LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là cơng trình nghiên cứu khoa học, độc lập của
tơi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
NGUYỄN THỊ QUỲNH
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GD ĐH
NSNN
QLGD
GD& ĐT
CBVC
TNTT
HSL
PCCV
TSCĐ
Giáo dục đại học
Ngân sách nhà nước
Quản lý giáo dục
Giáo dục và đào tạo
Cán bộ viên chức
Thu nhập tăng thêm
Hệ số lương
Phụ cấp chức vụ
Tài sản cố định
DANH MỤC CÁC BẢNG
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2001-2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 10/2002/NĐ-CP và sau đó là Nghị
định số 43/2006/NĐ-CP về trao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị
sự nghiệp công lập. Học viện Quản lý giáo dục là một đơn vị sự nghiệp công lập
hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đã được triển khai thực hiện cơ chế tự
chủ và tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài
chính theo quy định của Nghị định 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ.
Qua 3 năm thực hiện Nghị định 43/2006/NĐ-CP, Học viện đã có sự chuyển
biến mới trong hoạt động của mình, nhất là về quản lý tài chính. Nguồn thu sự
nghiệp tăng lên theo từng năm, thu nhập của cán bộ, viên chức tại Học viện được
cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, quá trình thực tế triển khai tại đơn vị cịn nhiều vướng
mắc, khó khăn trong quản lý tài chính, tổ chức bộ máy chưa hiệu quả địi hỏi có
biện pháp giải quyết, hồn thiện để giúp đơn vị tự chủ hơn trong các hoạt động của
mình, từ đó thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ được giao.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tơi chọn đề tài :”Hoàn thiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm về tài chính tại Học viện Quản lý giáo dục” làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu tình hình thực hiện cơ chế tự
chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính tại Học viện Quản lý giáo dục giai đoạn
2008-2010 từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ và tự chịu trách
nhiệm về tài chính tại Học viện Quản lý giáo dục giai đoạn 2011-2020.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục đại học,
quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính của các cơ sở giáo dục đại học.
- Phạm vi nghiên cứu: Về lý luận, luận văn tập trung nghiên cứu giáo dục đại
học , vai trò của các cơ sở giáo dục đại học công lập, quyền tự chủ và tự chịu trách
nhiệm của các cơ sở giáo dục đai học công lập. Về thực tiễn, luận văn phân tích
2
đánh giá thực tế thực hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính ở Học
viện Quản lý giáo dục giai đoạn 2008-2010, các giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ
và tự chịu trách nhiệm về tài chính ở Học viện Quản lý giáo dục được nghiên cứu
áp dụng đến năm 2015 và những năm tiếp theo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như thống kê kết hợp với so sánh, tổng hợp, hệ
thống hóa….
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Hệ thống hóa và phân tích sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về giáo dục đại
học, vai trò của các cơ sở đào tạo đại học, nguồn tài chính và nội dung chi ở các cơ
sở đào tạo Đại học công lập, cơ chế tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính ở các
cơ sở đào tạo Đại học cơng lập.
Tổng hợp, phân tích làm sáng tỏ thực trạng cơng tác quản lý tài chính ở Học
viện Quản lý giáo dục, từ đó làm sáng tỏ những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân
của thực trạng nói trên.
Đề xuất phương hướng và một số giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính ở Học viện Quản lý giáo dục đến năm
2015 và những năm tiếp theo.
6. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được kết cấu
gồm 3 chương:
Chương 1: Giáo dục đại học và cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính đối với các cơ sở giáo dục đại học;
Chương 2: Tình hình thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính tại Học viện Quản lý giáo dục;
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính tại Học viện Quản lý giáo dục.
3
CHƯƠNG 1
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ, TỰ CHỊU
TRÁCH NHIỆM VỀ TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI CÁC CƠ SỞ
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
1.1. Giáo dục đại học và vai trò của các cơ sở giáo dục đại học
1.1.1. Nhận thức chung về giáo dục đại học
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, là một trong những lĩnh vực hoạt động
xã hội nhằm kế thừa, duy trì và phát triển nền văn hóa xã hội, văn minh nhân loại. Giáo
dục là nhân tố cốt lõi và tồn tại khách quan trong mọi giai đoạn phát triển xã hội.
Theo nghĩa chung nhất: "Giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội những tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo và những kinh nghiệm nhằm chuẩn bị cho con người bước vào
cuộc sống lao động và sinh họat xã hội; là một nhu cầu tất yếu của xã hội loài người,
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con ngi v xó hi".
Ngày nay, giáo dục đại học (GD ĐH) bao gồm "tất cả các loại hình học tập,
đào tạo hoặc đào tạo cho nghiên cứu, đợc bảo đảm ở trình độ sau trung học, bởi
một cơ sở đại học hoặc đợc những nhà chức trách có thẩm quyền công nhận nh một
cơ sở đại học"
Trải dài hàng thế kỷ tồn tại không bị gián đoạn, GD ĐH đà chứng tỏ rõ ràng
tính ổn định và khả năng thích ứng, tiến hoá và sản sinh sự thay đổi và sự tiến bộ
trong xà hội. Vì tầm quan trọng và tính tốc độ của những thay đổi mà chúng ta đÃ
chứng kiến, xà hội ngày càng dựa trên tri thức, làm cho GD ĐH và nghiên cứu trở
thành những thành phần chủ yếu của sự phát triển văn hoá, kinh tế-xà hội và duy trì
sinh thái đối với những cá nhân, những cộng đồng và những dân tộc. Đó là lý do vì
sao bản thân GD ĐH phải đối mặt với những thách thức to lớn và phải tự cải biến, tự
đổi mới một cách triệt để, mà nó cha từng làm bao giờ.
Sự phát triển của GD ĐH thÕ kû 21 sÏ diÔn ra theo 3 xu thÕ lớn trong phạm vi
toàn cầu là: i) sự mở rộng số lợng sinh viên; ii) sự đa dạng hoá những cấu trúc, thể
chế, chơng trình và hình thức học tập; iii) sự hạn chế và ràng buộc về tài chính.
Chiến lợc phát triển GD ĐH theo những xu thế đó, cũng nh mọi chiến lợc phát triển
khác (kinh tế, công nghệ, khoa học, giáo dục...) đều phải là một sự phát triển bền
vững của con ngời, ở đó sự tăng trëng kinh tÕ lµ nh»m phơc vơ tiÕn bé x· hội và bảo
4
vệ môi trờng.
Giáo dục đại học trong những xu thế lớn trên phạm vi toàn cầu xoay quanh 4
trục chính là: sự phù hợp của GD ĐH; chất lợng GD ĐH; quản lý và cung cấp tài
chính cho GD ĐH; hợp tác quốc tế trong GD ĐH.
Tính phù hợp của GD ĐH chủ yếu là nói về sự phù hợp với: vai trò và vị trí
của GD ĐH trong xà hội; với sứ mạng của GD ĐH về mặt giáo dục, nghiên cứu và
phục vụ; với những mối liên hệ của GD ĐH với thế giới lao động; với những quan
hệ với Nhà nớc và những nguồn tài trợ công cộng; với những tác động qua lại giữa
GD ĐH và những cấp bậc học khác, hình thức học khác. Cụ thể:
- phù hợp với những chính sách, sao cho GD ĐH có thể phối hợp để chính xác
hoá những sứ mạng đào tạo, nghiên cứu và phục vụ và tìm kiếm đợc những nguồn
lực cần thiết;
- Phù hợp với những chờ đợi của thế giới lao động, việc làm, GD ĐH cần phải
đối mặt và tiên đoán đợc những thay đổi, phát triển đợc tinh thần doanh nghiệp hoặc
tạo nghiệp nhờ vào cách đào tạo thích hợp với thị trờng;
- Phù hợp với những trình độ khác của hệ thống giáo dục, sao cho tạo ra đợc
một "dây chuyền giáo dục" thực hiện đợc một nền giáo dục suốt đời;
- Phù hợp với nền văn hoá và các nền văn hoá, sao cho những di sản văn hoá đợc giữ gìn, phổ biến và phong phú lên nhằm đi xa hơn trong việc tìm kiếm tính phổ
quát.
Tính phù hợp của GD ĐH đòi hỏi phải cung cấp cho nền kinh tế hiện đại
những ngời tốt nghiệp đại học, là những ngời có khả năng thờng xuyên cập nhật đợc
kiến thức của mình, chiếm lĩnh đợc những trình độ thành thạo chuyên môn mới, và
không những có khả năng tìm đợc việc làm mà còn có khả năng tự tạo đợc việc làm
trong một thị trờng sức lao động đầy biến động.
Chất lợng không tách rời tính phù hợp xà hội. Sự đòi hỏi về chất lợng và
những chính sách nhằm thực hiện "sự đảm bảo chất lợng" đều yêu cầu phải cải tiến
đồng thời từng thành phần của chất lợng. Chất lợng của GD ĐH phụ thuộc vào:
- Chất lợng của nhân sự; do đó cần có một chế định về chính sách xà hội và
tài chính thích hợp, cần có một cách quản lý dựa trên nguyên tắc "xứng đáng về tài
đức" và đảm bảo việc bồi dỡng liên tục, cần có sự khuyến khích làm việc với tính
đồng đội liên ngành và phá bỏ những thói quen làm việc khoa học một cách cô độc,
rất riêng lẻ;
- Chất lợng của chơng trình; do đó cần chú trọng xác định mục tiêu đào tạo,
gắn kết với những nhu cầu của thế giới lao động và của xà hội; cần có phơng pháp s
phạm làm cho sinh viên chủ động hơn và triển khai tinh thần tạo nghiệp, doanh
nghiệp; cần tăng cờng tính mềm dẻo của những biện pháp đào tạo, khai thác những
5
công nghệ hiện đại; cần có sự quốc tế hoá và đa vào mạng những chơng trình giáo
dục và quốc tế;
- Chất lợng của sinh viên; sinh viên là nguyên liệu của GD ĐH, phải quan tâm
đặc biệt việc nhập học của họ, gắn với những tiêu chí về sự xứng đáng tài đức (năng
lực và động lực), những chính sách đối với những đối tợng thiệt thòi, sự phối hợp với
giáo dục trung học và về sự đảm bảo có một dây chuyền giáo dục thực sự xuyên
suốt; thực sự phát triển những năng lực trí tuệ của sinh viên, tăng cờng nội dung liên
môn và liên ngành và khả năng sử dụng những công nghệ mới;
- Chất lợng cơ sở hạ tầng và môi trờng bên trong và bên ngoài, bao gồm cả
những cơ sở hạ tầng liên quan đến việc sử dụng và phát triển những công nghệ mới,
cần thiết cho việc nối mạng, cho những thiết bị giáo dục từ xa... coi nghiên cứu
không chỉ là một trong những chức năng chủ yếu của GD ĐH, mà còn là điều kiện
không thể thiếu đợc để làm cho nhà trờng có chất lợng phù hợp với xà hội;
- Chất lợng của sự quản lý cơ sở nh một chỉnh thể phối hợp và tơng tác với
môi trờng vì cơ sở GD ĐH không thể là một ốc đảo, đóng cửa.
Công tác quản lý và cung cấp tài chính của GD ĐH: Việc quản lý những cơ
sở GD ĐH không thể thu gọn vào sự quản lý kế toán chỉ dựa trên những tiêu chí
kinh tế; những tiêu chí công bằng và phù hợp xà hội của những hoạt động giảng dạy,
nghiên cứu, chuyên môn và t vấn đều phải coi trọng hơn những tiêu chí khác, trong
khi vẫn phải bảo đảm một sự quản lý cân đối
Tăng cờng sự quản lý và tài chính cho GD ĐH nhằm mục đích đảm bảo chất lợng cao, cần chấp nhận những biện pháp quản lý hớng về tơng lai, đáp ứng những
nhu cầu của môi trờng đại học. Chất lợng cao trong quản lý đòi hỏi một sự điều
khiển biết kết hợp tầm nhìn xà hội, bao gồm cả sự hiểu biết những vấn đề toàn cầu
với năng lực giỏi về quản lý. Chú trọng đối thoại với tất cả các bên liên quan là cách
cải tiến quản lý có hiệu quả cao.
Sự hợp tác nhiều mặt
Một tầm nhìn phổ quát về GD ĐH đòi hỏi những sự hợp tác nhiều mặt giữa tất
cả những cơ sở có sứ mạng quy tụ về xây dựng một sự phát triển con ngời bền vững
và một nền văn hoá hoà bình:
- Cần quốc tế hoá hơn nữa những chơng trình giảng dạy và nghiên cứu trong sự
quan tâm nhiều hơn đến chất lợng, nhng đồng thời cũng đặt ra những cơ chế đấu
tranh với những hiện tợng phân cực hoá, đẩy ra ngoài lề;
- Những chính sách hợp tác phải giúp cho những nớc đang phát triển đợc trang bị
những phơng tiện nhằm tiếp cận đợc những công nghệ mới đó vµ lµm cho chóng trë
6
thành một công cụ giảm bớt những bất bình đẳng về hiểu biết và phát triển;
- Những chính sách hợp tác phải tìm kiếm hơn nữa sự đối tác giữa thế giới lao
động và GD ĐH;
- GD ĐH có trách nhiệm trong việc đào tạo giáo viên và nhà giáo dục, cần tăng
cờng sự gắn bó với những cơ sở giáo dục khác nhằm tạo ra một dây chuyền giáo dục
thực sự;
- Phát triển sự quốc tế hoá những hoạt động giảng dạy, nghiên cứu và phục vụ,
phải phát triển hơn nữa những mạng lới giữa sinh viên, nhà nghiên cứu, nhà quản lý
1.1.2. Cỏc c s giỏo dc i học công lập trong hệ thống giáo dục quốc dân
Hệ thống giáo dục quốc dân của một nước là toàn bộ các cơ quan chuyên trách
về giáo dục và đào tạo thanh thiếu niên và cơng dân của nước đó. Những cơ quan
này liên kết chặt chẽ với nhau cả về chiều dọc cũng như về chiều ngang, hợp thành
một hệ thống hoàn chỉnh, cân đối nằm trong hệ thống xã hội, được xây dựng theo
những nguyên tắc nhất định về tổ chức việc giáo dục và đào tạo nhằm đảm bảo thực
hiện chính sách của quốc gia trong lĩnh vực giáo dục quốc dân.
Theo khái niệm trên, hệ thống giáo dục quốc dân gồm: hệ thống nhà trường và
hệ thống các cơ quan giáo dục ngoài nhà trường.
- Hệ thống nhà trường được chia theo các hệ thống bộ phận, bậc học, cấp học,
từng loại trường khác nhau. Nhà trường là đơn vị cấu trúc cơ bản của hệ thống giáo
dục quốc dân.
- Hệ thống các cơ quan giáo dục ngồi nhà trường được chia theo các loại hình
hoạt động như văn hóa nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, thể dục thể thao… với các tổ
chức như nhà văn hóa, câu lạc bộ, trung tâm văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao,
cơ quan nghiên cứu khoa học…nơi dành cho thanh thiếu niên và công dân học tập,
vui chơi, giải trí, bồi dưỡng chính trị đạo đức, phát triển năng khiếu.
Cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân
Theo Luật Giáo dục 2005 và Luật sử đổi, bổ sung Luật giáo dục 2005 năm
2009, cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam gồm Giáo dục chính
quy và Giáo dục thường xuyên với các cấp học và trình độ đào tạo gồm:
- Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo.
- Giáo dục phổ thơng có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông.
7
- Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề.
- Giáo dục đại học và sau đại học (gọi chung là giáo dục đại học) đào tạo trình
độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.
Xét theo hình thức sở hữu, giáo dục đại học gồm các cơ sở đại học công lập và
các cơ sở đại học tư thục. Trường đại học công lập do Nhà nước thành lập, đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên.
Trường đại học tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức
kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí
hoạt động bằng nguồn vốn ngồi ngân sách nhà nước.
Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân thuộc mọi loại hình đều được
thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo
dục. Nhà nước tạo điều kiện để trường cơng lập giữ vai trị nịng cốt trong hệ thống
giáo dục quốc dân.
1.1.3. Vai trò của cơ sở giáo dục đại học công lập
Đầu thế kỉ 21, nền giáo dục của lồi người có những bước tiến lớn với nhiều
thành tựu mọi mặt. Hầu hết các quốc gia nhận thức sự cần thiết và cấp bách phải
đầu tư cho giáo dục. Đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư có lãi lớn nhất cho
tương lai của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng, mỗi gia đình, dịng tộc và mỗi cá nhân.
Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển ngày càng nhanh.
Kinh tế tri thức có vai trị ngày càng nổi bật trong q trình phát triển lực lượng sản
xuất. Trong bối cảnh đó, giáo dục đã trở thành nhân tố quyết định đối với sự phát
triển kinh tế xã hội. Các nước trên thế giới kể cả những nước đang phát triển đều coi
giáo dục là nhân tố hàng đầu quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi
quốc gia.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng công tác giáo dục và đào tạo.
Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, phát triển giáo dục và đào tạo cùng
với khoa học công nghệ được xác định là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục
là đầu tư cho phát triển. Luật giáo dục 2005 của nước ta đã khẳng định: “Phát triển
giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
8
dưỡng nhân tài” (điều 9). Tại điều 13 nhấn mạnh: “Đầu tư giáo dục là đầu tư phát
triển, Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục. Khuyến khích bảo hộ các quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư cho giáo dục,
trong đó ngân sách Nhà nước giữ vai trị chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho
giáo dục”.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, giáo dục và xã hội có một mối quan hệ
ràng buộc, tất yếu, hữu cơ mang tính quy luật. Chính sự phát triển của mối quan hệ
đó làm cho xã hội và giáo dục đều phát triển. Đặc biệt trong thời đại ngày nay giáo
dục được xem không chỉ là sản phẩm của xã hội mà đã trở thành nhân tố tích cực động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội lồi người. Do đó, vai trị của các cơ sở
giáo dục đại học ngày càng được nâng cao, nó vừa là vườn ươm nhân tài theo nghĩa
nó là nơi phát huy tư duy độc lập của sinh viên, nhằm đóng góp vào sự hiểu biết và
phát triển nền văn minh của dân tộc và nhân loại, vừa phải nhắm tới việc đáp ứng
nhu cầu lao động có tri thức và kỹ năng cao và đồng thời có khả năng tự nâng tầm
kiến thức để đáp ứng được các đòi hỏi mới của nền kinh tế ln nhanh chóng
chuyển đổi. Vai trị của các cơ sở giáo dục đại học cơng lập thể hiện cụ thể như sau:
Một là, vai trò của cơ sở giáo dục đại học công lập trong Hệ thống giáo dục
quốc dân
Tác động của Hệ thống giáo dục quốc dân bao trùm lên tất cả các mặt của đời
sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ... Sự phát triển của xã hội được
quyết định bởi khả năng sáng tạo của con người. Quá trình sáng tạo của con người
là quá trình tạo ra của cải vật chất và giá trị tinh thần. Đồng thời đó cũng là q
trình con người tự hồn thiện mình, nâng cao khả năng sáng tạo. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội
chủ nghĩa". Chúng ta sẽ tiến lên, sẽ chiến thắng trong cuộc thách thức mới của thời
đại, chủ yếu là bằng sức mạnh sáng tạo của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thời đại ngày nay địi hỏi nguồn lao động có trình độ cao, chỉ có sức mạnh tri thức,
khoa học công nghệ và kỹ năng nghề nghiệp điêu luyện mới tạo ra lợi thế cạnh
tranh cho nền kinh tế, nguồn lao động thủ cơng giá rẻ khơng cịn là ưu thế của thị
9
trường lao động Việt Nam. Các cơ sở GD ĐH công lập là môi trường thuận lợi để
sản sinh ra nguồn nhân lực trình độ cao, đáp ứng nhu cầu xã hội. Do đó nhiệm vụ
của Hệ thống giáo dục quốc dân là phải xác định đúng nhiệm vụ, đúng hướng phát
triển của từng cơ sở đào tạo đại học cụ thể; các cơ sở GD ĐH công lập cần thực
hiện đúng nhiệm vụ, đúng mục tiêu của đơn vị mình để cung cấp một phần nhân lực
cho Hệ thống giáo dục quốc dân.
Hai là, vai trò của cơ sở giáo dục đại học công lập đối với phát triển kinh tế
Xã hội loài người muốn tồn tại và phát triển thì phải có việc thế hệ đi trước
truyền lại những kinh nghiệm lịch sử - xã hội cho thế hệ đi sau để họ tham gia vào
đời sống xã hội, phát triển sản xuất, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của con người.
Cơng việc đó do giáo dục đảm nhận. Bất kỳ một nước nào muốn phát triển kinh tế,
sản xuất thì phải có đủ nhân lực và nhân lực phải có chất lượng cao. Nhân lực là lực
lượng lao động của xã hội, là đội ngũ những người lao động đang làm việc trong tất
cả các ngành nghề, các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội… đảm bảo cho xã hội vận
động và phát triển đúng quy luật. Giáo dục được thực hiện thông qua các cơ sở đào
tạo. Trong đó các cơ sở giáo dục đại học có mục tiêu tạo những người lao động có
kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp, trình độ chun mơn nghiệp vụ tương
xứng với trình độ đào tạo, có phẩm chất nhân cách cao, phát triển các sức mạnh tinh
thần và thể chất để vươn lên làm chủ trong lao động, trong cuộc sống cộng đồng.
Các cơ sở giáo dục đại học cơng lập giữ vai trị quan trọng trong hệ thống giáo
dục quốc dân. Mặc dù quy mô và chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học
tư thục ngày càng nâng cao nhưng do tính chất đặc biệt của sản phẩm giáo dục nên
không thể tách rời sự tài trợ, quản lý của Nhà nước. Giáo dục là sản phẩm đặc biệt
theo nghĩa nó là phương tiện được dùng để tăng khả năng sản xuất ra của cải trong
tương lai, mà như vậy, nó là hàng tích lũy. Nó lại là hàng hố mà xã hội cần, do đó
địi hỏi kể cả cưỡng bách mọi cơng dân phải đạt trình độ giáo dục tối thiểu là điều
xã hội chấp nhận rộng rãi. Ngoài ra, giáo dục là loại dịch vụ cũng rất đặc biệt theo
nghĩa chi phí xã hội và lợi ích xã hội của nó cao hơn là lợi ích cá nhân mà người
mua nhận được. Hàng hố cá nhân bình thường chỉ mang lợi cho cá nhân mua và sử
10
dụng chúng. Một cá nhân mua một ổ bánh mì để ăn hoặc một chiếc xe đạp để dùng,
thì cá nhân đó đã làm một sự lựa chọn dựa trên đánh giá cá nhân là tiền họ bỏ ra
phải tương xứng với lợi ích cho chính họ, tức là chi phí cá nhân = lợi ích cá nhân.
Khơng những thế, trong trường hợp này lợi ích xã hội = lợi ích cá nhân. Đây có thể
gọi là sản phẩm thơng thường hay sản phẩm cá nhân mà thị trường tự do có thể
hồn tồn tự giải quyết cung và cầu một cách tối ưu, tức là sản phẩm được sản xuất
và sử dụng ở điểm mà chi phí biên = lợi ích biên. Nếu sản phẩm nào có lợi ích cao
hơn chi phí thì cá nhân sẽ tăng cầu lượng sản phẩm đó (nhằm tăng tổng lợi ích), và
do đó sản xuất sẽ tăng lên để đáp ứng, và sản xuất chỉ dừng lại ở điểm mà lợi ích
biên bằng chi phí biên.
Giáo dục thì khác, nó nhằm đào tạo những người cơng dân có ích với chính
mình, có trách nhiệm với gia đình, xã hội và quốc gia. Một người vô học thiếu hiểu
biết về trách nhiệm cá nhân và xã hội sinh ra trộm cắp, giết người cướp của... sẽ làm
giảm chất lượng cuộc sống của mọi người. Sản phẩm giáo dục như vậy không chỉ
mang lợi cho cá nhân mà cho cả xã hội, tức là lợi ích xã hội do giáo dục tạo ra luôn
luôn lớn hơn lợi ích cá nhân. Giáo dục mang những đặc tính của hàng hóa cơng hay
hàng hóa phục vụ lợi ích cơng mà xã hội nói chung cần do đó phải có trách nhiệm
chi trả và điều phối. Hơn nữa, bậc giáo dục đại học đòi hỏi chất lượng giáo dục
ngày càng phải nâng cao để đáp ứng nhu cầu xã hội tăng nhanh nên chi phí cho giáo
dục đại học rất cao. Nếu để cho thuận mua vừa bán trên thị trường, tức là người
mua phải trả chi phí bằng với chi phí xã hội, mà lợi ích cá nhân lại ít hơn thì có
nhiều người sẽ khơng mua chúng, sẵn sàng để con em họ vô học, hoặc họ mua ít
hơn mức cần thiết đối với xã hội. Do vậy Nhà nước phải là người chủ yếu cung cấp
dịch vụ giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Q trình đào tạo được
thực hiện thơng qua các cơ sở giáo dục đại học công lập. Mặt khác, các cơ sở này
hoạt động tốt sẽ là bàn đạp thúc đẩy quá trình sáng tạo việc làm của con người, tạo
ra nhiều ngành nghề trong xã hội, cải thiện kinh tế cá nhân cũng như tăng trưởng
dần kinh tế đất nước.
Ngược lại, sự phát triển của kinh tế sẽ tạo ra cơ sở vật chất cho xã hội, từ đó
11
tạo điều kiện cho sự phát triển của các lĩnh vực khác, trong đó có sự phát triển của
các cơ sở giáo dục đại học công lập. Nhận thức về vai trò giáo dục đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội ngày càng nâng cao nên quy mô nguồn tài lực, vật lực đầu tư
cho các cơ sở giáo dục đại học cơng lập tăng cao. Vì vậy giữa sự phát triển của các
cơ sở giáo dục đại học cơng lập với sự phát triển kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ,
qua lại với nhau.
Ba là, vai trị của cơ sở GD ĐH cơng lập đối với phát triển xã hội
Trong nền kinh tế, các cơ sở giáo dục cơng lập là đơn vị nịng cốt thực hiện
các định hướng giáo dục đào tạo của ngành, phù hợp với định hướng phát triển của
đất nước, nhằm thực hiện điều tiết cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành. Do đó sẽ tạo ra
nguồn lao động đáp ứng nhu cầu xã hội. Từ đó nó góp phần giải quyết vấn đề việc
làm trong xã hội, tạo công bằng xã hội, góp phần ổn định chính trị..., có điều kiện
tập trung nguồn nhân lực và tài lực phát triển kinh tế đất nước.
Hơn nữa, tại các cơ sở GD ĐH cơng lập ngồi việc cung cấp cho người học
khả năng suy luận và kỹ năng cơ bản để đáp ứng với địi hỏi của thị trường lao động
có tính cá nhân, nó cịn cung cấp cho từng cá nhân trong xã hội những giá trị chung
về đạo đức cá nhân, gia đình và xã hội, về nhiệm vụ và quyền cơng dân, xây dựng ý
thức giữ gìn truyền thống, bản sắc riêng của dân tộc.
Được sự chú trọng đầu tư của Nhà nước, cơ sở GD ĐH cơng lập có đầy đủ cơ
sở vật chất đáp ứng nhu cầu rèn luyện, phát triển đời sống tinh thần và thể chất cho
học viên, tạo nên những người lao động phát triển tồn diện có kiến thức văn hố,
trình độ kỹ thuật và cơng nghệ, có thể lực mạnh khoẻ, tâm hồn trong sáng, trí tuệ và
tài năng, có tầm hiểu biết về chính trị, tư tưởng, về kinh tế và xã hội. Chính những
con người này tạo nên sự phát triển bền vững của đất nước, nâng cao vị thế của
quốc gia trên trường quốc tế.
Không chỉ thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ giáo dục đào tạo, các cơ sở
GD ĐH cơng lập cịn tương tác với hoạt động của các lĩnh vực khác tạo nên sự tổng
hòa các mối quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao... tác động đến sự phát
triển chung của đất nước. Với vai trò đi đầu trong việc thực hiện mục tiêu đặt ra
“giáo dục là quốc sách hàng đầu, là mục tiêu của nhà nước và nhân dân ta”, hoạt
12
động của các cơ sở giáo dục đại học công lập có ý nghĩa quyết định đến việc thực
hiện mục tiêu, nhiệm vụ trên.
1.2. Nguồn tài chính và nội dung chi ở các cơ sở giáo dục đại học công lập
1.2.1. Nguồn tài chính ở các cơ sở giáo dục đại học công lập
Một là, nguồn vốn ngân sách nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước (NSNN) không phải là
nguồn vốn duy nhất đầu tư cho giáo dục, nhưng là nguồn lực giữ vai trò chủ đạo,
thường chiếm tỷ trọng lớn, quyết định việc hình thành, mở rộng và phát triển hệ
thống giáo dục của một quốc gia. Các cơ sở giáo dục đại học công lập đảm nhiêm
chức năng kinh tế - xã hội là cung cấp dịch vụ giáo dục đào tạo nên nguồn tài chính
cơ bản là nguồn từ NSNN. Nguồn NSNN được cấp hàng năm cho cơ sở giáo dục
đại học công lập và phân bổ theo nguyên tắc công khai, tập trung dân chủ, căn cứ
vào quy mô và điều kiện phát triển của từng đơn vị.
Nguồn kinh phí NSNN cấp cho các cơ sở GD ĐH công lập bao gồm:
- Kinh phí bảo đảm hoạt động thường xuyên thực hiện chức năng, nhiệm vụ
đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động;
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ khoa học và cơng nghệ;
- Kinh phí thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức;
- Kinh phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia;
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt hàng;
- Kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao;
- Kinh phí thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo chế độ do Nhà nước
quy định;
- Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn
tài sản cố định phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm quyền
phê duyệt trong phạm vi dự toán được giao hàng năm;
- Vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngồi được cấp có thẩm
quyền phê duyệt...
Hai là, nguồn thu sự nghiệp
Giáo dục là lĩnh vực nhận được sự ưu tiên đầu tư từ NSNN. Tuy nhiên, trong
13
bối cảnh thu NSNN cịn hạn hẹp, Nhà nước khó có khả năng bảo đảm tồn bộ kinh
phí cho giáo dục. Để đáp ứng đủ nguồn lực tài chính cho giáo dục, cần có sự tham
gia của các nguồn lực ngoài ngân sách. Nguồn thu này do các cơ sở được phép tiến
hành và tự khai thác từ khả năng của đơn vị mình, khơng phải nộp vào NSNN mà
được sử dụng để thực hiện các nhiệm vụ của mình nhưng phải tuân theo các quy
định thống nhất của Nhà nước về quản lý tài chính.
Nguồn thu sự nghiệp của các cơ sở GD ĐH công lập bao gồm:
- Phần được để lại từ số thu phí, lệ phí cho đơn vị sử dụng theo quy định của
nhà nước: Học phí là chi phí của người học, đóng góp cho cơ sở giáo dục. Khoản
đóng góp này có ý nghĩa quan trọng, thể hiện sự công bằng trong việc thụ hưởng
giáo dục, nâng cao ý thức của người học đối với cộng đồng và góp phần làm giảm
gánh nặng chi NSNN. Học phí là một khoản thu lớn trong nguồn thu sự nghiệp.
Thơng qua việc thu học phí, Nhà nước cũng có thể điều tiết quy mơ, cơ cấu đào tạo
và thực hiện chính sách cơng bằng xã hội. Chính sách thu học phí góp phần nâng
cao nhận thức về trách nhiệm của người dân trong việc chăm lo cho sự nghiệp giáo
dục – đào tạo. Khung học phí phân biệt theo vùng, các địa phương và các cơ sở giáo
dục tự xây dựng quy định mức thu học phí cụ thể; từ đó đảm bảo mức thu học phí
phù hợp với khả năng đóng góp của dân cư từng địa phương và phù hợp với yêu cầu
phát triển của từng ngành nghề đào tạo, hình thức đào tạo, hồn cảnh của sinh viên.
- Thu từ hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên môn và khả năng của
đơn vị, như: thu từ hợp đồng đào tạo với các tổ chức trong và ngoài nước; thu từ các
hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm thực hành, thực tập, sản phẩm thí nghiệm; thu
từ các hợp đồng dịch vụ khoa học và công nghệ và các khoản thu khác theo quy
định của pháp luật. Vì hoạt động giáo dục đào tạo rất đa dạng về hình thức nên Nhà
nước cho phép các cơ sở giáo dục khai thác mọi nguồn thu để thực hiện quyền tự
chủ trong hoạt động chi tiêu.
- Thu từ hoạt động sự nghiệp khác như: lãi được chia từ các hoạt động liên
doanh, liên kết, lãi tiền gửi ngân hàng từ các hoạt động dịch vụ...Cùng với nguồn
thu học phí và thu từ hoạt động dịch vụ, các nguồn thu sự nghiệp khác cũng tạo
14
thêm nguồn tài chính đáng kể đối với các cơ sở giáo dục để tăng cường cơ sở vật
chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy và học, nâng cao chất lượng giáo dục, cải thiện
đời sống của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý trong cơ sở GD ĐH công lập.
Ba là, nguồn vốn viện trợ, quà biếu, tặng, cho theo quy định của pháp luật
Trong xu thế tồn cầu hóa kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, vốn
đầu tư không chỉ vận động trong phạm vi biên giới của một quốc gia, mà có thể di
chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác, phục vụ cho mục đích của chủ thể sở
hữu. Giáo dục ở các nước đang phát triển luôn trong tình trạng thiếu nguồn tài lực
để phát triển. Đây chính là tiền đề và cơ sở để các nước đang phát triển vận động và
thu hút vốn nước ngoài đầu tư phát triển giáo dục.
Nguồn vốn nước ngồi góp phần mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào
tạo. Thực tiễn cho thấy, một lượng lớn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tài
trợ cho các cơ sở GD ĐH công lập được sử dụng để xây dựng cơ sở vật chất, như
trường học, phòng học, các thiết bị phục vụ học tập... tạo điều kiện thuận lợi để
người học đến trường. Ngoài ra, các hoạt động cung cấp đầu vào cho giáo dục như
biên soạn chương trình đào tạo, sách giáo khoa; đào tạo giáo viên; đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cản bộ quản lý giáo dục (QLGD);... cũng nhận được sự hỗ trợ mạnh
mẽ của các nhà tài trợ quốc tế.
Bốn là, nguồn thu khác
- Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng và vốn huy động của cán bộ, viên
chức trong đơn vị.
- Nguồn vốn tham gia liên doanh, liên kết của các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Nội dung chi ở các cơ sở giáo dục đại học công lập
1.2.2.1. Nội dung chi thường xuyên
Chi thường xuyên tại các cơ sở GD ĐH công lập là các khoản chi nhằm đáp
ứng cho các nhu cầu chi hoạt động thường xuyên gắn liền với việc thực hiện các
nhiệm vụ của Nhà nước để cung cấp dịch vụ Giáo dục đại học.
Các cơ sở đào GD ĐH công lập được sử dụng nguồn NSNN cấp và nguồn thu
15
sự nghiệp của đơn vị để chi cho các hoạt động thường xuyên.
Theo nội dung kinh tế, chi thường xuyên ở các cơ sở đào tạo công lập bao gồm:
- Chi thanh toán cá nhân: Chi thanh toán cá nhân là những khoản chi nhằm
đảm bảo đời sống cho các cán bộ, giáo viên tại các cơ sở đào tạo đại học công lập;
là nguồn động viên giáo viên nâng cao chất lượng giảng dạy; khuyến khích sinh
viên phấn đấu học tập. Chi thanh toán cá nhân bao gồm:
+ Chi cho cán bộ, giáo viên và lao động hợp đồng như chi tiền lương, tiền
công; tiền thưởng; phụ cấp lương; phúc lợi tập thể; các khoản đóng góp trích nộp
bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, kinh phí cơng đồn theo chế độ hiện hành; các
khoản thanh tốn khác cho cá nhân.
+ Chi cho học sinh, sinh viên như chi học bổng, trợ cấp xã hội, tiền thuởng;
Chi cho các hoạt động văn hoá thể dục thể thao của học sinh, sinh viên.
- Chi nghiệp vụ chuyên môn: Chi nghiệp vụ chuyên môn là các khoản chi
thường xuyên phục vụ cho công tác quản lý và nghiệp vụ chuyên môn về đào tạo,
học tập, nghiên cứu khoa học ở các cơ sở đào tạo đại học công lập. Chi nghiệp vụ
chun mơn bao gồm:
+ Chi thanh tốn dịch vụ công cộng (Chi điện, nước, xăng dầu, vệ sinh môi
trường), mua vật tư văn phịng, cơng tác phí, hội nghị phí, chi phí th mướn, thơng
tin liên lạc, tun truyền, cước phí điện thoại, fax… phục vụ cho cơng tác quản lý
và chun mơn.
+ Chi mua sách, báo, tạp chí, tài liệu giáo khoa, giáo trình, sách tham khảo,
thiết bị, vật tư thí nghiệm, thực hành, chi phí cho giáo viên và học sinh đi thực tập...
+ Chi phí thuê chuyên gia và giảng viên trong và ngoài nước (chi tiền biên
soạn và giảng bài), chi trả tiền dạy vượt giờ cho giáo viên, giảng viên của cơ sở…
+ Chi đào tạo, bồi dưỡng giáo viên…
+ Chi cho công tác tổ chức tuyển sinh, thi tốt nghiệp và thi học sinh, sinh viên
giỏi các cấp…
+ Chi nghiên cứu các đề tài khoa học, công nghệ cấp cơ sở của cán bộ, giáo
viên và sinh viên…
16
- Chi mua sắm sửa chữa thường xuyên như chi mua sắm dụng cụ thay thế, sửa
chữa thường xuyên tài sản cố định phục vụ công tác chuyên môn và duy tu bảo
dưỡng các cơng trình cơ sở hạ tầng như mua sắm các phương tiện phục vụ giảng
dạy và nghiên cứu khoa học, sửa chữa phòng học và các phương tiện phục vụ giảng
dạy, nghiên cứu…
- Chi thường xuyên khác như trả gốc và lãi vốn vay các tổ chức, cá nhân trong
và ngồi nước (nếu có); sử dụng nguồn thu sự nghiệp đóng góp từ thiện xã hội, chi
trợ giúp học sinh nghèo vượt khó học giỏi, trật tự an ninh...
Theo hoạt động, chi thường xuyên ở các cơ sở đào tạo công lập bao gồm:
- Chi hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm
quyền giao, gồm: tiền lương; tiền cơng; các khoản phụ cấp lương; các khoản trích
nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí cơng đồn theo quy định hiện hành;
dịch vụ cơng cộng; văn phịng phẩm; các khoản chi nghiệp vụ; sửa chữa thường
xuyên tài sản cố định và các khoản chi khác.
- Chi hoạt động thường xun phục vụ cơng tác thu phí và lệ phí, gồm: tiền
lương; tiền công; các khoản phụ cấp lương; các khoản trích nộp bảo hiểm xã hội;
bảo hiểm y tế, kinh phí cơng đồn theo quy định hiện hành cho số lao động trực tiếp
phục vụ cơng tác thu phí và lệ phí, các khoản chi nghiệp vụ chun mơn; sửa chữa
thường xuyên tài sản cố định và các khoản chi khác theo chế độ quy định phục vụ
cho công tác thu phí và lệ phí.
- Chi cho các hoạt động dịch vụ, gồm: Tiền lương; tiền công; các khoản phụ
cấp lương; các khoản trích nộp bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế; kinh phí cơng đồn
theo quy định hiện hành; nguyên, nhiên, vật liệu, lao vụ mua ngoài; khấu hao tài sản
cố định; sửa chữa tài sản cố định; chi trả lãi tiền vay, lãi tiền huy động theo hình
thức vay của cán bộ, viên chức; chi các khoản thuế phải nộp theo quy định của pháp
luật và các khoản chi khác (nếu có).
1.2.2.2. Nội dung chi khơng thường xuyên
Bên cạnh các khoản chi đáp ứng các hoạt động thường xun, các cơ sở GD
ĐH cơng lập cịn có các khoản chi để thực hiện các hoạt động không thường xuyên,
17
thực hiện các nhiệm vụ Nhà nước đặt hàng, nâng cao cơ sở vật chất cho cơ sở GD
ĐH công lập. Chi không thường xuyên bao gồm:
- Chi thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ;
- Chi thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức;
- Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia;
- Chi thực hiện các nhiệm vụ do nhà nước đặt hàng (điều tra, quy hoạch, khảo
sát, nhiệm vụ khác) theo giá hoặc khung giá do nhà nước quy định;
- Chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài theo quy
định;
- Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao;
- Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước quy định (nếu có);
- Chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản cố
định thực hiện theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyêt;
- Chi thực hiện các dự án từ nguồn vốn viện trợ nước ngoài;
- Chi cho hoạt động liên doanh, liên kết;
- Các khoản chi khác theo quy định (nếu có).
1.3. Cơ chế tự chủ tài chính đối với các cơ sở giáo dục đại học cơng lập
1.3.1. Mục đích của cơ chế tự chủ tài chính
- Tăng cường trách nhiệm, và nâng cao tính chủ động, sáng tạo của cơ sở GD
ĐH và Thủ trưởng cơ sở GD ĐH.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động, thúc đẩy sử dụng kinh phí sự nghiệp một cách
tiết kiệm, hiệu quả, phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất
lượng cao cho xã hội.
- Thực hiện chủ trương xã hội hóa trong giáo dục đại học, huy động sự đóng
góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động giáo dục, từng bước giảm dần
bao cấp từ ngân sách nhà nước.
- Tinh giản bộ máy quản lý, sắp xếp lao động hợp lý.
- Tạo điều kiện tăng thu nhập, phúc lợi, khen thưởng cho người lao động.
18
- Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với cơ sở GD ĐH, Nhà
nước vẫn quan tâm đầu tư để hoạt động sự nghiệp này ngày càng phát triển; bảo
đảm cho các đối tượng chính sách – xã hội, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ ngày càng tốt hơn.
- Phân biệt rõ cơ chế quản lý nhà nước đối với đơn vị sự nghiệp với cơ chế
quản lý nhà nước đối với cơ quan hành chính nhà nước.
1.3.2. Nguyên tắc của cơ chế tự chủ tài chính
Các cơ sở GD ĐH cơng lập phải hoàn thành nhiệm vụ được giao. Mỗi cơ sở
GD ĐH công lập thực hiện nhiệm vụ đào tạo phù hợp với nhiệm vụ được giao,
trong khả năng chuyên môn và tài chính của đơn vị. Nguồn tài chính chủ yếu ở các
cơ sở giáo dục công lập vẫn là nguồn NSNN, để thực hiện nhiệm vụ cung cấp hàng
hóa đặc biệt mang tính chất xã hội – giáo dục nên trước hết các đơn vị này phải
hoàn thành nhiệm vụ đào tạo được giao.
Thực hiện công khai, dân chủ theo quy định của pháp luật. Công khai dân chủ
các hoạt động kinh tế xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay. Thực hiện tốt quy chế công khai, dân chủ nhằm phát huy vai trò
làm chủ và giám sát của người lao động trong từng cơ sở giáo dục và của xã hội đối
với hoạt động của đơn vị, bảo đảm cho các trường thực hiện tốt nhất quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm của mình. Thực hiện tốt quy chế công khai dân chủ trong các
trường để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động, ngăn chặn xảy ra
tình trạng lạm quyền, vi phạm quy định của pháp luật về tổ chức bộ máy, tuyển
dụng và sử dụng lao động, phân phối thu nhập, quản lý tài chính và tài sản cơng…
trong đơn vị.
Thực hiện quyền tự chủ phải gắn với tự chịu trách nhiệm trước cơ quan quản
lý cấp trên trực tiếp và trước pháp luật về những quyết định của mình; đồng thời
chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong phân
cấp quản lý kinh tế - xã hội nói chung, quyền hạn bao giờ cũng gắn với trách nhiệm,
hai mặt này không thể tách rời nhau. Cơ chế ràng buộc này nhằm bảo đảm cơ sở
giáo dục đại học công lập thực hiện quyền tự chủ trong phạm vi cho phép, theo
19
đúng quy định của pháp luật. Mặc dù giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho
các trường nhưng Nhà nước vẫn thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát quá trình thực
hiện cơ chế tự chủ tại các đơn vị nhằm hướng dẫn và tháo gỡ những khó khăn trong
triển khai thực hiện cơ chế, đánh giá tình hình triển khai thực hiện cơ chế để có
hướng khắc phục, hồn thiện cơ chế mới.
Bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân theo quy
định của pháp luật.
1.3.3. Cơ chế tự chủ quản lý tạo lập các nguồn thu
Các cơ sở giáo dục công lập được giao quyền tự chủ về nguồn tài chính, về
các khoản thu và mức thu.
Một là, tự chủ về nguồn tài chính
Kinh phí do ngân sách nhà nước cấp: Nguồn NSNN cấp cho các cơ sở giáo
dục đại học công lập thực hiện tự chủ được xác định căn cứ vào khả năng nguồn thu
sự nghiệp của đơn vị và các tiêu chuẩn định mức chi NSNN để đảm bảo hoạt động
thường xuyên của đơn vị. Mức ngân sách cấp chi thường xuyên cho các cơ sở giáo
dục đại học công lập do Trung ương quản lý được giao ổn định và hàng năm trong
thời kỳ ổn định được tăng theo tỷ lệ các nhóm ngành đào tạo do Chính phủ trình
Quốc hội quyết định; Mức ngân sách cấp chi thường xuyên cho các cơ sở giáo dục
đại học công lập thuộc địa phương quản lý do ngân sách địa phương đảm bảo theo
phân cấp của Luật NSNN. Nguồn kinh phí NSNN cho hoạt động thường xuyên đối
với cơ sở giáo dục đại học công lập tự chủ một phần chi phí hoạt động thường
xuyên và cơ sở giáo dục đại học công lập do ngân sách bảo đảm tồn bộ kinh phí
hoạt động cùng với nguồn thu sự nghiệp của đơn vị nhằm đáp ứng yêu cầu thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của đơn vị được giao.
Nguồn thu hoạt động sự nghiệp: Hàng năm, mỗi cơ sở giáo dục đại học cơng
lập đều được giao dự tốn số thu phí, lệ phí của đơn vị và tồn bộ số thu phí, lệ phí
thực tế đơn vị được để lại sử dụng. Mức học phí tại các trường là khác nhau do sự
đa dạng về loại hình đào tạo, tuy nhiên tất cả các đơn vị không được thu học phí lớn
hơn mức Nhà nước quy định. Như vậy, các cơ sở giáo dục đại học công lập được tự
20
chủ về học phí nhưng lại nằm trong khung học phí do Nhà nước quy định.
Đối với khoản thu từ họat động dịch vụ: Mức thu hàng năm do Thủ trưởng
đơn vị quyết định căn cứ vào khả năng khai thác dịch vụ của đơn vị. Khoản thu này
được khuyến khích phát triển tại các đơn vị để tăng thêm nguồn thu.
Huy động vốn và vay vốn tín dụng: Cơ sở giáo dục đại học cơng lập có hoạt
động dịch vụ được vay vốn của các tổ chức tín dụng, được huy động vốn của cán
bộ, giảng viên trong đơn vị để đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự
nghiệp, tổ chức hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và tự chịu
trách nhiệm trả nợ vay theo qui định của pháp luật.
Hai là tự chủ về các khoản thu, mức thu
Cơ sở giáo dục đại học cơng lập được giao thu phí, lệ phí tuyển sinh phải thực
hiện thu đúng, thu đủ theo mức thu và đối tượng thu do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ
Tài chính quy định. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định khung
mức thu, đơn vị căn cứ nhu cầu chi phục vụ cho hoạt động, khả năng đóng góp xã
hội để quyết định mức thu cụ thể cho phù hợp với từng loại hình đào tạo, từng đối
tượng đào tạo, nhưng khơng được vượt quá khung mức thu do cơ quan có thẩm
quyền qui định. Đơn vị thực hiện chế độ miễn, giảm học phí cho các đối tượng
chính sách - xã hội theo qui định của Nhà nước.
Đối với sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được cơ quan Nhà nước đặt hàng thì mức
thu theo đơn giá do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định; trường hợp sản phẩm
chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định giá, thì mức thu được xác định
trên cơ sở dự tốn chi phí được cơ quan tài chính cùng cấp thẩm định chấp thuận.
Đối với những họat động dịch vụ theo hợp đồng với các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước, các hoạt động liên doanh, liên kết đơn vị được quyết định các
khoản thu, mức thu cụ thể theo nguyên tắc bảo đảm đủ bù đắp chi phí và có tích lũy.
1.3.4. Cơ chế tự chủ quản lý sử dụng các nguồn tài chính
Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính, đối với các
khoản chi thường xuyên, các cơ sở GD ĐH công lập được quyết định một số mức
chi quản lý, chi hoạt động nghiệp vụ cao hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà
21
nước có thẩm quyền quy định.
Căn cứ tính chất cơng việc, các cơ sở GD ĐH công lập được quyết định
phương thức khốn chi phí cho từng bộ phận, đơn vị trực thuộc.
Quyết định đầu tư xây dựng, mua sắm mới và sửa chữa lớn tài sản thực hiện
theo quy định của pháp luật. Một số định mức chi phải đảm bảo chi bằng định mức
Nhà nước quy định, không được vượt quá định mức đó.
Một là, đối với tiền lương, tiền công ở cơ sở GD ĐH công lập
Những hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhà nước giao; hoạt động thu
phí, lệ phí thì tiền lương, tiền công của người lao động, cán bộ viên chức (gọi tắt là
người lao động) đơn vị tính theo tiền lương cấp bậc, chức vụ do Nhà nước quy đinh.
Những hoạt động cung cấp sản phẩm do nhà nước đặt hàng có đơn giá tiền lương
trong đơn giá sản phẩm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, thì tiền
lương, tiền công của người lao động, các cơ sở đào tạo đại học cơng lập tính theo đơn
giá quy định. Trường hợp sản phẩm nhà nước đặt hàng chưa có đơn giá tiền lương, tiền
cơng thì tính theo tiền lương cấp bậc, chức vụ do nhà nước quy định.
Những hoạt động dịch vụ, các cơ sở đào tạo đại học cơng lập tổ chức hạch
tốn riêng doanh thu, chi phí của từng loại dịch vụ; thì chi phí tiền lương, tiền cơng
của người lao động dịch vụ đó, đơn vị được áp dụng theo chế độ tiền lương của
Doanh Nghiệp Nhà nước.
Những hoạt động dịch vụ mà các cơ sở GD ĐH cơng lập khơng hạch tốn
riêng doanh thu, chi phí từng loại dịch vụ; thì chi phí tiền lương, tiền công của
người lao động thực hiện hoạt động dịch vụ tính theo tiền lương cấp bậc, chức vụ
do nhà nước quy định.
Hai là, đối với các khoản thu nhập tăng thêm
Nhà nước khuyến khích các cơ sở GD ĐH công lập tăng thu, tiết kiệm chi,
tinh giản biên chế, tăng thêm thu nhập cho người lao động trên cơ sở hoàn thành
nhiệm vụ được giao, sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với NSNN; căn cứ tùy theo
kết quả tài chính trong năm, các cơ sở GD ĐH công lập quyết định tổng mức thu
nhập tăng thêm cho người lao động trong năm.
Các cơ sở GD ĐH cơng lập tự bảo đảm chi phí hoạt động, được quyết định