Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.41 KB, 104 trang )

MỤC LỤC
Nâng cao trình độ của cán bộ xếp hạng tín dụng 81
10. LÊ THỊ KHOA NGUYÊN (2005), XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP XẾP HẠNG TÍN NHIỆM CÁC
TỔ CHỨC KINH TẾ TRONG QUAN HỆ TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM, LUẬN ÁN TIẾN SỸ, TP
HCM 91
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Sơ đồ
Sơ đồ 2.1: Mô hình khái quát chấm điểm đối với các khách hàng là
doanh nghiệp Error: Reference source not found
Sơ đồ 2.2: Xác định quy mô doanh nghiệpError: Reference source not
found
Sơ đồ 2.3: Mô hình khái quát chấm điểm đối với các tổ chức tín dụng Error:
Reference source not found
Bảng, biểu
Nâng cao trình độ của cán bộ xếp hạng tín dụng 81
10. LÊ THỊ KHOA NGUYÊN (2005), XÂY DỰNG PHƯƠNG PHÁP XẾP HẠNG TÍN NHIỆM CÁC
TỔ CHỨC KINH TẾ TRONG QUAN HỆ TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM, LUẬN ÁN TIẾN SỸ, TP
HCM 91
TÓM TẮT
Hoạt động ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường là một
trong những hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro, bao gồm nhiều loại nghiệp vụ,
nhưng tựu chung lại, đây là loại hình kinh doanh tiền tệ - tín dụng của một
trung gian tài chính dựa trên cơ sở thu hút tiền của khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ
thanh toán. Xếp hạng tín dụng là một biện pháp ngày càng được các ngân
hàng chú ý sử dụng để đánh giá khách hàng vay vốn.
Hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam đã ra đời, hỗ trợ đắc lực cho việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín
dụng phù hợp với phạm vi hoạt động và tình hình thực tế. Tuy nhiên, trong quá
trình triển khai thực tế, công tác xếp hạng tín dụng theo hệ thống xếp hạng tín
dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng gặp phải một số khó


khăn, vướng mắc. Vì vậy, đề tài “Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” đã được lựa chọn và nghiên cứu.
Đề tài đi sâu vào phân tích thực trạng công tác xếp hạng tín dụng khách hàng
vay vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Qua đó, đánh giá được
những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại của ngân hàng và
đưa ra những giải pháp thiết thực, khả thi nhằm hoàn thiện công tác xếp hạng tín
dụng các khách hàng vay vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG NỘI BỘ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ngân hàng là một loại hình tổ chức kinh doanh có vai trò vô cùng quan
trọng trong nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng với hàng ngàn chi nhánh hoạt
động trên toàn thế giới có thể tác động đến sự phát triển của tất cả mọi lĩnh
vực và của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Những chức năng cơ bản của ngân
hàng hiện đại ngày nay là: chức năng tiết kiệm, chức năng tín dụng, chức
năng thanh toán, chức năng lập kế hoạch đầu tư, chức năng quản lý tiền mặt,
chức năng ngân hàng đầu tư và bảo lãnh, chức năng môi giới, chức năng bảo
hiểm, chức năng ủy thác. Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là tài
trợ cho khách hàng trên cơ sở tín nhiệm (tín dụng).
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau, tùy theo yêu cầu của
khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng, như phân loại theo thời
gian (thời hạn tín dụng), phân theo hình thức, theo tài sản bảo đảm và theo
rủi ro. Rủi ro tín dụng được coi là rủi ro chính trong hoạt động ngân hàng.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng được hiểu
là khả năng một khách hàng vay hoặc một đối tác không hay không thể thực
hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận dẫn đến việc các khoản vay/ các khoản phải thu
của ngân hàng giảm giá trị hoặc không thu hồi được. Các ngân hàng luôn tìm
cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm lợi tức cao nhất có thể ở các món vay,
đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến hoạt động cho vay, như:
sàng lọc và giám sát khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu

dài, quy định các mức tín dụng, tài sản bảo đảm và hạn chế tín dụng. Việc
quản trị tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công hay thất bại của
ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng đối với ngân hàng,
có thể phân làm 03 nhóm: Nhóm nguyên nhân khách quan, nhóm nguyên
nhân chủ quan từ phía người đi vay và nhóm nguyên nhân thuộc về chủ quan
của ngân hàng. Để quản trị rủi ro tín dụng, các ngân hàng thường sử dụng một
số công cụ như chính sách tín dụng, giới hạn cấp tín dụng, định giá khoản
vay, xếp hạng tín dụng, tài sản bảo đảm và đa dạng hóa danh mục đầu tư.
Hiện nay có nhiều thuật ngữ được sử dụng để chỉ việc thực hiện đánh
giá, xếp hạng khách hàng vay vốn tại NHTM như: xếp hạng người vay
(borrower rating), xếp hạng rủi ro người vay (borrower risk rating), xếp hạng
rủi ro tín dụng (Credit risk rating), chấm điểm tín dụng (Credit scoring)…
Trong phạm vi luận văn với đề tài xếp hạng tín dụng nội bộ tại ngân hàng
thương mại, luận văn thống nhất thuật ngữ Xếp hạng tín dụng để gọi thay cho
quá trình đánh giá phân tích và định hạng rủi ro của khách hàng trong quan hệ
tín dụng với NHTM. Việc XHTD khách hàng là một quá trình, nó bắt đầu từ
khi xác định mục đích nghiên cứu đến việc thu thập, xử lý thông tin trong quá
trình quản lý và đánh giá chất lượng thông tin thông qua quá trình sử dụng.
Từ những thông tin thu thập kết hợp phương pháp phân tích và các chỉ tiêu
phân tích phù hợp với mục đích đánh giá của ngân hàng làm rõ thực chất hoạt
động sản xuất kinh doanh cả về nguồn lực, tiềm năng, lợi thế kinh doanh cũng
như rủi ro tiềm ẩn về khả năng trả nợ của doanh nghiệp để các NHTM kịp
thời đưa ra quyết sách phù hợp nhằm ngăn ngừa, kiểm soát rủi ro phát sinh
trong hoạt động kinh doanh. Việc xếp hạng tín dụng nội bộ trong Ngân hàng
thương mại là cần thiết để phục vụ công tác quản trị rủi ro (thể hiện qua việc
xếp hạng khách hàng trước khi cấp tín dụng, tái xét đánh giá và XHTD khách
hàng theo định kỳ, XHTD khách hàng khi không hoàn trả nợ đúng hạn); cung
cấp những thông tin mang tính hệ thống về quá khứ và hiện tại của khách
hàng là cơ sở giúp các nhà quản trị ngân hàng đưa quyết định chính xác; là
cơ sở để xây dựng chính sách tín dụng và chính sách khách hàng và góp phần

thực hiện nguyên tắc cho vay của ngân hàng; giúp ngân hàng xây dựng chính
sách phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo phương pháp định tính.
Phương pháp được sử dụng để xếp hạng tín dụng là phương pháp
chuyên gia, phương pháp cho điểm theo tiêu chuẩn, phương pháp so sánh,
phương pháp kết hợp. Để thực hiện việc đánh giá, xếp hạng tín dụng các
khách hàng, cần thực hiện các bước xây dựng hệ thống chỉ tiêu để phân tích,
thu thập thông tin về khách hàng vay vốn, phân tích và tính điểm hệ thống chỉ
tiêu, tổng hợp điểm, xếp hạng và xác định mức độ rủi ro tín dụng
Các nhân tố bên trong ngân hàng thương mại ảnh hưởng đến công tác
xếp hạng tín dụng doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng thương mại đó là: lựa
chọn hệ thống chỉ tiêu đánh giá, phương pháp xếp hạng tín dụng, mục đích
xếp hạng tín dụng mà ngân hàng thương mại theo đuổi, quy mô tín dụng,
năng lực của người thực hiện xếp hạng…
Các nhân tố bên ngoài có ảnh hưởng đến công tác xếp hạng tín dụng các
khách hàng vay vốn tại ngân hàng thương mại bao gồm: quy định, chính sách
của Nhà nước, quy định pháp luật về doanh nghiệp và loại hình doanh nghiệp,
quy định về phân ngành kinh tế và phân loại ngành nghề đối với các doanh
nghiệp hoạt động kinh doanh….
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG XẾP HẠNG TÍN DỤNG NỘI BỘ TẠI
NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
Hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam nói chung, BIDV nói
riêng trong năm 2009 gặp nhiều khó khăn, thách thức do những diễn biến bất
lợi trong môi trường kinh doanh. Song với mục tiêu duy trì ổn định và phát
triển, hướng tới cổ phần hóa, năm 2009 BIDV đã nỗ lực đảm bảo hiệu quả
hoạt động kinh doanh.
Hoạt động tín dụng của BIDV được điều hành chủ động, linh hoạt, kịp
thời, vừa thể hiện vai trò tiên phong trong việc thực hiện chính sách tiền tệ,
góp phần bình ổn thị trường tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô đồng thời phù hợp
với diễn biến thị trường và tình hình nguồn vốn của hệ thống.

Hệ thống xếp hạng tín dụng tại BIDV được đánh dấu bởi mốc thời gian
quan trọng là năm 2006. Từ năm 2005 trở về trước (từ 01/01/2004), công tác
XHTD được chính thức áp dụng thực hiện trong phạm vi toàn hệ thống Ngân
hàng ĐT&PT Việt Nam, tuy nhiên mới chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp vay
vốn (chưa áp dụng với Tổ chức tín dụng và cá nhân). Từ năm 2006 đến nay,
theo quy định tại Điều 4 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, trong vòng tối đa 03 năm kể từ ngày
quyết định có hiệu lực thì các các tổ chức tín dụng, trong đó có BIDV phải
xây dựng Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để hỗ trợ cho việc phân loại nợ,
quản lý chất lượng tín dụng phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế.
Công tác XHTD tại BIDV được áp dụng đối với 3 loại khách hàng chính là:
khách hàng là doanh nghiệp; khách hàng là tổ chức tín dụng và khách hàng là
cá nhân.
Công tác XHTD của BIDV sử dụng phương pháp chấm điểm các nhóm
chỉ tiêu tài chính và phi tài chính của từng khách hàng; kết hợp với phương
pháp chuyên gia và phương pháp thống kê để xếp hạng tín dụng khách hàng.
Công tác xếp hạng tín dụng các khách hàng vay vốn được triển khai
vận hành trên toàn hệ thống. Kỳ đánh giá được thực hiện định kỳ mỗi tháng 1
lần để cập nhật một cách nhanh chóng nhất tình hình của khách hàng vay vốn.
Kết quả đạt được khi triển khai hệ thống xếp hạng tín dụng của Ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam:
Thứ nhất: Công tác XHTD theo hệ thống XHTD hiện tại trợ giúp cho
BIDV trong việc kiểm soát toàn bộ danh mục tín dụng
Thứ hai: Công tác XHTD theo hệ thống XHTD này giúp ngân hàng có
cơ sở đánh giá thống nhất và mang tính hệ thống trong suốt quá trình tìm hiểu
về khách hàng, xem xét dự án đầu tư, đánh giá phân tích, thẩm định và ra
quyết định cấp tín dụng.
Thứ ba: Hệ thống xếp hạng tín dụng đã đáp ứng được yêu cầu quan
trọng cho việc thực hiện Điều 7 quyết định 493/2005/QĐ- NHNN, tạo điều
kiện tiền đề và trọng yếu để được Ngân hàng Nhà nước phê duyệt cho phép

thực hiện Điều 7 bắt đầu cho năm tài chính 2006.
Thứ tư: Hệ thống XHTD mới của BIDV đảm bảo việc phân loại nợ
theo thông lệ quốc tế. Việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro được
thực hiện dựa trên kết quả xếp hạng tín dụng. Đây là điểm khác biệt cơ bản
của hệ thống xếp hạng tín dụng mới của BIDV so với hệ thống xếp hạng cũ
(kết quả phân loại nợ theo hệ thống xếp hạng cũ dựa trên tình hình thực tế của
các khoản vay).
Thứ năm: Công tác XHTD góp phần quan trọng trong việc xác định
mức tổn thất tín dụng và chi phí vốn tương ứng với từng loại hình sản phẩm,
lĩnh vực tín dụng.
Thứ sáu: Công tác XHTD góp phần hoàn thiện khung quản lý rủi ro tín
dụng, trong đó bao gồm: Xác định mức rủi ro tín dụng hợp lý, kiểm soát và
giảm thiểu rủi ro tín dụng kịp thời, ngăn chặn gian lận.
Thứ bảy: Công tác XHTD góp phần thiết kế quy trình tín dụng hiệu quả
hơn, cung cấp dịch vụ cho khách hàng nhanh hơn do vậy sẽ tiết kiệm được chi
phí quản lý và tạo được nhiều lợi nhuận hơn.
Thứ tám: Từ những lợi ích đem lại như trên, công tác XHTD đã góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh của BIDV.
Bên cạnh những mặt đạt được, hệ thống còn tồn tại những hạn chế:
Về nội dung chương trình còn những hạn chế về hệ thống chỉ tiêu phân
tích, về phương pháp xếp hạng tín dụng;
Về việc ứng dụng vào thực tế: cách thức thực hiện công tác xếp hạng
tín dụng, tổ chức triển khai xếp hạng tín dụng chưa thực sự khoa học, còn
mang tính chủ quan, nguồn thông tin sử dụng trong công tác xếp hạng tín
dụng khó đánh giá trong giai đoạn hiện nay
Nguyên nhân của những hạn chế này phải kể đến cả nguyên nhân chủ
quan và khách quan. Nguyên nhân chủ quan bao gồm nguyên nhân từ nội bộ
ngân hàng: Kinh nghiệm, trình độ, năng lực của người xây dựng, thực hiện
phân tích, xếp hạng khách hàng doanh nghiệp còn có hạn chế. Nguyên nhân
khách quan như: chế độ kế toán thống kê, số liệu thống kê về ngành, báo cáo

tài chính, môi trường cho dịch vụ xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp vay
vốn hoặc nhà phát hành trong nước ít phát triển.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG XHTD NỘI BỘ TẠI
NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
Các nhóm giải pháp được đưa ra là:
Giải pháp về yếu tố kỹ thuật, chương trình
- Bổ sung một số chỉ tiêu trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ
+ Hệ số dòng tiền vào từ hoạt động kinh doanh so với tổng dòng tiền vào:
+ Hệ số dòng tiền vào từ hoạt động đầu tư so với tổng dòng tiền vào:
+ Hệ số dòng tiền ra để trả nợ dài hạn so với tổng dòng tiền vào:
+ Hệ số dòng tiền ra để trả cổ tức so với dòng tiền ròng từ hoạt động
kinh doanh:
- Bổ sung một số chỉ tiêu phi tài chính đối với doanh nghiệp hoạt động
trong các ngành khác nhau:
Nhóm giải pháp về yếu tố con người
- Trình độ của cán bộ tín dụng
- Trú trọng đào tạo chuyên môn nghiệp vụ song song với rèn luyện đạo
đức của cán bộ làm công tác xếp hạng khách hàng.
Nhóm giải pháp khác
- Nguồn thông tin
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cho phép Trung tâm Thông tin tín
dụng (CIC) chính thức thực hiện nghiệp vụ xếp hạng tín dụng doanh nghiệp.
Đây là địa chỉ đầu tiên của Việt Nam trong lĩnh vực này.
Xác định lại sự cần thiết của nguồn thông tin từ báo cáo lưu chuyển
tiền tệ trong việc xếp hạng khách hàng.
Ban hành tài liệu chi tiết đánh giá các chỉ tiêu phi tài chính cho toàn hệ
thống.
Các kiến nghị
Đối với Chính phủ

 Kiến nghị với Tổng cục thống kê về việc xây dựng và công bố các
chỉ tiêu tài chính trung bình ngành
 Kiến nghị với Chính phủ về việc thành lập tổ chức XHTD chuyên
nghiệp tại Việt Nam
 Kiến nghị với Bộ tài chính:
Phát triển các công ty kiểm toán độc lập tại Việt Nam nhằm tăng tính
chính xác, minh bạch trong nguồn thông tin được sử dụng để xếp hạng.
Cần hoàn thiện chế độ kế toán phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và thực hiện hệ thống
XHTD nội bộ tại các ngân hàng.
Hoàn thiện, thúc đẩy hoạt động của trung tâm Thông tin tín dụng.
Xếp hạng tín dụng các khách hàng vay vốn tại ngân hàng thương mại
đã trở thành một trong những công cụ quản lý rủi ro tín dụng được các cơ
quan giám sát ngân hàng quốc tế khuyến nghị sử dụng. Tại Việt Nam, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đã chính thức ban hành quy định về lộ trình bắt
buộc các ngân hàng thương mại phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng để
đánh giá và dự báo mức độ rủi ro đối với khách hàng vay vốn.
Theo yêu cầu này, hệ thống xếp hạng tín dụng của Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Việt Nam đã được xây dựng, triển khai áp dụng. Mục tiêu cơ
bản của công tác xếp hạng tín dụng các khách hàng vay vốn theo hệ thống xếp
hạng tín dụng là nhằm thực hiện kiểm soát toàn bộ danh mục tín dụng cũng
như đánh giá khách hàng vay một cách có hệ thống trên cơ sở tập hợp các
thông tin chuyên ngành và thông tin tổng hợp về nền kinh tế nói chung trong
mối liên hệ đến quy mô khách hàng hiện tại của ngân hàng.
Trong quá trình thực tế triển khai áp dụng tại các chi nhánh, hệ thống
xếp hạng tín dụng này của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam còn gặp
phải một số hạn chế cần bổ sung, hoàn thiện về: hệ thống các chỉ tiêu phân
tích, cách thức thực hiện công tác xếp hạng tín dụng (đối với các doanh
nghiệp hoạt động trong nhiều lĩnh vực và các đơn vị hạch toán phụ thuộc), về

công tác tổ chức triển khai xếp hạng tín dụng, về hệ thống thông tin phục vụ
cho công tác phân tích, xếp hạng tín dụng Từ những vướng mắc trong thực
tế triển khai tại các chi nhánh nêu trên, luận văn đã đưa ra được những giải
pháp góp phần hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
LỜI MỞ ĐẦU
• Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là một trong những
hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro hơn hết. Có thể nói rủi ro được xem như một
yếu tố không thể tách rời quá trình hoạt động của ngân hàng thương mại trên
thị trường. Rủi ro trong cho vay còn được nhân lên gấp đôi, bởi vì ngân hàng
không những phải hứng chịu các rủi ro do những nguyên nhân chủ quan của
mình, mà còn gánh chịu những rủi ro do khách hàng gây ra.
Hoạt động ngân hàng thương mại bao gồm nhiều loại nghiệp vụ, nhưng
tựu chung lại, đây là loại hình kinh doanh tiền tệ - tín dụng của một trung gian
tài chính dựa trên cơ sở thu hút tiền của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả
và sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ thanh toán. Như
vậy, ngân hàng thương mại tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình thông
qua việc sử dụng không chỉ bằng vốn tự có, mà còn bằng vốn huy động của
khách hàng. Nếu ngân hàng thương mại không thu hồi được số nợ mà họ đã
cho vay thì ngân hàng thương mại không chỉ bị mất vốn tự có của bản thân
mà còn có nguy cơ không thể hoàn trả được số tiền đã huy động của khách
hàng. Vì vậy, tính chất trung gian tài chính đặt ra yêu cầu đầu tiên đối với
ngân hàng thương mại là phải thường xuyên thu hồi được số vốn đã cho vay
để duy trì khả năng hoàn trả số tiền huy động của khách hàng và bảo toàn vốn
tự có của bản thân.
Hoạt động kinh doanh tiền tệ ngày càng khó khăn, rủi ro của nó ngày
càng lớn, đòi hỏi phải có những biện pháp phòng ngừa, hạn chế các rủi ro để
bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Trong xu hướng
đó, xếp hạng tín dụng là một biện pháp ngày càng được các ngân hàng chú ý

sử dụng để đánh giá khách hàng vay vốn.
1
Là một ngân hàng thương mại lớn của Việt Nam, trong những năm qua,
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã không ngừng mở rộng mạng
lưới, cải tiến công nghệ và hoàn thiện các quy trình nhằm nâng cao chất lượng
sản phẩm dịch vụ đồng thời giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Theo đó, hệ
thống chấm điểm xếp hạng tín dụng theo chuẩn mực quốc tế đã ra đời, hỗ trợ
đắc lực cho việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng, phù hợp với phạm
vi hoạt động và tình hình thực tế. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực tế,
công tác xếp hạng tín dụng theo hệ thống xếp hạng tín dụng của Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng gặp phải một số khó khăn, vướng mắc.
Vì vậy, em muốn qua đề tài “Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam” để hoàn thiện hơn nữa công
tác xếp hạng tín dụng khách hàng vay vốn tại hệ thống Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam.
• Mục đích nghiên cứu
- Đi sâu vào phân tích thực trạng công tác xếp hạng tín dụng khách hàng
vay vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Qua đó, đánh giá được
những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại của ngân hàng.
- Đưa ra những giải pháp thiết thực, khả thi nhằm hoàn thiện công tác xếp
hạng tín dụng các khách hàng vay vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
• Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Luận văn sẽ góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác xếp hạng tín
dụng các khách hàng vay vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
• Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: hệ thống xếp hạng tín dụng các khách hàng
vay vốn tại ngân hàng thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu: các khách hàng vay vốn tại Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam
2

• Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử; các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực
hiện luận văn bao gồm: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp,
phương pháp thống kê, phương pháp chuyên gia.
• Nội dung, bố cục của luận văn
Luận văn gồm 03 chương (không bao gồm phần mở đầu và phần kết luận)
Chương 1: Tổng quan về xếp hạng tín dụng nội bộ của Ngân
hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng xếp hạng tín dụng nội bộ tại Ngân hàng
đầu tư và phát triển Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hệ thống XHTD nội bộ tại
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
3
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG NỘI BỘ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một loại hình tổ chức kinh doanh có vai trò vô cùng quan
trọng trong nền kinh tế. Với sự hiện hữu của ngân hàng, chúng ta có thể nhận
được các khoản vay để thanh toán cho nhu cầu tiêu dùng, thực hiện kế hoạch
kinh doanh… Bên cạnh đó, ngân hàng cũng là một địa chỉ hữu ích nếu như
chúng ta mong muốn nhận được những lời khuyên về việc đầu tư các khoản
tiền tiết kiệm hay về việc lưu giữ và bảo quản các giấy tờ có giá. Trong mọi
thời kỳ, ngân hàng là một trong những thành viên quan trọng nhất trên thị
trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành để tài trợ
cho các công trình công cộng, từ những hội trường, sân bóng đá cho đến sân
bay và đường cao tốc. Hệ thống ngân hàng với hàng ngàn chi nhánh hoạt
động trên toàn thế giới có thể tác động đến sự phát triển của tất cả mọi lĩnh
vực và của toàn bộ nền kinh tế nói chung.

Theo Peter Rose, “Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Những
chức năng cơ bản của ngân hàng hiện đại ngày nay là: chức năng tiết kiệm,
chức năng tín dụng, chức năng thanh toán, chức năng lập kế hoạch đầu tư,
chức năng quản lý tiền mặt, chức năng ngân hàng đầu tư và bảo lãnh, chức
năng môi giới, chức năng bảo hiểm, chức năng ủy thác.
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là tài trợ cho khách hàng
trên cơ sở tín nhiệm (tín dụng). Hình thức tín dụng truyền thống của ngân
4
hàng thương mại là cho vay ngắn hạn có đảm bảo bằng tài sản, giúp khách
hàng mua hàng hóa, nguyên, nhiên, vật liệu; sau đó mở rộng thành nhiều hình
thức khác nhau như cho vay thế chấp bằng bất động sản, bằng các chứng
khoán, bằng giấy tờ lưu kho, bằng các khoản phải thu… hoặc không cần thế
chấp. Các ngân hàng thương mại lớn hiện nay thực hiện đa dạng các hình
thức tín dụng từ cho vay ngắn, trung và dài hạn, bảo lãnh cho khách hàng (để
khách có thể phát hành các chứng khoản huy động vốn, mua hàng mà chưa
cần trả tiền ngay, hoặc vay của người thứ ba…), mua các tài sản để thuê…
1.1.1. Phân loại tín dụng ngân hàng
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau, tùy theo yêu cầu của khách
hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại:
1.1.1.1. Phân loại theo thời gian (thời hạn tín dụng)
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng
vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng
cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng
được phân thành:
- Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống;
- Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm;
- Tín dụng dài hạn: trên 5 năm.

Thời hạn tín dụng là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho
khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc
đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối
cùng phải thu về. Thời hạn tín dụng cũng có thể là thời gian mà khi kết thúc,
ngân hàng sẽ xem xét lại quan hệ tín dụng với khách hàng (ví dụ xác định hạn
mức tín dụng). Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể (ngày, tháng,
năm) và ghi trong hợp đồng tín dụng.
1.1.1.2. Phân loại theo hình thức
Tín dụng bao gồm: chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
- Chiết khấu thương phiếu:
Đây là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá
5
trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhận của ngân hàng để sở hữu một
thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). Về mặt pháp lý, ngân hàng
không phải đã cho chủ thương phiếu vay. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái
quyền. Tuy nhiên, đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một
khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như là hoạt
động tín dụng. Ngân hàng tuy ứng trước tiền cho người bán, song thực chất là
thay thế người mua trả tiền trước cho người bán.
- Cho vay:
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
- Bảo lãnh:
Là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách
hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách
hàng sử dụng uy tín của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ nào đó.
- Cho thuê:
Cho thuê là việc ngân hàng dùng tiền mua tài sản để cho khách hàng
thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng
phải trả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.

1.1.1.2. Phân loại theo tài sản bảo đảm
Tài sản bảo đảm các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được
nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất
(từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ.
Tín dụng có thể chia thành tín dụng có bảo đảm bằng uy tín của chính
khách hàng (hay tín dụng không có tài sản bảo đảm) và tín dụng có bảo đảm
bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
Tín dụng không có tài sản bảo đảm có thể được cấp cho các khách hàng
có uy tín, thường là khách hàng có quan hệ thường xuyên có lãi, tình hình tài
chính vững mạnh, luôn trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Hoặc đối với các khoản vay
theo chỉ định của Chính phủ cũng thường không có tài sản bảo đảm.
Tín dụng dựa trên cam kết bảo đảm yêu cầu ngân hàng và khách hàng
phải ký hợp đồng bảo đảm. Theo đó, ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được
6
tình trạng của tài sản bảo đảm (quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng
bán, khả năng tài chính của người thứ ba…), có khả năng giám sát việc sử
dụng hoặc có khả năng bảo quản tài sản bảo đảm.
1.1.1.4. Phân loại tín dụng theo rủi ro
Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ,
các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi
ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, bao
gồm cả nội bảng và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán. Cách phân
loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản
tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, khách hàng
gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản bảo đảm có giá trị lớn…

Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài
sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
1.1.2. Rủi ro tín dụng
1.1.2.1. Rủi ro tín dụng - Rủi ro chính trong hoạt động ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro được xem như một yếu tố không
thể tách rời với quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, doanh nhân trên thị
trường. Người ta khẳng định rằng, hơn mọi doanh nghiệp khác, ngân hàng
phải đối phó với các loại rủi ro từ mọi nguồn gốc.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng được
hiểu là khả năng một khách hàng vay hoặc một đối tác không hay không thể
thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận dẫn đến việc các khoản vay/ các khoản phải
thu của ngân hàng giảm giá trị hoặc không thu hồi được. Do vốn chủ sở hữu
của ngân hàng chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng tài sản nên chỉ cần một
7
tỷ lệ nhỏ của danh mục cho vay có vấn đề là đã ảnh hưởng lớn đến thu nhập
của ngân hàng, đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng hoặc, trong trường
hợp xấu nhất, làm cho ngân hàng có nguy cơ phá sản.
Trong danh mục tài sản có của ngân hàng, các khoản vay là nơi phát
sinh nhiều rủi ro tín dụng nhất. Tuy nhiên, rủi ro tín dụng có thể còn xuất hiện
ở nhiều hoạt động khác của ngân hàng, trong và ngoài bảng tổng kết tài sản.
Ngoài danh mục cho vay, ngân hàng ngày càng đối mặt với nhiều rủi ro tín
dụng hơn trong các sản phẩm, công cụ tài chính khác như đầu tư chứng
khoán, cho thuê tài chính, chiết khấu chứng từ có giá, các khoản phải thu…
Các khoản hoạt động ngoài bảng cân đối kế toán cũng chứa đựng rủi ro tín
dụng gồm có: phát hành thư tín dụng (trả ngay hoặc trả chậm), chấp thuận
thanh toán, kinh doanh ngoại tệ có kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn, phát hành
thư bảo lãnh các loại…
Ngày nay, dù có rất nhiều hình thức kinh doanh mới trong hoạt động
ngân hàng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng tín dụng vẫn là hoạt động kinh
doanh chủ yếu của các ngân hàng. Vì thế, ở tất cả các nước, rủi ro tín dụng là

vấn đề được đặc biệt quan tâm không chỉ ở phạm vi các ngân hàng, mà trong
toàn nền kinh tế. Các ngân hàng luôn tìm cực đại lợi nhuận qua việc tìm kiếm
lợi tức cao nhất có thể ở các món vay và chứng khoán, đồng thời cố gắng
giảm thiểu rủi ro liên quan đến hoạt động cho vay, như: sàng lọc và giám sát
khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài, quy định các mức
tín dụng, tài sản bảo đảm và hạn chế tín dụng. Dẫu sao, không một ngân hàng
nào có thể lường trước hết được những bất ngờ có thể xảy ra, sẽ luôn có
những hoạt động rủi ro của người vay tiền. Người ta gọi đó là rủi ro tín dụng.
1.1.2.2. Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của NHTM
Từ xưa đến nay, rủi ro tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu của các
ngân hàng trên toàn thế giới. Tín dụng là hoạt động mang tính chất sơ khai,
8
tính bản chất của ngân hàng và là cơ sở chủ yếu để đánh giá chất lượng hoạt
động ngân hàng. Hoạt động tín dụng giữ vai trò quan trọng đối với bất kỳ một
ngân hàng nào. Nó xứng đáng nhận được sự chú ý đặc biệt trong quản trị
ngân hàng cũng như trong công tác giám sát, điều chỉnh hoạt động ngân hàng
của ngân hàng trung ương. Việc quản trị tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến sự
thành công hay thất bại của ngân hàng. Trong hầu hết các trường hợp, một
danh mục cho vay được quản trị kém là tác nhân chủ yếu gây nên sự thất bại
của ngân hàng và do tính chất nhạy cảm đặc biệt của loại hình doanh nghiệp
này (ngân hàng), ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính và đôi khi là mở đầu
một cuộc khủng hoảng kinh tế.
a. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng:
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng đối với ngân hàng. Tuy
nhiên, tựu chung lại, có thể phân làm 03 nhóm sau:
- Nhóm nguyên nhân khách quan
- Nhóm nguyên nhân chủ quan từ phía người đi vay
- Nhóm nguyên nhân thuộc về chủ quan của ngân hàng
 Những nguyên nhân khách quan, bất khả kháng:
Đây là những biến cố từ môi trường tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội,

công nghệ tác động đến khả năng trả nợ người đi vay. Những nhân tố như
thiên tai, động đất, bão lụt, khủng hoảng kinh tế vĩ mô, hoặc thay đổi chính
sách vĩ mô có tác động lớn đến khả năng trả nợ của khách hàng vay, vượt quá
tầm kiểm soát của cả ngân hàng lẫn khách hàng.
 Những nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay:
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh
doanh, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo hoặc kinh doanh mạo hiểm,
thiếu thiện chí trả nợ… là những nguyên nhân gây rủi ro tín dụng. Dự báo và
9
nhận diện những rủi ro tiềm ẩn thuộc về chủ quan người vay là một trong
những nội dung cốt lõi của phân tích tín dụng mà các ngân hàng thương mại
theo đuổi.
Các khuôn khổ về phân tích tín dụng được ngân hàng sử dụng khi thẩm
định, đánh giá một khoản vay nhằm phát hiện và đánh giá khả năng gây ra tổn
thất do những nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay. Tuy nhiên, các
ngân hàng cũng không thể luôn luôn đánh giá đúng các rủi ro này.
 Những nguyên nhân thuộc về chủ quan của ngân hàng:
Những nguyên nhân thường thấy là thiếu thông tin về khách hàng vay,
năng lực cán bộ chưa cao, bỏ qua hoặc xem nhẹ các nguyên tắc hạn chế rủi ro,
thiếu trách nhiệm hoặc cố ý làm sai, không tuân thủ quy trình nghiệp vụ…
b. Quản trị rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng luôn là vấn đề nổi cộm của các ngân hàng. Mỗi ngân
hàng đều phải rút ra các bài học cho mình từ những kinh nghiệm quá khứ. Để
quản trị rủi ro tín dụng, các ngân hàng thường sử dụng một số công cụ sau:
- Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng bằng văn bản là yếu tố căn bản, là nền tảng để
quản trị tín dụng hiệu quả. Chính sách tín dụng đặt ra mục tiêu, tham số định
hướng cho cán bộ ngân hàng, những người làm công tác cho vay và quản trị
danh mục đầu tư. Chính sách được xây dựng khoa học, cẩn thận, thông suốt từ
trên xuống dưới sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng duy trì tiêu chuẩn tín dụng của

mình, tránh rủi ro quá mức và đánh giá đúng về cơ hội kinh doanh. Các tổ chức
giám sát hoạt động ngân hàng trên thế giới đều coi một chính sách tín dụng
được xây dựng đúng đắn là điều kiện thiết yếu để quản trị tốt rủi ro tín dụng.
- Giới hạn cấp tín dụng:
Để hạn chế rủi ro, mỗi ngân hàng nên quy định hạn mức cấp tín dụng
10
tối đa cho từng cấp quản trị (mức phán quyết). Mức phán quyết có thể được
quy định cho các chi nhánh ngân hàng, các phòng giao dịch, tùy theo quy mô
hoạt động, năng lực làm việc của chi nhánh; theo loại sản phẩm tín dụng, tính
chất có hay không có tài sản bảo đảm của khoản vay.
Ngoài ra, ngân hàng cũng cần xác định một mức giới hạn tín dụng đối
với từng khách hàng riêng biệt. Nó được hiểu là mức tín dụng an toàn tối đa
trong đó doanh nghiệp quản trị hiệu quả được hoạt động của mình và ở mức
này, rủi ro ngân hàng có thể chịu đối với doanh nghiệp là thấp nhất.
Giới hạn tín dụng được xác định trên cơ sở chính sách tín dụng từng
thời kỳ, xếp hạng tín dụng của doanh nghiệp, ngành nghề và quy mô hoạt
động của họ, khả năng cung ứng và quản trị vốn của ngân hàng.
- Định giá khoản vay:
Định giá khoản vay là một công cụ vô cùng quan trọng trong tiến
trình quản trị rủi ro tín dụng khi quyết định cho vay đã được đưa ra.
Thông thường, thu nhập mà một khoản vay mang lại cho ngân hàng gồm
có: tiền lãi vay và phí.
Về cơ cấu, lãi suất cho một khoản vay phải được xác định ở mức bảo
đảm bù đắp được chi phí vốn đầu vào, chi phí quản lý, phần lợi nhuận mong
muốn và phần bù rủi ro của khoản vay. Tùy thuộc vào chính sách của mình,
ngân hàng sẽ xác định mức lãi suất với phần bù rủi ro hợp lý.
- Xếp hạng tín dụng:
Các ngân hàng cần định kỳ thực hiện xếp hạng lại tín dụng cho khách
hàng (mức độ rủi ro của khách hàng), đánh giá lại món vay và tài sản bảo đảm
để từ đó có mức phân bổ dự phòng, điều chỉnh lại giới hạn cấp tín dụng cho

khách hàng cho phù hợp hoặc thực hiện những biện pháp cần thiết nhằm thu
hồi nợ trước hạn nếu phát hiện khoản vay, tài sản bảo đảm có dấu hiệu bất
thường ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ vay.
11
- Tài sản bảo đảm:
Tài sản bảo đảm là nguồn trả nợ thứ cấp cho khoản vay nếu dự án
kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro, dòng tiền của khách hàng không
đúng như dự kiến. Tuy nhiên, khoản vay sẽ phải được thanh toán bằng tiền
tạo ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng phát mại tài
sản bảo đảm nên tài sản bảo đảm mới là điều kiện cần chứ chưa phải là
điều kiện đủ để cho vay.
- Đa dạng hóa danh mục đầu tư:
Một công cụ khác luôn được nhắc đến của quản trị tín dụng ở tất cả
các ngân hầng trên thế giới là quản trị danh mục đầu tư. Quản trị danh mục
đầu tư làm cân đối và kiềm chế rủi ro danh mục bằng cách nhận dạng, dự
báo và kiểm soát mức độ rủi ro với từng thị trường, ngành hàng, khách hàng,
loại sản phẩm tín dụng và điều kiện hoạt động khác nhau. Nhiều chuyên gia
ngân hàng cho rằng đa dạng hóa là giải pháp hữu hiệu trong phòng ngừa rủi
ro tín dụng.
c. Hạn chế rủi ro tín dụng

Có thể nói hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là một
trong những hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro hơn hết. Rủi ro được xem như
một yếu tố không thể tách rời với quá trình hoạt động của ngân hàng thương
mại. Rủi ro trong cho vay còn được nhân lên gấp đôi, bởi ngân hàng không
những phải hứng chịu rủi ro do những nguyên nhân chủ quan của mình mà
còn gánh chịu những rủi ro do khách hàng gây ra. Hơn nữa, rủi ro trong hoạt
động ngân hàng có thể gây ra tai họa to lơn cho nền kinh tế hơn bất cứ rủi ro
của các loại hình doanh nghiệp khác. Tính chất lan truyền của nó có thể làm
ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống kinh tế.

Hoạt động ngân hàng thương mại gồm nhiều loại nghiệp vụ, nhưng tựu
chung lại, đây là loại hình kinh doanh tiền tệ - tín dụng của một trung gian tài
12
chính dựa trên cơ sở thu hút tiền của khách hàng (dưới hình thức nhận tiền
gửi huy động bằng trái phiếu, kỳ phiếu, đi vay…) với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ thanh toán. Ngân
hàng thương mại tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình thông qua việc
sử dụng không chỉ bằng vốn tự có mà chủ yếu bằng vốn huy động của khách
hàng. Nếu ngân hàng thương mại không thu hồi được số nợ mà họ đã cho vay
thì ngân hàng thương mại không những bị mất vốn tự có của bản thân mà còn
có nguy cơ không thể hoàn trả được số tiền đã huy động của khách hàng. Vì
vậy, tính chất trung gian tài chính đặt ra yêu cầu đối với ngân hàng thương
mại là phải thường xuyên thu hồi được số vốn đã cho vay để duy trì khả năng
hoàn trả số tiền huy động của khách hàng và bảo toàn vốn tự có của bản thân.
Hoạt động kinh doanh tiền tệ ngày càng khó khăn, rủi ro của nó ngày
càng lớn, đòi hỏi phải có những biện pháp phòng ngừa, hạn chế các rủi ro đó
để bảo đảm an toàn cho hoạt động của ngân hàng thương mại. Trong xu
hướng đó, xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng là công
việc ngày càng được chú ý rộng rãi trong hoạt động tín dụng ngân hàng, giúp
ngân hàng có thêm căn cứ để xác định đối tượng cho vay, lãi suất cho vay
cũng như vấn đề tài sản bảo đảm và các vấn đề khác. Trên cơ sở phân tích,
đánh giá các doanh nghiệp vay vốn, chúng ta có thể hạn chế rủi ro trong hoạt
động ngân hàng.
1.2. Cơ sở lý luận về xếp hạng tín dụng nội bộ tại Ngân hàng
thương mại
1.2.1. Khái niệm về xếp hạng tín dụng nội bộ
Hiện nay có nhiều thuật ngữ được sử dụng để chỉ việc thực hiện đánh
giá, xếp hạng khách hang vay vốn tại NHTM như : xếp hạng người vay
(borrower rating ), xếp hạng rủi ro người vay ( borrower risk rating), xếp hạng
rủi ro tín dụng (Credit risk rating), chấm điểm tín dụng (Credit scoring)…Tuy

nhiên từ gốc tiếng anh “credit rating” khi dịch sang tiếng việt có nhiều nghĩa:
13

×