Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Tăng cường quản lý nợ xấu tại Chi nhánh Sở giao dịch 1 – Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.22 KB, 70 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Qua hơn hai mươi năm thực hiện đổi mới và hội nhập, đặc biệt là từ khi chính
thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế ngày càng được nâng cao. Trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt
Nam được đón nhận nhiều cơ hội mới nhưng cũng phải đối mặt với không ít những
thách thức. Trong khuôn khổ đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam, tài chính -
ngân hàng là một trong những lĩnh vực được cam kết mở cửa mạnh mẽ, các ngân
hàng nước ngoài sẽ được phép hoạt động tại Việt Nam và được đối xử ngang bằng
theo nguyên tắc tối huệ quốc của WTO. Khi đó, các ngân hàng Việt Nam sẽ gặp phải
những đối thủ tầm cỡ ngay tại thị trường trong nước.
Trong đó,tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng thương
mại, nó phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao nhất trong
tổng tài sản, mang lại nhiều thu nhập nhất song cũng mang lại rủi ro cao nhất cho
ngân hàng. Trong bối cảnh môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, một số Ngân
hàng Thương mại Cổ phần đã coi chính sách mở rộng tín dụng là một giải pháp để
thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị phần. Tuy nhiên không thể đồng nghĩa với việc hạ
thấp các tiêu chuẩn đánh giá khách hàng , thông tin sai lệch, tìm cách lách luật … mà
vẫn phải áp dụng đúng quy trình tín dụng để làm giảm các khoản nợ xấu, tránh tổn
thất cho ngân hàng. Đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng nền kinh tế toàn cầu, mà
bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập
ngày càng sâu và rộng với nền kinh tế thế giới nói chung và ngành ngân hàng Việt
Nam nói riêng cũng bị tác động, chịu những ảnh hưởng không hề nhỏ.
Để không bị “lép vế trên sân nhà”, thời gian qua các ngân hàng thương mại
(NHTM) Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp cải cách, đổi mới toàn diện. Thế
nhưng khi mà công cuộc cải cách của các ngân hàng Việt Nam mới đi được chặng
đầu thì “cơn bão” khó khăn kinh tế đã ập đến. Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008
và những tháng đầu năm 2009 đã phải trải qua những biến động dồn dập và đối mặt
với những thách thức lớn. Nửa đầu năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt ở mức
cao nhất trong vòng mười bảy năm qua. Khi lạm phát đã bắt đầu hạ nhiệt nhờ hiệu
quả của các chính sách tiền tệ và tài khoá thắt chặt thì các ngân hàng và doanh nghiệp
trong nước lại một phen lao đao vì cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ


nước Mỹ. Ảnh hưởng xấu từ sự suy giảm kinh tế toàn cầu đã khiến cho hầu hết các
1
doanh nghiệp Việt Nam rơi vào tình trạng khó khăn và bế tắc. Nguy cơ gia tăng nợ
xấu ngân hàng là khó có thể tránh khỏi.
Những khoản Nợ có khả năng mất vốn cả gốc và lãi đúng thời hạn càng lớn,
tỷ lệ nợ xấu ngày càng gia tăng, nhất là trong lĩnh vực tín dụng bất động sản, có lúc
đã đe dọa tới tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Hơn bao giờ hết, công tác
quản lý nợ xấu đang được các NHTM đặt lên hàng đầu.
Trong một thời gian thực tập ngắn tại Chi nhánh Sở giao dịch 1 – Ngân hàng
đầu tư và phát triển Việt Nam , đơn vị trực tiếp kinh doanh của Hội sở chính, một
khu vực trọng điểm của hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, được tìm
hiều về những hoạt động của Sở giao dịch, nhất là hoạt động tín dụng, em đã chọn đề
tài : “Tăng cường quản lý nợ xấu tại Chi nhánh Sở giao dịch 1 – Ngân hàng đầu
tư và phát triển Việt Nam” làm chuyên đề thực tập.
Kết cấu chuyên đề gồm có 3 chương :
Chương I. Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ xấu của Ngân hàng thương
mại
Chương II. Thực trạng quản lý nợ xấu tại Chi nhánh Sở giao dịch 1 –
BIDV
Chương III. Giải pháp tăng cường quản lý nợ xấu tại Chi nhánh Sở giao
dịch 1 – BIDV
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. NHTM: Ngân hàng thương mại
2. BIDV: Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
3. CN SGD1: chi nhánh Sở giao dịch 1 – Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam
4. H.O: Hội sở chính
5. TCTD: Tổ chức tín dụng
6. DPRR: Dự phòng rủi ro

7. CBTD: Cán bộ tín dụng
8. NHNN: Ngân hàng nhà nước
9. CAR: Hệ số an toàn vốn tối thiểu
10. BAMC: Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam.
11. AMC: Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
3
Chương I. Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ xấu
của Ngân hàng thương mại
1.1. Những vấn đề cơ bản về nợ xấu của NHTM
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Theo ngân hàng Trung ương Liên minh châu Âu
Nợ xấu trong các Ngân hàng thương mại bao gồm:
*Những khoản nợ không thể thu hồi được :
- Những khoản nợ đã hết hiệu lực hoặc những khoản nợ không có căn cứ đòi
bồi thường từ nợ
- Người mắc nợ trốn hoặc bị mất tích, không còn tài sản để thanh toán nợ.
- Những khoản nợ mà ngân hàng không thể liên lạc được với người mắc nợ
hoặc không thể tìm được người mắc nợ.
- Những khoản nợ mà khách nợ chấm dứt hoạt động kinh doanh,thanh lý tài
sản hoặc kinh doanh bị thua lỗ và tài sản còn lại không đủ để trả nợ.
* Nợ có thể thu không thanh toán đầy đủ cho ngân hàng.
Đây là những khoản nợ không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp không
đủ trả nợ. Người mắc nợ không liên lạc với ngân hàng để trả lãi hoặc gốc có thời hạn
thanh toán, hoặc hoàn cảnh chỉ ra rằng khoản nợ sẽ không thể thu hồi đầy đủ như:
- Những khoản nợ mà người mắc nợ đồng ý thanh toán trong quá khứ, nhưng
phần còn lại không thể được đền bù được trong thời gian thỏa thuận.
- Những khoản nợ mà tài sản thế chấp không đủ để trả nợ hoặc tài sản thế
chấp ở ngân hàng không được chấp nhận về mặt pháp lý dẫn đến người mắc nợ
không thể trả nợ ngân hàng đầy đủ.

- Những khoản nợ mà Tòa án tuyên bố người mắc nợ phá sản nhưng phần bồi
hoàn ít hơn dư nợ.
4
1.1.1.2. Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng thống kê – Liên hiệp quốc
Một khoản nợ xấu được coi là nợ xấu khi đã quá hạn trả lãi và(hoặc) gốc trên
90 ngày;hoặc các khoản lãi chưa trả lãi từ 90 ngày trở lên đã nhập gốc, tái cấp vốn
hoặc trả chậm theo thỏa thuận; hoặc các khoản thanh toán đã quá hạn 90 ngày nhưng
có lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ. Về
cơ bản,nợ xấu được xác định dựa trên 2 yếu tố: (i) quá hạn trên 90 ngày và (ii) khả
năng trả nợ nghi ngờ. Đây được coi là định nghĩa của Chuẩn mực kế toán quốc tế
(IAS) hiện đang được áp dụng phổ biến trên thế giới.
1.1.1.3. Theo định nghĩa của Việt Nam
Theo quyết định 493/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày
22/4/2005 về phân loại nợ;trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng; và theo quyết định số 18/2007
QĐ – NHNN ngày 25/4/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quyết định
493 thì nợ xấu được định nghĩa như sau:
Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3( nợ dưới tiêu chuẩn),
nhóm 4( nợ nghi ngờ), nhóm 5( nợ có khả năng mất vốn). Nợ xấu theo định nghĩa
của Việt Nam cũng được xác định dựa theo hai yếu tố: (i) đã quá hạn trên 90 ngày và
(ii) khả năng trả nợ đáng lo ngại.
Qua những định nghĩa về nợ xấu của các tổ chức trên ta có thể hiểu khái quát
nợ xấu là các khoản nợ mà khách hàng không trả gốc và lãi đúng hạn hoặc không trả
nợ như đã cam kết dẫn đến gây thiệt hại cho ngân hàng.
1.1.2. Phân loại:
Theo quyết định 493/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày
22/4/2005 về phân loại nợ;trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng,và theo quyết đinh số 18/2007 QĐ –
NHNN ngày 25/4/2007 về việc sửa đổi;bổ sung một số điều của quyết định 493 thì
nợ xấu được xác định dựa trên cả yếu tố thời hạn và khả năng thu hồi ( tại nội dung

điều 6)
a. Nhóm 3 ( nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày.
5
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh
kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại điểm b khoản này.
-Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả
lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 3 điều
này.
Nợ xấu thuộc nhóm này được coi là các khoản nợ có khả năng thu hồi cao
nhất. Ngân hàng sẽ trích lập một tỷ lệ DPRR cho nợ xấu nhóm này là 20% dư nợ của
nhóm.
b. Nhóm 4( Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3 điều
này.
Nợ xấu thuộc nhóm này được đánh giá là có khả năng thu hồi thấp hơn so với
các khoản nợ của nhóm 3. Các khoản nợ này được xếp vào những khoản nợ mà ngân
hàng có sự nghi ngờ về khả năng trả nợ. Tỷ lệ trích lập DPRR cho nợ xấu thuộc
nhóm này là 50% tổng dư nợ của nhóm.
c. Nhóm 5 ( Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày.
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên
theo thời gian trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
- Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần hai.

- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
- Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 điều
này.
6
Khả năng thu hồi nợ của nhóm này được coi như bằng 0, do vậy tỷ lệ trích lập
dự phòng rủi ro tương ứng là 100% tổng dư nợ của nhóm.
Còn riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì được trích lập
dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của TCTD.
1.1.3. Những chỉ tiêu cơ bản phản ánh nợ xấu của NHTM:
- Tổng số nợ xấu : là chỉ tiêu phản ánh chung giá trị tuyệt đối của toàn bộ
khoản nợ xấu của ngân hàng. Chỉ tiêu này chưa cho biết trong tổng số dư nợ đó,nợ
không có khả năng thu hồi là bao nhiêu và nợ có khả năng thu hồi là bao nhiêu.
- Tỷ lệ giá trị các khoản nợ xấu/tổng dư nợ: Chỉ tiêu này cho biết mức độ rủi
ro tín dụng của ngân hàng. Tỷ lệ này phản ánh cứ 100 đơn vị tiền tệ khi ngân hàng
cho vay thì có bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà ngân hàng xác định khó có khả năng thu
hồi hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định khó có khả năng thu hồi
hoặc không thu hồi được đúng hạn tại thời điểm xác định. Tỷ lệ này mà càng cao thì
khả năng rủi ro càng cao. Nếu tỷ lệ này lớn hơn 7% thì ngân hàng bị coi là có chất
lượng tín dụng yếu kém, còn nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 5% thì được coi là có chất lượng
tín dụng tốt, các khoản cho vay an toàn. Tuy nhiên các con số được sử dụng để tính
chỉ số này được đo tại một thời điểm nhất định nên chưa phản ánh một cách chính
xác chất lượng tín dụng của ngân hàng.
- Tỷ lệ nợ khó đòi/tổng dư nợ và nợ khó đòi/ nợ xấu: Các tỷ lệ này cho biết
chỉ tiêu tương đối của nợ khó đòi – một cấu phần quan trọng của nợ xấu. Đây là
những chỉ tiêu phản ánh một cách khá trung thực về thực tế và nguy cơ mất vốn của
ngân hàng. Tỷ lệ này mà càng lớn thì khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng càng
cao.
- Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/ nợ xấu: Tỷ lệ này phản ánh quỹ dự phòng rủi ro
có khả năng bù đắp bao nhiêu cho các khoản nợ xấu khi chúng chuyển thành các
khoản nợ mất vốn. Nếu tỷ lệ này mà càng cao thì khả năng quỹ dự phòng rủi ro đủ bù

đắp các thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng;
và ngược lại.
Ngoài ra cũng tùy theo tình hình cụ thể của mỗi ngân hàng hoặc quốc gia
trong từng thời kỳ mà có thể có thêm các chỉ tiêu khác để đánh giá, so sánh thực
trạng nợ xấu nhằm xây dựng các biện pháp xử lý hợp lý.
7
1.1.4. Dấu hiệu nhận biết nợ xấu:
1.1.4.1. Dấu hiệu từ phía ngân hàng :
Nợ xấu làm cho giảm doanh thu của ngân hàng,đồng thời làm giảm hình ảnh
cũng như uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, tác động rất tiêu cực đối với hoạt
động của cả hệ thống. Vì vậy, dự báo nợ xấu phát sinh từ các dấu hiệu định tính và
định lượng là một công việc có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động của ngân hàng.
Các dấu hiệu đó là:
- Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra trong tương lại, ví dụ
như sáp nhập.
- Sự đánh giá không chính xác về rủi ro của khách hàng.
- Không xác định rõ kế hoạch hoàn trả đối với từng khoản cho vay.
- Cho vay do khách hàng hứa duy trì một khoản tiền lớn trong ngân hàng.
- Do cạnh tranh có thể cấp tín dụng cho khách hàng để họ khởi chạy sang ngân
hàng khác dù biết khoản vay có thể dẫn đến rủi ro.
- Hồ sơ tín dụng không đầy đủ.
- Cơ cấu tín dụng không hợp lý, cho vay tập trung vào một số lĩnh vực nóng
trong nền kinh tế như đầu tư vào bất động sản …
1.1.4.2. Dấu hiệu từ phía khách hàng:
Việc phát sinh nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc
khách hàng không muốn trả nợ hoặc là do việc tiêu thụ hàng hóa, thu hồi công nợ
chậm hơn dự tính.
Việc thanh toán tiền không đúng kế hoạch. Người vay tiền thường xuyên trả
nợ không đúng kỳ hạn. Kỳ hạn của khoản vay liên tục bị thay đổi,khách hàng luôn
yêu cầu được gia hạn nợ.

Các số liệu và tài liệu cần thiết cung cấp cho ngân hàng không được kê khai
đầy đủ, chính xác và nộp không theo kế hoạch. Các tài liệu quan trọng phải nộp cho
ngân hàng như: báo cáo kết quả kinh doanh, thuyết minh báo cáo tài chính, báo cáo
lưu chuyển tiền tệ,bảng cân đối kế toán, … liên tục bị trì hoãn một cách bất thường.
Số liệu kê khai, hay số liệu về doanh thu và dòng tiền thực tế bị nghi ngờ là có chênh
lệch khá lớn so với mức dự kiến khi khách hàng xin vay.
8
Tài sản đảm bảo không đủ các tiêu chuẩn, tài sản đảm bảo có giá trị thấp hơn
so với khi định giá cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, hay bán, trao
đổi hoặc bị mất.
Những thay đổi bất lợi về giá cổ phiếu của khách hàng vay vốn.
Những thay đổi trong cơ cấu vốn của người đi vay (tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu),
khả năng thanh toán.
Hoạt động kinh doanh của khách hàng thua lỗ trong một hay nhiều năm liên
tục, đặc biệt thể hiện qua các chỉ số như ROA, ROE và lãi vay(EBIT) hay thu nhập
trước thuế
Những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong số
dư tiền gửi của khách hàng.
1.1.5. Tác động của nợ xấu
1.1.5.1. Đối với ngân hàng thương mại
Nợ xấu tác động hầu hết tới các hoạt động của NHTM, thậm chí số dư nợ xấu
lớn chứa đựng nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng.
Trước hết, nợ xấu làm cho giảm lợi nhuận của các NHTM. Nợ xấu hạn chế
khả năng mở rộng và tăng trưởng tín dụng, khả năng kinh doanh của NHTM. Khi mà
nợ xấu tăng cao,thu nhập của ngân hàng giảm, thậm chí không còn lợi nhuận do
không thể thu hồi được nợ, lại phát sinh thêm chi phí trích lập dự phòng, chi phí quản
lý, xử lý nợ xấu và các chi phí khác liên quan.
Thứ hai là nợ xấu sẽ làm giảm uy tín của ngân hàng. Nếu tỷ lệ nợ xấu quá cao,
vượt quá giới hạn an toàn theo thông lệ quốc tế thì uy tín của NHTM trong nước và
quốc tế bị giảm sút nghiêm trọng.

Thứ ba, nợ xấu ảnh hưởng xấu tới khả năng thanh toán và kế hoạch kinh
doanh của ngân hàng. Hoạt động chủ yếu của NHTM là nhận tiền gửi và cho vay.
Nếu các khoản tín dụng gặp rủi ro thì việc thu hồi nợ vay sẽ gặp rất nhiều khó khăn,
không thu hồi được hoặc thu hồi không đầy đủ nợ gốc và lãi đã cho vay. Trong khi
đó,ngân hàng vẫn phải thanh toán đúng hạn và đầy đủ đối với các khoản tiền gửi. Sự
mất cân đối trên ảnh hưởng mạnh tới tính thanh khoản của ngân hàng và ảnh hưởng
đến kế hoạch kinh doanh của ngân hàng.
9
Thứ tư, nợ xấu có thể cản trở quá trình hội nhập của các NHTM. Nợ xấu tác
động trực tiếp tới khả năng tài chính của NHTM khi phân tích đánh giá tình hình tài
chính hoạt động ngân hàng, và là yếu tố bất lợi trong cạnh tranh, trong quá trình hội
nhập và phát triển.
1.1.5.2. Đối với nền kinh tế
NHTM là doanh nghiệp đặc biệt trong nền kinh tế. Do đó nợ xấu của NHTM
ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế. Tác động của nợ xấu đối với nền kinh tế tác động
gián tiếp thông qua mối quan hệ hữu cơ: Ngân hàng – khách hàng – nền kinh tế. Qua
đó, nợ xấu ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các ngân hàng cũng sẽ ảnh
hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Khả năng khai thác, đáp ứng vốn và khả
năng cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế sẽ bị hạn chế khi nợ xấu phát
sinh. Bên cạnh đó, nợ xấu phát sinh do khách hàng, doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh kém hiệu quả sẽ tác động đến toàn bộ cả nền kinh tế, tác động tới sự tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế do vốn ứ động,sản xuất kinh doanh bị đình đốn.
1.2. Quản lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại
1.2.1. Sự cần thiết quản lý nợ xấu tại NHTM
Quản lý nợ xấu là một quá trình xây dựng và thực hiện các chiến lược,các
chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng để đạt được các mục tiêu là an toàn,hiệu
quả và phát triển bền vững;trong đó cần tăng cường các biện pháp nhằm phòng ngừa
và hạn chế phát sinh nợ xấu,đi kèm với việc xử lý các khoản nợ xấu đã phát sinh, từ
đó làm tăng doanh thu,giảm chi phí nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của
NHTM.

Hoạt động tín dụng đem lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng. Tổn thất nếu
xảy ra sẽ làm giảm thu nhập, có thể thua lỗ hoặc phá sản cho ngân hàng. Vì vậy, an
toàn tín dụng là nội dung chính trong quản lý rủi ro của mọi Ngân hàng thương mại.
Có hai mối liên hệ giữa rủi ro và sinh lời trong hoạt động tín dụng. Trước khi tài trợ,
mối quan hệ có thể là rủi ro cao hoặc thấp trong ngắn hạn nhưng đều phải xác lập
mối liên hệ giữa rủi ro và sinh lợi nhằm đảm bảo tăng thu nhập cho ngân hàng trong
dài hạn. Nghiên cứu và tìm ra các giải pháp để hạn chế rủi ro phát sinh, giải quyết và
bù đắp tổn thất đã xảy ra là một trong những nội dung chính của quản lý tín dụng,
nhằm đạt được mục tiêu gia tăng thu nhập cho ngân hàng trên cơ sở an toàn của từng
khoản vay, của cả danh mục khoản vay.
10
1.2.2. Nội dung quản lý nợ xấu của NHTM
Quản lý nợ xấu có ý nghĩa , vai trò vô cùng to lớn đối với công tác quản lý nói
riêng và toàn bộ hoạt động của ngân hàng nói chung. Do vậy, công tác quản lý nợ
xấu phải được xây dựng và triển khai một cách đúng đắn, khoa học và phù hợp với
thực tiễn của nền kinh tế .
1.2.2.1. Phòng ngừa nợ xấu phát sinh
Theo Quyết định (QĐ) 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của thống đốc
NHNN về việc ban hành Quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử
lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng và theo Quyết định
số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ
sung một số điều của Quyết định 493, nợ xấu chiếm tỷ lệ trong khoảng từ 2 - 5% là
một tỷ lệ chấp nhận được. Ngân hàng thương mại cần phải tập trung vào các biện
pháp ngăn chặn nợ xấu sau để có được một tỷ lệ nợ xấu thấp :
- Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng
Ngân hàng cần phải tiến hành hoạt động thẩm định đối với dự án vay, khách
hàng vay trước khi vay, trong cho vay và sau khi cho vay. Ngân hàng dùng các biện
pháp để kiểm tra lại tính khả thi và sinh lợi của dự án,khả năng tài chính của khách
hàng đi vay, đồng thời thường xuyên theo dõi tình hình hoạt động của dự án sau khi
giải ngân để đưa ra những nhận xét về khả năng thu hồi vốn, cả gốc và lãi từ dự án.

Khi đến kì hạn phải trả nợ, nếu thấy khách hàng cố tình chây ỳ, lừa đảo, không có
thiện ý hoàn trả nợ… thì ngân hàng phải tiến hành thu nợ. Còn nếu mà khách hàng có
thiện ý trả nợ nhưng gặp khó khăn tạm thời thì ngân hàng có thể tiến hành các biện
pháp hỗ trợ như gia hạn nợ, giảm lãi suất, tiếp tục để khách hàng thu lợi nhuận trả
ngân hàng.
Nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường các biện pháp phòng ngừa và hạn
chế rủi ro phải phù hơp với khả năng huy động vốn,kiểm soát rủi ro và bảo đảm an
toàn hệ thống.
Yêu cầu các tổ chức tín dụng phải phân tích, đánh giá các rủi ro có thể xảy ra
trong từng quy trình nghiệp vụ để thực hiện ngay các biện pháp phòng ngừa, ngăn
chặn rủi ro, rà soát, lựa chọn cán bộ có đầy đủ năng lực, trình độ, phẩm chất và đạo
đức để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ; có cơ chế ủy quyền, quy định trách nhiệm
11
đối với cán bộ phụ trách và tác nghiệp. Theo chức năng nhiệm vụ của mình, các đơn
vị thuộc NHNN hoàn thiện cơ chế thông tin, báo cáo,kiểm soát và xây dựng hệ thống
cảnh báo rủi ro để nâng cao khả năng quản lý thị trường ngoại hối, phát hiện một
cách kịp thời những rủi ro tiềm ẩn để có những biện pháp xử lý thích hợp.
Hoàn thiện cơ chế thông tin, báo cáo, kiểm soát, xây dựng hệ thống cảnh báo
để nâng cao khả năng quản lý, kiểm soát thị trường; đẩy nhanh việc xây dựng các văn
bản quy phạm pháp luật.
Đôn đốc các tổ chức tín dụng ban hành những quy định về tiêu chuẩn và yêu
cầu tối thiểu đối với hệ thống quản lý rủi ro trong thanh toán và áp dụng công nghệ
thông tin để đề xuất và triển khai đồng bộ các giải pháp phòng ngừa rủi ro; sau đó
tiếp tục ban hành sửa đổi, hoàn chỉnh chế độ kế toán cho phù hợp với các chuẩn mực
kế toán quốc tế …
- Xây dựng chiến lược hoạt động hợp lý
Chiến lược hoạt động của Ngân hàng một mặt cần phải mang lại thu nhập cho
ngân hàng, mặt khác cần phải đảm bảo khả năng thanh khoản. Ngân hàng xây dựng
và triển khai sản phẩm, dịch vụ truyền thống và hiện đại nhằm phục vụ nhu cầu ngày
càng cao của khách hàng cũng như sự phát triển của nền kinh tế. Trong hệ thống các

hoạt động của ngân hàng, nhất là hoạt động tín dụng, hoạt động mang lại hơn 70%
thu nhập cho ngân hàng,ngân hàng cần phải xác định mức độ rủi ro tối đa, giới hạn tỷ
lệ nợ xấu. Rủi ro luôn đi kèm với hoạt động của bất kỳ ngân hàng nào, chúng ta có
thể làm hạn chế tổn thất của chúng, nhưng không thể ngăn ngừa chúng xuất hiện.
Hoạt động ngân hàng nằm trong giới hạn rủi ro, đó cũng là một thành công lớn của
ngân hàng.
Ngân hàng phải xây dựng danh mục tài sản với các rủi ro có thể chấp nhận
được và danh mục nguồn vốn với chi phí thực sự hợp lý, phù hợp với khả năng thanh
khoản và thực tế ngành kinh tế,vùng kinh tế và cả nền kinh tế. Ngân hàng đưa ra
những sản phẩm và dịch vụ thu hút khách hàng với các chính sách về lãi suất, phí,
khách hàng… hợp lý trên cơ sở nghiên cứu kỹ hành vi,tâm lý khách hàng và thị
trường.
Ngân hàng phải xác định và tận dụng mọi lợi thế của mình trong việc xác định
chiến lược hoạt động ngắn hạn và cả trung dài hạn đồng thời hạn chế những mặt còn
chưa tốt trong nội tại của ngân hàng. Tập trung hoạt động vào những điểm mạnh,
12
khai thác thị trường dựa trên những ưu điểm của mình để không ngừng mở rộng
mạng lưới phân phối, chiếm lĩnh thị phần, nâng cao sức cạnh tranh với các đối thủ.
Từ đó, chiến lược mới phát huy hiệu quả, đem lại nguồn thu cho ngân hàng,hình ảnh
ngân hàng được nhiều cá nhân tổ chức biết đến.
Ngoài ra, ngân hàng có thể triển khai các hoạt động bằng cách kết hợp với các
ngân hàng, các định chế tài chính khác để có thể cùng nhau khai thác khách hàng,
khai thác ngành và vùng kinh tế, khai thác thị trường dựa trên những lợi thế có sẵn
của mỗi bên.
Chiến lược hoạt động có một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của
ngân hàng. Nó xuyên suốt trong toàn hệ thống ngân hàng,nó là cương lĩnh hoạt động
của tất cả các cán bộ, công nhân viên, là kim chỉ nan dẫn đường cho từng bước đi của
ngân hàng. Do vậy, chiến lược hoạt động phải xây dựng một cách hợp lý, khoa học
và thực tế.
- Triển khai công cụ kiểm soát rủi ro mới:

Ngân hàng phải triển khai phân loại khách hàng, chấm điểm tín dụng với từng
đối tượng khách hàng dựa trên các tiêu chí định tính cũng như định lượng. Hầu hết
các ngân hàng đều có tiêu chí xếp loại và phân loại nợ theo nhóm khách hàng để phân
tích và đánh giá rủi ro tín dụng. Nợ của khách hàng nhóm A được coi là có rủi ro
thấp nhất, và nợ khách hàng nhóm C được coi là có khả năng mất vốn cao nhất
Mặt khác, ngân hàng có thể kiểm soát tín dụng bằng giới hạn tín dụng, giải
ngân kèm chứng từ hàng hóa … để hạn chế tổn thất cho vay. Thực hiện các công cụ
kiểm soát mới đồng thời làm giảm chi phí hoạt động của ngân hàng tăng lên, nhưng
sẽ làm giảm tổn thất mà các rủi ro đã mang lại . Các tổn thất này lớn hơn chi phí hoạt
động của các công cụ này thì sẽ mang lại lợi nhuận, hiệu quả cho chính ngân hàng
đó.
1.2.2.2. Quản lý nợ xấu đã phát sinh:
- Yêu cầu tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp và tái cơ cấu lại nợ
Tái cơ cấu doanh nghiệp là một quá trình triển khai tái cơ cấu hoạt động sản
xuất kinh doanh, tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp có hiện trạng kinh doanh, tài chính
kém nhưng có thể phục hồi được. Việc thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp triển khai
13
giữa các bên có liên quan gồm nhà kinh doanh, nhà đầu tư, ngân hàng cho vay với
mục đích hồi sinh, tăng lại giá trị cho doanh nghiệp.
Việc đề xuất xử lý nợ xấu theo giải pháp này lại chỉ được áp dụng cho các
khoản nợ nhóm 3 và nhóm 4, đối với các khách hàng để duy trì mối quan hệ. Khoản
nợ có thể được quản lý qua việc kiểm soát chặt chẽ để bên vay thực hiện các hành
động để vực dậy tình hình của họ, sửa chữa những thiết sót. Nhất là trong trường hợp
khách hàng không trả nợ lần đầu thì cần thuyết phục họ trong việc thực hiện các biện
pháp cứng rắn để củng cố vị trí của khách hàng. Ngân hàng duy trì mối quan hệ này
chặt chẽ để có thể kiểm tra, theo dõi quá trình xử lý nợ. Ngân hàng có thể áp dụng
các phương pháp sau: điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ, giảm hoặc miễn một phần nợ
lãi vay phải trả.
- Chứng khoán hóa các khoản nợ xấu – Biến nợ thành chứng khoán
Chứng khoán hóa là một quá trình tập hợp lại và tái cấu trúc tài sản mà thiếu

tính thanh khoản nhưng có thu nhập bằng tiền lớn trong tương lai gồm các khoản
phải thu, khoản nợ rồi sau đó chuyển đổi chúng thành trái phiếu, sau đó đưa ra giao
dịch trên thị trường tài chính. Còn chứng khoán hóa các khoản nợ là chuyển đổi một
tập hợp một cách có chọn lọc các khoản vay có thể thế chấp được của ngân hàng mà
trước đó không hề có thị trường thứ cấp để giao dịch thành các chứng khoán khả mại,
có thể giao dịch trên thị trường thứ cấp. Ngân hàng có thể sử dụng biện pháp này để
xử lý các khoản nợ xấu của mình song cần có sự hỗ trợ phát triển mạnh mẽ của thị
trường chứng khoán cùng các giao dịch mua bán nợ.
Giải pháp này trước hết bổ sung và làm đa dạng hàng hóa được giao dịch trên
sàn, mở rộng quy mô thị trường. Chứng khoán hóa tạo ra thêm một kênh huy động
vốn cho các doanh nghiệp, mở ra nhiều cơ hội tiếp cận được thị trường vốn và làm
cho giảm chi phí tài trợ lẫn tối ưu hóa việc sử dụng vốn. Biện pháp này góp phần tài
trợ vốn dài hạn và có hiệu quả qua việc phát hành có kỳ hạn dài hơn các loại tài sản
liên kết so với các khoản nợ của ngân hàng hoặc các loại tín phiếu. Mặt khác, đây còn
là phương pháp góp phần làm tăng thu nhập của tổ chức phát hành, đồng thời là công
cụ đa dạng hóa rủi ro tốt nhất.
Ngoài ra, chứng khoán hóa còn có những rui ro như: những hạn chế của định
mức tín nhiệm, công bố thông tin không bảo vệ được, các tài sản không được như
14
mong đợi, dữ liệu không có sẵn, tính thanh khoản yếu của công cụ nợ, nhược điểm
của chế độ báo cáo sản phẩm phái sinh và sản phẩm thu nhập cố định …
- Xử lý tài sản đảm bảo, đòi nợ bên bảo lãnh
Đối với những khoản nợ xấu nhưng không thể cơ cấu lại nợ, khách hàng
không có khả năng cải thiện tình hình tài chính, chây ỳ trong việc trả nợ … thì
NHTM cần phải chủ động xử lý các tài sản đảm bảo nợ vay kể cả bất động sản thông
qua các hình thức như sau:
• NHTM trực tiếp bán tài sản cho người mua.
• Bên bảo đảm trực tiếp bán tài sản cho người mua.
• Bán thông qua tổ chức đấu giá.
• NHTM nhận chính tài sản đảm bảo đó để thay cho việc được bảo đảm.

Việc quyết định nhận tài sản để thay thế cần tuân theo thủ tục mua tài
sản của NHTM đó.
• NHTM có thể nhận các khoản tiền hoặc tài sản từ người thứ ba khi thế
chấp quyền đòi nợ, từ bên thứ có nghĩa vụ liên quan đến tài sản bảo
đảm hoặc công ty bảo hiểm trong trường hợp thế chấp quyền thụ
hưởng tiền bảo hiểm nhân thọ. Khi đó, vẫn phải thỏa hiệp và phải có
cam kết bằng văn bản của bên bảo đảm về quyền truy đòi cho bên bảo
đảm nếu không thu hoặc không đủ từ bên thứ ba bởi lý do nào đó.
Biện pháp này thường không được mong muốn vì việc phát mại tài sản bảo
đảm, đòi nợ bên bảo lãnh thường khá phức tạp cùng nhiều thủ tục, tốn kém thời gian,
khả năng thu được nợ đầy đủ không cao, nhưng ngân hàng vẫn bắt buộc phải thực
hiện để thu hồi vốn. Đây là một trong số các giải pháp thu hồi vốn một cách hiệu quả
nhất cho các ngân hàng, nhất là các khoản nợ bởi cơ sở pháp lý chưa đầy đủ, khách
hàng lừa đảo ngân hàng…
- Bán các khoản nợ
Việc bán các khoản nợ thường được ngân hàng sử dụng với các khoản nợ mà
không hề có tài sản đảm bảo hoặc không muốn mất thời gian để đòi nợ. Ngân hàng sẽ
chuyển nhượng quyền đòi nợ cho một tổ chức kinh tế,cá nhân có chức năng theo quy
định để có thể sớm thu hồi vốn của mình. Khi ngân hàng bán các khoản nợ xấu
15
thường phải chấp nhận bán với giá thấp hơn giá trị khoản nợ để thu hồi vốn nhanh và
không để ảnh hưởng tới các khoản nợ còn lại. Để thực hiện biện pháp này sao cho
hiệu quả, ngoài việc đưa các khoản nợ xấu ra khỏi bảng tổng kết tài sản nhanh chóng
thì các ngân hành thường thành lập tổ chức có chuyên môn cao gọi là công ty quản lý
nợ và khai thác tài sản(AMC). Công ty AMC sẽ tiếp nhận các khoản nợ và thực hiện
mua bán tiếp theo.
- Bù đắp bằng quỹ dự phòng rủi ro
Quỹ dự phòng rủi ro được trích từ lợi nhuận của các Ngân hàng thương mại
nhằm để bù đắp vào những tổn thất trong hoạt động kinh doanh. Ngân hàng phải
phân loại các khoản nợ xấu để xem loại nào được xử lý bằng quỹ dự phòng. Dự

phòng rủi ro thì được tính theo dư nợ gốc và hạch toàn vào chi phí hoạt động của tổ
chức tín dụng.
Những trường hợp được xử lý từ quỹ dự phòng là khi bên được bảo lãnh vay
vốn, khách hàng vay vốn, bên được hưởng dịch vụ thanh toán là những tổ chức bị
phá sản, giải thể hoặc cá nhân bị mất tích , bị chết hay không thể thực hiện được các
nghĩa vụ thuộc nhóm nợ có khả năng mất vốn.
- Sự trợ giúp của Chính phủ
Đối với những khoản nợ xấu phát sinh do các khoản vay theo chính sách của
Chính phủ, ngân hàng phải trông chờ vào nguồn bù đắp của ngân sách nhà nước.
Thực chất các khoản vay theo chính sách này có thể coi như là các khoản vay có bảo
lãnh của bên thứ ba là Chính phủ. Vì vậy, ngân hàng không thể thu hồi được nợ từ
khách hàng thuộc đối tượng này thì Chính phủ phải đứng ra giải quyết cho ngân
hàng.
Chính phủ có thể sử dụng ngân sách mua toàn bộ nợ xấu của ngân hàng để xử
lý dần dần trong một số năm nhất định để giải thoát cho ngân hàng không bị sa lầy
vào khủng hoảng của nợ xấu, giúp ngân hàng tập trung vào các hoạt động kinh
doanh. Giải pháp này có hạn chế là các thư tục, trình tự xử lý rất phức tạp, kéo dài và
có sự tham gia của nhiều cơ quan chức năng nên không thể áp dụng thường xuyên vì
ngân sách có hạn , việc xử lý một khối lượng lớn nợ xấu chi phí tốn kém làm giảm
ngân sách đầu tư vào các lĩnh vực khác, gây ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế.
16
1.2.3. Nhân tố ảnh hưởng tới công tác quản lý nợ xấu
1.2.3.1. Nhân tố chủ quan
- Nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng bao gồm cơ chế quản lý tín dụng và
công nghệ ngân hàng,cơ cấu tổ chức.
Thứ nhất, cơ chế quản lý tín dụng của ngân hàng có thể được biểu hiện qua
quy trình nghiệp vụ ngân hàng,cơ cấu cho vay,đạo đức và trình độ chuyên môn của
cán bộ tín dụng, công tác kiểm tra nội bộ ngân hàng.Nếu cơ chế quản lý tín dụng
được thực hiện một cách nghiêm túc, đúng đắn thì sẽ mang lại hiệu quả cho ngân
hàng. Ngược lại, công tác quản lý không được thực hiện đúng mực tới các bộ phận,

phòng ban của ngân hàng, không tạo được sự thống nhất trong toàn bộ hệ thống sẽ
làm giảm thu nhập cho ngân hàng, nợ xấu vì thế mà tăng lên.
Thứ hai, công nghệ ngân hàng là một hệ thống quan trọng trong công tác điều
hành phát triển ngân hàng và đem lại lợi ích cho khách hàng, ngân hàng. Với khách
hàng, công nghệ sẽ mang lại cho khách hàng sự hài lòng nhờ vào những dịch vụ ngân
hàng có chất lượng tốt, thời gian giao dịch được rút ngắn, an toàn, bảo mật. Với công
nghệ hiện đại, ngân hàng sẽ tạo ra đột phá trong khai thác sản phẩm, dịch vụ cả về số
lượng và cả chất lượng, gián tiếp khẳng định được đẳng cấp, tên tuổi, hình ảnh của
ngân hàng. Dưới góc độ quản lý, công nghệ góp phần giúp việc quản lý nội bộ trong
ngân hàng sẽ chặt chẽ hiệu quả hơn, quản trị rủi ro tốt hơn,làm giảm nợ xấu. Còn nếu
công nghệ ngân hàng mà lạc hậu, tất yếu sẽ dẫn đến nhiều hậu quả như không theo
kịp ngân hàng trong nước và quốc tế, làm giảm uy tín, hiệu quả hoạt động của hệ
thống ngân hàng, cũng là nguyên nhân làm phát sinh nợ xấu.
Thứ ba, nếu ngân hàng được cơ cấu tổ chức chặt chẽ,thống nhất hợp lý giữa
các cấp; tăng cường chất lượng quản lý, quản trị rủi ro thì sẽ làm giảm nợ xấu trong
quá trình tín dụng, giảm thiệt hại cho ngân hàng. Và ngược lại , nếu như tổ chức lỏng
lẻo sẽ tạo điều kiện cho nhân viên tín dụng cùng cấp trên hợp thức hóa hồ sơ , làm
giả mạo giấy tờ tín dụng, làm phát sinh nợ xấu.
- Nhân tố chủ quan từ phía khách hàng vay :
Khi doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để thực hiện, mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh, với một dự án đầy khả thi và với tư duy quản lý, kinh doanh tiên
tiến thì sẽ mang lại hiệu quả cho dự án, đảm bảo trả đủ cả gốc và cả lãi cho ngân
17
hàng. Nếu với tư duy kinh doanh còn hạn chế thì dù với một dự án đầy triển vọng thì
cũng sẽ thua lỗ làm gia tăng nợ xấu cho ngân hàng.
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có phương án kinh doanh
cụ thể và khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo
ngân hàng để chiếm đoạt tài sản thì không nghiều. Song những vụ việc phát sinh lại
hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp khác.

1.2.3.2. Nhân tố khách quan:
- Môi trường kinh tế - xã hội
Đối với những nền kinh tế quy mô nhỏ, sản xuất công nghiệp còn lạc hậu, chủ
yếu là thành phẩm đơn giản như dầu thô, may gia công,… thì rất dễ bị tác động khi
nền kinh tế thế giới biến động mạnh. Nếu như thế giới biến động ít,ổn định thì hoạt
động của các doanh nghiệp cũng được đảm bảo,khả năng trả nợ cho ngân hàng càng
cao. Còn trong trường hợp thế giới biến động mạnh mẽ : giá cả, tỷ giá, hạn
ngạch,thuế … thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn,
thậm chí là có nguy cơ phá sản,giải thể, mất khả năng thanh toán cho ngân hàng.
Ví dụ như ở Việt Nam : một số năm gần đây ngành dệt may đã gặp khó khăn
do bị khống chế hạn ngạch dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp nói riêng và của các ngân hàng cho vay nói chung. Ngành thủy
sản cũng đã gặp nhiều khó khăn vì các vụ việc bán phá giá thời gian qua.
Không chỉ riêng xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng chịu nhiều tác động
tiêu cực. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép trên thế giới. Việc
tăng giá phôi thép cũng làm cho nhiều doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải
dừng sản xuất do chi phí giá thành sản xuất rất cao trong khi không tiêu thụ được các
sản phẩm.
Mối quan hệ đa phương và song phương giữa một quốc gia với phần còn lại
của thế giới cũng ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động kinh doanh nói chung và của cả
ngân hàng nói riêng. Một đất nước ổn định về chính trị, có quan hệ tốt đẹp với các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh trong
nước và xuất nhập khẩu. Ngược lại, một đất nước bất ổn , biểu tình, đình công, bị
18
cấm vận,… thì nền kinh tế chắc chắn sẽ kiệt quệ, ảnh hưởng nghiêm trọng tới các
thành phần kinh tế và làm nợ xâu của ngân hàng cũng gia tăng lên rất nhiều.
- Môi trường tự nhiên:
Đối với nền kinh tế lệ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp thì rất nhạy cảm
với sự thay đổi thời tiết, của môi trường tự nhiên, mà điển hình là Việt Nam. Nếu
thời tiết thuận lợi, cây trồng đạt năng suất,vật nuôi không bị dịch bệnh, khỏe mạnh …

thì khả năng thu hồi vốn từ người đi vay là rất lớn. Nhưng nếu môi trường tự nhiên
không thuận lợi, chịu ảnh hưởng thiên tai,lũ lụt,hạn hán thì dự án sẽ thất bại, không
thu hồi được vốn, nợ xấu phát sinh.
- Môi trường pháp lý
Trước hết là hành lang pháp lý. Hành lang pháp lý phải thuận lợi, rõ ràng và
đủ mạnh thì sẽ góp phần làm minh bạch quy trình tín dụng, lành mạnh hoạt động của
các doanh nghiệp. Nếu luật về thủ tục thế chấp, tịch thu tài sản, phá sản ngân hàng
mà không được chặt chẽ thì sẽ dễ dẫn đến những tác động tiêu cực tới nền kinh tế do
các khoản nợ xấu gây nên. Cơ chế pháp lý có hiệu quả thì cần phải có những biện
pháp hợp lý, chặt chẽ thống nhất, xử lý nợ có hiệu quả để tránh tình trạng thủ tục
rườm rà,phức tạp, kéo quá lâu.
19
Chương II. Thực trạng quản lý nợ xấu tại Chi nhánh
Sở giao dịch 1 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
2.1. Tổng quan về Chi nhánh Sở giao dịch 1 – BIDV:
2.1.1. Lịch sử hình thành và cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Sở giao dịch 1
– Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
2.1.1.1. Lịch sử hình thành:
Chi nhánh Chi nhánh Sở giao dịch 1 Ngân hàng ĐT&PT VN được thành lập
ngày 28/3/1991 theo quyết định số 76 QĐ/TCCB của Tổng giám đốc Ngân hàng
ĐT&PT VN. Là một chi nhánh đặc biệt thực nghiệm thành công mô hình mới là đơn
vị trực tiếp kinh doanh của Hội sở chính , thực thi có hiệu quả nhiệm vụ chiến lược
của BIDV.Từ ngày đầu thành lập, Sở giao dịch có 2 phòng và 1 tổ nghiệp vụ;chủ yếu
làm nhiệm vụ cấp phát ngân sách đầu tư từ các dự án.
Hiện nay chi nhánh Chi nhánh Sở giao dịch 1 có trụ sở chính tại tòa tháp A
Vincom, số 191 Bà Triệu- Hai Bà Trưng- Hà Nội.
Cho tới nay chi nhánh Chi nhánh Sở giao dịch 1 đã trải qua 19 năm hoạt động
và phát triển, đạt được nhiều bước tiến vượt bậc cụ thể:
- Trong bốn năm đầu tiên (1991-1994), tuy còn nhiều bước đi chập chững
nhưng chi nhánh sở giao dịch 1 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cấp phát vốn ngân

sách cho các dự án đầu tư của Bộ, Ngành với số vốn cấp phát hàng trăm tỷ đồng.
Theo đó chi nhánh sở giao dịch 1 đã phát huy vai trò kiểm tra, giám sát sử dụng vốn
ngân sách của chủ đầu tư, thực hiện phương châm cấp phát đúng địa chỉ, đúng đối
tượng, đúng với thiết kế và khối lượng thi công, góp phần tiết kiệm chống lãng phí
trong xây dựng cơ bản.
- Giai đoạn tiếp theo 1996-2000: Với 167 cán bộ nhân viên, Sở giao dịch đã có
12 phòng nghiệp vụ,1 chi nhánh khu vực,2 phòng giao dịch và 7 quỹ tiết kiệm. Thực
hiện đầy đủ các nhiệm vụ của ngân hàng thương mại , phục vụ đông đảo khách hàng
thuộc mọi tầng lớp kinh tế và dân cư. Chi nhánh sở giao dịch 1đã chuyển hướng
mạnh mẽ sang hoạt động kinh doanh, hạch toán kinh tế chủ động, tự trang trải. Chi
nhánh sở giao dịch 1 đã đạt được những kết quả quan trọng, xác lập được vị thế, trở
20
thành một địa chỉ quen thuộc, tin cậy của khách hàng đến gửi tiền. Chi nhánh sở giao
dịch 1 còn thử nghiệm thành công các sản phẩm huy động vốn dài hạn của BIDV
thông qua các đợt phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chi nhánh sở giao dịch 1 cũng được
biết đến như một đơn vị chuyên tài trợ vốn cho các dự án lớn, trọng điểm của Nhà
nước và cung cấp các dịch vụ ngân hàng chất lượng như thanh toán trong nước, thanh
toán quốc tế,…
- Đến tháng 3 năm 2001: Kỷ niệm 10 năm thành lập, chi nhánh sở giao dịch 1
đã đạt quy mô tổng tài sản 7.828 tỷ đồng, huy động 6.441 tỷ đồng, dư nợ cho vay
4.179 tỷ đồng, thu phí dịch vụ hàng chục tỷ đồng và cơ cấu dịch vụ chiếm 16,72% lợi
nhuận trước thuế.
- Từ 2001-2005: Chi nhánh sở giao dịch 1 đã thực hiện tách nâng cấp mở 4 chi
nhánh cấp 1 trên địa bàn Hà Nội đó là:
Chi nhánh Bắc Hà Nội năm 2002
Chi nhánh Hà Thành năm 2003
Chi nhánh Đông Đô năm 2004
Chi nhánh Quang Trung năm 2005
Cơ cấu lại Sở giao dịch theo mô hình phục vụ giao dịch một cửa thuận lợi cho
khách hàng và quản lý thông tin, thanh toán trực tuyến. Đến nay chi nhánh sở giao

dịch 1 đã có 17 phòng nghiệp vụ, 15 điểm giao dịch với gần 300 cán bộ nhân viên.
Hệ thống máy rút tiền tự động ATM hoạt động kết nối với các điểm giao dịch của
BIDV trên phạm vi toàn quốc hợp thành mạng lưới rộng khắp phục vụ khách hàng sử
dụng các dịch vụ của ngân hàng. Mô hình tổ chức của Sở giao dịch đang được tiếp
tục hoàn thiện theo hướng các ngân hàng hiện đại trên cơ sở áp dụng công nghệ
thông tin để hình thành cá kênh phân phối sản phẩm tín dụng,huy động vốn, dịch
vụ…
Quá trình phát triển quy mô hoạt động của Sở giao dịch được thể hiện: tăng
trưởng khách hàng,tổng tài sản. Đến nay đã có hàng vạn khách hàng mở tài khoản
hoạt động, trong đó có tới 1400 khách hàng doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế: Tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, liên doanh, cổ
phần, trách nhiệm hữu hạn lớn… Tổng tài sản năm 1991 là 137 tỷ đồng, sau 15 năm
đến năm 2006 là 14.141 tỷ đồng, đến năm 2008 là 30.125,642 tỷ đồng.
21
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
1991 1995 2006 2007 2008 2009
Tổng tài sản
Biểu 2.1. Biểu đồ tổng tài sản của chi nhánh Sở giao dịch 1 qua các năm
Nguồn Kỷ yếu 15 năm thành lập CN SGD 1 ( 1991-2006) và
Báo cáo kết quả kinh doanh của CN SGD 1 giai đoạn 2006-2009
Công nghệ là nền tảng để phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng với tiện
ích và chất lượng cao. Năm 1992 với hệ thống chuyển tiền điện tử trong nước và
hạch toán kế toán IBS đã đánh dấu bước khởi đầu trong việc hiện đại hóa của Sở giao
dịch. Trong năm 1996-2000, với việc trang bị 70% máy PC liên kết trên mạng cục bộ

(mạng LAN) và liên kết trên mạng rộng (mạng WAN), cùng với hệ thống phần mềm
kế toán IBS,thanh toán điện tử nội bộ, thanh toán quốc tế (SWIFT), thanh toán bù trừ
liên ngân hàng (Interbank) và liên kết tới hệ thống thông tin CIC đã giúp cho Sở giao
dịch triển khai mạnh mẽ hoạt động kinh doanh, ngày càng đáp ứng yêu cầu của khách
hàng về thanh toán, tiện ích sản phẩm dịch vụ.
Từ năm 2003, Sở giao dịch là đơn vị thành viên đầu tiên đã triển khai thành
công dự án hiện đại hóa ngân hàng do World Bank tài trợ với tính năng là quản lý dữ
liệu tập trung, xử lý giao dịch tức thời và hạch toán tự động.
Hệ thống quản lý chất lượng ISO 1991 – 2000: Sở giao dịch được tổ chức
BVQI và QUACERT cấp chứng chỉ đã áp dụng hệ thống quản lý chất lương theo
ISO 1991 – 2000 cho hầu hết các sản phẩm dịch vụ. Các nghiệp vụ đã được thực hiện
theo quy trình thống nhất đảm bảo tính minh bạch, công khai, rõ trách nhiệm đối với
22
từng chủ thể tham gia, tránh phiền hà cho khách hàng và là cơ sở để xây dựng, nâng
cấp chương trình phần mềm xử lý nghiệp vụ.
Phát triển nguồn nhân lực và xây dựng tập thể vững mạnh là một trong những
thế mạnh tạo nên thành công trong hoạt động của Sở giao dịch cũng như toàn hệ
thống BIDV. Thứ nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ thành thạo kỹ năng. Từ 16 cán bộ
từ ngày đầu thành lập, đến nay Sở giao dịch đã có gần 300 cán bộ độ tuổi trung bình
là 27,5 được đào tạo cơ bản và thường xuyên được đào tạo nâng cao kỹ năng nghiệp
vụ. Với sức trẻ và lòng nhiệt huyết, gắn bó trung thành với sự nghiệp đã tăng thêm
niềm tin của khách hàng với ngân hàng. Thứ hai là bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ
chốt. Phù hợp với sự phát triển mô hình tổ chức và nhiệm vụ kinh doanh, trong 15
năm đã có 6 đồng chí Giám đốc trong đó có 3 đồng chí đã trở thành phó tổng giám
đốc BIDV, 20 đồng chí phó giám đốc và hàng trăm đồng chí trưởng,phó phòng hiện
đang được giữ cương vị công tác tại Sở giao dịch và các đơn vị thành viên trong hệ
thống BIDV. Ngoài ra hoạt động Đảng bộ vững mạnh, hoạt động công đoàn, hoạt
động đoàn Thanh niên, phong trào thể thao văn hóa cũng góp phần xây dựng một tập
thể vững mạnh trong Sở giao dịch.
- Tính đến năm 2008, nguồn vốn huy động đã đạt 28.919 tỷ đồng. Nguồn vốn

huy động liên tục tăng trưởng qua các năm, có được kết quả vượt bậc này là do sự kết
hợp của việc nâng cao ứng dụng công nghệ, không ngừng phát triển sản phẩm, tiện
ích, phong cách giao dịch văn minh của nhân viên ngân hàng.
- Từ 1/10/2009 đã được đổi tên thành Chi nhánh sở giao dịch 1.
Sự ra đời của chi nhánh Sở Giao dịch là một tất yếu bởi việc thành lập Sở
Giao dịch là nhằm giải quyết các vấn đề tổng thể sau:
Thứ nhất: trong đầu tư phát triển có những dự án trải dài khắp toàn quốc
hoặc theo tuyến như dự án đường sắt, đường giao thông, điện lực, bưu chính viễn
thông… Các dự án này không chia khúc theo địa bàn, lại đòi hỏi phải có sự kiểm tra,
thẩm định một cách thống nhất nên nếu phân chia theo chi nhánh sẽ không thoả mãn
yêu cầu quản lý theo đặc điểm của dự án và yêu cầu đòi hỏi của ngân hàng.
Thứ hai: trong xây dựng cơ bản, có những tổ chức xây lắp hoạt động trong
cả một vùng hoặc cả nước như các Tổng công ty xây lắp, san nền, điện lực, bưu
chính viễn thông… nên việc phục vụ và quản lý đòi hỏi có một đơn vị Ngân hàng
ĐT&PT phục vụ theo lĩnh vực đặc thù này trong lĩnh vực xây dựng.
23
Thứ ba: BIDV mới bước vào hoạt động thương mại nên cần phải có một
“chi nhánh đặc biệt” bên cạnh BIDV Trung ương để có thể làm thử nghiệm các
nghiệp vụ mới, qua đó rút kinh nghiệm, chỉ đạo triển khai cho toàn bộ hệ thống.
Thứ tư: việc thành lập Sở Giao dịch sẽ thoả mãn điều kiện là tồn tại một bộ
phận phụ trách kinh doanh bên cạnh sự quản lý chung của BIDV.
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển
Việt Nam:
Để phù hợp và đáp ứng ngày càng cao quá trình hoạt động, sản xuất kinh
doanh. Trải qua các giai đoạn phát triển, về số lượng, cơ cấu các phòng ban cũng như
về chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban có những sự thay đổi. Gần đây nhất là
Quyết định số 4589/QĐ-TCCB2 ngày 4/9/2008 của Tổng giám đốc Ngân hàng
ĐT&PTVN ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ chính của các phòng, tổ
nghiệp vụ thuộc Chi nhánh, Sở Giao dịch Ngân hàng ĐT&PTVN. Theo quyết định
này, số lượng các phòng ban cũng như tên gọi, chức năng một số phòng ban có sự

thay đổi, nâng số phòng ban từ 15 phòng lên 19 phòng hay nếu trước kia khối tín
dụng của Ngân hàng được chia ra thành các phòng tín dụng, phòng Thẩm định,
phòng quản lý tín dụng thì nay chia ra thành các phòng quan hệ khách hàng, phòng
quản lý rủi ro, phòng quản trị tín dụng, phòng tài trợ dự án. Sự phân chia rõ chức
năng, nhiệm vụ của từng phòng có tác dụng giới hạn nghĩa vụ, quyền hạn trên cơ sở
đó thực hiện chuyên môn hoá sâu trong một lĩnh vực hoạt động của Sở Giao dịch,
đảm bảo cho các phòng thực hiện được tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy
nhiên, sự phân chia chỉ có tính chất tương đối bởi các phòng đều có quan hệ hữu cơ
với nhau trong một tổng thể chung, phụ trợ và tăng cường cho nhau.
Các phòng ban có các trưởng phòng và phó phòng.
Giám đốc chi nhánh sở giao dịch 1 qua các thời kỳ:
- Ông Võ Xuân Phúc - Phó Tổng giám đốc Ngân hàng ĐT&PT VN kiêm giám
đốc chi nhánh sở giao dịch 1 (3/1991- 10/1996)
- Ông Vũ Quốc Sáu - Phó Tổng giám đốc Ngân hàng ĐT&PT VN kiêm giám
đốc chi nhánh sở giao dịch 1 (11/1996- 3/1997).
- Ông Lê Đào Nguyên – Giám đốc chi nhánh sở giao dịch 1 (4/1997- 6/2001)
- Ông Lê Văn Lộc – Gián đốc chi nhánh sở giao dịch 1 ( 7/2001- 10/2002).
- Ông Nguyễn Khắc Thân – Giám đốc chi nhánh sở giao dịch 1 (11/2002-
4/2005)
24
- Bà Lê Thị Kim Khuyên – Giám đốc chi nhánh sở giao dịch 1(từ 5/2005)
25

×