Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Tăng cường quản lý nợ xấu tại chi nhánh sở giao dịch 1 ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.07 KB, 61 trang )

Báo cáo tốt nghiệp
“Tăng cường quản lý nợ xấu tại Chi nhánh Sở giao dịch 1 Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam”
MỤC LỤC
1.1.
1.1.1. Lịch sử hình thành và cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Sở giao dịch 1 —
Biểu
Biếu 2.1. Biếu đồ tổng tài sản của chi nhánh Sở giao dịch 1 qua các năm Biếu 2.2. Biểu đồ nguồn
vốn huy động của chi nhánh Sở giao dịch 1 qua các năm
Biếu 2.3. Biếu đồ dư nợ tín dụng của chi nhánh Sở giao dịch qua các năm Bảng
Bảng 2.1. Kết quả kinh doanh của chi nhánh Sở giao dịch 1
Bảng 2.2. Kết quả huy động vốn 2007 - 2009
Bảng 2.3. Tình hình hoạt động tín dụng của chi nhánh Sở giao dịch 1
Bảng 2.4. Tình hình hoạt động dịch vụ của chi nhánh Sở giao dịch 1
Bảng 2.5. Tình hình nợ xấu 2007 - 2009
Bảng 2.6. Tỷ trọng nợ xấu 2008 - 2009
Bảng 2.7. Kết quả xử lý nợ xấu của chi nhánh Sở giao dịch 1
Bảng 2.8. Tỷ lệ DPRR 2007 - 2009
Sơ đồ
Sơ đồ 1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của chi nhánh Sở giao dịch 1
LỜI MỞ ĐẦU
Qua hơn hai mươi năm thực hiện đổi mới và hội nhập, đặc biệt là từ khi chính thức gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Trở thành
thành viên chính thức của WTO, Việt Nam được đón nhận nhiều cơ hội mới nhưng cũng phải đối mặt với
không ít những thách thức. Trong khuôn khổ đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam, tài chính - ngân hàng là
một trong những lĩnh vực được cam kết mở cửa mạnh mẽ, các ngân hàng nước ngoài sẽ được phép hoạt động
tại Việt Nam và được đối xử ngang bằng theo nguyên tắc tối huệ quốc của WTO. Khi đó, các ngân hàng Việt
Nam sẽ gặp phải những đối thủ tầm cỡ ngay tại thị trường trong nước.
Trong đó,tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại, nó phản ánh hoạt động
đặc trưng của ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, mang lại nhiều thu nhập nhất song cũng
mang lại rủi ro cao nhất cho ngân hàng. Trong bối cảnh môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, một số Ngân


hàng Thương mại Cổ phần đã coi chính sách mở rộng tín dụng là một giải pháp đế thu hút khách hàng, chiếm
lĩnh thị phần. Tuy nhiên không thế đồng nghĩa với việc hạ thấp các tiêu chuẩn đánh giá khách hàng , thông tin
DANH MỤC BẢNG BIỂU
sai lệch, tìm cách lách luật mà vẫn phải áp dụng đúng quy trình tín dụng đế làm giảm các khoản nợ xấu,
tránh tổn thất cho ngân hàng. Đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng nền kinh tế toàn cầu, mà bắt nguồn từ
cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu và rộng với nền kinh tế thế
giới nói chung và ngành ngân hàng Việt Nam nói riêng cũng bị tác động, chịu những ảnh hưởng không hề nhỏ.
Đế không bị “lép vế trên sân nhà”, thời gian qua các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã thực
hiện nhiều biện pháp cải cách, đổi mới toàn diện. Thế nhưng khi mà công cuộc cải cách của các ngân hàng Việt
Nam mới đi được chặng đầu thì “cơn bão” khó khăn kinh tế đã ập đến. Nền kinh tế Việt Nam trong năm
2008 và những tháng đầu năm 2009 đã phải trải qua những biến động dồn dập và đối mặt với những
thách thức lớn. Nửa đầu năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt ở mức cao nhất trong vòng mười bảy năm
qua. Khi lạm phát đã bắt đầu hạ nhiệt nhờ hiệu quả của các chính sách tiền tệ và tài khoá thắt chặt thì các ngân
hàng và doanh nghiệp trong nước lại một phen lao đao vì cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ
nước Mỹ. Ảnh hưởng xấu từ sự suy giảm kinh tế toàn cầu đã khiến cho hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam rơi
vào tình trạng khó khăn và bế tắc. Nguy cơ gia tăng nợ xấu ngân hàng là khó có thể tránh khỏi.
Những khoản Nợ có khả năng mất vốn cả gốc và lãi đúng thời hạn càng lớn, tỷ lệ nợ xấu ngày càng gia
tăng, nhất là trong lĩnh vực tín dụng bất động sản, có lúc đã đe dọa tới tính thanh khoản của hệ thống ngân
hàng. Hơn bao giờ hết, công tác quản lý nợ xấu đang được các NHTM đặt lên hàng đầu.
Trong một thời gian thực tập ngắn tại Chi nhánh Sở giao dịch 1 - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam , đơn vị trực tiếp kinh doanh của Hội sở chính, một khu vực trọng điểm của hệ thống Ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam, được tìm hiều về những hoạt động của Sở giao dịch, nhất là hoạt động tín dụng, em đã
chọn đề tài : “Tăng cường quản lý nợ xấu tại Chi nhánh Sở giao dịch 1 — Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam” làm chuyên đề thực tập.
Kết cấu chuyên đề gồm có 3 chương :
Chương I. Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương
mại
Chương II. Thực trạng quản lý nợ xấu tại Chi nhánh Sở giao dịch 1 —
BIDV
Chương III. Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Chi nhánh Sở giao dịch 1 — BIDV

1. NHTM: Ngân hàng thương mại
2. BIDV: Ngân hàng đầu tư và phát triến Việt Nam
3. CN SGD1: chi nhánh Sở giao dịch 1 - Ngân hàng đầu tư và phát triến Việt Nam
DANH MỤC BẢNG BIỂU
4. H.O: Hội sở chính
5. TCTD: Tổ chức tín dụng
6. DPRR: Dự phòng rủi ro
7. CBTD: Cán bộ tín dụng
8. NHNN: Ngân hàng nhà nước
9. CAR: Hệ số an toàn vốn tối thiếu
10. BAMC: Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng đầu tư và phát triến Việt Nam.
AMC: Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Chương I. Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương mại
1.1.Những vấn đề cơ bản về nợ xấu của NHTM
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Theo ngân hàng Trung ương Liên minh châu Âu
Nợ xấu trong các Ngân hàng thương mại bao gồm:
*Những khoản nợ không thể thu hồi được :
- Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi bồi
thường từ nợ
- Người mắc nợ trốn hoặc bị mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ.
- Những khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ hoặc
không thể tìm được người mắc nợ.
- Những khoản nợ mà khách nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh,thanh lý tài sản hoặc
kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.
* Nợ có thể thu không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng.
Đây là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp không đủ trả
nợ. Người mắc nợ không liên lạc với ngân hàng để trả lãi hoặc gốc có thời hạn thanh toán,
hoặc hoàn cảnh chỉ ra rằng khoản nợ sẽ không thể thu hồi đầy đủ như:

- Những khoản nợ mà người mắc nợ đồng ý thanh toán trong quá khứ, nhưng phần
còn lại không thể được đền bù được trong thời gian thỏa thuận.
- Những khoản nợ mà tài sản thế chấp không đủ để trả nợ hoặc tài sản thế chấp ở
ngân hàng không được chấp nhận về mặt pháp lý dẫn đến người mắc nợ không thể
trả nợ ngân hàng đầy đủ.
- Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người mắc nợ phá sản nhưng phần bồi hoàn ít
hơn dư nợ.
1.1.1.2. Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng thống kê - Liên hiệp quốc
Một khoản nợ xấu được coi là nợ xấu khi đã quá hạn trả lãi và(hoặc) gốc trên 90
ngày;hoặc các khoản lãi chưa trả lãi từ 90 ngày trở lên đã nhập gốc, tái cấp vốn hoặc trả
chậm theo thỏa thuận; hoặc các khoản thanh toán đã quá hạn 90 ngày nhưng có lý do chắc
chắn đế nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ. Về cơ bản,nợ xấu được
xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ nghi ngờ. Đây
được coi là định nghĩa của Chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) hiện đang được áp dụng phổ
biến trên thế giới.
1.1.1.3. Theo định nghĩa của Việt Nam
Theo quyết định 493/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 22/4/2005 về
phân loại nợ;trích lập và sử dụng dự phòng đế xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của các tổ chức tín dụng; và theo quyết định số 18/2007 QĐ - NHNN ngày 25/4/2007
về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quyết định 493 thì nợ xấu được định nghĩa như sau:
Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3( nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4(
nợ nghi ngờ), nhóm 5( nợ có khả năng mất vốn). Nợ xấu theo định nghĩa của Việt Nam cũng
được xác định dựa theo hai yếu tố: (i) đã quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả năng trả nợ đáng
lo ngại.
Qua những định nghĩa về nợ xấu của các tổ chức trên ta có thế hiếu khái quát nợ xấu
là các khoản nợ mà khách hàng không trả gốc và lãi đúng hạn hoặc không trả nợ như đã cam
kết dẫn đến gây thiệt hại cho ngân hàng.
1.1.2. Phân loại:
Theo quyết định 493/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 22/4/2005 về
phân loại nợ;trích lập và sử dụng dự phòng đế xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân

hàng của tổ chức tín dụng,và theo quyết đinh số 18/2007 QĐ
- NHNN ngày 25/4/2007 về việc sửa đổi;bổ sung một số điều của quyết định 493 thì nợ xấu
được xác định dựa trên cả yếu tố thời hạn và khả năng thu hồi ( tại nội dung điều 6)
a. Nhóm 3 ( nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều
chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại điểm b khoản
này.
-Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi
đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 3 điều
này.
Nợ xấu thuộc nhóm này được coi là các khoản nợ có khả năng thu hồi cao
nhất. Ngân hàng sẽ trích lập một tỷ lệ DPRR cho nợ xấu nhóm này là 20% dư nợ
của nhóm.
b.Nhóm 4( Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3 điều
này.
Nợ xấu thuộc nhóm này được đánh giá là có khả năng thu hồi thấp hơn so với các
khoản nợ của nhóm 3. Các khoản nợ này được xếp vào những khoản nợ mà ngân hàng có sự
nghi ngờ về khả năng trả nợ. Tỷ lệ trích lập DPRR cho nợ xấu thuộc nhóm này là 50% tổng
dư nợ của nhóm.
c.Nhóm 5 ( Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời
gian trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.

- Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả
nợ được cơ cấu lại lần hai.
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 điều
này.
Khả năng thu hồi nợ của nhóm này được coi như bằng 0, do vậy tỷ lệ trích lập dự
phòng rủi ro tương ứng là 100% tổng dư nợ của nhóm.
Còn riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì được trích lập dự
phòng cụ thế theo khả năng tài chính của TCTD.
1.1.3. Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của NHTM:
- Tổng số nợ xấu : là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của toàn bộ khoản nợ
xấu của ngân hàng. Chỉ tiêu này chưa cho biết trong tổng số dư nợ đó,nợ không có
khả năng thu hồi là bao nhiêu và nợ có khả năng thu hồi là bao nhiêu.
- Tỷ lệ giá trị các khoản nợ xấu/tổng dư nợ: Chỉ tiêu này cho biết mức độ rủi ro tín
dụng của ngân hàng. Tỷ lệ này phản ánh cứ 100 đơn vị tiền tệ khi ngân hàng cho
vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà ngân hàng xác định khó có khả năng thu hồi
hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điếm xác định khó có khả năng thu hồi
hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điếm xác định. Tỷ lệ này mà càng cao thì
khả năng rủi ro càng cao. Nếu tỷ lệ này lớn hơn 7% thì ngân hàng bị coi là có chất
lượng tín dụng yếu kém, còn nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 5% thì được coi là có chất lượng
tín dụng tốt, các khoản cho vay an toàn. Tuy nhiên các con số được sử dụng đế tính
chỉ số này được đo tại một thời điếm nhất định nên chưa phản ánh một cách chính
xác chất lượng tín dụng của ngân hàng.
- Tỷ lệ nợ khó đòi/tổng dư nợ và nợ khó đòi/ nợ xấu: Các tỷ lệ này cho biết chỉ tiêu
tương đối của nợ khó đòi - một cấu phần quan trọng của nợ xấu. Đây là những chỉ
tiêu phản ánh một cách khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của ngân
hàng. Tỷ lệ này mà càng lớn thì khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng càng cao.
- Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/ nợ xấu: Tỷ lệ này phản ánh quỹ dự phòng rủi ro có khả
năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyến thành các khoản nợ
mất vốn. Nếu tỷ lệ này mà càng cao thì khả năng quỹ dự phòng rủi ro đủ bù đắp các

thiệt hại có thế xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng; và
ngược lại.
Ngoài ra cũng tùy theo tình hình cụ thể của mỗi ngân hàng hoặc quốc gia trong từng
thời kỳ mà có thể có thêm các chỉ tiêu khác để đánh giá, so sánh thực trạng nợ xấu nhằm
xây dựng các biện pháp xử lý hợp lý.
1.1.4. Dấu hiệu nhận biết nợ xấu:
1.1.4.1. Dấu hiệu từ phía ngân hàng :
Nợ xấu làm cho giảm doanh thu của ngân hàng,đồng thời làm giảm hình ảnh cũng
như uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, tác động rất tiêu cực đối với hoạt động của cả
hệ thống. Vì vậy, dự báo nợ xấu phát sinh từ các dấu hiệu định tính và định lượng là một
công việc có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Các dấu hiệu đó là:
- Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra trong tương lại, ví dụ như sáp
nhập.
- Sự đánh giá không chính xác về rủi ro của khách hàng.
- Không xác định rõ kế hoạch hoàn trả đối với từng khoản cho vay.
- Cho vay do khách hàng hứa duy trì một khoản tiền lớn trong ngân hàng.
- Do cạnh tranh có thể cấp tín dụng cho khách hàng để họ khởi chạy sang ngân hàng
khác dù biết khoản vay có thể dẫn đến rủi ro.
- Hồ sơ tín dụng không đầy đủ.
- Cơ cấu tín dụng không hợp lý, cho vay tập trung vào một số lĩnh vực nóng trong nền
kinh tế như đầu tư vào bất động sản
1.1.4.2. Dấu hiệu từ phía khách hàng:
Việc phát sinh nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khách
hàng không muốn trả nợ hoặc là do việc tiêu thụ hàng hóa, thu hồi công nợ chậm hơn dự
tính.
Việc thanh toán tiền không đúng kế hoạch. Người vay tiền thường xuyên trả nợ
không đúng kỳ hạn. Kỳ hạn của khoản vay liên tục bị thay đổi,khách hàng luôn yêu cầu
được gia hạn nợ.
Các số liệu và tài liệu cần thiết cung cấp cho ngân hàng không được kê khai đầy đủ,
chính xác và nộp không theo kế hoạch. Các tài liệu quan trọng phải nộp cho ngân hàng như:

báo cáo kết quả kinh doanh, thuyết minh báo cáo tài chính, báo cáo lưu chuyến tiền tệ,bảng
cân đối kế toán, liên tục bị trì hoãn một cách bất thường. Số liệu kê khai, hay số liệu về
doanh thu và dòng tiền thực tế bị nghi ngờ là có chênh lệch khá lớn so với mức dự kiến khi
khách hàng xin vay.
Tài sản đảm bảo không đủ các tiêu chuẩn, tài sản đảm bảo có giá trị thấp hơn so với
khi định giá cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, hay bán, trao đổi hoặc bị
mất.
Những thay đổi bất lợi về giá cổ phiếu của khách hàng vay vốn.
Những thay đổi trong cơ cấu vốn của người đi vay (tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu), khả
năng thanh toán.
Hoạt động kinh doanh của khách hàng thua lỗ trong một hay nhiều năm liên tục, đặc
biệt thế hiện qua các chỉ số như ROA, ROE và lãi vay(EBIT) hay thu nhập trước thuế
Những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong số dư tiền
gửi của khách hàng.
1.1.5. Tác động của nợ xấu
1.1.5.1. Đối với ngân hàng thương mại
Nợ xấu tác động hầu hết tới các hoạt động của NHTM, thậm chí số dư nợ xấu lớn
chứa đựng nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng.
Trước hết, nợ xấu làm cho giảm lợi nhuận của các NHTM. Nợ xấu hạn chế khả năng
mở rộng và tăng trưởng tín dụng, khả năng kinh doanh của NHTM. Khi mà nợ xấu tăng
cao,thu nhập của ngân hàng giảm, thậm chí không còn lợi nhuận do không thế thu hồi được
nợ, lại phát sinh thêm chi phí trích lập dự phòng, chi phí quản lý, xử lý nợ xấu và các chi
phí khác liên quan.
Thứ hai là nợ xấu sẽ làm giảm uy tín của ngân hàng. Nếu tỷ lệ nợ xấu quá cao, vượt
quá giới hạn an toàn theo thông lệ quốc tế thì uy tín của NHTM trong nước và quốc tế bị
giảm sút nghiêm trọng.
Thứ ba, nợ xấu ảnh hưởng xấu tới khả năng thanh toán và kế hoạch kinh doanh của
ngân hàng. Hoạt động chủ yếu của NHTM là nhận tiền gửi và cho vay. Nếu các khoản tín
dụng gặp rủi ro thì việc thu hồi nợ vay sẽ gặp rất nhiều khó khăn, không thu hồi được hoặc
thu hồi không đầy đủ nợ gốc và lãi đã cho vay. Trong khi đó,ngân hàng vẫn phải thanh toán

đúng hạn và đầy đủ đối với các khoản tiền gửi. Sự mất cân đối trên ảnh hưởng mạnh tới tính
thanh khoản của ngân hàng và ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của ngân hàng.
Thứ tư, nợ xấu có thể cản trở quá trình hội nhập của các NHTM. Nợ xấu tác động
trực tiếp tới khả năng tài chính của NHTM khi phân tích đánh giá tình hình tài chính hoạt
động ngân hàng, và là yếu tố bất lợi trong cạnh tranh, trong quá trình hội nhập và phát triển.
1.1.5.2. Đối với nền kinh tế
NHTM là doanh nghiệp đặc biệt trong nền kinh tế. Do đó nợ xấu của NHTM ảnh
hưởng rất lớn tới nền kinh tế. Tác động của nợ xấu đối với nền kinh tế tác động gián tiếp
thông qua mối quan hệ hữu cơ: Ngân hàng - khách hàng - nền kinh tế. Qua đó, nợ xấu ảnh
hưởng tới hoạt động kinh doanh của các ngân hàng cũng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của
nền kinh tế. Khả năng khai thác, đáp ứng vốn và khả năng cung ứng các dịch vụ ngân hàng
cho nền kinh tế sẽ bị hạn chế khi nợ xấu phát sinh. Bên cạnh đó, nợ xấu phát sinh do khách
hàng, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả sẽ tác động đến toàn bộ cả nền kinh
tế, tác động tới sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế do vốn ứ động,sản xuất kinh doanh
bị đình đốn.
1.2.Quản lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại
1.2.1. Sự cần thiết quản lý nợ xấu tại NHTM
Quản lý nợ xấu là một quá trình xây dựng và thực hiện các chiến lược,các chính
sách quản lý và kinh doanh tín dụng để đạt được các mục tiêu là an toàn,hiệu quả và phát
triển bền vững;trong đó cần tăng cường các biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế phát
sinh nợ xấu,đi kèm với việc xử lý các khoản nợ xấu đã phát sinh, từ đó làm tăng doanh
thu,giảm chi phí nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM.
Hoạt động tín dụng đem lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng. Tổn thất nếu xảy ra sẽ
làm giảm thu nhập, có thể thua lỗ hoặc phá sản cho ngân hàng. Vì vậy, an toàn tín dụng là
nội dung chính trong quản lý rủi ro của mọi Ngân hàng thương mại. Có hai mối liên hệ giữa
rủi ro và sinh lời trong hoạt động tín dụng. Trước khi tài trợ, mối quan hệ có thể là rủi ro
cao hoặc thấp trong ngắn hạn nhưng đều phải xác lập mối liên hệ giữa rủi ro và sinh lợi
nhằm đảm bảo tăng thu nhập cho ngân hàng trong dài hạn. Nghiên cứu và tìm ra các giải
pháp đế hạn chế rủi ro phát sinh, giải quyết và bù đắp tổn thất đã xảy ra là một trong những
nội dung chính của quản lý tín dụng, nhằm đạt được mục tiêu gia tăng thu nhập cho ngân

hàng trên cơ sở an toàn của từng khoản vay, của cả danh mục khoản vay.
1.2.2. Nội dung quản lý nợ xấu của NHTM
Quản lý nợ xấu có ý nghĩa , vai trò vô cùng to lớn đối với công tác quản lý nói riêng
và toàn bộ hoạt động của ngân hàng nói chung. Do vậy, công tác quản lý nợ xấu phải được
xây dựng và triến khai một cách đúng đắn, khoa học và phù hợp với thực tiễn của nền kinh
tế .
1.2.2.1. Phòng ngừa nợ xấu phát sinh
Theo Quyết định (QĐ) 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của thống đốc
NHNN về việc ban hành Quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng đế xử lý rủi
ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng và theo Quyết định số
18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một
số điều của Quyết định 493, nợ xấu chiếm tỷ lệ trong khoảng từ 2
- 5% là một tỷ lệ chấp nhận được. Ngân hàng thương mại cần phải tập trung vào các biện
pháp ngăn chặn nợ xấu sau đế có được một tỷ lệ nợ xấu thấp :
- Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng
Ngân hàng cần phải tiến hành hoạt động thẩm định đối với dự án vay, khách hàng
vay trước khi vay, trong cho vay và sau khi cho vay. Ngân hàng dùng các biện pháp đế kiếm
tra lại tính khả thi và sinh lợi của dự án,khả năng tài chính của khách hàng đi vay, đồng thời
thường xuyên theo dõi tình hình hoạt động của dự án sau khi giải ngân đế đưa ra những
nhận xét về khả năng thu hồi vốn, cả gốc và lãi từ dự án. Khi đến kì hạn phải trả nợ, nếu
thấy khách hàng cố tình chây ỳ, lừa đảo, không có thiện ý hoàn trả nợ. thì ngân hàng phải
tiến hành thu nợ. Còn nếu mà khách hàng có thiện ý trả nợ nhưng gặp khó khăn tạm thời thì
ngân hàng có thế tiến hành các biện pháp hỗ trợ như gia hạn nợ, giảm lãi suất, tiếp tục đế
khách hàng thu lợi nhuận trả ngân hàng.
Nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi
ro phải phù hơp với khả năng huy động vốn,kiểm soát rủi ro và bảo đảm an toàn hệ thống.
Yêu cầu các tổ chức tín dụng phải phân tích, đánh giá các rủi ro có thể xảy ra trong
từng quy trình nghiệp vụ để thực hiện ngay các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro, rà
soát, lựa chọn cán bộ có đầy đủ năng lực, trình độ, phẩm chất và đạo đức để thực hiện các
hoạt động nghiệp vụ; có cơ chế ủy quyền, quy định trách nhiệm đối với cán bộ phụ trách và

tác nghiệp. Theo chức năng nhiệm vụ của mình, các đơn vị thuộc NHNN hoàn thiện cơ chế
thông tin, báo cáo,kiểm soát và xây dựng hệ thống cảnh báo rủi ro để nâng cao khả năng
quản lý thị trường ngoại hối, phát hiện một cách kịp thời những rủi ro tiềm an để có những
biện pháp xử lý thích hợp.
Hoàn thiện cơ chế thông tin, báo cáo, kiểm soát, xây dựng hệ thống cảnh báo để
nâng cao khả năng quản lý, kiểm soát thị trường; đẩy nhanh việc xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật.
Đôn đốc các tổ chức tín dụng ban hành những quy định về tiêu chuẩn và yêu cầu tối
thiểu đối với hệ thống quản lý rủi ro trong thanh toán và áp dụng công nghệ thông tin để đề
xuất và triển khai đồng bộ các giải pháp phòng ngừa rủi ro; sau đó tiếp tục ban hành sửa
đổi, hoàn chỉnh chế độ kế toán cho phù hợp với các chuẩn mực kế toán quốc tế .
- Xây dựng chiến lược hoạt động hợp lý
Chiến lược hoạt động của Ngân hàng một mặt cần phải mang lại thu nhập cho ngân
hàng, mặt khác cần phải đảm bảo khả năng thanh khoản. Ngân hàng xây dựng và triển khai
sản phẩm, dịch vụ truyền thống và hiện đại nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng cao của khách
hàng cũng như sự phát triển của nền kinh tế. Trong hệ thống các hoạt động của ngân hàng,
nhất là hoạt động tín dụng, hoạt động mang lại hơn 70% thu nhập cho ngân hàng,ngân hàng
cần phải xác định mức độ rủi ro tối đa, giới hạn tỷ lệ nợ xấu. Rủi ro luôn đi kèm với hoạt
động của bất kỳ ngân hàng nào, chúng ta có thể làm hạn chế tổn thất của chúng, nhưng
không thể ngăn ngừa chúng xuất hiện. Hoạt động ngân hàng nằm trong giới hạn rủi ro, đó
cũng là một thành công lớn của ngân hàng.
Ngân hàng phải xây dựng danh mục tài sản với các rủi ro có thể chấp nhận được và
danh mục nguồn vốn với chi phí thực sự hợp lý, phù hợp với khả năng thanh khoản và thực
tế ngành kinh tế,vùng kinh tế và cả nền kinh tế. Ngân hàng đưa ra những sản phẩm và dịch
vụ thu hút khách hàng với các chính sách về lãi suất, phí, khách hàng. hợp lý trên cơ sở
nghiên cứu kỹ hành vi,tâm lý khách hàng và thị trường.
Ngân hàng phải xác định và tận dụng mọi lợi thế của mình trong việc xác định chiến
lược hoạt động ngắn hạn và cả trung dài hạn đồng thời hạn chế những mặt còn chưa tốt
trong nội tại của ngân hàng. Tập trung hoạt động vào những điếm mạnh, khai thác thị
trường dựa trên những ưu điếm của mình đế không ngừng mở rộng mạng lưới phân phối,

chiếm lĩnh thị phần, nâng cao sức cạnh tranh với các đối thủ. Từ đó, chiến lược mới phát
huy hiệu quả, đem lại nguồn thu cho ngân hàng,hình ảnh ngân hàng được nhiều cá nhân tổ
chức biết đến.
Ngoài ra, ngân hàng có thế triến khai các hoạt động bằng cách kết hợp với các ngân
hàng, các định chế tài chính khác đế có thế cùng nhau khai thác khách hàng, khai thác
ngành và vùng kinh tế, khai thác thị trường dựa trên những lợi thế có sẵn của mỗi bên.
Chiến lược hoạt động có một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của ngân
hàng. Nó xuyên suốt trong toàn hệ thống ngân hàng,nó là cương lĩnh hoạt động của tất cả
các cán bộ, công nhân viên, là kim chỉ nan dẫn đường cho từng bước đi của ngân hàng. Do
vậy, chiến lược hoạt động phải xây dựng một cách hợp lý, khoa học và thực tế.
- Triến khai công cụ kiếm soát rủi ro mới:
Ngân hàng phải triến khai phân loại khách hàng, chấm điếm tín dụng với từng đối
tượng khách hàng dựa trên các tiêu chí định tính cũng như định lượng. Hầu hết các ngân
hàng đều có tiêu chí xếp loại và phân loại nợ theo nhóm khách hàng đế phân tích và đánh
giá rủi ro tín dụng. Nợ của khách hàng nhóm A được coi là có rủi ro thấp nhất, và nợ khách
hàng nhóm C được coi là có khả năng mất vốn cao nhất
Mặt khác, ngân hàng có thế kiếm soát tín dụng bằng giới hạn tín dụng, giải ngân
kèm chứng từ hàng hóa đế hạn chế tổn thất cho vay. Thực hiện các công cụ kiếm soát
mới đồng thời làm giảm chi phí hoạt động của ngân hàng tăng lên, nhưng sẽ làm giảm tổn
thất mà các rủi ro đã mang lại . Các tổn thất này lớn hơn chi phí hoạt động của các công cụ
này thì sẽ mang lại lợi nhuận, hiệu quả cho chính ngân hàng đó.
1.2.2.2. Quản lý nợ xấu đã phát sinh:
- Yêu cầu tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp và tái cơ cấu lại nợ
Tái cơ cấu doanh nghiệp là một quá trình triển khai tái cơ cấu hoạt động sản xuất
kinh doanh, tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp có hiện trạng kinh doanh, tài chính kém
nhưng có thể phục hồi được. Việc thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp triển khai giữa các bên
có liên quan gồm nhà kinh doanh, nhà đầu tư, ngân hàng cho vay với mục đích hồi sinh,
tăng lại giá trị cho doanh nghiệp.
Việc đề xuất xử lý nợ xấu theo giải pháp này lại chỉ được áp dụng cho các khoản nợ
nhóm 3 và nhóm 4, đối với các khách hàng để duy trì mối quan hệ. Khoản nợ có thể được

quản lý qua việc kiểm soát chặt chẽ để bên vay thực hiện các hành động để vực dậy tình
hình của họ, sửa chữa những thiết sót. Nhất là trong trường hợp khách hàng không trả nợ
lần đầu thì cần thuyết phục họ trong việc thực hiện các biện pháp cứng rắn để củng cố vị trí
của khách hàng. Ngân hàng duy trì mối quan hệ này chặt chẽ để có thể kiểm tra, theo dõi
quá trình xử lý nợ. Ngân hàng có thể áp dụng các phương pháp sau: điều chỉnh kỳ hạn nợ,
gia hạn nợ, giảm hoặc miễn một phần nợ lãi vay phải trả.
- Chứng khoán hóa các khoản nợ xấu - Biến nợ thành chứng khoán
Chứng khoán hóa là một quá trình tập hợp lại và tái cấu trúc tài sản mà thiếu tính
thanh khoản nhưng có thu nhập bằng tiền lớn trong tương lai gồm các khoản phải thu,
khoản nợ rồi sau đó chuyển đổi chúng thành trái phiếu, sau đó đưa ra giao dịch trên thị
trường tài chính. Còn chứng khoán hóa các khoản nợ là chuyển đổi một tập hợp một cách
có chọn lọc các khoản vay có thể thế chấp được của ngân hàng mà trước đó không hề có thị
trường thứ cấp để giao dịch thành các chứng khoán khả mại, có thể giao dịch trên thị trường
thứ cấp. Ngân hàng có thể sử dụng biện pháp này để xử lý các khoản nợ xấu của mình song
cần có sự hỗ trợ phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán cùng các giao dịch mua
bán nợ.
Giải pháp này trước hết bổ sung và làm đa dạng hàng hóa được giao dịch trên sàn,
mở rộng quy mô thị trường. Chứng khoán hóa tạo ra thêm một kênh huy động vốn cho các
doanh nghiệp, mở ra nhiều cơ hội tiếp cận được thị trường vốn và làm cho giảm chi phí tài
trợ lẫn tối ưu hóa việc sử dụng vốn. Biện pháp này góp phần tài trợ vốn dài hạn và có hiệu
quả qua việc phát hành có kỳ hạn dài hơn các loại tài sản liên kết so với các khoản nợ của
ngân hàng hoặc các loại tín phiếu. Mặt khác, đây còn là phương pháp góp phần làm tăng thu
nhập của tổ chức phát hành, đồng thời là công cụ đa dạng hóa rủi ro tốt nhất.
Ngoài ra, chứng khoán hóa còn có những rui ro như: những hạn chế của định mức
tín nhiệm, công bố thông tin không bảo vệ được, các tài sản không được như mong đợi, dữ
liệu không có sẵn, tính thanh khoản yếu của công cụ nợ, nhược điếm của chế độ báo cáo sản
phẩm phái sinh và sản phẩm thu nhập cố định .
- Xử lý tài sản đảm bảo, đòi nợ bên bảo lãnh
Đối với những khoản nợ xấu nhưng không thế cơ cấu lại nợ, khách hàng không có
khả năng cải thiện tình hình tài chính, chây ỳ trong việc trả nợ . thì NHTM cần phải chủ

động xử lý các tài sản đảm bảo nợ vay kế cả bất động sản thông qua các hình thức như sau:
• NHTM trực tiếp bán tài sản cho người mua.
• Bên bảo đảm trực tiếp bán tài sản cho người mua.
• Bán thông qua tổ chức đấu giá.
• NHTM nhận chính tài sản đảm bảo đó đế thay cho việc được bảo đảm. Việc quyết
định nhận tài sản đế thay thế cần tuân theo thủ tục mua tài sản của NHTM đó.
• NHTM có thế nhận các khoản tiền hoặc tài sản từ người thứ ba khi thế chấp quyền
đòi nợ, từ bên thứ có nghĩa vụ liên quan đến tài sản bảo đảm hoặc công ty bảo hiếm
trong trường hợp thế chấp quyền thụ hưởng tiền bảo hiếm nhân thọ. Khi đó, vẫn
phải thỏa hiệp và phải có cam kết bằng văn bản của bên bảo đảm về quyền truy đòi
cho bên bảo đảm nếu không thu hoặc không đủ từ bên thứ ba bởi lý do nào đó.
Biện pháp này thường không được mong muốn vì việc phát mại tài sản bảo đảm, đòi
nợ bên bảo lãnh thường khá phức tạp cùng nhiều thủ tục, tốn kém thời gian, khả năng thu
được nợ đầy đủ không cao, nhưng ngân hàng vẫn bắt buộc phải thực hiện đế thu hồi vốn.
Đây là một trong số các giải pháp thu hồi vốn một cách hiệu quả nhất cho các ngân hàng,
nhất là các khoản nợ bởi cơ sở pháp lý chưa đầy đủ, khách hàng lừa đảo ngân hàng.
- Bán các khoản nợ
Việc bán các khoản nợ thường được ngân hàng sử dụng với các khoản nợ mà không
hề có tài sản đảm bảo hoặc không muốn mất thời gian đế đòi nợ. Ngân hàng sẽ chuyến
nhượng quyền đòi nợ cho một tổ chức kinh tế,cá nhân có chức năng theo quy định đế có thế
sớm thu hồi vốn của mình. Khi ngân hàng bán các khoản nợ xấu thường phải chấp nhận bán
với giá thấp hơn giá trị khoản nợ đế thu hồi vốn nhanh và không đế ảnh hưởng tới các
khoản nợ còn lại. Đế thực hiện biện pháp này sao cho hiệu quả, ngoài việc đưa các khoản
nợ xấu ra khỏi bảng tổng kết tài sản nhanh chóng thì các ngân hành thường thành lập tổ
chức có chuyên môn cao gọi là công ty quản lý nợ và khai thác tài sản(AMC). Công ty
AMC sẽ tiếp nhận các khoản nợ và thực hiện mua bán tiếp theo.
- Bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro
Quỹ dự phòng rủi ro được trích từ lợi nhuận của các Ngân hàng thương mại nhằm đế
bù đắp vào những tổn thất trong hoạt động kinh doanh. Ngân hàng phải phân loại các khoản
nợ xấu đế xem loại nào được xử lý bằng quỹ dự phòng. Dự phòng rủi ro thì được tính theo

dư nợ gốc và hạch toàn vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng.
Những trường hợp được xử lý từ quỹ dự phòng là khi bên được bảo lãnh vay vốn,
khách hàng vay vốn, bên được hưởng dịch vụ thanh toán là những tổ chức bị phá sản, giải
thế hoặc cá nhân bị mất tích , bị chết hay không thế thực hiện được các nghĩa vụ thuộc
nhóm nợ có khả năng mất vốn.
- Sự trợ giúp của Chính phủ
Đối với những khoản nợ xấu phát sinh do các khoản vay theo chính sách của Chính
phủ, ngân hàng phải trông chờ vào nguồn bù đắp của ngân sách nhà nước. Thực chất các
khoản vay theo chính sách này có thế coi như là các khoản vay có bảo lãnh của bên thứ ba
là Chính phủ. Vì vậy, ngân hàng không thế thu hồi được nợ từ khách hàng thuộc đối tượng
này thì Chính phủ phải đứng ra giải quyết cho ngân hàng.
Chính phủ có thế sử dụng ngân sách mua toàn bộ nợ xấu của ngân hàng đế xử lý dần
dần trong một số năm nhất định đế giải thoát cho ngân hàng không bị sa lầy vào khủng
hoảng của nợ xấu, giúp ngân hàng tập trung vào các hoạt động kinh doanh. Giải pháp này
có hạn chế là các thư tục, trình tự xử lý rất phức tạp, kéo dài và có sự tham gia của nhiều cơ
quan chức năng nên không thế áp dụng thường xuyên vì ngân sách có hạn , việc xử lý một
khối lượng lớn nợ xấu chi phí tốn kém làm giảm ngân sách đầu tư vào các lĩnh vực khác,
gây ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế.
1.2.3. Nhân tố ảnh hưởng tới công tác quản lý nợ xấu
1.2.3.1. Nhân tố chủ quan
- Nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng bao gồm cơ chế quản lý tín dụng và công nghệ
ngân hàng,cơ cấu tổ chức.
Thứ nhất, cơ chế quản lý tín dụng của ngân hàng có thể được biểu hiện qua quy
trình nghiệp vụ ngân hàng,cơ cấu cho vay,đạo đức và trình độ chuyên môn của cán bộ tín
dụng, công tác kiểm tra nội bộ ngân hàng.Nếu cơ chế quản lý tín dụng được thực hiện một
cách nghiêm túc, đúng đắn thì sẽ mang lại hiệu quả cho ngân hàng. Ngược lại, công tác
quản lý không được thực hiện đúng mực tới các bộ phận, phòng ban của ngân hàng, không
tạo được sự thống nhất trong toàn bộ hệ thống sẽ làm giảm thu nhập cho ngân hàng, nợ xấu
vì thế mà tăng lên.
Thứ hai, công nghệ ngân hàng là một hệ thống quantrọng trong công tác

điều hành phát triển ngân hàng và đem lại lợi ích cho khách hàng, ngân hàng. Với khách
hàng, công nghệ sẽ mang lại cho khách hàng sự hài lòng nhờ vào những dịch vụ ngân hàng
có chất lượng tốt, thời gian giao dịch được rút ngắn, an toàn, bảo mật. Với công nghệ hiện
đại, ngân hàng sẽ tạo ra đột phá trong khai thác sản phẩm, dịch vụ cả về số lượng và cả chất
lượng, gián tiếp khẳng định được đẳng cấp, tên tuổi, hình ảnh của ngân hàng. Dưới góc độ
quản lý, công nghệ góp phần giúp việc quản lý nội bộ trong ngân hàng sẽ chặt chẽ hiệu quả
hơn, quản trị rủi ro tốt hơn,làm giảm nợ xấu. Còn nếu công nghệ ngân hàng mà lạc hậu, tất
yếu sẽ dẫn đến nhiều hậu quả như không theo kịp ngân hàng trong nước và quốc tế, làm
giảm uy tín, hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng, cũng là nguyên nhân làm phát sinh
nợ xấu.
Thứ ba, nếu ngân hàng được cơ cấu tổ chức chặt chẽ,thống nhất hợp lý giữa các cấp;
tăng cường chất lượng quản lý, quản trị rủi ro thì sẽ làm giảm nợ xấu trong quá trình tín
dụng, giảm thiệt hại cho ngân hàng. Và ngược lại , nếu như tổ chức lỏng lẻo sẽ tạo điều kiện
cho nhân viên tín dụng cùng cấp trên hợp thức hóa hồ sơ ,
làm giả mạo giấy tờ tín dụng, làm phát sinh nợ xấu.
- Nhân tố chủ quan từ phía khách hàng vay :
Khi doanh nghiệp vay tiền ngân hàng đế thực hiện, mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh, với một dự án đầy khả thi và với tư duy quản lý, kinh doanh tiên tiến thì sẽ mang lại
hiệu quả cho dự án, đảm bảo trả đủ cả gốc và cả lãi cho ngân hàng. Nếu với tư duy kinh
doanh còn hạn chế thì dù với một dự án đầy triến vọng thì cũng sẽ thua lỗ làm gia tăng nợ
xấu cho ngân hàng.
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có phương án kinh doanh cụ thế
và khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng đế
chiếm đoạt tài sản thì không nghiều. Song những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên
quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp khác.
1.2.3.2. Nhân tố khách quan:
- Môi trường kinh tế - xã hội
Đối với những nền kinh tế quy mô nhỏ, sản xuất công nghiệp còn lạc hậu, chủ yếu là
thành phẩm đơn giản như dầu thô, may gia công, thì rất dễ bị tác động khi nền kinh tế thế
giới biến động mạnh. Nếu như thế giới biến động ít,ổn định thì hoạt động của các doanh

nghiệp cũng được đảm bảo,khả năng trả nợ cho ngân hàng càng cao. Còn trong trường hợp
thế giới biến động mạnh mẽ : giá cả, tỷ giá, hạn ngạch,thuế . thì hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí là có nguy cơ phá sản,giải thế, mất khả
năng thanh toán cho ngân hàng.
Ví dụ như ở Việt Nam : một số năm gần đây ngành dệt may đã gặp khó khăn do bị
khống chế hạn ngạch dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp nói riêng và của các ngân hàng cho vay nói chung. Ngành thủy sản cũng đã gặp
nhiều khó khăn vì các vụ việc bán phá giá thời gian qua.
Không chỉ riêng xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng chịu nhiều tác động tiêu
cực. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép trên thế giới. Việc tăng giá phôi
thép cũng làm cho nhiều doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải dừng sản xuất do chi
phí giá thành sản xuất rất cao trong khi không tiêu thụ được các sản phẩm.
Mối quan hệ đa phương và song phương giữa một quốc gia với phần còn lại của thế
giới cũng ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh nói chung và của cả ngân hàng nói
riêng. Một đất nước ổn định về chính trị, có quan hệ tốt đẹp với các tổ chức, cá nhân trong
và ngoài nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh trong nước và xuất nhập khẩu.
Ngược lại, một đất nước bất ổn , biểu tình, đình công, bị cấm vận,. thì nền kinh tế chắc chắn
sẽ kiệt quệ, ảnh hưởng nghiêm trọng tới các thành phần kinh tế và làm nợ xâu của ngân
hàng cũng gia tăng lên rất nhiều.
- Môi trường tự nhiên:
Đối với nền kinh tế lệ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp thì rất nhạy cảm với sự
thay đổi thời tiết, của môi trường tự nhiên, mà điển hình là Việt Nam. Nếu thời tiết thuận
lợi, cây trồng đạt năng suất,vật nuôi không bị dịch bệnh, khỏe mạnh thì khả năng thu hồi
vốn từ người đi vay là rất lớn. Nhưng nếu môi trường tự nhiên không thuận lợi, chịu ảnh
hưởng thiên tai,lũ lụt,hạn hán thì dự án sẽ thất bại, không thu hồi được vốn, nợ xấu phát
sinh.
- Môi trường pháp lý
Trước hết là hành lang pháp lý. Hành lang pháp lý phải
thuận lợi, rõ ràng và đủ mạnh thì sẽ góp phần làm minh bạch
quy trình tín dụng, lành mạnh hoạt động của các doanh

nghiệp. Nếu luật về thủ tục thế chấp, tịch thu tài sản, phá
sản ngân hàng mà không được chặt chẽ thì sẽ dễ dẫn đến
những tác động tiêu cực tới nền kinh tế do các khoản nợ xấu
gây nên. Cơ chế pháp lý có hiệu quả thì cần phải có những
biện pháp hợp lý, chặt chẽ thống nhất, xử lý nợ có hiệu quả
để tránh tình trạng thủ tục rườm rà,phức tạp, kéo quá lâu.
Chương II. Thực trạng quản lý nợ xấu tại Chi nhánh Sở giao dịch
1 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
2.1.Tổng quan về Chi nhánh Sở giao dịch 1 - BIDV:
2.1.1. Lịch sử hình thành và cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Sở giao dịch 1
- Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
2.1.1.1. Lịch sử hình thành:
Chi nhánh Chi nhánh Sở giao dịch 1 Ngân hàng ĐT&PT VN được thành lập ngày
28/3/1991 theo quyết định số 76 QĐ/TCCB của Tổng giám đốc Ngân hàng ĐT&PT VN. Là
một chi nhánh đặc biệt thực nghiệm thành công mô hình mới là đơn vị trực tiếp kinh doanh
của Hội sở chính , thực thi có hiệu quả nhiệm vụ chiến lược của BIDV.Từ ngày đầu thành
lập, Sở giao dịch có 2 phòng và 1 tổ nghiệp vụ;chủ yếu làm nhiệm vụ cấp phát ngân sách
đầu tư từ các dự án.
Hiện nay chi nhánh Chi nhánh Sở giao dịch 1 có trụ sở chính tại tòa tháp A Vincom,
số 191 Bà Triệu- Hai Bà Trưng- Hà Nội.
Cho tới nay chi nhánh Chi nhánh Sở giao dịch 1 đã trải qua 19 năm hoạt động và
phát triến, đạt được nhiều bước tiến vượt bậc cụ thế:
- Trong bốn năm đầu tiên (1991-1994), tuy còn nhiều bước đi chập chững nhưng chi
nhánh sở giao dịch 1 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cấp phát vốn ngân sách cho
các dự án đầu tư của Bộ, Ngành với số vốn cấp phát hàng trăm tỷ đồng. Theo đó chi
nhánh sở giao dịch 1 đã phát huy vai trò kiếm tra, giám sát sử dụng vốn ngân sách
của chủ đầu tư, thực hiện phương châm cấp phát đúng địa chỉ, đúng đối tượng, đúng
với thiết kế và khối lượng thi công, góp phần tiết kiệm chống lãng phí trong xây
dựng cơ bản.
- Giai đoạn tiếp theo 1996-2000: Với 167 cán bộ nhân viên, Sở giao dịch đã có 12

phòng nghiệp vụ,1 chi nhánh khu vực,2 phòng giao dịch và 7 quỹ tiết kiệm. Thực
hiện đầy đủ các nhiệm vụ của ngân hàng thương mại , phục vụ đông đảo khách hàng
thuộc mọi tầng lớp kinh tế và dân cư. Chi nhánh sở giao dịch 1đã chuyến hướng
mạnh mẽ sang hoạt động kinh doanh, hạch toán kinh tế chủ động, tự trang trải. Chi
nhánh sở giao dịch 1 đã đạt được những kết quả quan trọng, xác lập được vị thế, trở
thành một địa chỉ quen thuộc, tin cậy của khách hàng đến gửi tiền.
Chi nhánh sở giao dịch 1 còn thử nghiệm thành công các sản phẩm huy động vốn dài hạn
của BIDV thông qua các đợt phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chi nhánh sở giao dịch 1 cũng
được biết đến như một đơn vị chuyên tài trợ vốn cho các dự án lớn, trọng điểm của Nhà
nước và cung cấp các dịch vụ ngân hàng chất lượng như thanh toán trong nước, thanh toán
quốc tế,.
- Đến tháng 3 năm 2001: Kỷ niệm 10 năm thành lập, chi nhánh sở giao dịch 1 đã đạt
quy mô tổng tài sản 7.828 tỷ đồng, huy động 6.441 tỷ đồng, dư nợ cho vay 4.179 tỷ
đồng, thu phí dịch vụ hàng chục tỷ đồng và cơ cấu dịch vụ chiếm 16,72% lợi nhuận
trước thuế.
- Từ 2001-2005: Chi nhánh sở giao dịch 1 đã thực hiện tách nâng cấp mở 4 chi nhánh
cấp 1 trên địa bàn Hà Nội đó là:
Chi nhánh Bắc Hà Nội năm 2002
Chi nhánh Hà Thành năm 2003
Chi nhánh Đông Đô năm 2004
Chi nhánh Quang Trung năm 2005
Cơ cấu lại Sở giao dịch theo mô hình phục vụ giao dịch một cửa thuận lợi cho khách
hàng và quản lý thông tin, thanh toán trực tuyến. Đến nay chi nhánh sở giao dịch 1 đã có 17
phòng nghiệp vụ, 15 điểm giao dịch với gần 300 cán bộ nhân viên. Hệ thống máy rút tiền tự
động ATM hoạt động kết nối với các điểm giao dịch của BIDV trên phạm vi toàn quốc hợp
thành mạng lưới rộng khắp phục vụ khách hàng sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Mô
hình tổ chức của Sở giao dịch đang được tiếp tục hoàn thiện theo hướng các ngân hàng hiện
đại trên cơ sở áp dụng công nghệ thông tin để hình thành cá kênh phân phối sản phẩm tín
dụng,huy động vốn, dịch vụ.
Quá trình phát triển quy mô hoạt động của Sở giao dịch được thể hiện: tăng trưởng

khách hàng,tổng tài sản. Đến nay đã có hàng vạn khách hàng mở tài khoản hoạt động, trong
đó có tới 1400 khách hàng doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế: Tập đoàn, tổng công
ty, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, liên doanh, cổ phần, trách nhiệm hữu hạn lớn.
Tổng tài sản năm 1991 là 137 tỷ đồng, sau 15 năm đến năm 2006 là 14.141 tỷ đồng, đến
năm 2008 là 30.125,642 tỷ đồng.
/
r
' n\ f

^ 1=0
~ l 1
1 1
1991 1995 2006 2007 2008 2009
Biểu 2.1. Biểu đồ tổng tài sản của chi nhánh Sở giao dịch 1 qua các
năm
Nguồn Kỷ yếu 15 năm thành lập CN SGD 1 (1991-2006) và Báo cáo kết quả kinh
doanh của CN SGD 1 giai đoạn 2006-2009 Công nghệ là nền tảng đế phát triến các sản
phẩm, dịch vụ ngân hàng với tiện ích và chất lượng cao. Năm 1992 với hệ thống chuyến
tiền điện tử trong nước và hạch toán kế toán IBS đã đánh dấu bước khởi đầu trong việc hiện
đại hóa của Sở giao dịch. Trong năm 1996-2000, với việc trang bị 70% máy PC liên kết trên
mạng cục bộ (mạng LAN) và liên kết trên mạng rộng (mạng WAN), cùng với hệ thống
phần mềm kế toán IBS,thanh toán điện tử nội bộ, thanh toán quốc tế (SWIFT), thanh toán
bù trừ liên ngân hàng (Interbank) và liên kết tới hệ thống thông tin CIC đã giúp cho Sở giao
dịch triến khai mạnh mẽ hoạt động kinh doanh, ngày càng đáp ứng yêu cầu của khách hàng
về thanh toán, tiện ích sản phẩm dịch vụ.
Từ năm 2003, Sở giao dịch là đơn vị thành viên đầu tiên đã triến khai thành công dự
án hiện đại hóa ngân hàng do World Bank tài trợ với tính năng là quản lý dữ liệu tập trung,
xử lý giao dịch tức thời và hạch toán tự động.
Hệ thống quản lý chất lượng ISO 1991 - 2000: Sở giao dịch được tổ chức BVQI và
QUACERT cấp chứng chỉ đã áp dụng hệ thống quản lý chất lương theo ISO 1991 - 2000

cho hầu hết các sản phẩm dịch vụ. Các nghiệp vụ đã được thực hiện theo quy trình thống
nhất đảm bảo tính minh bạch, công khai, rõ trách nhiệm đối với từng chủ thế tham gia, tránh
phiền hà cho khách hàng và là cơ sở đế xây dựng, nâng cấp chương trình phần mềm xử lý
nghiệp vụ.
30000-1
25000
20000
15000
10000
5000
0
□ Tổng tài sản
Phát triển nguồn nhânlực và xây dựng tập thể vững mạnh là một trong
những thế mạnh tạo nên thành công trong hoạt động của Sở giao dịch cũng như toàn hệ
thống BIDV. Thứ nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ thành thạo kỹ năng. Từ 16 cán bộ từ
ngày đầu thành lập, đến nay Sở giao dịch đã có gần 300 cán bộ độ tuổi trung bình là 27,5
được đào tạo cơ bản và thường xuyên được đào tạo nâng cao kỹ năng nghiệp vụ. Với sức trẻ
và lòng nhiệt huyết, gắn bó trung thành với sự nghiệp đã tăng thêm niềm tin của khách hàng
với ngân hàng. Thứ hai là bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt. Phù hợp với sự phát triển mô
hình tổ chức và nhiệm vụ kinh doanh, trong 15 năm đã có 6 đồng chí Giám đốc trong đó có
3 đồng chí đã trở thành phó tổng giám đốc BIDV, 20 đồng chí phó giám đốc và hàng trăm
đồng chí trưởng,phó phòng hiện đang được giữ cương vị công tác tại Sở giao dịch và các
đơn vị thành viên trong hệ thống BIDV. Ngoài ra hoạt động Đảng bộ vững mạnh, hoạt động
công đoàn, hoạt động đoàn Thanh niên, phong trào thể thao văn hóa cũng góp phần xây
dựng một tập thể vững mạnh trong Sở giao dịch.
- Tính đến năm 2008, nguồn vốn huy động đã đạt 28.919 tỷ đồng. Nguồn
vốn huy động liên tục tăng trưởng qua các năm, có được kết quả vượt bậc này là do sự kết
hợp của việcnâng caoứng dụng công nghệ, không ngừngphát
triển sản
phẩm, tiện ích, phong cách giao dịch văn minh của nhân viên ngân hàng.

- Từ 1/10/2009 đã được đổi tên thành Chi nhánh sở giao dịch 1.
Sự ra đời của chi nhánh Sở Giao dịch là một tất yếu bởi việc thành lập Sở Giao dịch
là nhằm giải quyết các vấn đề tổng thể sau:
Thứ nhất: trong đầu tư phát triển có những dự án trải dài khắp toàn quốc hoặc
theo tuyến như dự án đường sắt, đường giao thông, điện lực, bưu chính viễn thông. Các dự
án này không chia khúc theo địa bàn, lại đòi hỏi phải có sự kiểm tra, thẩm định một cách
thống nhất nên nếu phân chia theo chi nhánh sẽ không thoả mãn yêu cầu quản lý theo đặc
điểm của dự án và yêu cầu đòi hỏi của ngân hàng.
Thứ hai: trong xây dựng cơ bản, có những tổ chức xây lắp hoạt động trong cả một
vùng hoặc cả nước như các Tổng công ty xây lắp, san nền, điện lực, bưu chính viễn thông.
nên việc phục vụ và quản lý đòi hỏi có một đơn vị Ngân hàng ĐT&PT phục vụ theo lĩnh
vực đặc thù này trong lĩnh vực xây dựng.
Thứ ba: BIDV mới bước vào hoạt động thương mại nên cần phải có một “chi
nhánh đặc biệt” bên cạnh BIDV Trung ương để có thể làm thử nghiệm các nghiệp vụ mới,
qua đó rút kinh nghiệm, chỉ đạo triển khai cho toàn bộ hệ thống.
Thứ tư: việc thành lập Sở Giao dịch sẽ thoả mãn điều kiện là tồn tại một bộ phận
phụ trách kinh doanh bên cạnh sự quản lý chung của BIDV.
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam:
Để phù hợp và đáp ứng ngày càng cao quá trình hoạt động, sản xuất kinh doanh.
Trải qua các giai đoạn phát triển, về số lượng, cơ cấu các phòng ban cũng như về chức
năng, nhiệm vụ của các phòng ban có những sự thay đổi. Gần đây nhất là Quyết định số
4589/QĐ-TCCB2 ngày 4/9/2008 của Tổng giám đốc Ngân hàng ĐT&PTVN ban hành quy
định về chức năng, nhiệm vụ chính của các phòng, tổ nghiệp vụ thuộc Chi nhánh, Sở Giao
dịch Ngân hàng ĐT&PTVN. Theo quyết định này, số lượng các phòng ban cũng như tên
gọi, chức năng một số phòng ban có sự thay đổi, nâng số phòng ban từ 15 phòng lên 19
phòng hay nếu trước kia khối tín dụng của Ngân hàng được chia ra thành các phòng tín
dụng, phòng Thẩm định, phòng quản lý tín dụng thì nay chia ra thành các phòng quan hệ
khách hàng, phòng quản lý rủi ro, phòng quản trị tín dụng, phòng tài trợ dự án. Sự phân chia
rõ chức năng, nhiệm vụ của từng phòng có tác dụng giới hạn nghĩa vụ, quyền hạn trên cơ sở

đó thực hiện chuyên môn hoá sâu trong một lĩnh vực hoạt động của Sở Giao dịch, đảm bảo
cho các phòng thực hiện được tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, sự phân chia
chỉ có tính chất tương đối bởi các phòng đều có quan hệ hữu cơ với nhau trong một tổng thể
chung, phụ trợ và tăng cường cho nhau.
Các phòng ban có các trưởng phòng và phó phòng.
Giám đốc chi nhánh sở giao dịch 1 qua các thời kỳ:
- Ông Võ Xuân Phúc - Phó Tổng giám đốc Ngân hàng ĐT&PT VN kiêm giám đốc chi
nhánh sở giao dịch 1 (3/1991- 10/1996)
- Ông Vũ Quốc Sáu - Phó Tổng giám đốc Ngân hàng ĐT&PT VN kiêm giám đốc chi
nhánh sở giao dịch 1 (11/1996- 3/1997).
- Ông Lê Đào Nguyên - Giám đốc chi nhánh sở giao dịch 1 (4/1997- 6/2001)
- Ông Lê Văn Lộc - Gián đốc chi nhánh sở giao dịch 1 ( 7/2001- 10/2002).
- Ông Nguyễn Khắc Thân - Giám đốc chi nhánh sở giao dịch 1 (11/20024/2005)
- Bà Lê Thị Kim Khuyên - Giám đốc chi nhánh sở giao dịch 1 (từ 5/2005)
Sơ đồ 1. Mô hình tổ chức của Chi nhánh Sở giao dịch 1 Ngân hàng ĐT&PTVN
2.1.2. Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh:
2.1.2.1. Phân tích tài chính:
Là một đơn vị trọng điểm trong hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt
Nam, cùng với chiến lược hoạt động hợp lý và sự cố gắng, nỗ lực của đội ngũ cán bộ
nhân viên, Sở giao dịch đã gặt hái được những con số ấn tượng trong báo cáo kết quả
kinh doanh trong 3 năm gần đây.
Bảng 2.1. Kết quả kinh doanh của chi nhánh Sở giao dịch 1
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
Tuyệt đối %TT Tuyệt đối %TT Tuyệt đối %TT
1. Lợi nhuận
trước thuế
312.516 69% 356.420 14% 389.648 9%
2. Tổng tài sản
17.999.521 27% 21.819.658 21% 25.769.12

6
18%
3. Lợi nhuận
sau thuế
234.387 69% 267.315 14% 292.236 9%
4. ROA (%)
=(3)/(2)
0,013 0,0123 0.0107
5.VCSH 2.695.509 (67%) 1.206.182 (45%) 1.507.289 24,96%
6. ROE (%)
=(3)/(5)
0,087 0,2216 0,1939
Nguồn: Bảng số liệu tín dụng chung Chi nhánh Sở giao dịch 1 Ngân hàng ĐT&PTVN
Lợi nhuận trước thuế năm 2007 đạt 312.516 triệu dồng tăng 69% so với năm
2006. Đây là năm có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao nhất trong vòng 5 năm. Lợi nhuận
sau thuế phụ thuộc vào thuế suất và đối tượng chịu thuế( giả sử thuế suất cho mọi đối
tượng tính toán là 25%). Do vậy, lợi nhuận sau thuế trong năm 2007 có tốc
độ lớn nhất là 69%. Nguyên nhân là trong năm 2007, Sở giao dịch đã xây dựng và triến khai
chiến lược kinh doanh một cách hợp lý, có hiệu quả phù hợp và theo sát với những diễn

×