ĐÁP ÁN 20 CÂU TRIẾT ÔN THI TỐT NGHIỆP
Câu 1: Phân tích nội dung và bản chất của Chủ nghĩa duy vật biện chứng (CNDVBC)
với tính cách là hạt nhân lý luận của Thế gới quan khoa học (TGQKH).
Trả lời:
1. Nội dung: Có 2 nhóm quan điểm:
Quan điểm duy vật về thế giới:
Tồn tại của thế giới là tiền đề thống nhất thế giới: Trước khi thế giới có thể là
một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại. Tính thống nhất thật sự của thế giới là ở
tính vật chất của nó, tính vật chất này được chứng minh bằng một sự phát triển lâu dài và
khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên.
Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới, có nội dung như sau:
Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, vô tận.
Trong thế giới vật chất chỉ tồn tại các quá trình vật chất cụ thể, có mức độ tổ chức
nhất định; đang biến đổi chuyển hóa lẫn nhau là nguồn gốc, nguyên nhân của nhau; cùng
chịu sự chi phối bởi các quy luật khách quan của TGVC.
Ý thức, tư duy con người chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao; thế
giới thống nhất và duy nhất.
Phạm trù vật chất: vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.
Phạm trù ý thức, quan hệ giữa ý thức và vật chất: Ý thức của con người tồn tại
trước hết trong bộ óc con người, sau đó thông qua thực tiễn lao động nó tồn tại trong các vật
phẩm do con người sáng tạo ra. Ý thức gồm nhiều yếu tố: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý
chí… trong đó tri thức và tình cảm có vai trò rất quan trọng. Thông qua hoạt động thực tiễn,
ý thức con người xâm nhập vào hiện thực vật chất tạo nên sức mạnh tinh thần tác động lên
thế giới góp phần biến đổi thế giới.
Quan điểm duy vật về xã hội:
Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, nó là kết quả phát triển lâu dài của
tự nhiên, có quy luật vận động, phát triển riêng, sự vận động, phát triển của xã hội phải thông
qua hoạt động thực tiễn.
Sản xuất vật chất là cơ sở đời sống xã hội: Nền sản xuất vật chất trong từng
giai đoạn lịch sử gắn liền với một phương tiện sản xuất nhất định, sự thay đổi PTSX sẽ làm
thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội.
Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, là lịch sử phát triển các
hình thái kinh tế xã hội một cách đa dạng nhưng thống nhất từ thấp đến cao, mà thực chất là
lịch sử phát triển của xã hội.
LLSX QHSX PTSX (CSHT + KTTT) HTKTXH
Quần chúng nhân dân (QCND) là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử:
QCND là lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần,
quyết định thành bại của mọi cuộc cách mạng. Vai trò chủ thể QCND biểu hiện khác nhau ở
những điều kiện lịch sử khác nhau và ngày càng lớn dần; sức mạnh của họ chỉ được phát huy
khi họ được hướng dẫn, tổ chức, lãnh đạo.
2. Bản chất của CNDVBC:
CNDVBC đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn:
CNDV cũ thiếu quan điểm thực tiễn, máy móc không thấy được tính năng động của ý
thức; riêng CNDVBC khẳng định vật chất có trước và quyết định ý thức; trong hoạt động
- 1 -
thực tiễn ý thức tác động tích cực làm biến đổi hiện thực vật chất theo nhu cầu của con
người.
CNDVBC đã thống nhất TGQDV với phép biện chứng: CNDV cũ mang nặng
tính siêu hình, PBC được nghiên cứu trong hệ thống triết học duy tâm Mác cải tạo CNDV
cũ, giải thoát PBC ra khỏi tính thần bí, tư biện xây dựng nên CNDVBC; thống nhất giữa
TGQDV với PBC.
CNDVBC là CNDV triệt để; nó không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà
còn trong lĩnh vực xã hội. CNDVLS là cống hiến vĩ đại của C.Mác cho kho tàng tư tưởng
của loài người: CNDV cũ không triệt để; CNDV lịch sử ra đời là kết quả vận dụng CNDV
vào nghiên cứu lĩnh vực xã hội, tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán toàn bộ tư tưởng xã hội
trên cơ sở khái quát thực tiễn mới của giai cấp vô sản. Với CNDVLS nhân loại tiến bộ có
được một công cụ vĩ đại trong nhận thức, cải tạo thế giới.
CNDVBC mang tính thực tiễn - cách mạng, nó hướng dẫn con người trong
hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới:
CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản: Lợi ích giai cấp vô sản phù hợp lợi
ích nhân loại tiến bộ, được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học CNDVBC trở
thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản có sự thống nhất tính khoa học và tính cách mạng.
CNDVBC không chỉ giải thích thế giới mà còn góp phần cải tạo thế giới.
CNDVBC khẳng định sự tất thắng của cái mới: nó xóa bỏ cái cũ lỗi thời, xây dựng
cái mới tiến bộ.
CNDVBC là một hệ thống mở, là kim chỉ nam cho mọi hành động.
Câu 2: Anh ( chị) hảy phân tích cơ sở lý luận, nêu ra các yêu cầu phương pháp luận của
nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
vận dụng như thế nào vào sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta?
+ Cơ sở lý luận :
Nguyên tắc khách quan trong xem xét được xây dựng dựa trên nội dung của nguyên
lý về tính thống nhất vật chất của thế giới. Yêu cầu của nguyên tắc này được tóm tắt như
sau :khi nhận thức khách thể ( đối tượng ), sự vật,hiện tượng tồn tại trong hiện thực – chủ thể
tư duy phải nắm bắt, tái hiện nó trong chính nó mà không được thêm hay bớt một cách tùy
tiện .
- Vật chất là cái có trước tư duy. Vật chất tồn tại vĩnh viễn và ở một giai đọan phát triển nhất
định của mình nó mới sản sinh ra tư duy. Do tư duy phản ánh thế giới vật chất, nên trong quá
trình nhận thức đối tượng ta không được xuất phát từ tư duy, từ ý kiến chủ quan của chúng ta
về đối tượng.mà phải xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ bản chất của nó, không được
”bắt” đối tượng tuân theo tư duy mà phải “bắt” tư duy tuân theo đối tượng. Không ép đối
tượng thỏa mãn một sơ đồ chủ quan hay một “Lôgíc” nào đó, mà phải rút ra những sơ đồ từ
đối tượng, tái tạo trong tư duy các hình tượng, tư tưởng- cái lôgíc phát triển của chính đối
tượng đó.
- Toàn bộ “nghệ thuật” chinh phục bản chất của sự vật, hiện tượng được gói ghém trong sự
tìm kiếm, chọn lựa, sử dụng những con đường, cách thức, phương tiện thâm nhập hữu hiệu
vào “thế giới” bên trong của sự vật. “nghệ thuật” chinh phục như thế không mang đến cho sự
vật, hiện tượng một cái gì đó xa lạ với chính nó. Điều này đặt ra cho chủ thể một tình thế khó
khăn. Làm như thế nào để biết chắc chắn những suy nghĩ của chúng ta về sư vật là khách
quan, là phù hợp với bản thân sự vật? Nguyên tắc khách quan đòi hỏi được bổ sung thêm yêu
cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng .
- 2 -
- Giới tự nhiên và xã hội không bao giờ tự phơi bày tòan bộ bản chất của mình ra thành các
hiện tượng điển hình. Con người không phải chỉ nhận thức những cái gì bộc lộ ra trước chủ
thể. Do đó để phản ánh khách thể như một chỉnh thể, chủ thể tư duy không thể không bổ
sung những yếu tố chủ quan như đề xuất các giả thuyết, đưa ra các dự đóan khoa học
….Thiếu những điều này tư duy sẽ không mang tính biện chứng, sẽ không thể hiện bản tính
sáng tạo thông qua trí tưởng tượng của chính mình. Yêu cầu phát huy tính năng động sáng
tạo của chủ thể đòi hỏi chủ thể tư duy phải biến đổi, thậm chí cải tạo đối tượng để tìm ra bản
chất của nó. Những biến đổi, cải tạo đó là chủ quan nhưng không phải tùy tiện, mà là những
biến đổi và cải tạo đối tượng phù hợp quy luật của hiện thực thuộc lĩnh vực nghiên cứu .
- Yêu cầu khách quan trong xem xét có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức các hiện
tượng thuộc đời sống xã hội. Đối tượng nghiên cứu bao gồm cái vật chất và cái tinh thần
chứa đầy những cái chủ quan, những cái lý tưởng và luôn chịu sự tác động của các lực lượng
tự phát của tự nhiên lẫn lực lượng tự giác ( ý chí,lợi ích, mục đích, nhân cách, cá tính khác
nhau ) của con người. Ơû đây đối tượng, khách thể tư duy quyện chặt vào chủ thể tư duy
bằng hệ thống những mối liên hệ chằng chịt. Do đó cần phải cụ thể hóa nguyên tắc khách
quan trong xem xét các hiện tượng xã hội, tức là phải kết hợp nó với các yêu cầu phát huy
tính năng động, sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng. Điều này có nghĩa là nguyên
tắc khách quan trong xem xét không chỉ bao hàm yêu cầu xuất phát từ chính đối tượng, từ
những quy luật vận động và phát triển của nó, không được thêm bớt tùy tiện chủ quan, mà nó
còn phải biết phân biệt những quan hệ vật chất với những quan hệ tư tưởng, các nhân tố
khách quan với các nhân tố chủ quan, thừa nhận các quan hệ vật chất khách quan tồn tại xã
hội là nhân tố quyết định.còn những hiện tượng tinh thần, tư tưởng được quy định bởi đời
sống vật chất của con người và các quan hệ kinh tế của họnhưng chúng có ảnh hưởng ngược
lại tồn tại xã hội. Phải coi xã hội là một là một cơ thể sống tồn tại và phát triển không ngừng
chứ không phải là cái gì đó kết thành một cách máy móc. Phân tích một cách khách quan
những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái kinh tế xã hội nhất định và cần phải nghiên
cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó.
- Khi nhận thức các hiện tượng xã hội chúng ta phải chú trọng đến mức độ quan tâm và năng
lực nhận thức của các lực lượng xã hội đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, đối với
khuynh hướng phát triển của các hiện tượng xã hội, đối với việc đánh giá tình hình xã hội
….những đánh giá có giá trị hơn, những cách giải quyết đúng hơn thường là những đánh giá,
những cách giải quyết thuộc về các lực lượng xã hội biết đứng trên lập trường của giai cấp
tiên tiến, của những lực lượng cách mạng của thời đại đó. Vì vậy tính khách quan trong xem
xét các hiện tượng xã hội nhất quán với nguyên tắc tính đảng. Việc xem thường nguyên tắc
này dễ dẫn đến vi phạm yêu cầu của nguyên tắc khách quan trong xem xét, dễ biến nó thành
chủ nghĩa khách quan, cản trở việc nhận thức đúng đắn các hiện tượng xã hội phức tạp.
+ Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc khách quan trong xem xét :
Nguyên tắc khách quan trong xem xét có mối liên hệ mật thiết với các nguyên tắc
khác của lôgíc biện chứng. Nó thể hiện ở yêu cầu cụ thể sau :
Trong hoạt động nhận thức :
Chủ thể phải :
Một là : Xuất phát từ hiện thực khách quan, tái hiện lại nó như nó vốn có mà
không được tùy tiện đưa ra những nhận định chủ quan .
Hai là : Phải biết phát huy tính năng động, sáng tạo của chủ thể, đưa ra các giả
thuyết khoa học có giá trị về khách thể, đồng thời biết cách tiến hành kiểm chứng các giả
tuyết đó bằng thực nghiệm
- 3 -
Trong hoạt động thực tiễn :
Chủ thể phải :
Một là : Xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiện ra những quy luật chi phối
nó.
Hai là : Dựa trên các quy luật khách quan đó, chúng ta vạch ra các mục tiêu, kế
họach, tìm kiếm các biện pháp, phương thức để tổ chức thực hiện. Kịp thời điều chỉnh, uốn
nắng họat động của con người đi theo lợi ích và mục đích đã đặt ra .
Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức có nghĩa là phát huy vai trò tri thức, tình
cảm, ý chí, lý trí ….tức là phát huy vai trò nhân tố con người trong họat động nhận thức và
họat động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan, vươn lên làm chủ thế giới .
+ Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng như thế nào vào sự nghiệp cách mạng của
Việt Nam :
Phải tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định của vật chất. Cụ thể
là :
- Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để họach định các đường
lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước .
- Biết tìm kiếm, khai thác và sử dụng những lực lượng vật chất để hiện thực hóa đường
lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước .
- Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đòan kết tòan dân tộc là động lực
chủ yếu để phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các lợi ích khác nhau ( lợi ích kinh tế,
lợi ích chính trị, lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã
hội ….) thành động lực mạnh mẻ thúc đẩy công cuộc đổi mới .
- Đảng ta rút ra những bài học kinh nghiệm từ những sai lằm, thất bại trước đổi mới,
Đảng ta kết luận :“ mọi đường lối, chủ trương của đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng
quy luật khách quan”.
Biết phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của các yếu tố chủ
quan ( tri thức, tình cảm … ) tức phát huy vai trò nhân tố con người trong họat động nhận
thức và thực tiển :
- Coi sự thống nhất giữa tình cả( nhiệt tình cách mạng, lòng yêu nước, ý chí quật cường
….) và tri thức ( kinh nghiệm dựng nước và giữ nước, hiểu biết khoa học ) là động lực tinh
thần thúc đẩy công cuộc đổi mới. Chống lại thái độ ỷ lại, trì trệ, chỉ biết làm theo cách củ mà
không biết dũng cảm làm theo cái mới, biết khơi dậy lòng yêu nước, ý chí quật cường……
phải phổ biến tri thức khoa học, công nghệ hiện đại cho đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân
dân, biết nâng cao dân trí, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài.
- Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng. Đặc biệt là giáo dục chủ
nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho đông đảo người Việt Nam chúng ta. Phải
nâng cao và đổi mới tư duy lý luận mà trước hết là chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Kiên quyết khắc phục và ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan , duy ý chí,lối suy nghĩa và
hành động giản đơn, nóng vội theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng mà bất chấp quy luật
khách quan, coi thường tình hình thực tế.
Câu 3 : Đảng ta khẳng định: “mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Anh chị hãy chỉ ra và phân tích cơ sở triết học
của khẳng định đó?
Trả lời:
- 4 -
Ở Việt Nam, do bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ & hành động giản đơn, nóng
vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng đã xuất hiện trước Đổi mới có nguyên nhân
và gây ra tác hại lớn.
Xuất phát từ hiện thực khách quan của nước ta yếu kém về năng lực tư duy, lạc hậu về
lý luận, ít kinh nghiệm trong xây dựng và quản lý đất nước; Đồng thời do sai lầm ấu trĩ “tả”
khuynh, xảy ra trong một điều kiện lịch sử rất đặc biệt của dân tộc ta (Biết phát huy tối đa
sức mạnh tinh thần, khao khát thoát ra khỏi cuộc sống lầm than, nô lệ ) nhưng lại không
xuất phát từ hiện thực, bất chấp quy bluật, coi thường tri thức KH,… Nên tạo ra những chính
sách sai lầm, gây ra những hậu quả về nhiều mặt (kinh tế, xã hội…) rất nghiêm trọng & kéo
dài.
Để có thể khắc phục triệt để chủ nghĩa chủ quan phải quán triệt thực hiện nguyên tắc
khách quan. Vì nguyên tắc khách quan là nguyên tắc đầu tiên của tư duy biện chứng, Vận
dụng nguyên tắc khách quan kết hợp với chủ quan trong hoạt động nhận thức sẽ tránh được
những sai lầm trong chính sách phát triển đất nước.
Trên cơ sở quy luật khách quan đó, Đảng ta khẳng định “Mọi đường lối chủ trương
của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Để làm được điều đó
Phải tôn trọng hiện thực kh.quan, tôn trọng vai trò quyết định của VC, tức:
Xuất phát của hiện thực kh.quan của đất nước, của thời đại để hoạch định chiến
lược, sách lược phát triển đất nước;
Biết tìm kiếm, khai thác, tổ chức những lực lượng vật chất (cá nhân – cộng đồng, kinh
tế – quân sự, trong nước – ngoài nước, quá khứ – tương lai,…) để hiện thực hóa
chúng.
Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; Coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động
lực chủ yếu phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các dạng lợi ích khác nhau (kinh
tế, chính trị, tinh thần, ; cá nhân, tập thể, xã hội) thành động lực thúc đẩy công cuộc
đổi mới
Đồng thời phải phát huy tính năng động, sáng tạo của YT, ph.huy vai trò của các yếu
tố chủ quan (t.thức, t.cảm, ý chí, lý trí, ), tức ph.huy vai trò nhân tố CN trong h.động nhận
thức & thực tiễn cải tạo đất nước. Cụ thể:
Coi sự thống nhất nhiệt tình CM & tri thức KH là động lực tinh thần thúc đẩy
công cuộc Đổi mới; Chống lại thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ trì trệ; Bồi dưỡng nhiệt
tình, phẩm chất cách mạng; Khơi dậy lòng yêu nước, ý chí quật cường, tài trí người
Việt Nam,…
Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng (chủ nghĩa Mác–
Lênin, tư tưởng HCM); Nâng cao và đổi mới tư duy lý luận (về CNXH & con đường
đi lên CNXH);
Phổ biến tri thức KH cho cán bộ, đảng viên, nhân dân.
Kiên quyết khắc phục & ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy
nghĩ, hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng; bất
chấp quy luật khách quan.
Câu 4: Lý luận? Phương pháp? Mối quan hệ giữa chúng. Anh ( chị) hãy nêu những yêu
cầu phương pháp luận và phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện. Việc tuân
- 5 -
thủ nguyên tắc toàn diện sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận
thức và trong hoạt động thực tiễn.
7.1 Anh ( chị) hãy nêu những yêu cầu phương pháp luận và phân tích cơ sở lý luận của
nguyên tắc toàn diện
Định nghĩa phương pháp luận: Là học thuyết (lý luận) về phương pháp; nó vạch ra cách thức
xây dựng và nghệ thuật vận dụng phương pháp. Phương pháp luận còn được coi như “ một
hệ thống các quan điểm, nguyên tắc xuất phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong mọi sự vật,
trong mọi lĩnh vực hiện thực.
Mối liên hệ mang tính khách quan và phổ biến. Nó chi phối tổng quát sự vận động, phát triển
của mọi sự vật, quá trình xãy ra trong thế giới; và là đối tượng nghiên cứu của phép biện
chứng.
Mối liên hệ phổ biến được nhận thức trong các phạm trù biện chứng như mối liên hệ giữa:
mặt đối lập- mặt đối lập; chất – lượng, cái cũ – cái mới; cái riêng- cái chung; nguyên nhân-
kết quả; nội dung – hình thức; bản chất- hiện tượng; tất nhiên- ngẫu nhiên; khả năng – hiện
thực.
Nội dung nguyên lý:
◊ Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng
buộc lẫn nhau.
◊ Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ
biến
◊ Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát
quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật hiện tượng xãy ra trong thế giới.
Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc toàn diện:
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
- Tìm hiểu, phát hiện càng nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất,
yếu tố, mặt,…) đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật càng tốt
- Phân loại để xác định những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu
tố, mặt,…) nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định ; còn những mối liên hệ, quan
hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên ngoài, không cơ bản,
ngẫu nhiên, không ổn định…;
- Dựa trên những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…)
bên trong cơ bản, tất nhiên, ổn định…. Để lý giải được những mối liên hệ, quan hệ
((hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) còn lại. Qua đó xây dựng một hình
ảnh về sự vật như sự thống nhất các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt,…); phát hiện ra quy luật (bản chất) của nó.
Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
- Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất,
yếu tố, mặt,…) chi phối sự vật.
- 6 -
- Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện, biện
pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để
biến đổi những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…)
để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,
…) của bản thân sự vật, đặc biệt là những mối liên hệ, quan hệ (…) bên trong, cơ bản,
tất nhiên, quan trọng…. của nó.
- Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất,
yếu tố, mặt,…)của bản thân sự vật; kịp thời sử dụng các công cụ, phương tiện, biện
pháp bổ sung để phát huy hay hạn chế hay hạn chế sự tác động của chúng, nhằm lèo
lái sự vật vận động, phát triển theo đúng quy luật và hợp lợi ích của chúng ta.
- Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc phục được
chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện,… trong hoạt động
thực tiễn và nhận thức của chính mình.
+ Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất
nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật.
+ Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ
của sự vật chứ không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ cơ bản
của sự vật, mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.
+ Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ
bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích
của mình một cách tinh vi.
- Trong xã hội nguyên tắc toàn diện đòi hỏi chúng ta không chỉ liên hệ nhận thức với
nhận thức mà còn liên hệ nhận thức với cuộc sống; phải chú ý đến lợi ích của các chủ
thể (các cá nhân hay giai tầng) khác nhau trong xã hội và biết phân biệt đâu là lợi ích
cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản; phải
biết phát huy (hay hạn chế) mọi tiềm năng hay nguồn lực từ khắp các lĩnh vực hoạt
động xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, ) từ các thành phần kinh tế khác, từ các tổ
chức, chính trị xã hội… để có thái độ, biện pháp, đối sách hành động thích hợp mà
không sa vào chủ nghĩa bình quân, quan điểm dàn điều, tức không thấy được trọng
tâm cốt lõi trong cuộc sống vô cùng phức tạp.
7.2 Việc tuân thủ nguyên tắc toàn diện sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt
động nhận thức và trong hoạt động thực tiễn.
Việc quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chúng ta khắc phục
được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện… trong hoạt động
thực tiễn và nhận thức của chính mình.
Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất
nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật. thường
xem xét dàn trải, liệt kê những tính quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng mà không
làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó.
Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của
sự vật nhưng không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ cơ bản của sự vật
- 7 -
mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện. Do đó hoàn toàn
bất lực khi cần phải có quyết sách đúng đắn.
Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ
bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của
mình một cách tinh vi.
Trong đời sống xã hội, nguyên tắc toàn diện có vai trò cực kỳ quan trọng. Nó đòi hỏi
chúng ta không chỉ liên hệ nhận thức với nhận thức mà cần phải liên hệ nhận thức với thực
tiễn cuộc sống, phải chú ý đến lợi ích của các chủ thể (các cá nhân hay các giai tầng) khác
nhau trong xã hội và biết phân biệt đâu là lợi ích cơ bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản,
phải biết phát huy hay hạn chế mọi tiềm năng hay nguồn lực từ khắp các lĩnh vực hoạt động
xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa…) từ các thành phần kinh tế, từ các tổ chức chính trị - xã
hội… để có thái độ, biện pháp, đối sách hành động thích hợp mà không sa vào chủ nghĩa
bình quân, quan điểm dàn đều, tức không thấy được trọng tâm, trọng điểm, điều cốt lõi trong
cuộc sống vô cùng phức tạp.
Câu 5 : Nguyên lý? Nguyên tắc? Mối quan hệ giữa chúng. Anh/Chị hãy nêu những yêu
cầu phương pháp luận và phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển. Việc tuân
thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn.
8.1. Nguyên lý là gì?
- Nguyên lý là những luận điểm xuất phát (tư tưởng chủ đạo) của một học thuyết (lý
luận) mà tính chân lý của nó là hiển nhiên, tức không thể hay không cần phải chứng minh
nhưng không mâu thuẫn với thực tiễn và nhận thức về lĩnh vực mà học thuyết đó phản ánh.
- Nguyên lý được khái quát từ kết quả hoạt động thực tiễn – nhận thức lâu dài của con
người. Nó vừa là cơ sở lý luận của học thuyết, vừa là công cụ tinh thần để nhận thức (lý giải
– tiên đoán) và cải tạo thế giới.
- Có hai loại nguyên lý: nguyên lý của khoa học (công lý, tiên đề, quy luật nền tảng)
và nguyên lý của triết học. Phép biện chứng duy vật có hai nguyên lý cơ bản. Đó là nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.
8.2. Nguyên tắc là gì?
- Nguyên tắc là những yêu cầu nền tảng đòi hỏi chủ thể phải tuân thủ đúng trình tự
nhằm đạt mục đích đề ra một cách tối ưu.
8.3. Mối liên hệ giữa nguyên lý và nguyên tắc
- Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý thể hiện qua các nguyên tắc tương ứng.
Nghĩa là cơ sở lý luận của các nguyên tắc là các nguyên lý: cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn
diện và nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển
là nội dung nguyên lý về sự phát triển…
8.4. Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phát triển
• Trong hoạt động nhận thức yêu cầu chủ thể phải:
- Phát hiện những xu hướng biến đổi, chuyển hóa, những giai đoạn tồn tại của bản
thân sự vật trong sự tự vận động và phát triển của chính nó;
- Xây dựng được hình ảnh chỉnh thể về sự vật như sự thống nhất các xu hướng, những
giai đoạn thay đổi của nó; từ đó phát hiện ra quy luật vận động, phát triển (bản chất) của sự
vật.
- 8 -
• Trong hoạt động thực tiễn yêu cầu chủ thể phải:
- Chú trọng đến mọi điều kiện, khả năng…tồn tại của sự vật để nhận định đúng các xu
hướng, những giai đoạn thay đổi có thể xảy ra đối với nó;
- Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích
hợp (mà trước hết là công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những điều kiện,
phát huy hay hạn chế những khả năng…tồn tại của sự vật nhằm lèo lái sự vật vận động, phát
triển theo hướng hợp quy luật và có lợi cho chúng ta.
8.5. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển
Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý về sự phát triển.
• Sự vận động và sự phát triển
- Vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất; vận động được
hiểu như sự thay đổi nói chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả
mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho
đến tư duy”.
- Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, do mâu thuẫn trong bản thân sự vật gây ra. Phát
triển là một khuynh hướng vận động tổng hợp của hệ thống sự vật, trong đó, sự vận động có
thay đổi những quy định về chất (thay đổi kết cấu – tổ chức) của hệ thống sự vật theo
khuynh hướng tiến bộ giữ vai trò chủ đạo; còn sự vận động có thay đổi những quy định về
chất của sự vật theo xu hướng thoái bộ và sự vận động chỉ có thay đổi những quy định về
lượng của sự vật theo xu hướng ổn định giữ vai trò phụ đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo
trên.
+ “Hai quan điểm cơ bản…về sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát triển coi như là giảm
đi và tăng lên, như lập lại; và sự phát triển coi như sự thống nhất của các mặt đối lập. Quan
điểm thứ nhất thì chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan điểm thứ hai là sinh động. Chỉ có
quan điểm thứ 2 mới cho ta chìa khóa của “sự vận động”, của tất thảy mọi cái “đang tồn tại”;
chỉ có nó mới cho ta chìa khóa của những “bước nhảy vọt”, của “sự gián đoạn của tính tiệm
tiến”, của “sự chuyển hóa thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái
mới”.
- Phát triển như sự chuyển hóa: giữa các mặt đối lập; giữa chất và lượng; giữa cái cũ
và cái mới; giữa cái riêng và cái chung; giữa nguyên nhân và kết quả; giữa nội dung và hình
thức; giữa bản chất và hiện tượng; giữa tất nhiên và ngẫu nhiên; giữa khả năng và hiện thực.
- Phát triển là quá trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ biến
và đa dạng: phát triển trong giới tự nhiên vô sinh; phát triển trong giới tự nhiên hữu sinh;
phát triển trong xã hội; phát triển trong tư duy, tinh thần.
• Nội dung nguyên lý
- Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát triển.
- Phát triển mang tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp
tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của
một hệ thống vật chất, do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra và
hướng theo xu thế phủ định của phủ định.
- 9 -
8.6. Việc tn thủ ngun tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Qn triệt và vận dụng sáng tạo ngun tắc phát triển sẽ giúp chủ thể khắc phục
được quan điểm (tư duy) siêu hình trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
Câu 6: Phân tích nội dung quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất và ngược lại, và vạch ra ý nghĩa phương pháp luận của nó.
Quy luật chuyển hóa từ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất & ngược lại:
Chất, lượng, độ, điểm nút, bước nhảy:
Chất - tính quy đònh vốn có của sự vật, đặc trưng cho sự vật là nó, giúp phân biệt
nó với sự vật khác.
Lượng - tính quy đònh vốn có của sự vật, biểu thò quy mô, tốc độ vận động, phát
triển của sự vật cũng như của các thuộc tính (chất) của nó.
Độ - giới hạn mà trong đó sự thay đổi về Lượng chưa làm Chất thay đổi căn bản.
Điểm nút - mốc (giới hạn) mà sự thay đổi về Lượng vượt qua nó sẽ làm Chất thay
đổi căn bản.
Bước nhảy - sự chuyển hóa về Chất do những thay đổi về Lượng trước đó gây ra;
Bước nhảy là giai đoạn cơ bản trong tiến trình phát triển của sự vật, nó tồn tại
khách quan, phổ biến, đa dạng (Bước nhảy toàn bộ/Bước nhảy cục bộ; Bước nhảy
đột biến/Bước nhảy dần dần; Bước nhảy tự nhiên/Bước nhảy xã hội/Bước nhảy tư
duy).
Nội dung quy luật:
Mọi sự vật đều được đặc trưng bằng sự thống nhất giữa Chất và Lượng.
Sự vật bắt đầu vận động, phát triển bằng sự thay đổi về Lượng (liên tục, tiệm tiến);
nếu Lượng thay đổi trong độ, chưa vượt quá điểm nút thì Chất không thay đổi căn
bản; khi Lượng thay đổi vượt qua độ, quá điểm nút thì Chất sẽ thay đổi căn bản,
bước nhảy xảy ra.
Bước nhảy làm cho Chất thay đổi (gián đoạn, đột biến) – Chất (Sự vật ) cũ mất đi,
Chất (Sự vật) mới ra đời; Chất mới gây ra sự thay đổi về Lượng (làm thay đổi quy
mô tồn tại, tốc độ, nhòp điệu vận động, phát triển của sự vật ).
Sự thay đổi về Lượng gây ra sự thay đổi về Chất; sự thay đổi về Chất gây ra sự thay
đổi về Lượng là phương thức vận động, phát triển của mọi sự vật trong thế giới; phát
triển vừa mang tính liên tục vừa mang tính gián đoạn.
Phân tích:
Trong quá trình vận động và phát triển, Chất và Lượng của sự vật cũng biến đổi.
Sự thay đổi của Lượng và của Chất không diễn ra độc lập với nhau, mà chúng có quan hệ
chặt chẽ với nhau. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của Lượng cũng ngay lập
tức làm thay đổi căn bản Chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới
hạn nhất đònh mà không làm thay đổi căn bản Chất của sự vật đó. Khi vượt qua giới hạn
đó sẽ làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời (bước nhảy xảy ra).
- 10 -
Vd: Khi xét các trạng thái tồn tại khác nhau của nước với tư cách là những chất
khác nhau (chất – trạng thái), ứng với chất – trạng thái đó, Lượng ở đây là nhiệt độ, thì
dù Lượng có thay đổi trong một phạm vi khá lớn (0 độ C< t<100 độ C), nước vẫn ở trạng
thái lỏng (tức là chưa thay đổi về chất – trạng thái). Khi nhiệt độ của nước giảm đến 0 độ
C nước sẽ chuyển sang trạng thái rắn và khi đạt đến 100 độ C nước sẽ chuyển sang trạng
thái hơi (bước nhảy xảy ra). Ở đây, 0 độ C và 100 độ được gọi là điểm nút.
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt đến điểm nút. Sau
khi ra đời, chất mới có tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Chất mới có thể làm thay
đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhòp điệu của sự vận động và phát triển của
sự vật đó.
Ýùnghóa phương pháp luận:
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
Phát hiện chính xác các quy đònh về chất và lượng của sự vật; thấy được sự thống
nhất giữa chúng để xác đònh đúng độ, điểm nút của sự vật;
Phân tích kết cấu và điều kiện tồn tại của sự vật để xác đònh đúng tính chất, quy
mô, tiến độ của bước nhảy có thể xảy ra;
Hiểu rằng, chất chỉ thay đổi khi lượng thay đổi vượt quá độ, quá điểm nút; còn nếu
lượng chưa thay đổi qua độ, chưa qua điểm nút thì bước chưa thể xảy ra, chất chưa
thay đổi căn bản được;
Xác đònh được chất mới (sau khi sự vật thực hiện bước nhảy), qua đó xác đònh lượng
độ, điểm nút và bước nhảy, tức đònh hình được sự vật mới phải ra đời thay thế sự vật
cũ như thế nào.
Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
Hiểu rõphương thức vận động và phát triển của sự vật; từ đó xây dựng các đối sách
thích hợp;
Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng linh hoạt các công cụ, phương tiện vật chất
can thiệp đúng lúc, đúng chỗ, đúng mức độ vào tiến trình vận động và phát triểncủa
sự vật, lèo lái nó theo đúng quy luật và hợp lợi ích cùa chúng ta. Cụ thể:
◊ Muốn có sự thay đổi về chất phải kiên trì tích lũy thay đổi về lượng;
◊ Muốn duy trì sự ổn đònh của chất phải giữ sự thay đổi về lượng trong phạm vi
giới hạn độ;
◊ Khi lượng thay đổi đạt tới giới hạn độphải kiên quyết thực hiện bước nhảy.
Câu 7: Bằng lý luậnvà thực tiễn. Anh chị hãy chứng minh rằng cuộc đấu tranh giữa cái
cũ và cái mới ln là qúa trình khó khăn, lâu dài, phức tạp, cái mới có thể thất bại tạm
thời nhưng cuối cùng nó sẽ chiến thắng cái cũ.
* Về mặt lý luận:
+ Quy luật phủ định của phủ định của phép tư duy biện chứng chỉ ra rằng: Bất cứ sự vật hiện
tượng nào trong thế giới đều trải qua q trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật
- 11 -
cũ mất đi được thay bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu của quá trình vận động và
phát triển của sự vật.
+ Sự vật là một tập hợp các yếu tố tương tác với nhau, trong sự tương tác đó nảy sinhvài yếu
tố (biến đổi) trái ngược nhau, tạo nên cơ sở các mặt đối lập trong sự vật. Các mặt đối lập này
không tách rời nhau, chứa những yếu tố giống nhau cùng tồn tại trong sự vật, tác động qua
lại lẫn nhau. Dù vậy, các mặt đối lập luôn đấu tranh với nhau, tác động qua lại theo xu hướng
loại bỏ lẫn nhau.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập nay chỉ mang tính tương đối nhưng sự đấu tranh mang
tính tuyết đối. Sự đấu tranh này gắn liền với sự vận động và thay đổi của sự vật. Mâu thuẫn
biện chứng phát triển tương ứng với quá trình thống nhất giữa các mặt đối lập còn sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập thì chuyển dần từng bước từ bình lặng tới quyết liệt, làm xuất hiện
khả năng chuyển hoá của các mặt đối lập.
+ Mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc của mọi sự phát triển, chúng đều trải qua các giai
đoạn: từ sự xuất hiện của các mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập,
rồi chuyển hoá các mặt đối lập. Khi mâu thuẫn được giả quyết , cái cũ mất đi cái mới ra đời
tiến bộ, ưu việt hơn cái cũ và tự nó cũng chứa đựng những mâu thuẫn mới, hay thay đổi
những vai trò tác động cảu các mâu thuẫn cũ.
* Về mặt thực tiễn:
+ Thực tế đã chứng minh vận cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới luôn là qúa trình khó
khăn, lâu dài, phức tạp, cái mới có thể thất bại tạm thời nhưng cuối cùng nó sẽ chiến thắng
cái cũ. Điều đó được minh chứng rõ ràng trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp phong kiến và
giai cấp công nhân trong xã hội ta đưa đất nước đi lên từ chế độ phong kiến bỏ qua tư bản
chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Cùng là hai giai cấp tồn tại tong cùng một chế độ xã hội nhưng giữa các giai cấp này luôn
chứa đựng những mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau, mâu thuẫn lên đến cao trào chính là cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân lao động lật đổ giai cấp phong kiến. Quá trình đấu tranh ấy
diễn ra lâu dài và quyết liệt, mặc dù có gặp phải những khó khăn chống cự của chế độ cũ
nhưng rồi lực lượng lao động mới tiến bộ hơn vẫn chiến thắng. Thay thế chế độ phong kiến
lác hậu, là chế độ xã hội chủ nghĩa với những tiến bộ mới, tuy nhiên trong nó vẫn chứa đựng
những mâu thuẫn chưa thể xoá bỏ giữa tầng lớp nhân dân lao động với tàn dư của chế độ
phong kiến, với giai cấp tư sản đang hình thành trong nền kinh tế.
Câu 8: Cơ sở nào để khẳng định nguyên tắc lịch sử - cụ thể (LS-CT) là “linh hồn”
phương pháp luận của triết học Mác – Lênin? Nêu những yêu cầu cơ bản của nguyên
tắc LSCT.
a/ - Cơ sở khẳng định nguyên tắc lịch sử - cụ thể (LS-CT) là “linh hồn” phương
pháp luận của triết học Mác – Lênin
- Triết học Mác-Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư
duy triết học trong lịch sử nhân lọai.
- Triết học Mác-Lênin xem xét lịch sử xuất phát từ con người và cho rằng con người
là sản phẩm của lịch sử.
b/- Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc LS-CT
1. Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại
và phát triển cụ thể của những sự vật cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Nghĩa là:
- 12 -
- Phải biết sự vật đã ra đời và đã tồn tại như thế nào, trong những điều kiện,
hoàn cảnh nào, bị chi phối bởi những quy luật nào;
- Hiện giờ sự vật đang tồn tại như thế nào trong những điều kiện, hoàn cảnh ra
sao, do những quy luật nào chi phối;
- Trên cơ sở đó, phải nắm bắt được sự vật có thể sẽ phải tồn tại như thế nào (trên
những nét cơ bản) trong tương lai
2. Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách cụ thể,
áp dụng cho những sự vật cụ thể, đang tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ
cụ thể mà không nên áp dụng những khuôn mẫu chung chung cho bất cứ sự vật nào, trong
bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ nào.
3. Nguyên tắc LS-CT được V.I. Lênin cô đọng trong nhận định: “Xem xét mỗi
vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế
nào, những hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên
quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành thế nào”.
Điều này có nghĩa là nguyên tắc LS-CT đỏi hỏi phải phân tích sự vật cụ thể trong
những tình hình cụ thể để thấy được:
- Sự vật đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những chất, lượng nào; thể hiện qua
những độ nào; đang (đã hay sẽ) thực hiện những bước nhảy nào để tạo nên những chất,
lượng mới nào?
- Sự vật đang (đã hay sẽ) bị tác động bởi những mâu thuẫn nào; những mâu
thuẫn đó đang nằm ở giai đoạn nào, có vai trò như thế nào đến sự vận động, phát triển của
sự vật?
- Sự vật đang (đã hay sẽ) trải qua những lần phủ định biện chứng nào; cái cũ nào
đang (đã hay sẽ) phải mất đi, cái mới nào đang (đã hay sẽ) xuất hiện?
- Trong mối quan hệ với những sự vật khác, những điều gì được coi là những cái
riêng hay cái đơn nhất, điều gì là cái chung hay cái đặc thù / cái phổ biến; chúng quy định
nhau, chuyển hóa lẫn nhau như thế nào?
- Bản chất của sự vật là gì, nó được thể hiện qua những hiện tượng nào; hiện
tượng nào chỉ là giả tượng, hiện tượng nào là điển hình …
- Nội dung của sự vật là gì, nó đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những hình
thức nào; hình thức nào phù hợp với nội dung của sự vật, hình thức nào không phù hợp với
nội dung, cái gì làm cho nội dung của sự vật biến đổi?
- Trong bản thân sự vật, hiện thực là gì; hiện thực đó đang (đã hay sẽ) nảy sinh
ra những khả năng nào; mỗi khả năng đó, trong những điều kiện cụ thể nào có độ tất yếu
hiện thực hóa ra sao?
4. Nguyên tắc LS-CT đòi hỏi chúng ta phải bao được các sự kiện xảy ra trong
nghiên cứu khoa học hay các biến cố xảy ra trong các tiến trình lịch sử nhân loại.
Tuy nhiên, nó không cho phép chúng ta kết hợp các sự kiện khoa học như những cái
ngẫu nhiên thuần túy của tự nhiên hay mô tả các biến cố lịch sử như những cái vụn vặt đơn
lẻ của xã hội, mà nó đòi hỏi chúng ta phải tái hiện chúng, mô tả chúng trên cơ sở vạch ra
được cái tất yếu lô gích, cái chung (quy luật, bản chất) của chúng, chỉ ra được những trật tự
nhân quả quy định chúng.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được bức tranh khoa học về thế giới,
để qua đó chúng ta nhận thức được tính muôn vẻ của tự nhiên, tính phong phú của lịch sử
trong sự thống nhất.
- 13 -
5. Nguyên tắc LS-CT đã được các lãnh tụ của giai cấp vô sản vận dụng: Xuất
phát từ tình hình cụ thể của CNTB ở giai đoạn tiền độc quyền, tự do cạnh tranh mà C. Mác
cho rằng, cách mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi ở tất cả các nước TBCN tiên tiến.
Sang thế kỷ 20, CNTB đã chuyển sang giai đoạn độc quyền, đế quốc chủ nghĩa. Khi
vận dụng nguyên tắc này vào xem xét tình hình thế giới lúc này có những thay đổi lớn mà
V.I. Lênin đã đi đến kết luận đúng đắn là: cách mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi ở vài
nước, ở khâu yếu nhất của CNTB.
Đảng CS Việt Nam, Đảng CS Trung Quốc cũng đang quán triệt và vận dụng sáng tạo
nguyên tắc này vào thực tiễn cách mạng mỗi nước để xây dựng cho quốc gia mình một con
đường riêng đi lên CNXH.
Vận dụng nguyên tắc LS-CT, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường CNXH.
Ngày nay, để xây dựng thành công CNXH, Đảng đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế thị
trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất,
đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội
lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát
triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển
văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường an ninh, quốc phòng; bảo vệ và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Câu 9: Lý luận? thực tiễn? Anh / chị hãy phân tích những yêu cầu cơ bản của
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
1. Phạm trù thực tiễn
Thực tiễn là hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính lịch sử xã hội, nhằm cải tạo
tự nhiện và xã hội. Phạm trù “thực tiễn” là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của
triết học Mác- Lê nin nói chung và lý luận nhận thức mácxít nói riêng.
I.1. Thực tiễn là một hoạt động vật chất
Trong hoạt động vật chất, con người sử dụng các phương tiện, công cụ, sức mạnh vật chất
của mình để tác động vào tự nhiên, xã hội nhằm cải tại, biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu
của mình. Đây là một quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể. Trong đó, chủ thể
hướng vào việc cải tạo khách thể. Cho nên thực tiễn trở thành khâu trung gian nối liền ý thức
con người với thế giới bên ngoài.
I.2. Hoạt động thực tiễn có mục đích
1.2.1 Hoạt động thực tiễn là bản chất của con người.
1.2.2 Động vật chỉ hoạt động theo bản năng để phù hợp với thế giới bên ngoài một cách thụ
động. Con người chủ động thích nghi với thế giới bên ngoài bằng cách cải tạo thể giới
thoả mãn theo nhu cầu của mình.
- 14 -
1.2.3 Khi hoạt động thực tiễn, để đạt hiệu quả cao, con người tạo ra những vật phẩm không
có sẵn trong tự nhiên, đó chính là những công cụ, và sử dụng chúng.
I.3. Thực tiễn có tính chất lịch sử xã hội
1.3.1 Trình độ và hình thức hoạt động thực tiễn thay đổi qua các giai đoạn khác nhau của xã
hội.
1.3.2 Hoạt động thực tiễn không thể được tiến hành không chỉ một vài cá nhân mà là tòan
xã hội
I.4. Các dạng cơ bản và không cơ bản của thực tiễn
I.4.1. Dạng cơ bản:
Hoạt động sản xuất vật chất – là một dạng họat động nguyên thủy và cơ bản và
nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Hoạt động chính trị xã hội nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ
xã hội, chế độ xã hội.
Hoạt động thực nghiệm khoa học do nhu cầu phát triển của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật hiện đại.
I.4.2. Dạng không cơ bản: là những họat động được hình thành và phát triển từ những dạng
cơ bản, chúng là dạng thực tiễn phái sinh. Ví dụ: họat động trong một số lĩnh vực như
đạo đức, nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo …
2. Phạm trù “lý luận”
2.1. Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối
liên hệ bản chất bản chất, những quy luật của các sự vật hiện tượng.
2.2. Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Trên cơ sở tổng kết kinh
nghiệm lý luận được hình thành, không tự phát và cũng không bắt buộc mọi lý luận
đều xuất phát từ kinh nghiệm. Muốn hình thành lý luận, con người phải thông qua quá
trình nhận thức kinh nghiệm. Trong quá trình nhận thức, con người đi từ nhận thức
kinh nghiệm thông thường đến nhận thức kinh nghiệm khoa học.
2.3. Chức năng cơ bản của lý luận là phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương
pháp luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người
2.4. Lý luận có hai cấp độ khác nhau, cấp độ lý luận ngành và cấp độ lý luận triết học ( tùy
vào phạm vi phản ánh của nó và vai trò của phương pháp luận).
3. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
- 15 -
3.1. Thực tiễn và lý luận có mối quan hệ biện chứng cho nhau. Thực tiễn là cơ sở, là động
lực, là mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận. Lý luận hình thành, phát triển phải xuất
phát từ thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
3.1.1 Như ở trên ta đã nói, thực tiễn là cơ sở của lý luận. Con người nhận thức giới tự nhiên
đầu tiên bằng hoạt động thực tiễn . Sự tác động của con người buộc giới tự nhiên bộc
lộ những thuộc tính, quy luật để từ đó con người có kinh nghiệm. Quá trình phân tích,
tổng hợp, khái quát kinh nghiệm thành một môn khoa học lý luận. Thực tiễn đề ra
những vấn đề mà lý luận phải trả lời.
3.1.2 Thực tiễn là động lực của lý luận. Qua hoạt thực tiễn luôn nảy sinh những vấn đề đòi
hỏi lý luận phải hoàn thiện chính mình để bao quát và giải quyết tốt các vấn đề do
thực tiễn đặt ra. Điều này càng làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu
sắc hơn.
3.1.3 Thực tiễn là mục đích của lý luận. Không có thực tiễn thì lý luận không thể đem lại
lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người và qua thực tiễn đã
giúp cho lý luận hoàn thành được mục đích của mình. Lý luận hướng dẫn chỉ đạo thực
tiễn làm cho thực tiễn ngày càng hiệu quả hơn.
3.1.4 Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận: Lý luận chỉ được coi là chân lý khi nó phù
hợp với thực tiễn khách quan mà nó phản ánh, và đồng thời nó được thực tiễn kiểm
nghiệm. Thông qua thực tiễn những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho
tang tri thức nhân loại.
3.2. Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực
tiễn. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận để làm cho thực tiễn có hiệu quả nhất.
3.2.1. Hoạt động thực tiễn của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi
đường. Khi lý luận đạt đến chân lý thì lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác
định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả năng
phát triển của các mối quan hệ thực tiễn.
3.2.2. Vận dụng lý luận vào thực tiễn cần phân tích rõ từng tình hình cụ thể, tránh vận dụng
lý luận máy móc, giáo điều kinh viện . Như vậy chẳng những hiểu sai giá trị của lý
luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống nhất tất yếu giữa lý
luận và thực tiễn
- 16 -
3.2.3. Từ lý luận xây dựng mô hình thực tiễn phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế
những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao.
3.2.4. Bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp thời bổ sung những khuyết điểm của lý luận
hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn.
Câu 10 : Anh/Chị hãy nêu ra những nguyên nhân cơ bản của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Để
khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần phải quán triệt nguyên tắc nào
trong triết học Mác – Lênin? Phân tích các yêu cầu cơ bản của nguyên tắc đó.
1/. Những nguyên nhân cơ bản của bệnh kinh nghiệm:
- Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt tối hóa kinh nghiệm, coi thường
lý luận khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò lý luận.
- Kinh nghiệm là rất quý, góp phần thành công trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định
và là cơ sở để khái quát lý luận. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm một nơi, một lúc
nào đó, xem thường lý luận sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm và sẽ thất bại trong thực tiễn khi
điều kiện, hoàn cảnh thay đổi. Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm là do yếu kém về lý luận,
cụ thể:
+ nguyên nhân chủ quan: dễ thỏa mãn với vốn kinh nghiệm bản thân, ngại học lý
luận, không chịu nâng cao trình độ lý luận, coi thường khoa học kỹ thuật, coi thường giới trí
thức, thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ.
+ nguyên nhân khách quan: sự tồn tại phổ biến nền sản xuất nhỏ, trình độ dân trí thấp,
khoa học – kỹ thuật chưa phát triển, Nho giáo phong kiến còn ảnh hưởng nặng nề.
2/. Những nguyên nhân cơ bản của bệnh giáo điều:
- Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu vai trò lý luận, coi nhẹ thực
tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể, áp dụng kinh nghiệm
một cách rập khuôn, máy móc.
- Biểu hiện của bệnh giáo điều là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng ở câu chữ theo
kiểu “tầm chương trích cú”; hiểu lý luận một cách phiến diện, hời hợt, biến lý luận thành tín
điều và áp dụng lý luận một cách máy móc; vận dụng sai lý luận vào thực tiễn, không bổ
sung, điều chỉnh lý luận. Nguyên nhân của bệnh giáo điều là do yếu kém về lý luận, cụ thể:
+ hiểu lý luận bằng kinh nghiệm, hiểu lý luận một cách đơn giản, phiến diện, cắt xén,
sơ lược…
+ xuyên tạc, bóp méo lý luận…
3/. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu quả:
- 17 -
Hoàn cảnh giai cấp vô sản của nước ta trong buổi đầu cách mạng vừa giành độc lập tự do
làm mảnh đất màu mỡ cho các bệnh này phát triển nhanh, tuy nhiên chúng ta đã để chúng
tồn tại quá dài. Để khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần phải
quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác – Lênin. Cụ
thể:
- Bám sát thực tiễn, lý luận phải gắn liền với thực tiễn, thường xuyên kiểm tra trong
thực tiễn và không ngừng phát triển cùng thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lý
luận, bổ sung, vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn;
- Phải coi trọng lý luận và công tác lý luận; nâng cao dân trí, đẩy mạnh sự nghiệp giáo
dục và đào tạo, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học – công nghệ…;
- Phải đổi mới công tác lý luận của Đảng dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Quán triệt nhiệm vụ, hướng nghiên cứu chủ yếu và phương châm lớn
chỉ đạo hoạt động lý luận của Đảng;
- Hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì kinh tế thị trường luôn
vận động và biến đổi, đòi hỏi mọi thành phần, mọi chủ thể kinh tế phải năng động, sáng tạo,
phải thường xuyên bám sát thị trường để ứng phó cho phù hợp
- Phải đổi mới tư duy lý luận, khắc phục sự lạc hậu của lý luận, thu hẹp khoảng cách
giữa lý luận và thực tiễn bằng cách:
+ từ bỏ lối nghiên cứu kinh viện, tư biện;
+ thường xuyên đối chiếu lý luận với cuộc sống, vận dụng lý luận vào hoàn cảnh thực
tế của nước ta;
- Coi trọng và thường xuyên tổng kết thực tiễn, qua đó sửa đổi, phát triển lý luận đã có, bổ
sung hoàn chỉnh đường lối, chính sách, hình thành lý luận mới, quan điểm mới để chỉ đạo sự
nghiệm đổi mới xã hội.
Câu 11: Anh/chị hãy phân tích những tiền đề xuất phát mà Các Mác dựa vào để xây dựng lý
luận hình thái kinh tế, xã hội?
Trả lời:
Các nhà triết học duy tâm trước Mác đã tiếp cận các vấn đề xã hội từ góc độ nhân tố
tinh thần như: đạo đức, niềm tin tôn giáo, chính trị…, đã “lấy sự thống trị của tôn giáo làm
tiền đề. Và dần dà, người ta tuyên bố mọi quan hệ thống trị là một quan hệ tôn giáo và người
ta biến quan hệ đó thành sự sùng bái: sùng bái pháp luật, sùng bái nhà nước”. Từ việc phê
phán quan điểm duy tâm đó, C Mác đã đưa ra một hướng tiếp cận mới khoa học và thuyết
phục nhằm lý giải các vấn đề của đời sống xã hội và làm tiền đề, xuất phát điểm cho học
thuyết của mình.
Trước hết, Mác nghiên cứu xã hội từ việc xem xét yếu tố con người cụ thể, hiện đang
sống đời sống thực trong từng xã hội cụ thể. Sự tồn tại của con người là một sự tồn tại hiển
nhiên và phổ biến trong đời sống xã hội, quy định sự tồn tại của toàn thể xã hội.
- 18 -
Mác cho rằng tiền đề đầu tiên của tất cả mọi sự tồn tại của người, và do đó, cũng là tiền
đề của mọi quá trình lịch sử, đó là:” người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra
lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo
và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu
để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất”.
Nhu cầu và lợi ích của con người quy định hành vi lịch sử đầu tiên và là động lực thúc
đẩy con người hoạt động, phát triển. Khi nhu cầu này được thoả mãn thì ngay lập tức xuất
hiện nhu cầu mới. Cứ như vậy, nhu cầu của con người là động lực thúc đẩy sự phát triển của
chính con người và qua đó là động lực phát triển của cả xã hội.
Để thoả mãn nhu cầu, đáp ứng lợi ích cho mình, con người phải liên kết trong các cộng
đồng, tức hệ thống các mối liên hệ giữa cá nhân con người cụ thể, từ đó tạo thành xã hội.
Khi đề cập tới hoạt động sản xuất vật chất với tính cách là hành vi lịch sử đầu tiên của
con người, Mác cũng đồng thời chỉ ra các hoạt động sản xuất khác của con người như hoạt
động sản xuất tinh thần và hoạt động sản xuất ra bản thân con người, cũng như các quan hệ
xã hội khác. Trong hoạt động đó, hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò là nền tảng, là cơ
sở cho toàn bộ đời sống xã hội và là điểm đánh dấu sự khác biệt cơ bản giữa con người và
con vật. Mác viết: “ Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con
người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình”. Chính thông qua sản xuất vật
chất để duy trì tồn tại và phát triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời
sống vật chất và tinh thần phong phú của xã hội. Do đó, việc xuất phát từ con người hiện
thực để nghiên cứu đời sống xã hội đòi hỏi phải bắt đầu từ sản xuất vật chất của họ, qua đó
đi đến việc xem xét các mặt khác của xã hội nhằm tìm ra các quy luật vận động và phát triển
khách quan của xã hội.
Từ việc nghiên cứu quá trình sản xuất vật chất, Mác phát hiện ra 2 mặt không tách rời
nhau là lực lượng sản xuất (quan hệ giữa con người với tự nhiên ) và quan hệ sản xuất (quan
hệ giữa con người với con người). Hai mặt này của sản xuất vật chất tồn tại thống nhất với
nhau, tạo thành phương thức sản xuất. Sự tác động qua lại giữa chúng trong một phương
thức sản xuất đã tạo nên quy luật: quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Trên cơ sở nghiên cứu hoạt động sản xuất, Mác đi tới việc nghiên cứu các mặt của đời
sống xã hội như chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo…có liên hệ ràng buộc với nhau. Ở
đây, Mác đã phát hiện ra các quy luật: cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; tồn tại
xã hội quyết định ý thức xã hội; phương thức sản xuất quyết định mọi mặt của đời sống xã
hội. Từ kết quả này, trong tư duy Mác hình thành quan niệm cho rằng xã hội là một hệ
thống, trong đó các mặt liên hệ, tác động lẫn nhau làm cho xã hội vận động và phát triển theo
các quy luật khách quan; tuy nhiên các quy luật đó không tác động bên ngoài hoạt động sống
có ý thức của con người cụ thể. Xã hội là sự thống nhất mặt khách quan và mặt chủ quan.
Tóm lại, xuất phát từ vai trò quyết định của sản xuất vật chất, Mác đã phân tích một
cách khoa học mối quan hệ của tất cả các lĩnh vực, các mặt của đời sống xã hội; cũng như
phát hiện ra các quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của xã hội. Trên cơ sở đó,
Ông đã đi tới sự khái quát khoa học về lý luận hình thái kinh tế xã hội.
Câu 12: Phân tích nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Đảng ta đã vận dụng quy luật này như thế nào vào
quá trình xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay.
- 19 -
Trả lời:
I Biện chứng giữa lực lượng sản xuất (PTSX) và quan hệ sản xuất (QHSX)
1.1 khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.
1.1PTSX : là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất ở từng giai đoạn lịch sử
nhất định của xã hội loài người.
Mỗi xã hội được đặc tưng bằng một PTSX nhất định.
PTSX đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội : Kinh tế, chính trị,
văn hóa và xã hội.
Sự thay thế kế tiếp nhau của các PTSX trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài
ngưòi từ thấp đến cao.
Trong sản xuất, con người có quan hệ : Một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là
LLSX, mặt khác là quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất. PTSX chính là sự
thống nhất giữa LLSX ở một trình độ nhất định với QHSX tương ứng.
1.2 LLSX : là toàn bộ các lực lượng đựoc con người sử dụng trong quá trình sản xuất
vật chất. LLSX biểu hiện quan hệ giữa người với người với giới tự nhiên. Nghĩa là trong quá
trình sản xuất, con người phải chinh phục giới tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của
mình.
LLSX bao gồm : Con người (CN) và tư liệu sản xuất (TLSX)
* TLSX : bao gồm :
+Đối tượng lao động : một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất.
+ Tư liệu lao động : Công cụ lao động và kho tàng bến bãi, giao thông vận tải.
Trong TLLĐ, công cụ lao động không ngừng đựoc cải tiến, cho nên nó là yếu tố động nhất,
cách mạng nhất. Chính sự cải tiến và hòan thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến
đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
*Con người: là yếu tố có vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất. Tư liệu lao động chỉ trở
thành lực lươngj tích cực cải biến đối tượng lao động, khi chúng được kết hợp với lao động
sống, đó chính là con người, với những kỹ năng, kỷ xảo, với trí tuệ và kinh nghiệm của
mình. Hàm lượng trí tuệ trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện nay đã làm cho con
người trở thành nguồn lực đặc biệt của sản xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.
1.3 QHSX: là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Thể
hiện qua 3 mặt : Quan hệ giữa ngưòi với người đối với việc sở hữu về TLSX, quan hệ giữa
người với người đối với việc tổ chức quản lý, quan hệ giữa người với người đối với việc
phân phối sản phẩm.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ thứ nhất có ý nghĩa
quyết định đối với tất cả những quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng
đều phụ thuộc vào vấn đề những TLSX chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Có 2 hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: Sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội.
II. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX:
LLSX và QHSX là hai m?t c?a PTSX, có mối liên hệ biện chứng lẫn nhau hình thành
nên quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Quy luật nàu
vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của QHSX vào sự phát triển của LLSX. Đến lượt
mình, QHSX tác động trở lại đối với LLSX. Khuynh hướng chung của SX là không nhừng
phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của LLSX,
trước hết là CCLĐ.
Trình độ của LLSX là trình độ phát triển của CCLĐ, của ký thuật, trình độ kinh nghiệm, kỹ
năng của người lao động, quy mô sản xuất, trình độ phân công lao động… Trình độ của
- 20 -
LLSX gắn với tính chất của LLSX. Tính chất của LLSX : Khi SX còn trình độ thấp kém thì
LLSX có tính chất cá nhân, khi SX đạt tới trình độ cơ khí hiện đại, phân công lao động xã
hội phát triển thì LLSX có tính xã hội hóa. Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng
nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn luôn tìm cách cải thiện, hoàn thiện công cụ lao
động và chế tạo ra những công cụ lao động mới, tinh xảo hơn, đồng thời kinh nghiệm sản
xuất, thói quen lao động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ
theo.
Như vậy, sự thay đổi của xã hội bao giờ cũng bắt đầu bằng sự thay đổi LLSX. Cùng với sự
phát triển của LLSX, QHSX cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình
độ của LLSX. Sự phù hợp đólà động lực làm cho LLSX phát trỉen mạnh mẽ.
QHSX phải tạo được điều kiện sử dụng và kết hợp tối ưu giữa TLSX và người lao động. Mở
ra điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất, tinh thần đối với người lao động. Nhưng
LLSX luôn luôn phát triển còn QHSX có xu hướng tương đối ổn định. Khi LLSX phát triển
lên một trình độ mới, QHSX không còn phù hợp nữa, trở thành chướng ngại đối với sự phát
triển của nó sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của PTSX. Sự phát triển khách đó tất
yếu dẫn đến việc xóa bỏ QHSX cũ, thay thế bằng một QHSX mới phù hợp với tính chất và
trình độ mới của LLSX, mở đường cho LLSX phát triển. Việc xóa bỏ QHSX cũ, thay thế
bằng QHSX mới cũng có nghĩa là sự diệt vong của một PTSX lỗi thời và sự ra đời của PTSX
mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa LLSX mới và QHSX lỗi thời là cơ
sở khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời là tiền đề tất yếu của các cuộc cách
mạng xã hội. Đây là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại
“Quy luật QHSX phù hợp với trình độ PT của LLSX”. QHSX phù hợp với trình độ của
LLSX lại trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho LLSX phát triển. QHSX không
phù hợp với trình độ của LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Song tác động kìm hãm
đó cũng chỉ có tính chất tạm thời, theo tính tất yếu khách quan, cuối cùng QH cũng se phải
thay đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Sở dĩ QHSX có tác động trở lại
mạnh mẽ với LLSX là vì nó qui định: Mục đích của SX, hệ thống quản lý của SX và quản lý
xã hội, Phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng.
Từ đó, nó sẽ tạo ra những điều kiện để kích thích việc cải tiến lao động và kỹ thuật sản xuất,
thúc đẩy LLSX phát triển. Thực tiễn đã cho thấy LLSX chỉ có thể phát triển khi có một
QHSX hợp lý, đồng bộ, phù hợp với nó. QHSX lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo
cũnhg sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất
và trình độ của LLSX là quy luật chung nhất của sự phát triển XH. Sự tác động cảu quy luật
này đã đưa xã hội loài ngưòi trải qua các PTSX khác nhau. Tuy nhiên không phải bất cứ
nước nào cũng nhất thiết phải tuần tự trải qua các PTSX, một số nước có thể bỏ qua hợc một
số các PTSX để tiến lên PTSX mới cao hơn.
Câu 13: Anh (chị) hãy phân tích tư tưởng của Mac: “sự phát triển hình thái kinh tế - xã
hội là quá trình lịch sử - tự nhiên”
* Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội: HTKT-XH là một phạm trù của CNDVLS dùng
để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu qhsx đặc trưng cho xã hội đó,
phù hợp với một trình độ nhất định của llsx, và với một kttt tương ứng được xây dựng trên
những qhsx ấy.
HTKT-XH là một hệ thống hoàn chỉnh và có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ
bản là llsx, qhsx, kttt. Mỗi mặt của htkt-xh có vai trò, vị trí riêng, tác động qua lại lẫn nhau,
thống nhất với nhau.
- 21 -
+ LLSX: là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi htkt-xh. Sự hình thành và phát triển của
mỗi htkt-xh xét đến cùng do llsx quyết định. Llsx phát triển qua các htkt-xh nối tiếp nhau từ
thấp đến cao.
+ QHSX: là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, là những quan hệ cơ
bản ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi htkt-xh lại có một kiểu qhsx
của nó tương ứng với trình độ nhất định của llsx. Qhsx là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt
xã hội cụ thể này với xã hội cụ thể khác, đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử
+ KTTT: được hình thành và phát triển phù hợp với CSHT, nhưng nó lại là công cụ để
bảo vệ, duy trì và phát triển CSHT đã sinh ra nó.
Ngoài các mặt cơ bản nêu trên, các htkt-xh còn có quan hệ về gia đình, dân tộc, và các
quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với qhsx, biến đổi cùng với sự biến
đổi của qhsx.
* Sự phát triển của các htkt-xh là một quá trình lịch sử tự nhiên:
Lịch sử phát triển của xã hội loài người trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến
cao, tương ứng với mỗi giai đoạn là một htkt-xh. Sự vận động thay thế nhau của các htkt-xh
trong lịch sử đều do tác động của các quy luật khách quan, đó là quá trình lịch sử tự nhiên
của xã hội. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật phát triển khách quan của xã hội, Mac đã đi
đến kết luận: “sự phát triển của những hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử- tự
nhiên”.
Các mặt cơ bản hợp thành một htkt-xh không tách rời nhau mà liên hệ biện chứng với
nhau hình thành nên những qui luật phổ biến của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của
qhsx với tính chất và trình độ phát triển của llsx; quy luật csht quyết định kttt và các quy luật
xã hội khác. Chính tác động của các quy luật khách quan đó mà các htkt-xh vận động phát
triển thay thế nhau từ thấp đến cao trong lịch sử như một quá trình lịch sử tự nhiên, không
phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng chủ quan của con người.
Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa từ sự phát triển của
llsx. Chính tính chất và trình độ phát triển của llsx đã quy định một cách khách quan tính
chất và trình độ của qhsx. Do đó xét đến cùng llsx quyết định quá trình vận động và phát
triển của htkt-xh như quá trình lịch sử tự nhiên
Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của các htkt-xh thì quy
luật về sự phù hợp của qhsx với tính chất và trình độ phát triển của llsx có vai trò quyết định
nhất. Llsx bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của xã hội, quy định khuynh
hướng phát triển từ thấp đến cao. Qhsx là mặt thứ hai của ptsx biểu hiện tính gián đoạn trong
sự phát triển của lịch sử. Những qhsx lỗi thời được xóa bỏ và được thay thế bằng những kiểu
qhsx mới cao hơn. Đến lượt nó, sự thay đổi qhsx sẽ kéo theo sự thay đổi về kttt, và do đó mà
htkt-xh cũ được thay thế bằng htkt-xh mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra theo
quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan của con người.
Sự thay thế một htkt-xh này bằng một htkt-xh mới cao hơn thường được thực hiện thông
qua cách mạng xã hội. Nguyên nhân sâu sa của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa llsx và
qhsx, khi qhsx trở thành xiềng xích của llsx. Trong thời kỳ cách mạng xã hội khi cơ sở kinh
tế thay đổi thì sớm hay muộn toàn bộ kttt đồ sộ cũng thay đổi theo
Quá trình kế thừa của lịch sử loài người luôn luôn cho phép cộng đồng nào đó, trong
điều kiện nhất định do tác động của các nhân tố, các mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, có
thể bỏ qua các giai đoạn phát triển nhất định để vươn tới trình độ tiên tiến của nhân loại.
Trong thời đại ngày nay chủ chương rút ngắn để đi lên CNXH ở một số quốc gia tiền tư bản
- 22 -
chủ nghĩa chẳng những không mâu thuẫn với tinh thần của sự phát triển mang tính lịch sử- tự
nhiên mà còn là biểu hiện sinh động của quá trình lịch sử- tự nhiên ấy. Chỉ khi ta “rút ngắn
”một cách duy ý chí, bấp chấp quy luật thì lúc đó sự phát triển rút ngắn mới trở nên đối lập
với quá trình lịch sử- tự nhiên.
Như vậy, quá trình lịch sử- tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng
con đường tuần tự mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện lịch sử nhất định,
một hoặc một vài htkt-xh nhất định. Sự khác nhau về trật tự phát triển vẫn là quá trình lịch
sử- tự nhiên.
Câu 14: Phân tích Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay.
a. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam
Trong quá trình quá độ lên CNXH chúng ta cần phải biết tiếp thu và vận dụng sáng tạo
tư tưởng của các nhà kinh điển MÁC-Lenin, nhất là tư tưởng của Lê nin về những khâu
trung gian, những bước quá độ tất yếu để đưa một xã hội tiểu nông, lạc hậu lên CNXH; lại
vừa biết tổng kết lịch sử của đất nước và của thế giới với những biến đổi to lớn của nó. Điều
quan trọng là quá trình đi lên CNXH, chúng ta cần phải tuân thủ nghiêm ngặt những yêu cầu
khách quan của sự phát triển, tuân theo những qui luật khách quan của sự phát triển từ xã hội
nông nghiệp lạc hậu lên CNXH. Tuyệt đối không có những hành động chủ quan, duy ý chí,
trái với qui luật khách quan. Phải hiểu rằng quá độ gián tiếp lên CNXH , bỏ qua chế độ
TBCN là con đường phù hợp với điều kiện đất nước và thời đại ngày nay.
Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra biến đổi về chất của XH trên tất cả các
lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải phải trải qua một thời kỳ quá độ
lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính quá độ. Trong
các lĩnh vực của đời sống XH diễn ra sự đan xen và đấu tranh của cái củ và cái mới.
b. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ tiến
lên CNXH ở Việt Nam:
- Lý luận hình thái kinh tế - XH chỉ ra, mỗi hình thái KT-XH có một lực lượng sản xuất
của nó, hay nói cách khác, có một cơ sở vật chất-kỹ thuật của nó. Để có CNXH phải có một
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại do cuộc CM khoa học và công nghệ mang lại. Song, nước ta
tiến lên CNXH từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu, cái
thiếu thốn của chúng ta là chưa có một nền đại công nghiệp. Vì vậy, chúng ta phải tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực chất của công nghiệp hóa hiện đại hóa chính là xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH. Công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta nhằm xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH ở nước ta trên cơ sở phát huy năng lực nội sinh của
đất nước cũng như xu thế quốc tế hóa kinh tế thế giới. đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ tiến lên CNXH.
- Trong công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần phát triển mạnh mẽ một
nền khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại. Phải coi phát triển khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu. điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế của thế giới ngày nay trong xu
thế hợp tác, cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Chính vì vậy, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX cuả Đảng ta đã đề ra: “con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể
- 23 -
rút ngắn thời gian, vừa có bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của
đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được những trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức
cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học công nghệ, từng bước phát triển
kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam: coi
phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp
công nghiệp hó hiện đại hóa.
Thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết
định thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.
c. Kết hợp giữa LLSX với xây dựng QHSX trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH
ở Việt Nam.
- Trong khi khẳng định vai trò của LLSX, lý luận hình thái kt-xh còn chỉ ra, sự phát
triển của LLSX phải gắn liền với việc thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp. Trong sự nghiệp
xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng ta khẳng định “Phát triển LLSX gắn liền với QHSX mới
phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
- Phù hợp với sự phát triển của LLSX ở nước ta, đảng ta chủ trương sử dụng “nhiều
hình thức sở hữa về TLSX, nhiều thành phần kinh tế”. đồng thời thực hiện nhất quán lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.
- Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự
phát triển LLSX đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội
và đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Đến lượt nó, kinh tế thị trường là một động lực mạnh
mẽ thúc đẩy LLSX phát triển. Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
vừa phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của
LLSX ở nước ta, với yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng định: “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là phát triển LLSX, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH
nâng cao đời sống của nhân dân.
d. Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống XH trong thời
kỳ quá độ tiến lên CNXH ở Việt Nam.
Xuất phát từ mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống XH
mà lý luận hình thái kt-xh đã chỉ ra, trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, gắn liền với
phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phải không ngừng đổi
mới hệ thống chính trị, nâng cao vài trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; nâng cao vai trò của các tổ chức
quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ TQ.
Đồng thời, phải gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhằm không ngừng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi
- 24 -
dưỡng nhân tài, theo quan điểm của đảng ta, đó là quốc sách hàng đầu, giải quyết các vấn đề
XH, thực hiện công bằng và dân chủ trong đời sống XH.
Trong quá trình phát triển văn hóa, cần phải đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục
và đào tạo. Phải coi giáo dục và đào tạo cũng là quốc sách hàng đầu. Điều này vừa phù hợp
với xu thế phát triển hiện đại, lại vừa là đòi hỏi cấp bách của sự phát triển đất nước.
Tóm lại: lý luận hình thái kt-xh là một lý luận khoa học. nó cho chúng ta một quan
niệm đúng đắn về mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt trong đời sống kt-xh, về sự vận động
và phát triển của XH. Với sự phát triển của khoa học và thực tiễn hiện nay, lý luận đó vẫn
giữ nguyên giá trị. Nó đem lại một phương pháp luận thực sự khoa học để phân tích các hiện
tượng trong đời sống XH, để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt
động thực tiễn.
Câu 15: Anh/Chi hay phan tich nhung cong hien to lon cua C.Mac, Ph.Angghen va
V.I.Lenin vao su phat trien ly luan ve giai cap va dau tranh giai cap?
Nguồn gốc giai cấp: C.Mác và Ph.angghen đều khẳng định giai cấp không phải là hiện
tượng bẩm sinh của xã hội, không xất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội. Trong xã hội
nguyên thủy khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, con người làm ra sản phẩm chỉ để tồn tại,
chưa có sản phẩm dư thừa, chưa có điều kiện khách quan để người này chiếm đoạt sản phẩm
của người khác, xã hội chưa xuất hiện chế độ người bóc lột người và do đó chưa thể có giai
cấp. Cuối xã hội nguyên thủy, công cụ sản xuất bằng kim loại xuất hiện, có sự phân công lao
động làm cho lực lượng sản xuất phát triển mang lại năng suất lao động cao hơn, từ đó dẫn
đến của cải dư làm của riêng, chế độ tư hữu ra đời. Chế độ tư hữu làm cơ sở cho sự phân hoá
xã hội thành các gia cấp có lợi ích đối kháng nhau.
Giai cấp : là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị trong một hệ thống sản
xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ đối với những tư liệu sản
xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức
hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Nói đến giai cấp là nói
đến một hệ thống các tập đoàn người trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định, do chế độ ấy
sản sinh ra; mỗi giai cấp trong lịch sử đều có đặc điểm riêng, tuy nhiên theo LêNin cho phép
ta nắm được dấu hiệu đặc trưng chung nhất, cơ bản nhất, những dấu hiệu phổ biến và ổn định
nhất của giai cấp.
Giai cấp là phạm trù kinh tế xã hội có tính lịch sử; giai cấp không phải là sản phẩm của
sản xuất nói chung mà là sản phẩm của hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử; một
hệ thống giai cấp tương ứng với môt hệ thống sản xuất xã hội, do đó không thể hiểu đặc
trưng của từng giai cấp cụ thể nếu không đặt nó trong mối quan hệ với các giai cấp đối lập
khác
Nói đến giai cấp là nói đến sự khác nhau giữa các tập đoàn người về địa vị trong một hệ
thống kinh tế xã hội nhất định, trong đó tập đoàn người này là thống trị, còn tập đoàn người
kia là bị trị; sự khác nhau ấy thể hiện ở chỗ:
Các giai cấp có quan hệ khác nhau về tư liệu sản xuất; đây là sự khác nhau cơ bản nhất,
quy định sự khác nhau về địa vị của các giai cấp trong xã hội (ví dụ).
- 25 -