch và khơng


26
phân biệt đối xử, hoàn toàn tuân thủ phán quyết của Cơ quan Phúc thẩm WTO.
1.4.2.3 Chính sách chống bán phá giá
Các quy định về chống bán phá giá của EU được xây dựng trên cơ sở điều
khoản của WTO về lĩnh vực này. Theo nguyên tắc của WTO, EC chỉ được áp
dụng các biện pháp chống bán phá giá trong trường hợp các ngành công nghệ
của EU bị tổn hại do việc nhập khẩu các sản phẩm phá giá. Đây là những sản
phẩm được bán trên thị trường nội địa với múc giá “thông thường”. Tuy nhiên,
việc so sánh các mức giá này thường gặp khó khăn. Cách tính giá “thơng
thường” của EU dựa vào chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận cận biên. Vấn đề là

mức lợi nhuận như thế nào mới được coi là thích hợp. Xu hướng của EU là tính
mức lợi nhuận cao, có khi tới 30%.
Bán phá giá thường liên quan tới hàng nhập khẩu bán giá rẻ hoặc với giá
thấp hơn chi phí, nhưng thực tế vấn đề này phức tạp hơn nhiều. Quy chế chống
bán phá giá năm 1996 quy định việc áp dụng thuế chống bán phá giá, nhưng chỉ
được áp dụng thuế này trong những điều kiện sau:
- Có phát hiện bán phá giá: Giá xuất khẩu của sản phẩm bán trên thị
trường cộng đồng Châu Âu thấp hơn giá bán tại thị trường trong nước của nhà
xuất khẩu.
- Có tổn hại vật chất cho doanh nghiệp của cộng đồng: Hàng nhập khẩu
gây ra hoặc đe doạ gây tổn thất cho phần lớn ngành kinh doanh trong cộng đồng
Châu Âu, chẳng hạn như mất thị phần, buộc các nhà sản xuất phải giảm giá và
gây sức ép đối với sản xuất, bán hàng, lợi nhuận, năng suất…
- Lợi ích của Cộng đồng: Chi phí mà cộng đồng bỏ ra để thực hiện các
biện pháp không được tỷ lệ nghịch với lợi ích thu được.
Uỷ Ban Châu Âu chịu trách nhiệm điều tra những khiếu nại và đánh giá
liệu những khiếu nại này có hợp lý hay khơng. Uỷ Ban cũng có thể áp dụng các
biện pháp chống bán phá giá tạm thời và chỉ được áp dụng biện pháp chống bán
phá giá chính thức đối với sản phẩm than và thép. Hội đồng Bộ trưởng là nơi


27
quyết định biện pháp chống bán phá giá chính thức trong mọi trường hợp.
Khi mức bán phá giá đã được tính tốn thì bước tiếp theo là xác định liệu
các mặt hàng bán phá giá đó có tổn hại đến ngành sản xuất nội địa hay không.
Mức độ gây tổn hại thường được đo bằng các chỉ số như lợi nhuận, cơng suất
hoạt động và thị phần. Q trình này cần đến việc thu thập và xử lý một lượng
thông tin lớn về kinh tế, tài chính và thương mại.
Sau khi xác định được mức bán phá giá và mức độ tổn hại đối với các
ngành sản xuất nội địa, EU sẽ áp dụng các mức thuế chống bán phá giá hoặc

chấp nhận đề nghị từ phía người xuất khẩu là họ sẽ giảm lượng bán hoặc nâng
mức giá xuất khẩu lên.
1.4.2.4 Các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng của Liên minh châu Âu
Một đặc điểm nổi bật trên thị trường EU là quyền lợi người tiêu dùng rất
được bảo vệ, khác hẳn với thị trường của các nước đang phát triển. Để đảm bảo
quyền lợi cho người tiêu dùng, EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi
sản xuất và có các hệ thống báo động giữa các nước thành viên, đồng thời bãi bỏ
việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. EU ban hành một hệ thống quy định bảo
vệ người tiêu dùng như quy định các thành phần của sản phẩm, cách bảo quản và
khi có hiện tượng độc hại thì kịp thời báo động; kể cả việc làm sai quy cách
như : đóng gói bao bì, nhãn mác, các sản phẩm nhập lậu, đánh cắp bản quyền …
Các tổ chức chuyên nghiên cứu đại diện cho giới tiêu dùng sẽ đưa ra các quy chế
định chuẩn Quốc gia hoặc châu Âu. Tất cả các sản phẩm chỉ có thể bán được ở
thị trường này với điều kiện phải đảm bảo tiêu chuẩn an toàn chung của EU, các
luật và định chuẩn quốc gia được sử dụng chủ yếu để cấm buôn bán sản phẩm
được sản xuất ra từ các nước có những điều kiện sản xuất chưa đạt mức an toàn
ngang với tiêu chuẩn của EU.
Tóm lại: Chính sách và chế độ quản lý xuất nhập khẩu của EU rất phức tạp,
do đó cần phải có đầy đủ thơng tin cập nhật và có bộ phận theo dõi phân tích. Trong
thực tế, các nước đang phát triển chỉ sử dụng được 48% các ưu đãi của EU theo chế


28
độ GSP. EU là thị trường rất khó tính và ln địi hỏi chất lượng cao.
1.4.3 Các u cầu của thị trường EU đối với hàng xuất khẩu
Hiện nay, EU là một trong những đối tác thương mại quan trọng của Việt
Nam, là khu vực thị trường xuất khẩu lớn thứ hai sau ASEAN, đồng thời EU là
thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thế giới sau Mỹ, nhu cầu nhập khẩu hàng năm
rất lớn. Hàng năm EU nhập khẩu rất nhiều các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam như giày dép, dệt may, thuỷ sản, nông sản…Kim ngạch xuất khẩu của

Việt Nam sang EU tăng nhanh.
Hiện nay, EU vẫn là một thị trường bảo hộ rất chặt chẽ với rào cản kỹ
thuật rất nghiêm ngặt, mặc dù thuế quan của EU thấp hơn các cường quốc kinh
tế lớn và đang có xu hướng giảm. Hàng xuất khẩu Việt Nam muốn vào được thị
trường này thì phải vượt qua được rào cản kỹ thuật của EU. Rào cản kỹ thuật
chính là quy chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng của EU, được cụ thể hoá ở 5 tiêu chuẩn của sản phẩm: chất lượng, vệ sinh
thực phẩm, an toàn cho người sử dụng, bảo vệ môi trường và lao động.
1.4.3.1 Thứ nhất là tiêu chuẩn chất lượng
Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối
với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU thuộc các
nước đang phát triển. Thực tế cho thấy ở các nước đang phát triển Châu Á và
Việt Nam, hàng của những doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000 thâm
nhập vào thị trường EU dễ dàng hơn nhiều so với hàng hố của các doanh
nghiệp khơng có giấy chứng nhận này.
Đây là Hệ thống quản lý chất lượng do Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế đặt
ra để giúp các đơn vị sản xuất cải tiến hệ thống quản lý nhằm nâng cao năng
suất và chất lượng sản phẩm, duy trì sự đồng nhất và phù hợp giữa chất lượng
và giá thành. Có thể coi ISO 9000 như một ngơn ngữ xác định chữ tín giữa
doanh nghiệp và khách hàng, giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp, là sự khẳng
định cam kết cung ứng sản phẩm có chất lượng đáng tin cậy cũng như
“phương tiện thâm nhập” vào thị trường EU mà các doanh nghiệp Việt Nam


×