Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

định hướng và giái pháp cho hoạt động xuất khẩu điều của nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.49 KB, 33 trang )

Nguyễn Thị Thanh Loan 1 KTNTBK10
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐẾ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU ĐIỀU Ở NƯỚC TA
1.1 Giới thiệu chung về cây điều và ngành điều ở nước ta
1.1.1 Giới thiệu khái quát về cây điều
Cây đào lộn hột hay còn gọi là cây điều, có tên khoa học là
Anacardium Occidentale, tên tiếng Anh là Cashew. Cây điều có xuất xứ từ
Mỹ Latinh, thoạt đầu chỉ là cây mọc hoang dại, đến nay đã được trồng rộng
rãi ở khắp các nước nhiệt đới, đặc biệt là các vùng nhiệt đới ven biển. Cây
điều được đưa vào trồng ở Việt Nam từ thế kỷ 18. Điều là cây có nguồn gốc ở
vùng nhiệt đới ven biển và thích hợp với những vùng có độ cao so với mặt
nước biển từ 600 trở lại. Điều được biết đến và trở thành một cây có giá trị
kinh tế cao của nhiều nước với ba sản phẩm chính là nhân điều, dầu vỏ hạt
điều và các sản phẩm chế biến từ trái điều như rượu và nước giải khát.
Nhân điều chiếm khoảng 20 - 25% trọng lượng hạt điều, là một loại
thực phẩm cao cấp có giá trị dinh dưỡng cao với 20% đạm, 40 - 53% chất
béo, 22,3% bột đường, 2,5% chất khoáng và nhiều loại vitamin nhóm B, nên
được nhiều người ưa dùng vì đó là loại thức ăn vừa bổ lại vừa hạn chế được
nhiều bệnh hiểm nghèo như huyết áp, thần kinh, xơ vữa động mạch Nhân
điều có thể rang để ăn, có thể dùng làm một trong những thành phần của bánh
ăn rất thơm, có thể ép ra dầu rán, người Trung Quốc thường dùng xào lẫn với
rau dùng trong bữa ăn.
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 2 KTNTBK10
Dầu vỏ hạt điều chiếm khoảng 18 - 23% trọng lượng hạt điều, được
chiết xuất từ vỏ hạt điều, thành phần chính là axid anacardic và cardol chiếm
85 - 90%, đây là những dẫn suất của phenol. Công dụng chính là dùng chế
biến thành vecni, sơn chống thấm, cách điện, cách nhiệt
Các sản phẩm chế biến từ trái điều như nước giải khát, syro điều được
đánh giá là có chất lượng dinh dưỡng khá cao quả điều có mùi thơm đặc biệt
và chứa nhiều vitamin, đặc biệt là vitamin C và các loại muối khoáng cần


thiết cho cơ thể con người. Trái điều cũng được chế biến ra mứt bằng cách
đun với mật ong hay đường.
1.1.2 Giới thiệu chung về ngành điều Việt Nam
Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, thổ nhưỡng và
khí hậu của Việt Nam rất phù hợp cho sự phát triển của cây điều. Thấy được
giá trị kinh tế của cây điều, ngay từ những năm 1980, Đảng và Nhà nước đã
bước đầu có sự quan tâm đến cây điều, đặc biệt là công nghệ chế biến điều
xuất khẩu – tại Hội nghị ngoại thương tổ chức tại tỉnh Sông Bé (cũ) vào năm
1982, cố Thủ tướng Phạm Hùng đã chỉ đạo cho ngành ngoại thương phải tổ
chức chế biến và xuất khẩu hạt điều. Tuy nhiên thời kỳ này Việt Nam chủ yếu
là xuất khẩu hạt điều thô, giá trị kinh tế thấp, thường xuyên bị ép giá ở nước
ngoài.
Phải đến năm 1990 ngành điều Việt Nam mới thực sự khởi sắc. Ngày
29/11/1990 Bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp và Công Nghiệp Thực phẩm (nay là
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) đã có Quyết định số 346 /NN-
TCCB/QĐ v/v: thành lập Hiệp hội cây điều Việt Nam với tên giao dịch bằng
tiếng Anh: Vietnam Cashew Association (VINACAS).
Năm 1992, tức là chỉ một năm sau khi khai thông biên giới Việt -
Trung, hạt điều Việt Nam đã có mặt tại thị trường đông dân nhất hành tinh
này. Ngày nay, Trung Quốc luôn là thị trường lớn thứ 2 của hạt điều Việt
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 3 KTNTBK10
Nam. Đặc biệt hơn là ngay từ khi Việt Nam – Hoa Kỳ chưa bình thường hoá
quan hệ về mặt ngoại giao thì chúng ta đã có những lô hàng xuất khẩu nhân
điều xuất khẩu trực tiếp qua thị trường Hoa Kỳ - đó là năm 1994.
Trong suốt 10 năm liền từ 1990 – 1999, cây điều Việt Nam từ chỗ chỉ
có vài chục ngàn ha với sản lượng mấy chục ngàn tấn, xuất khẩu nhỏ lẻ, thì
năm 1999 Việt Nam đã có sản lượng 100 ngàn tấn điều thô, sản lượng nhân
xuất khẩu đạt 28 ngàn tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 164 triệu USD. Công
nghiệp chế biến điều phát triển mạnh mẽ, sản lượng điều thô trong nước bắt

đầu không đủ cung cấp cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Do vậy mà năm 1996, Việt Nam chính thức ghi tên mình vào danh sách
các quốc gia nhập khẩu hạt điều thô từ châu Phi. Hiệp hội điều Việt Nam - Bộ
Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn đã trình Thủ tướng Chính phủ đề án
chiến lược phát triển ngành điều giai đoạn 10 năm từ 2000 – 2010. Ngày
07/5/1999, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 120 /1999/QĐ–
TTg v/v: phê duyệt đề án phát triển ngành điều đến năm 2010.
Điều kỳ diệu là không phải đợi đến 10 năm mà chỉ 5 năm sau, tức là
năm 2005 hầu như toàn bộ chỉ tiêu phát triển của Quyết định 120 của chính
phủ đã được ngành điều hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch.
Để ghi nhận thành quả đó thì ngày 14 tháng 1 năm 2003, Chủ tịch nước
đã tặng ngành điều Huân chương Lao động Hạng 3 thời kỳ đổi mới.
Năm 2006, một tin vui lớn đã đến với những người trồng - chế biến -
xuất khẩu điều Việt Nam - Việt Nam đã trở thành quốc gia xuất khẩu hạt điều
hàng đầu thế giới.
Năm 2007 ngành điều vẫn tiếp tục phát triển với nhịp độ tăng trưởng
rất cao 25% - cao hơn mức tăng trưởng bình quân của ngành Nông nghiệp với
thành tích cụ thể:
- Sản lượng điều thô trong nước: 350 000 tấn
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 4 KTNTBK10
- Nhập khẩu: 200 000 tấn
- Sản lượng chế biến: 550.000 tấn
- Sản lượng nhân xuất khẩu (khoảng) 152.000 tấn
- Kim ngạch xuất khẩu (khoảng) 650 triệu USD. Trong đó xuất khẩu
sang Hoa Kỳ đạt trên 36%; Trung Quốc 18%; Liên Minh châu Âu (EU) trên
20%
Có được thành tựu ngành hôm nay, ngành điều không thể không ghi
nhận công sức đóng góp của những người nông dân trồng điều đã một nắng
hai sương trồng, chăm sóc, tạo tán, tỉa cành cho cây điều phát triển. Ngành

điều cũng không thể không ghi nhận công sức, đóng góp của các nhà khoa
học, những kỹ sư nông học đang ngày đêm tạo ra từng dòng giống mới cho
năng suất chất lượng hạt ngày càng cao. Thành công đó cũng có công sức
đóng góp không nhỏ của những người công nhân chế biến điều; mặc dù cuộc
sống còn muôn vàn khó khăn nhưng họ vẫn luôn bám máy, lao động sáng tạo
giúp cho ngành điều ngày càng phát triển. Đó còn là công sức lao động trí tuệ
của tầng lớp doanh nhân Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu hạt
điều.
1.2 Các nhân tố ảnh hưởng khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu hạt
điều
Đối với hạt điều chất lượng sản phẩm ngày càng trở thành yếu tố then
chốt để cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. Khả năng cạnh tranh của chất
lượng sản phẩm được thể hiện nếu một sản phẩm có chất lượng tốt hơn thì sẽ
có lợi thế hơn trong cạnh tranh so với những sản phẩm cùng loại nhưng có
chất lượng thấp hơn Muốn tăng chất lượng hạt điều phải đồng thời thực hiện
tốt hai nhiệm vụ: Thứ nhất là yếu tố về giống, cách thức gieo trồng. Thứ hai là
phương thức chế biến bảo quản, yếu tố này có ảnh hưởng lớn đến chất lượng
sản phẩm cuối cùng.
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 5 KTNTBK10
Trong sản xuất, công nghệ là yếu tố sống động mang tính quyết định
khả năng cạnh tranh của sản phẩm thông qua công nghệ thể hiện nó làm tăng
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm từ đó nâng cao khả năng cạnh
tranh. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt ở cả thị trường trong nước và ngoài
nước, công nghệ đang là mối quan tâm sâu sắc của mọi quốc gia. Riêng đối
với mặt hàng điều xuất khẩu, cần chú ý đến việc đầu tư công nghệ để giữ gìn
và làm tăng chất lượng của sản phẩm.
Uy tín của doanh trên thị trường thể hiện sự tin tưởng của khách hàng
vào chính doanh nghiệp đó. Đây cũng là nhân tố rất quan trọng để đánh giá
khả năng cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp . Hiện nay, trên thị

trưòng điều thế giới, các doanh nghiệp như Alphonsa Cashew Industries,
Achal Cashew Private Limited (ấn Độ), Lafacoo (Việt Nam) là những
doanh nghiệp rất có uy tín về xuất khẩu hạt điều. Hình ảnh và uy tín của
doanh nghiệp trên thương trường là một tiềm lực vô hình của doanh nghiệp.
Để có được sức mạnh này doanh nghiệp cần phải thực hiện nhiều hoạt động
và các chỉ tiêu khác như: Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm,
kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt là luôn tăng lợi nhuận cũng như giành được
thị phần lớn trên thị trường.
Trình độ tổ chức quản lý trong các hoạt động kinh doanh xuất khảu
cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hoạt
động xuất khẩu điều. Tổ chức quản lý trong kinh doanh xuất khẩu hạt điều là
việc quản lý các nguồn sản xuất, tổ chức thu gom hàng hóa từ các nguồn, tổ
chức bộ máy dây chuyền sản xuất, chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm
phải đồng bộ và thông suốt
Hoạt dộng xúc tiến thương mại cũng là hoạt động quan trọng không thể
thiếu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong khi đưa hàng
hóa ra thị trường. Hoạt động xúc tiến giúp các doanh nghiệp có điều kiện hiểu
biết lẫn nhau, đặt quan hệ buôn bán với nhau đặc biệt các doanh nghiệp nhận
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 6 KTNTBK10
biết thêm thông tin về thị trường, có điều kiện để nhanh chóng phát triển kinh
doanh và hội nhập vào khu vực và thế giới. Xúc tiến thương mại là công cụ
hữu hiệu trong việc chiếm lĩnh thị trường và tăng tính cạnh tranh của hàng
hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp trên thị trường.
1.3. Vai trò và ý nghĩa của sản xuất và xuất khẩu hạt điều đối với nền
kinh tế quốc dân
1.3.1 Sản xuất và xuất khẩu hạt điều làm tăng vốn và phát triển khoa học
công nghệ, góp phần thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
Đất nước ta đang tiến hành công cuộc Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa,
do vậy nhu cầu về vốn là rất lớn. Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, chúng ta

không thể chỉ trông chờ vào nguồn vốn trong nước, do đó phải huy động
nhiều nguồn vốn khác nhau, trong đó có nguồn vốn thu được từ hoạt động
xuất khẩu hạt điều, bởi quá trình công nghiệp hóa không những đòi hỏi các
khoản đầu tư bổ sung mà còn đòi hỏi nhiều khoản đầu tư mới với quy mô lớn
mà khả năng trong nước không đáp ứng được. Hàng năm, hạt điều xuất khẩu
đem lại một lượng kim ngạch rất lớn, đóng góp rất nhiều cho nguồn thu ngân
sách nhà nước. Kim ngạch xuất khẩu hạt điều không ngừng tăng trong những
năm qua, đóng góp cho ngân sách nhà nước của ngành điều cũng liên tục
tăng.
Sản xuất và xuất khẩu hạt điều còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc
nhập khẩu khoa học công nghệ từ nước ngoài, phát triển công nghệ hiện có
trong nước. Lượng ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu hạt điều đã được
sử dụng hợp lý để nhập khẩu những giống điều mới cho năng suất cao hơn và
những công nghệ, máy móc thiết bị tiên tiến để hiện đại hóa ngành chế biến
điều.
Khi sản xuất điều phát triển, đời sống của đồng bào trồng điều, đặc biệt
là ở những vùng sâu, vùng xa được nâng lên, giúp đồng bào ổn định cuộc
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 7 KTNTBK10
sống, định canh định cư, tránh hiện tượng du canh, du cư như trước. Mỗi nhà
máy, xí nghiệp chế biến điều mọc lên ở đâu là nơi đó dân cư đến sinh sống
tập trung, đồng thời điện, đường, trường trạm được xây dựng theo để phục
vụ cho hoạt động của các nhà máy và đời sống của người dân
1.3.2 Sản xuất và xuất khẩu hạt điều góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng đất, cải biến cơ cấu kinh tế và tạo cân bằng môi trường sinh thái
Nhờ trồng điều, chúng ta đã tăng nhanh vòng quay sử dụng đất, từ đó
nâng cao hiệu quả sử dụng đất, đặc biệt là đất ở những vùng trước đây bỏ
hoang, cằn cỗi, cải biến cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống của người dân ở
những vùng trồng cây điều.
Cây điều là cây công nghiệp dài ngày chịu được hạn, không kén đất

do đó chúng ta có thể tận dụng những vùng đất khô hạn ở phía Nam nước ta.
Do bản chất bán hoang dại và nguồn gốc nhiệt đới nên cây điều có thể phát
triển trong điều kiện khí hậu nóng gió, khô hạn, đặc biệt là vùng Duyên hải
Miền Trung. Trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, đất đai khô hạn, nghèo
dinh dưỡng nhưng cây điều vẫn cho hiệu quả kinh tế khá hơn hẳn một số cây
trồng khác đặc biệt là ở vùng đất trống đồi núi trọc. Theo một nghiên cứu của
Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam thuộc Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, các tỉnh duyên hải miền Trung, vùng thấp các tỉnh Tây
Nguyên hiện đang có hàng trăm ngàn hécta đất trống đồi trọc, trong đó có gần
400.000 hécta thích hợp cho trồng điều. Nghiên cứu này cũng cho thấy "chưa
có một loại cây trồng nào có thể phát triển mạnh và cho hiệu quả kinh tế cao
hơn cây điều". Như vậy, nếu không có sự phát triển của cây điều thì một
lượng lớn đất đai sẽ bị lãng phí, hệ số sử dụng đất sẽ rất thấp.
Việc sản xuất và xuất khẩu điều cũng đã góp phần không nhỏ vào việc
cải biến cơ cấu kinh tế của các vùng trồng điều. Trước đây các vùng này hầu
như chỉ dựa vào nông nghiệp là chính, nhưng từ khi điều trở thành sản phẩm
của nền kinh tế hàng hóa và có giá trị thương mại cao thì cơ cấu kinh tế của
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 8 KTNTBK10
các vùng này đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng
công nghiệp, dịch vụ do sự phát triển của các nhà máy sản xuất chế biến điều
gắn liền với các vùng nguyên liệu. Hiện nay nước ta có hơn 200 cơ sở chế
biến hạt điều và hàng trăm xưởng chế biến mini nhỏ tập trung chủ yếu ở
những vùng nguyên liệu chính như Tây Nguyên, Duyên hải Nam Trung Bộ và
Đông Nam Bộ.
Bên cạnh đó, chúng ta đang đứng trước một thực tế là môi trường nước
ta hiện đang bị hủy hoại nặng nề thể hiện ở những hiện tượng thiên tai dồn
dập như lũ lụt, bão, đất xói lở, hạn hán. Một trong những nguyên nhân của
hiện tượng ấy là do sự tàn phá rừng, sự lạm dụng phân hóa học trong trồng
trọt và các hóa chất khác, sự tiêu diệt những vi sinh vật có ích Nhiệm vụ cấp

bách trước mắt là phải phủ xanh đất trống, đồi trọc, hạn chế sử dụng phân hóa
học, thuốc trừ sâu, tăng độ phì nhiêu và hiệu quả sử dụng đất.
Trước thực trạng môi trường như vậy, xuất phát từ quan điểm cây điều
là một loại cây lâm nghiệp phù hợp với trình độ sản xuất của đồng bào dân
tộc, đáp ứng được yêu cầu phòng hộ vùng đầu nguồn và được đưa vào trong
các chương trình khuyến khích trồng rừng như chương trình 327, PALM
việc trồng cây điều đã góp phần không nhỏ vào việc trồng, phát triển rừng và
giữ gìn môi trường sinh thái.
1.3.3. Sản xuất và xuất khẩu hạt điều góp phần xóa đói giảm nghèo, tạo
công ăn việc làm và cải thiện đời sống người lao động
Cây điều còn được coi là cây của vùng đất bạc màu, cây của người
nghèo bởi đây là một trong những loại cây trồng chủ chốt trong chiến lược
xóa đói giảm nghèo của nước ta. Trong những năm gần đây, giá trị kinh tế
của cây điều càng được khẳng định. Nếu đem so với một cây kinh tế chủ yếu
khác của địa phương thì như vậy việc trồng cây điều sẽ đem lại lợi nhuận cao
hơn mà quá trình thu hoạch, bảo quản sản phẩm lại đơn giản hơn rất nhiều.
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 9 KTNTBK10
Việc phát triển sản xuất và xuất khẩu điều còn tạo nhiều công ăn việc
làm cho người dân, đặc biệt là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Theo số liệu
thống kê của VINACAS thì hiện nay có khoảng 800.000 người sống bằng
nghề trồng điều và tổng số lao động trực tiếp đang làm việc trong các nhà
máy sản xuất, chế biến, xuất khẩu hạt điều vào khoảng 120.000 người, chưa
kể số lao động gián tiếp và lao động nông nhàn tham gia sản xuất khi vào vụ
thu hoạch, ước tính cứ 1000 tấn điều thô cần chế biến sẽ giải quyết việc làm
cho 250 người lao động trong 1 năm sản xuất với mức thu nhập 500 -
700USD/năm/người.
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 10 KTNTBK10
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ TÌNH HÌNH XUẤT

KHẨU ĐIỀU CỦA VIỆT NAM
2.1. Tình hình xuất khẩu hạt điều cửa Việt Nam trong thời gian qua
2.1.1 Kim ngạch xuất khẩu điều của Việt Nam những năm gần đây
Công tác xuất khẩu của ngành điều trong những năm qua đã đạt được
nhiều thành tích đáng khích lệ. Qui mô xuất khẩu hạt điều ngày càng mở rộng
với khối lượng và kim ngạch tăng với tốc độ khá cao. Xét về cơ cấu ngành
hàng xuất khẩu, trong khoảng 5 năm gần đây, bên cạnh một số sản phẩm nông
sản mang tính truyền thống như gạo, lạc nhân, hạt tiêu, cà phê, đỗ tương,
nhân điều đã trở thành một mặt hàng nông sản mang về cho đất nước một
nguồn ngoại tệ xuất khẩu rất lớn. Tốc độ tăng trưởng về sản lượng và kim
ngạch xuất khẩu hạt điều tăng lên một cách đáng kinh ngạc.
Riêng năm 2004 kim ngạch xuất khẩu điều đạt con số 430 triệu
USD(103.000 tấn), so với năm 2003 tăng 25% về sản lượng và 40% về giá trị.
Và năm 2005, do giá điều thế giới tăng, nên kim ngạch xuất khẩu tăng 10,3%,
đạt 418 triệu USD, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu điều lớn thứ 2 thế
giới, sau Ấn Độ. Năm 2006, VN đã vượt Ấn Độ - "cường quốc" về cây điều -
để trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về XK hạt điều. Chất lượng nhân điều
VN cũng được ca ngợi là số 1, là thơm ngon hơn hẳn nhân điều của Ấn Độ,
Brazil hay Tanzania Thật vậy, năm 2006, các doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu được 127.000 tấn nhân điều, đạt kim ngạch xuất khẩu gần 504 triệu
USD; trong khi Ấn Độ chỉ xuất khẩu có 118.000 tấn nhân điều. Chính kết quả
này đã đẩy VN lên ngôi vị XK nhân điều hàng đầu thế giới trong năm 2006.
Năm 2007, tiếp tục lần thứ hai Việt Nam đứng số 1 thế giới về XK hạt điều,
đồng thời đạt mức cao kỷ lục về số lượng cũng như trị giá. Cả năm 2007,
nước ta xuất khẩu được 151,73 ngàn tấn hạt điều các loại với trị giá 650,6
triệu USD, tăng 19,66% về lượng và tăng 29,15% về trị giá so với năm 2006;
tăng 39,24% về lượng và tăng 29,73% về trị giá so với năm 2005. Năm 2008,
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 11 KTNTBK10
cả nước xuất khẩu 167.000 tấn hạt điều, đạt kim ngạch 920 triệu USD, tăng

trên 40% về giá trị so năm 2007. Tuy giá trị xuất khẩu chỉ bằng gần một nửa
so với cà phê, nhưng hạt điều vẫn thuộc nhóm hàng nông sản xuất khẩu chủ
lực.
Theo số liệu thống kê, trong tháng 4/2009, cả nước xuất khẩu được
12,5 nghìn tấn hạt điều với trị giá 54,6 triệu USD, tăng 13,8% về lượng và
tăng 17% về trị giá so với tháng 3/2009; tăng 10% về lượng nhưng vẫn giảm
13,6% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, tính đến hết tháng
4/2009 ngành điều của nước ta xuất khẩu đạt 44 nghìn tấn với kim ngạch 194
triệu USD, tăng 5,9% về lượng nhưng giảm 6,7% về trị giá so với cùng kỳ
năm 2008. Theo số liệu thống kê chính thức của Tổng cục Hải quan, lượng
hạt điều xuất khẩu của cả nước trong tháng 7/2009 đạt 20.591 tấn với kim
ngạch 100,08 triệu USD, tăng 23,3% về lượng và tăng 31,8% về kim ngạch so
với tháng trước, đây là tháng thứ 5 liên tiếp kể từ đầu năm đến nay lượng hạt
điều xuất khẩu tăng liên tục, còn so với cùng kỳ năm 2008 thì mặc dù giảm
nhẹ 4,1% về kim ngạch nhưng lại tăng 22% về lượng. Như vậy, tổng lượng
điều xuất khẩu trong 7 tháng đầu năm lên đến 95.093 tấn với kim ngạch
431,71 triệu USD, tăng 6,05% về lượng song lại giảm 12,6% về kim ngạch so
với 7 tháng đầu năm 2008.
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu điều trong tính đến tháng 8/2009
( triệu USD_ nghìn tấn)
Khối lượng, giá trị 8T/2008 và tăng
trưởng so với 2007
Khối lượng, giá trị 8T/2009 và tăng
trưởng so với 2008
Lượng
Giá
trị
+/-
Lượng
+/- Giá

trị
Lượng
Giá
trị
+/-
Lượng
+/- Giá
trị
109 597 112.00 149.60 115 527 106.00 86.50
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 12 KTNTBK10
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất nhập khẩu điều năm 2008-2009 (triệu USD)
(Nguồn: số liệu của tổng cục hải quan)
Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu điều so với các nông sản chủ lực khác
9 tháng đầu năm 2009 (Triệu USD)
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 13 KTNTBK10
( Nguồn: tổng hợp từ số liệu của tổng cục thống kê)
2.1.2 Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu
Nhìn chung, ngành điều đã rất nỗ lực trong việc đa dạng hóa cơ cấu sản
phẩm điều cho xuất khẩu và đã chú ý nhiều đến việc nâng cao tỷ trọng các
mặt hàng điều chất lượng cao. Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, không phải
cứ có lợi thế sản xuất loại nào thì xuất khẩu loại ấy, mà ở mỗi thị trường khác
nhau, nhu cầu tiêu dùng cũng khác nhau. Do đó, cần phải căn cứ và xem xét
nhu cầu thị trường để đưa ra và điều chỉnh cơ cấu sản phẩm cho phù hợp.
Trong cơ cấu sản phẩm hạt điều xuất khẩu của Việt Nam, nhân điều
chiếm một tỷ trọng lớn, trung bình hơn 85%. Điều này cho thấy hạt điều nhân
là mặt hàng chủ lực của ngành điều Việt Nam. Lượng xuất khẩu điều nhân
của Việt Nam là rất lớn, đứng thứ nhất trên thế giới, chủ yếu là do nhu cầu

tiêu thụ trên thế giới liên tục tăng. Theo số liệu thống kê của Hiệp hội điều
Việt Nam, trong 3 năm từ 2006 đến 2008, toàn ngành điều cả nước đã nhập
khẩu hơn 1,5 triệu tấn điều thô, trong đó hơn 500 nghìn tấn được nhập khẩu
từ các nước châu Phi như: Bờ Biển Ngà (trên 50%), Guinea Bissau,
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 14 KTNTBK10
Mozambique và một số nước châu Á như Indonesia, Campuchia với trị giá
bình quân trên dưới 100 triệu USD mỗi năm. Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp
và phát triển nông thôn) cho biết, diện tích canh tác điều cả nước hiện nay
khoảng 400 nghìn ha, trong đó chỉ có khoảng 300 nghìn ha có thu hoạch,
giảm khoảng 30 nghìn ha so với các niên vụ trước.
Chuyển từ xuất khẩu điều thô sang xuất khẩu điều nhân đã tạo ra bước
phát triển nhanh cả về số lượng và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài
ra, hàng năm, nước ta còn nhập một số lượng lớn điều thô (năm 2007
nhập150 ngàn tấn) từ các nước Tây phi và Cam–pu-chia để chế biến và tái
xuất, góp phần nâng cao giá trị và vị thế của ngành điều Viêt Nam. Từ năm
2003 đến nay, Việt Nam là nước đứng thứ 2 trên thế giới (sau Ấn Độ) về xuất
khẩu điều nhân. Sản phẩm điều Việt Nam đã xuất khẩu sang 52 nước trên thế
giới, chiếm khoảng 20% thị phần xuất khẩu điều thế giới và được thế giới
đánh giá có chất lượng tốt.
Bên cạnh sản phẩm nhân điều, dầu vỏ hạt điều cũng được xuất khẩu với
khối lượng ngày càng tăng song hiện nay việc tìm thị trường cho sản phẩm
này rất khó bởi ta phải cạnh tranh với sản phẩm của ấn Độ với trình độ công
nghệ và chất lượng cao hơn.
Các sản phẩm khác như mứt điều, nước giải khát điều tuy đã được
sản xuất nhưng dường như chưa tìm được chỗ đứng trên thị trường bởi chất
lượng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu chất lượng quốc tế.
Căn cứ nhu cầu thị trường, các nhà máy nên đầu tư phát triển chế biến
sâu, đa dạng hóa sản phẩm, tạo nên sự phát triển bền vững.
2.1.3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu điều của Việt Nam

Có thể nói rằng công tác thị trường của sản phẩm hạt điều xuất khẩu đã
đạt được những tiến bộ lớn. Hiện nay sản phẩm điều của Việt Nam đã có mặt
ở hơn 60 nước và vùng lãnh thổ, một số sản phẩm bắt đầu chiếm lĩnh được thị
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 15 KTNTBK10
trường. Các thị trường chủ yếu của Việt Nam trong những năm qua là Trung
Quốc, Mỹ, Anh, Trung Quốc Điều nhân là một sản phẩm có giá trị dinh
dưỡng cao, được xếp vị trí thứ hai trong số các hạt có dầu chỉ sau hạnh nhân
về mức độ ngon và bổ dưỡng. Vì quan tâm đến vấn đề bổ dưỡng như vậy, nên
hạt điều nhân được đánh giá khá cao ở Mỹ. Trung Quốc là thị trường quan
trọng thứ hai của Việt Nam về xuất khẩu hạt điều. Đây cũng là một thị trường
hết sức rộng lớn với hơn 1 tỷ dân. Tuy nhiên, ở Trung Quốc hạt điều nhân
cũng chỉ được tiêu thụ phần lớn ở các thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng
Hải, Thâm Quyến.Tổng lượng hạt điều xuất sang thị trường Trung Quốc trong
7 tháng đầu năm 2009 đạt 19.141 tấn với kim ngạch 80,83 triệu USD đứng
thứ 2 sau Hoa Kỳ, giảm nhẹ 0,71% về kim ngạch nhưng lại tăng 25,29% về
lượng so với 7 tháng năm 2008.
Tiếp đến là thị trường Hà Lan thì tăng cả lượng và kim ngạch lần lượt
là: 5,86% và 7,6% với lượng xuất khẩu đạt được trong tháng là 2.690 tấn với
kim ngạch 13,51 triệu USD, tuy nhiên tổng lượng hạt điều xuất khẩu trong 7
tháng năm 2009 thì chỉ đạt 13.320 tấn với kim ngạch 67,31 triệu USD, giảm
10,5% về lượng và 17,33% về kim ngạch so với 7 tháng đầu năma 2008.
Một số thị trường xuất khẩu khác của hạt điều nước ta có sự tăng
trưởng cả về lượng và kim ngạch so với tháng trước như: Australia (tăng
53,5% về lượng và 61,86% về trị giá), Canada (tăng 107,05% về lượng và
131,43% về trị giá), Nga (38,7% về lượng và 36,97% về trị giá)…
Tóm lại, về các thị trường xuất khẩu điều của Việt Nam, mỗi thị trường
có một đặc điểm riêng. Do đó các doanh nghiệp xuất khẩu cần tìm hiểu kỹ các
thị trường này để có thể đáp ứng một cách tốt nhất.
Bảng 2.4: tham khảo thị trường xuất khẩu hạt điều trong tháng 9 và 9

tháng đầu năm 2009 (lượng: tấn, trị giá: 1000 USD)
Nước T9/09
So với T8/09 So với T9/08
9T/09
So với 9T/08
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 16 KTNTBK10
(%) (%) (%)
Lượng Trị giá Lượng Trị giá Lượng Trị giá Lượng Trị giá Lượng Trị giá
Mỹ 4.265 21.293 -29,25 -28,55 -5,77 -18,47 40.553 188.374 9,97 -8,96
Trung Quốc 3.225 15.718 -22,48 -18,74 12,60 -4,98 26.526 115.891 29,27 3,71
Hà Lan 2.348 11.341 -6,04 -8,77 -5,59 -16,10 18.167 91.080 -8,83 -17,26
Ôxtrâylia 1.250 6.612 -1,57 2,35 -7,48 -23,65 8.431 40.685 -4,23 -21,76
Anh 696 3.523 -23,01 -23,79 37,01 7,64 5.704 27.753 -20,02 -33,49
Canađa 347 1.720 -71,20 -62,75 -32,75 -47,08 3.635 17.746 -19,70 -34,95
Nga 426 2.034 -25,39 -25,93 -51,76 -62,88 3.031 14.210 -50,16 -56,88
Đức 240 1.123 37,14 31,19 67,83 22,07 1.969 9.449 33,22 3,85
Thái Lan 125 681 81,16 -7,09 -22,36 -35,69 1.440 6.877 25,00 -3,79
Italia 95 418 37,68 92,63 -32,14 -8,53 1.377 4.449 85,33 62,14
UAE 44 142 0,00 -22,40 -48,24 -69,00 1.159 4.519 29,50 -1,85
Đài Loan 107 594 12,63 1,54 37,18 8,99 823 4.466 58,88 30,51
Tây Ban Nha 70 410 -26,32 -25,45 -26,32 -34,71 791 4.175 -40,79 -51,50
Philippine 95 434 86,27 108,65 86,27 84,68 770 2.935 140,63 101,44
Nhật Bản 63 320 1,61 -16,01 -1,56 -19,80 622 2.728 -38,17 -51,15
Hồng Kông 75 470 -31,82 -29,22 63,04 89,52 600 3.432 53,85 30,20
Singapore 78 391 -26,42 1,82 3.800 3.810 586 2.517 34,40 -3,64
Na Uy 66 348 40,43 43,21 -58,49 -63,33 559 2.939 -25,37 -34,67
Pakixtan 69 402 -52,08 -48,13 * * 491 2.583 * *
Malaixia 16 95 -83,84 -78,26 -33,33 -40,63 428 1.846 165,84 77,84
Hy Lạp 15 99 -68,09 -61,78 -68,09 -69,63 380 2.108 -14,41 -25,75

Ucraina 60 292 160,87 630,00 -58,33 -52,05 366 1.470 -41,06 -52,67
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 17 KTNTBK10
Bỉ 16 106 6,67 12,77 -87,40 -83,74 287 1.642 -59,17 -54,19
Ba Lan 0 0 * * -100,00 -100,00 222 1.261 41,40 15,27
Thuỵ Sĩ 0 0 * * * * 48 218 -85,23 -88,13
Ixraen 0 0 * * * * 31 171 * *
(Nguồn: Tổng cục hải quan)
2.2 Một vài đánh giá về hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam trong
thời gian qua
2.2.1. Những thành công trong hoạt động xuất khẩu điều của nước ta
Tuy mới có gần 20 năm hình thành và phát triển, ngành chế biến – xuất
khẩu điều Việt Nam đã có những bước phát triển ngoạn mục để trở thành
quốc gia chế biến – xuất khẩu điều hàng đầu thế giới hiện nay.
Thực hiện đề án phát triển điều đến năm 2005 và 2010, các tỉnh đã
hoàn thành tốt việc rà soát quy hoạch phát triển điều, dành ngân sách hỗ trợ
đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ, hỗ trợ đưa giống mới vào sản xuất và
hỗ trợ mở rộng diện tích điều cao sản. Các doanh nghiệp đã đầu tư hàng tỷ
đồng cho phát triển vùng nguyên liệu, hỗ trợ giống cho nông dân. Nhờ đó,
đến nay trong số hơn 400 nghìn ha điều cho thu hoạch, có khoảng 130 nghìn
ha điều cao sản, năng suất đạt 2-2,5 tấn, cá biệt có vùng đạt gần ba tấn/ha,
tăng hơn năm lần so với giống điều cũ.
Trong hai năm 2005 và 2006 ngành điều Việt Nam gặp rất nhiều khó
khăn. Do những nguyên nhân khách quan và chủ quan ở đầu vào (thị trường
nguyên liệu trong nước) và đầu ra (thị trường xuất khẩu nhân điều) nên riêng
trong năm 2005, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu điều đã lỗ 1.000 tỉ
đồng. Trong hoàn cảnh đầy khó khăn ấy, Hiệp hội cây điều Việt Nam đã phát
huy vai trò của mình trong việc phối hợp hỗ trợ và khuyến cáo các hội viên tổ
chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo Quyết định 80 của Thủ tướng Chính
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam

Nguyễn Thị Thanh Loan 18 KTNTBK10
phủ, bảo đảm lợi ích cho nông dân trồng nguyên liệu, doanh nghiệp chế biến
và xuất khẩu.
Về phát triển nguồn nguyên liệu, cây điều có lợi thế rõ rệt nhất là trồng
được trên đất bạc mầu, đất trống đồi trọc, điều vừa là cây nông nghiệp vừa là
cây lâm nghiệp, mức đầu tư thấp nên rất phù hợp với vùng nông dân nghèo
với năng suất điều thô cao và tỷ lệ lãi tốt. Ở Việt Nam có hàng triệu hecta đất
trống, đồi núi trọc lại nằm ở khu vực có điều kiện môi trường sinh thái phù
hợp cho cây điều phát triển.
Công nghệ chế biến điều của VN cũng không ngừng được các nhà
nghiên cứu hoàn thiện và hiện trở nên tài sản vô giá, là bí quyết đặc thù thúc
đẩy ngành điều VN đạt được những thành công, mà ngay cả những quốc gia
vốn có truyền thống sản xuất điều gần 100 năm như Ấn Độ, Brazil cũng
phải ngạc nhiên.
2.2.2. Những tồn tại của hoạt động xuất khẩu điều ở nước ta
Cùng với những thành tựu đạt được, ngành sản xuất và xuất khẩu điều
trong thời gian vừa qua cũng bộc lộ nhiều tồn tại.
Mặc dù vụ điều năm 2008 là lần thứ ba liên tiếp, VN dẫn đầu các nước
xuất khẩu nhân điều lớn nhất thế giới; song, nhìn lại sự phát triển ngành chế
biến – xuất khẩu hạt điều Việt Nam, nhiều người vẫn không khỏi e ngại, bởi
còn quá nhiều thách thức khiến cho sức cạnh tranh của ngành điều không cao,
phát triển thiếu bền vững, khối lượng xuất khẩu mạnh, nhưng sản xuất phập
phù.
Theo thống kê của Cục Trồng trọt, năm 2008 là năm thứ ba liên tiếp,
Việt Nam dẫn đầu thế giới trong xuất khẩu nhân điều, với giá trị kim ngạch
xuất khẩu 920 triệu USD - tăng 41,3% so với năm 2007. Song, bên cạnh
thành quả rực rỡ ấy, năm 2008, diện tích trồng điều tại các địa phương cũng
bị thu hẹp. Theo báo cáo của sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn các địa
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 19 KTNTBK10

phương, diện tích trồng điều niên vụ 2007-2008 là 421.498 ha; trong đó, diện
tích thu hoạch khoảng 320.000 ha. So với niên vụ 2006-2007, diện tích cây
điều đã giảm 15.502ha. Tiến sĩ Hoàng Quốc Tuấn - Trưởng phòng quy hoạch
- Phân viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp - cho rằng: Năm 2007 và
2008, diện tích trồng điều giảm 17.046ha, nhưng điều tra thực tế, diện tích
điều giảm ít nhất phải gấp hơn 2 lần so với số thống kê. Giảm nhiều nhất là ở
các tỉnh: Khánh Hoà (4.100ha), Bình Định (3.000ha), Đắc Lắc (2.900ha)
Sản lượng thu hoạch qua các năm cũng không bền vững, mà lúc giảm,
khi tăng. Thí dụ: Năm 2006, sản lượng 340.000 tấn, năm 2007 là 400.000 tấn,
nhưng năm 2008 giảm còn 350.000 tấn.
Năng suất điều lại tăng rất chậm và không ổn định, do nông dân trồng
điều ít đầu tư thâm canh đúng kỹ thuật. Năng suất năm 2005 đạt 1,06 tấn/ha,
năm 2006 giảm còn 0,9 tấn/ha, năm 2007: 1,03 tấn/ha và năm 2008 là 1,10
tấn/ha. Tại Braxin, sản lượng điều xuất khẩu thấp hơn nước ta, nhưng năng
suất bình quân là 2 tấn/ha. Trong khi đó, Bình Phước là thủ phủ của cây điều
cũng mới chỉ đạt bình quân trên 1,3 tấn/ha.
Về chế biến, một số đơn vị, cá nhân mới chỉ quan tâm đến lợi ích trước
mắt mà chưa đầu tư nghiên cứu và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ
môi trường, nên hiệu quả đem lại không cao. Trình độ công nghệ chế biến hạn
chế, tỷ lệ lao động thủ công nhiều dẫn đến năng suất lao động thấp, giá thành
chế biến cao đã kéo theo nhiều hệ lụy khiến cho ngành điều trong tỉnh khó
đứng vững và phát triển mạnh trên thị trường quốc tế.
2.2.3. Nguyên nhân của những thành công và tồn tại trong hoạt động
xuất khẩu điều ở nước ta
Nguyên nhân của những thành công:
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 20 KTNTBK10
Sở dĩ ngành điều nước ta đạt được những thành công nói trên là do
nhiều yếu tố tác động, trong đó có thể kể đến một số yếu tố sau:

Thứ nhất là cầu thị trường điều trong những năm gần đây tăng mạnh,
trong khi lượng cung lại có hạn làm cho giá hạt điều tăng. Đó là cơ hội tốt cho
các nhà kinh doanh, sản xuất và chế biến điều xuất khẩu ở nước ta.
Thứ hai là điều kiện tự nhiên ở Việt Nam mà đặc biệt là ở các vùng từ
Quảng Nam trở vào rất thích hợp với cây điều. Trong thời gian qua, chúng ta
đã biết khai thác lợi thế này để kịp thời chớp lấy cơ hội tốt để phát triển sản
xuất - xuất khẩu điều.
Thứ ba là Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, biện pháp có tác
động khuyến khích phát triển, chế biến điều, trong đó đã đề ra phương hướng,
mục tiêu và đặc biệt là quy hoạch phát triển cây điều. Như vậy, có thể nói
rằng lợi thế lớn nhất của ngành sản xuất - chế biến - xuất khẩu hạt điều hiện
nay chính là việc cây điều đã được Chính phủ đưa vào quy hoạch trong chính
sách phân bổ diện tích đất nông nghiệp cho các địa phương và các vùng kinh
tế trọng điểm.
Thứ tư là ngành điều đã sớm tiếp thu có chọn lọc kỹ thuật và kinh
nghiệm các nước vào điều kiện thực tế nước ta để tổ chức sản xuất, chế biến
và xuất khẩu có hiệu quả.
Nguyên nhân của những tồn tại:
Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) cho biết
nguyên nhân sụt giảm diện tích là do giá vật tư nông nghiệp những năm gần
đây tăng cao trong khi giá mua hạt điều lại giảm xuống khá thấp làm cho
nhiều hộ trồng điều bị lỗ nặng. Theo tính toán của Hội Nông dân Bình Phước
(địa phương có đến 47% sản luợng điều cả nước) thì năng suất điều bình quân
hiện chỉ đạt khoảng 1 tấn/héc ta, giá bán điều thô tại vuờn của nông dân chỉ
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 21 KTNTBK10
vào khoảng 6.800-7.000 đồng/kg, chỉ bằng chi phí đầu tư nên người nông dân
hầu như không thu lợi được gì từ vuờn điều.
Xuất khẩu nhân điều tuy có tăng về số lượng và giá trị kim ngạch xuất
khẩu; nhưng trong 2 năm qua (2007 và 2008) đã để xảy ra khá nhiều tranh

chấp thương mại do phía doanh nghiệp Việt Nam không thực hiện đúng hợp
đồng giao hàng như: Giao hàng chậm, huỷ hợp đồng với nước ngoài do giá
nguyên liệu tăng, hay khi giá nhân điều xuất khẩu giảm, các doanh nghiệp
không giao hàng, vì sợ lỗ vốn.Tổ chức chế biến của ngành điều cũng hết sức
manh mún và tự phát, năng suất lao động còn thấp, sản phẩm không đa dạng
và ít sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao. Toàn quốc có 203 doanh
nghiệp tham gia xuất khẩu, nhưng hầu hết quy mô nhỏ, kim ngạch xuất khẩu
từ 5 triệu USD trở lên chỉ có 38 doanh nghiệp.
Hầu hết các doanh nghiệp ngành điều còn non yếu về trình độ sản xuất,
quản lý và khả năng cạnh tranh. Các doanh nghiệp này quy mô còn nhỏ, yếu
kém cả về quản lý và công nghệ, chúng ta vẫn chưa tạo đủ cơ chế, biện pháp
cần thiết để kích thích các doanh nghiệp gắn sự tồn tại của mình với việc sản
xuất, kinh doanh, với khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Song có lẽ
nhược điểm lớn nhất vẫn là trình độ non yếu của đội ngũ cán bộ sản xuất cũng
như xuất nhập khẩu.
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 22 KTNTBK10
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIÁI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU ĐIỀU CỦA NƯỚC TA
3.1 Định hướng cho hoạt động xuất khẩu điều ở Việt Nam
3.1.1 Quan điểm phát triển
Phát triển sản xuất, chế biến điều trong thời gian tới phải đảm bảo khai
thác tốt nhất cả 3 lợi ích: kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường, phù hợp với
quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp của cả nước.
Áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ, nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả, hình thành các vùng trồng điều tập trung gắn với công
nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ.
Phát triển công nghiệp chế biến theo hướng công nghệ hiện đại, thiết
bị tiên tiến với bước đi phù hợp, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản
phẩm, đảm bảo năng lực cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế.

Huy động nguồn lực của nhiều thành phần kinh tế, trong đó Nhà nước
hỗ trợ một phần đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ lợi đối với
vùng trồng Điều tập trung, nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ khoa học, công
nghệ, giống và quy trình canh tác.
Trong thời gian tới, cây điều sẽ được phát triển trên những địa bàn có
điều kiện, nhất là những vùng đất xám ở Tây nguyên, Đông Nam bộ, Duyên
hải Nam Trung bộ. Các địa phương trồng điều rà soát quy hoạch, bảo đảm đất
trồng điều phải phù hợp và có khả năng thâm canh cho năng suất cao, theo
hướng hình thành những vùng nguyên liệu tập trung; đồng thời chuyển một số
diện tích điều không có khả năng thâm canh sang trồng cây khác để nâng cao
hiệu quả sử dụng đất. Thay thế dần giống điều cũ bằng giống mới có năng
suất, chất lượng cao; đổi mới thiết bị và công nghệ chế biến theo hướng hiện
đại hóa, chế biến sâu. Phát triển ngành điều gắn kết chặt chẽ, đồng bộ từ khâu
sản xuất- thu mua- chế biến- bảo quản- tiêu thụ, đồng thời ứng dụng nhanh
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 23 KTNTBK10
các tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống, kỹ thuật canh tác, quy trình công nghệ
để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
3.1.2. Định hướng phát triển
Về nơi trồng điều, do điều là loại cây dễ trồng, không có đòi hỏi cao về
điều kiện dinh dưỡng, đất đai như các loại cây khác, nên khuyến khích trồng
ở những vùng đất xấu, nơi những loại cây khác không thể phát triển nhưng lại
phù hợp với cây điều. Chi phí trồng điều thấp nên đề án cũng khuyến khích
những người nông dân nghèo trồng điều để cải thiện đời sống đồng thời giúp
phát triển ngành điều, tạo nguồn nguyên liệu cho chế biến, xuất khẩu. Phát
triển diện tích điều trên những địa bàn có điều kiện, nhất là các vùng đất xám
ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Duyên hải nam Trung Bộ; tập trung thâm canh
và thay thế giống điều cũ bằng giống mới có năng suất, chất lượng cao; đổi
mới thiết bị và công nghệ chế biến theo hướng hiện đại hoá, chế biến sâu để
nâng cao giá trị và hiệu quả sản xuất.

Về các cơ sở chế biến, cần xây dựng các cơ sở chế biến đủ năng suất
chế biến toàn bộ hạt điều thô thành nhân điều, tiến tới đa dạng hoá sản phẩm
và tổng hợp lợi dụng các sản phẩm phụ của điều.
Về sản phẩm điều dành cho xuất khẩu, chúng ta cần tiến tới đa dạng
hoá sản phẩm. Ngoài sản phẩm là nhân điều xuất khẩu còn xuất khẩu thêm
dầu vỏ hạt điều và nước quả ép từ quả điều.
Mục tiêu đến năm 2020, tổng diện tích điều thu hoạch phải đạt 333.000
ha, năng suất bình quân đạt 2 tấn/ha, tổng sản lượng hạt điều đạt 666.000 tấn
(tăng 166.000 tấn so với năm 2010), tổng sản lượng nhân hạt điều đã qua chế
biến là 195.000 tấn (trong đó xuất khẩu đạt 175.000 tấn)… Từ đó, nâng tổng
kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm chế biến từ điều đến năm 2020 lên 820 -
850 triệu USD/năm.
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 24 KTNTBK10
Ngày 24/08/2007, Bộ NN và PT Nông thôn, thừa uỷ quyền của Thủ
tướng Chính phủ đã ra Quyết định 39 /2007/QĐ-BNN về Quy hoạch phát
triển ngành điều đến năm 2020; theo đó Bộ đặt ra các mục tiêu chủ yếu sau:
Định hướng đến năm 2020:
+ Diện tích trồng điều ổn định khoảng 400.000 ha
+ Kim ngạch xuầt khẩu: 820 triệu USD
Năm 2005, nhiều chỉ tiêu của ngành điều đạt kết quả gần với kế hoạch
năm 2010 như: sản lượng điều thô 370.000 tấn, vượt kế hoạch năm 2005 là
160,9% và đạt 74% kế hoạch năm 2010, điều nhân đạt 95.000 tấn (vượt 211%
kế hoạch năm 2005 và 95% kế hoạch năm 2010. Riêng kim ngạch xuất khẩu
450 triệu USD (kế hoạch năm 2010) đã đạt từ năm 2004.
Do đó các chỉ tiêu chủ yếu đều được điều chỉnh tăng lên, năng suất 1,5
đến 2 tấn/ha, sản lượng điều thô trên 700.000 tấn, điều nhân chế biến 170.000
tấn, kim ngạch xuất khẩu 700.000 triệu USD.
Tuy nhiên từ bài học cây cà phê phát triển tràn lan, nên dù thị trường
còn lớn, hàng năm phải nhập khẩu thêm vài chục ngàn tấn điều thô, nhưng

nước ta không điều chỉnh tăng diện tích cây điều, chỉ ở mức 450.000 đến
500.000 ha vào năm 2010 như kế hoạch.
Ngoài ra ngành điều cần đầu tư, kể cả nhập thiết bị chế biến sản phẩm
sau dầu điều như: bột ma sát, sơn vecni cao cấp cho cách điện, cách nhiệt…
phục vụ công nghiệp điện, ôtô, dầu khí, đóng tàu, đa dạng hóa sản phẩm hạt
điều, nâng cao giá trị sử dụng gỗ, trái điều.
Hiện 95% sản lượng điều dành cho xuất khẩu vì vậy đảm bảo ít nhất
5% thị phần vào năm 2010, 10% thị phần năm 2015 và 20% thị phần năm
2020. Mục tiêu đến năm 2015, mức tiêu thụ thị trường nội địa phải chiếm 10-
20%. Nếu các doanh nghiệp chỉ vì cái lợi trước mắt mà nhập khẩu điều thô,
không đầu tư vào vùng nguyên liệu thì về lâu dài việc phụ thuộc hoàn toàn
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam
Nguyễn Thị Thanh Loan 25 KTNTBK10
vào nguồn nguyên liệu nước ngoài sẽ xảy ra. Và nếu nghịch lý này diễn ra thì
vị thế nước xuất khẩu điều số 1 thế giới của Việt Nam sẽ bị lung lay mà tiềm
năng và lợi thế phát triển vùng chuyên canh điều vẫn bị bỏ ngỏ, người nông
dân không thể thoát nghèo. Vì vậy, để cứu vãn ngành điều, sự thay đổi trong
suy nghĩ và cách thức làm ăn của doanh nghiệp là rất cần thiết.
Nhiều doanh nghiệp chế biến – xuất khẩu điều Việt Nam đã kiến nghị:
Cần phải tăng cường hơn nữa việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm trong
chế biến – xuất khẩu điều. Nỗ lực đến năm 2015, phải có 20% số nhà máy và
năm 2020, có 50% số nhà máy chế biến – xuất khẩu điều đạt các tiêu chuẩn
ISO, HACCP và RFC; đồng thời, cởi bỏ thuế nhập khẩu điều thô. Đây là
những chuẩn mực và điều kiện để hạt điều VN đủ sức cạnh tranh trên thị
trường quốc tế.
3.2 giải pháp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu điều ở nước ta
3.2.1 Nhóm giải pháp tầm vi mô
Về công tác kế hoạch và hoạch định chiến lược kinh doanh:
Để có thể tăng cường xuất khẩu, mỗi một doanh nghiệp ngành điều cần
có một chiến lược xuất khẩu của riêng mình và căn cứ vào từng thời kỳ và đặc

điểm của từng doanh nghiệp mà có kế hoạch cụ thể triển khai chiến lược đó.
Để có thể xây dựng kế hoạch kinh doanh cho mặt hàng hạt điều xuất khẩu,
các doanh nghiệp cần phải dựa trên các căn cứ sau:
- Căn cứ vào nhu cầu hạt điều trên thị trường thế giới thông qua đánh
giá của các chuyên gia ngành điều và Hiệp hội điều Việt Nam và nhu cầu của
các thị trường của chính doanh nghiệp.
- Căn cứ vào năng lực sản xuất kinh doanh của bản thân doanh nghiệp
bao gồm công suất chế biến, năng lực tài chính, nguồn nhân lực, hệ thống tổ
chức sản xuất kinh doanh.
Hoạt động xuất khẩu điều của Việt Nam

×