Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

rủi ro và hạn chế rủi ro trong đầu tư cổ phiếu tại thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.62 KB, 82 trang )

MỤC LỤC
1.1.Đầu tư cổ phiếu 3
2.1. Hoạt động của thị trường chứng khoán từ năm 2007 đến 2011 22
2.2.3. Thực trạng về hạn chế rủi ro 42
Hầu hết các nhà đầu tư đều rất quan tâm đến rủi ro trong đầu tư cổ phiếu và
sử dụng ít nhất một giải pháp hạn chế rủi ro cho khoản đầu tư của mình. Tuy
nhiên việc sử dụng giải pháp chỉ mang tính cảm tính nhất thời, chưa có chiến
lược hạn chế cụ thể cho nên việc hạn chế rủi ro chưa thực sự hiệu quả 49
3.1. Những định hướng và mục tiêu cơ bản phát triển TTCK đến năm 2020.50
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TTCK:
CTCK:
Thị trường chứng khoán
Công ty chứng khoán
SGDCK: Sở giao dịch chứng khoán
NHNN: Ngân hàng nhà nước
NHTƯ: Ngân hàng trung ương
UBCKNN: Ủy ban chứng khoán nhà nước
CPI: Chỉ số giá tiêu dùng
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
CP Cổ phiếu
TTLKCK Trung tâm lưu ký chứng khoán
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
1.1.Đầu tư cổ phiếu 3
2.1. Hoạt động của thị trường chứng khoán từ năm 2007 đến 2011 22
2.2.3. Thực trạng về hạn chế rủi ro 42
Hầu hết các nhà đầu tư đều rất quan tâm đến rủi ro trong đầu tư cổ phiếu và
sử dụng ít nhất một giải pháp hạn chế rủi ro cho khoản đầu tư của mình. Tuy
nhiên việc sử dụng giải pháp chỉ mang tính cảm tính nhất thời, chưa có chiến
lược hạn chế cụ thể cho nên việc hạn chế rủi ro chưa thực sự hiệu quả 49


3.1. Những định hướng và mục tiêu cơ bản phát triển TTCK đến năm 2020.50
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tháng 7 năm 2000, TTCK Việt Nam ra đời, là sự kiện quan trọng, đánh
dấu một bước tiến mới của nền kinh tế đất nước. Sau gần 11 năm đi vào hoạt
động, TTCK Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, được đánh giá là một trong
những thị trường phát triển nhanh nhất thế giới. Tới nay, TTCK đã là điểm
đến quen thuộc của giới đầu tư. Tuy có những bước trưởng thành nhất định
nhưng một thực trạng đáng chú ý là chứng khoán vẫn là lĩnh vực mới mẻ và
chứa đựng nhiều rủi ro. Một số nhà đầu tư bắt đầu trang bị cho mình kiến
thức chứng khoán nhưng không ít người đổ xô vào chứng khoán với tâm lý
“chơi là được” mà không lường hết những rủi ro có thể gặp phải. Trước tình
hình ấy, chúng ta cần nghiên cứu về rủi ro trong đầu tư cổ phiếu một cách có
hệ thống, để các nhà đầu tư có những quyết định đầu tư đúng đắn hiệu quả mà
vẫn giảm thiểu được rủi ro.
2. Mục đích của đề tài
- Hệ thống hóa lý thuyết về đầu tư cổ phiếu và hạn chế rủi ro trong đầu
tư cổ phiếu tại Việt Nam.
- Thực trạng hạn chế rủi ro của các nhà đầu tư trên thị trường cổ phiếu
hiện nay.
- Đề xuất một số kiến nghị để phòng ngừa và hạn chế rủi ro.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Rủi ro và các giải pháp hạn chế rủi ro trong đầu
tư cổ phiếu.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu đối với
các nhà đầu tư cá nhân
4. Phương pháp nghiên cứu
1
Việc nghiên cứu được tiến hành bằng cách:
- Theo dõi và thu thập thông tin về thực trạng hoạt động của TTCK Việt

Nam, trong đó tập trung vào cổ phiếu
- Lập bảng hỏi và tiến hành khảo sát với 178 nhà đầu tư thường xuyên
giao dịch cổ phiếu, tham gia đầu tư cổ phiếu trong vòng từ 3 năm đến thời
điểm khảo sát để tìm hiểu thực trạng hạn chế rủi ro cổ phiếu tại Việt Nam
hiện nay.
- Dựa trên thực trạng hạn chế rủi ro của các nhà đầu tư cá nhân hiện nay
để đề xuất một số biện pháp phòng chống, hạn chế rủi ro trong đầu tư cổ
phiếu tại Việt Nam.
5. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hạn chế rủi ro trong đầu
tư cổ phiếu.
- Phân tích thực trạng rủi ro trong đầu tư cổ phiếu tại TTCK bằng việc
phân tích các nguyên nhân gây ra rủi ro.
- Đánh giá thực trạng hạn chế rủi ro của các nhà đầu tư cá nhân.
- Đề xuất một số giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong đầu tư cổ phiếu.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về rủi ro và hạn chế rủi ro trong đầu tư
cổ phiếu
Chương 2: Thực trạng hạn chế rủi ro trong đầu tư cổ phiếu tại thị trường
chứng khoán Việt Nam
Chương 3: Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong đầu tư cổ phiếu
2
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
RỦI RO VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TRONG ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU
1.1. Đầu tư cổ phiếu
1.1.1. Khái niệm đầu tư cổ phiếu
Đầu tư là một quá trình làm cho nguồn tài chính hiện tại vận động
nhằm thu lợi nhuận trong tương lai. Nhà đầu tư mong muốn được bồi hoàn
do sự chậm chễ trong tiêu dùng, do sự ảnh hưởng của lạm phát và có thể xảy

ra rủi ro.
Đầu tư cổ phiếu là hoạt động bỏ vốn (tiền và các nguồn lực khác) ở hiện
tại để tiến hành mua các loại cổ phiếu nhằm đạt được những mục tiêu nhất
định trong tương lai.
Vốn đầu tư trên thị trường cổ phiếu, hiểu theo nghĩa hẹp là tiềm lực tài
chính của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, vốn đầu tư
trên thị trường cổ phiếu bao gồm nguồn nhân lực, nguồn tài lực, đã tích lũy
của chính mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp, quỹ đầu tư
Hoạt động đầu tư cổ phiếu đòi hỏi người tham gia đầu tư về cổ phiếu,
sẵn sàng bỏ thời gian ra thu nhập thông tin. Đồng thời các nhà đầu tư khi đầu
tư vào cổ phiếu một công ty có thể tham gia đại hội cổ đông, ứng cử vào hội
đồng quản trị, vì vậy họ có thể đóng góp ý kiến, đề xuất, để doanh nghiệp
hoạt động tốt, góp phần làm gia tăng giá trị doanh nghiệp đồng thời cũng làm
gia tăng giá trị của khoản đầu tư.
Các mục tiêu của hoạt động đầu tư cổ phiếu bao gồm các loại mục tiêu
như n quản lý an toàn về vốn, gia tăng về vốn, và gia tăng về thu nhập.
Thông thường hiện nay các công ty cổ phần thường phát hành 2 dạng cổ
phiếu: Cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. Sự khác biệt của 2 loại cổ phiếu
cơ bản này như sau:
3
- Các cổ đông sở hữu cổ phiếu thông thường có quyền hạn và trách
nhiệm đối với công ty như: Được chia cổ tức theo kết quả kinh doanh; Được
quyền bầu cử, ứng cử vào bộ máy quản trị và kiểm soát công ty; Chịu trách
nhiệm về sự thua lỗ hoặc phá sản tương ứng với phần vốn góp của mình.
- Các cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi cũng là hình thức đầu tư vốn cổ
phần như cổ phiếu thông thường nhưng quyền hạn và trách nhiệm hạn chế
như: lợi tức cố định; không có quyền bầu cử, ứng cử
1.1.2. Phân loại các nhà đầu tư
Các cá nhân hay tổ chức sử dụng tiền để mua các loại cổ phiếu trên
TTCK được gọi là các nhà đầu tư cổ phiếu.

Các nhà đầu tư khác nhau ở sự lựa chọn đầu tư của họ, bởi vì họ khác nhau
về tính sẵn sàng đánh đổi lợi suất dự tính và rủi ro. Sự đánh đổi giữa rủi ro – lợi
nhuận được hiểu là khi những khoản đầu tư chào các mức lợi suất dự tính cao
hơn thì cũng áp đặt rủi ro lớn hơn. Tính sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao hơn để đạt
mức lợi suất dự tính cao hơn gọi là sự chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư.
Xét về thành phần tham gia đầu tư, các nhà đầu tư cổ phiếu trên TTCK
được chia thành nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư chuyên nghiệp (các định
chế đầu tư).
Các nhà đầu tư cá nhân:
Nhà đầu tư cá nhân là các nhà đầu tư mua và bán cổ phiếu cho chính
mình, chứ không phải cho một công ty hay một tổ chức nào khác.
Các nhà đầu tư cá nhân thường là các nhà đầu tư nhỏ, họ thường mua
một số lượng nhỏ cổ phiếu. Mặc dù có hàng triệu các nhà đầu tư cá nhân, tổng
tài sản của họ chỉ là rất nhỏ so với số cổ phiếu được sở hữu bởi các tổ chức
đầu tư lớn như Công ty chứng khoán, quỹ đầu tư, ngân hàng…
Các nhà đầu tư cá nhân đa số có nguồn vốn tự có rất hạn hẹp, phần lớn là
cầm cố tài sản, vay ngân hàng, thường là vay ngắn hạn (dưới 1 năm) khi ngân
4
hàng "khóa" khoản cầm cố thì tiềm lực vốn quá yếu kém của nhà đầu tư trong
nước bộc lộ ra. Tuy nhiên vẫn có những cá nhân có tiềm lực tài chính lớn
nhưng số lượng này không nhiều.
Có nhiều nhóm nhà đầu tư cá nhân khác nhau và họ có những trình độ,
kiến thức và kinh nghiệm khác nhau: từ những người có bằng cấp về chuyên
môn về kinh tế, chứng khoán đến những người hoạt động ở những ngành
nghề không liên quan đến chứng khoán, những tiểu thương buôn bán nhỏ….
Tuổi tác là yếu tố tác động đáng kể tới nhà đầu tư cá nhân. Ở tuổi thanh
niên và trung niên, các nhà đầu tư có mức độ sẵn sàng chấp nhận đáng kể rủi
ro để tăng được lợi suất dự tính. Ở tuổi này họ có thể phản ứng với sự thua lỗ
bằng cách làm việc tích cực hơn và tiết kiệm nhiều thu nhập hơn.
Tuy nhiên, khi đến tuổi nghỉ hưu, mức độ chấp nhận rủi ro sẽ giảm đi.

Khi tuổi già, người ta thường tích lũy tiền tiết kiệm để đảm bảo tiêu dùng lúc
về hưu, thành phần của của cải sẽ chuyển dịch từ vốn con người sang vốn tài
chính. Khi đó, những lựa chọn danh mục đầu tư ngày càng trở nên quan trọng
hơn. Ở tuổi này các nhà đầu tư nhận thấy họ sẽ ít thời gian hơn để làm lại từ
đầu, nên họ chuyển sang những tài sản an toàn.
Nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường cổ phiếu chủ yếu với mục đích
thu được lợi nhuận trên mức lợi nhuận có được từ việc gửi tiết kiệm. Mục
đích nắm quyết định quản lý là rất ít.
Nhà đầu tư chuyên nghiệp (các định chế đầu tư)
* Các trung gian tài chính
Các trung gian tài chính bao gồm các tổ chức bảo hiểm, ngân hàng và
các công ty tài chính. Các trung gian tài chính tham gia vào thị trường cổ
phiếu nhằm mục đích cung cấp các dịch vụ về đầu tư cổ phiếu như bảo lãnh,
cầm cố, mua bán kỳ hạn…, đồng thời cùng trực tiếp tham gia đầu tư cổ phiếu.
5
Với sự phát triển của TTCK, các trung gian tài chính ra đời ngày càng nhiều,
đầu tư vào thị trường cổ phiếu số lượng vốn lớn.
* Công ty chứng khoán – Hoạt động tự doanh
Hoạt động tự doanh là hoạt động của CTCK thực hiện việc mua và bán
chứng khoán bằng nguồn vốn của công ty. Đây là một hoạt động khó khăn và
phức tạp, hoạt động này có thể mang lại cho CTCK những khoản lợi nhuận
lớn nhưng cũng có thể gây ra những tổn thất không nhỏ. Để thực hiện nghiệp
vụ này thành công, ngoài đội ngũ nhân viên phân tích thị trường có nghiệp vụ
giỏi và nhanh nhậy với những biến động của thị trường, CTCK còn phải có
một chế độ phân cấp quản lý và đưa ra những quyết định đầu tư hợp lý, trong
đó việc xây dựng chế độ phân cấp quản lý và ra quyết định đầu tư là một
trong những vấn đề then chốt, quyết định sự sống còn của CTCK.
* Quỹ đầu tư
Các quỹ đầu tư cổ phiếu được quản lý bởi các công ty quản lý quỹ. Quỹ
đầu tư có thể là quỹ thành viên, hoặc công chứng, nhưng đều là một nơi góp

tiền để đầu tư vào chứng khoán. Lợi ích của người đầu tư khi tham gia góp
tiền quỹ, hoặc mua lại chứng chỉ quỹ trên thị trường:
+ Giảm rủi ro nhờ đa dạng hóa đầu tư
+ Mở rộng phạm vi đầu tư nhờ quy mô vốn lớn
+ Giảm chi phí nhờ quy mô vốn lớn
+ Được quản lý chuyên nghiệp bởi công ty quản lý quỹ
+ Tính thanh khoản của các chứng chỉ quỹ cao
+ Thuế suất ưu đãi;
Xét về mức độ chấp nhận rủi ro có các nhà đầu tư:
- Nhà đầu tư sợ rủi ro;
6
- Nhà đầu tư thích rủi ro;
- Nhà đầu tư bàng quan với rủi ro
Xét về chiến lược đầu tư, có thể phân nhóm các nhóm nhà đầu tư như sau:
- Nhóm nhà đầu tư phân tích rất kỹ mọi thông tin về công ty phát hành cổ
phiếu, về công nghệ, về thị trường đầu vào, đầu ra, về các đối thủ cạnh tranh.
Họ quyết định đầu tư trên tình hình thị trường thực tế và tiềm năng của công ty.
Đây là những nhà đầu tư khôn ngoan, họ chọn những công ty có triển vọng tốt
để đầu tư, vì vậy họ giúp cho nền kinh tế phát triển tốt hơn.
- Nhóm nhà đầu tư nghiên cứu rất kỹ thông tin về cổ phiếu để tìm ra giá
bình quân trong một thời gian dài. Khi giá tăng lên trên bình quân, họ tin giá
sẽ xuống nên họ bán ra, nhiều người cùng bán ra làm giá giảm xuống. Ngược
lại, khi giá xuống dưới mức bình quân, họ tin là giá sẽ lên, vậy là họ đi mua
vào, nhiều người cùng hành động như vậy đẩy giá lên. Nhóm nhà đầu tư này
góp phần làm ổn định thị trường.
- Nhóm nhà đầu tư thấy giá một cổ phiếu tăng, họ giả định là ngày mai giá
sẽ tăng hơn nữa, nên họ tranh nhau mua vì vậy giá càng tăng. Khi giá giảm, họ
lại giả định ngày mai giá càng giảm nên họ tranh nhau bán làm giá càng giảm.
Nhóm này khiến thị trường trở nên bất ổn.
- Nhóm nhà đầu tư theo bình quân thị trường. Họ mua một danh mục

nhiều loại cổ phiếu đa dạng để giảm thiểu rủi ro xảy ra. Lợi nhuận và rủi ro
của họ tùy thuộc vào biến động chung của thị trường mà ít phụ thuộc vào cổ
phiếu nào cụ thể.
Xét về mục đích đầu tư, có các nhà đầu tư:
- Nhà đầu tư mua cổ phiếu để hưởng chênh lệch giá và cổ tức.
- Nhà đầu tư tập trung vào cổ phiếu của một công ty nhằm mục tiêu nắm
quyền kiểm soát công ty. Họ gần như chỉ đầu tư một loai cổ phiếu này và ít
quan tâm đến biến động nhất thời theo tâm lý thị trường.
7
- Nhà đầu tư đầu tư cổ phiếu nhằm đầu cơ. Họ mua vào bán ra liên tục
hàng ngày theo tin đồn. Nhóm này khiến thị trường bị “gây nhiễu”.
Xét về tâm lý đầu tư, có các nhà đầu tư:
- Nhà đầu tư lý trí
- Nhà đầu tư theo tâm lý bầy đàn
Ngoài ra, có các nhà đầu tư theo quốc tịch, theo giới tính, theo độ
tuổi….
1.1.2. Vai trò của các nhà đầu tư trên thị trường cổ phiếu
Thị trường cổ phiếu cần nhà đầu tư giống như ca sỹ cần có khán giả vậy.
Hoạt động của thị trường cần phải có người tham gia và hưởng ứng, các nhà
đầu tư là chủ thể chính, là những người chi phối hoạt động của thị trường.
Giả sử không có nhà đầu tư thì ai sẽ là người cung ứng vốn cho nền kinh tế,
doanh nghiệp phát hành cổ phiếu sẽ không có người mua, mà thị trường mua
không có người mua thì không thể gọi là thị trường được.
Chính các nhà đầu tư là người thực hiện hoạt động giao dịch mua bán cổ
phiếu, cổ phiếu càng được giao dịch mua bán nhiều thì tính thanh khoản càng
cao, khả năng hoán tệ cao sẽ thu hút được vốn đầu tư, đây là mục tiêu chính
của thị trường cổ phiếu. Với chuỗi mắc xích như trên, nhà đầu tư là nhân tố
chính tạo nên tính thanh khoản cho thị trường và tính thanh khoản cao sẽ
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà đầu tư.
Nhà đầu tư còn là “camera” quan sát và ghi lại tất cả các hoạt động của

doanh nghiệp, vì vậy các doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu phải thường xuyên
cải tiến công nghệ để nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, hiện đại hoá tổ
chức quản lý nhằm thu lợi nhuận nhiều hơn. Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả
hơn sẽ tạo ra giá trị cao hơn cho chứng khoán, tăng thu nhập của nhà đầu tư.
Thông qua nhu cầu của mình nhà đầu tư giúp cho thị trường ngày càng
phát triển hơn, bởi đáp ứng các nhu cầu của nhà đầu tư chính là phương thức
8
để thị trường trường hoàn thiện mình. Với tầm quan trọng như vậy, nhà đầu
tư chính là tác nhân chính kích thích sự tăng trưởng của thị trường cổ phiếu.
1.2. Rủi ro trong đầu tư cổ phiếu
1.2.1. Khái niệm rủi ro cổ phiếu
Khái niệm rủi ro: Cho đến nay chưa có được định nghĩa thống nhất về
rủi ro. Những trường phái khác nhau, các tác giả khác nhau đưa ra những định
nghĩa rủi ro khác nhau. Những định nghĩa này rất phong phú và đa dạng,
nhưng tập trung lại có thể chia thành hai trường phái lớn:
Theo trường phái truyền thống, rủi ro được xem là sự không may mắn,
sự tổn thất mất mát, nguy hiểm. Nó được xem là điều không lành, điều không
tốt, bất ngờ xảy đến. Đó là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận
thực tế so với lợi nhuận dự kiến. Rủi ro còn được hiểu là những bất trắc ngoài
ý muốn xảy ra trong quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác
động xấu đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp.
Tóm lại, theo quan điểm này thì rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy
hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không
chắc chắn có thể xảy ra cho con người.
Theo trường phái hiện đại, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được,
vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang đến
những tổn thất mất mát cho con người nhưng cũng có thể mang lại những lợi
ích, những cơ hội. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, người ta có thể tìm ra
những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực, đón nhận những
cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho tương lai.

Bằng sự kết hợp giữa hai trường phái truyền thống và hiện đại, có thể
định nghĩa trong đầu tư cổ phiếu, rủi ro chính là sự thay đổi liên tục của giá
cổ phiếu. Nói cách khác khi đầu tư vào cổ phiếu, nhà đầu tư không thể chắc
chắn về lợi nhuận thu được.
9
Rủi ro xảy ra ngay cả khi con người ta không quyết định đầu tư mà
dùng số tiền mình có thể tiết kiệm. Ví dụ khi cất tiền trong nhà thì vẫn xảy ra
khả năng mất trắng do nhà bị cháy; hoặc khi gửi tiền vào ngân hàng thì người
gửi có thể đối đầu với khả năng sức mua của cộng đồng đô la bị giảm do ảnh
hưởng của lạm phát khiến giá trị thực tế của đồng đô la nhận được thấp hơn
khi gửi tiền. Khi đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu hoặc quỹ tương hỗ cũng có
những rủi ro ở nhiều mức độ khác nhau.
Đại đa số các nhà đầu tư đều mong muốn kiếm được càng nhiều tiền
càng tốt trên khoản đầu tư của họ. Tuy nhiên, hầu như tất cả các khoản đầu tư
đều mang theo một sự không chắc chắn. Một thực tế mà người đầu tư phải
chấp nhận khi đầu tư cổ phiếu, đó là sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận.
Không có gì ngạc nhiên khi những khoản đầu tư tiết kiệm ít rủi ro hơn những
ngược lịa tiền lãi nhận được không đáng kể.
Rủi ro trong đầu tư cổ phiếu là không thể tránh khỏi, nhưng vẫn có thể
kiểm soát nó. Kiểm soát rủi ro tức là việc có thể tăng lợi nhuận tối đa trong
khi vẫn giảm thiểu được rủi ro. Làm được như vậy nghĩa là người đầu tư đã
có một lợi nhuận hợp lý với mức rủi ro có thể chấp nhận được.
1.2.2. Các loại rủi ro nhà đầu tư có thể gặp phải
Rủi ro hệ thống
Rủi ro hệ thống là rủi ro tác động đến toàn bộ hoặc hầu hết các cổ phiếu.
Sự bấp bênh của môi trường kinh tế nói chung như sự sụt giảm GDP, biến
động lãi suất, tốc độ lạm phát thay đổi là những minh chứng cho rủi ro hệ
thống, những biến đổi này tác động đến sự dao động giá cả của các cổ phiếu
trên thị trường.
Rủi ro hệ thống bao gồm:

Rủi ro về lãi suất: Giá cả cổ phiếu vận động ngược chiều với lãi suất, khi
lãi suất tăng, chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp tăng, lợi nhuận của doanh
10
nghiệp giảm xuống, do đó giảm giá cổ phiếu. Ngược lại khi lãi suất giảm, chi
phí sử dụng vốn của doanh nghiệp giảm, do đó làm tăng giá cổ phiếu. Như vậy
lãi suất quan hệ tỷ lệ nghịch với giá cả chứng khoán và những loại cổ phiếu
càng nhạy cảm với lãi suất càng ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư.
Rủi ro về lạm phát: Lạm phát làm cho đồng tiền bị mất giá, như vậy cổ
tức thu được từ cổ phiếu bị giảm giá trị. So với trái phiếu, cổ tức thu được từ
cổ phiếu bị tác động bởi rủi ro lạm phát thấp hơn lợi tức thu được từ trái phiếu
vì cổ tức được chi trả hàng năm thay đổi phụ thuộc vào tình hình hoạt động và
chính sách của doanh nghiệp, hơn nữa phần vốn gốc cũng tăng theo giá trị của
doanh nghiệp. Trong khi đó, lợi tức của trái phiếu là cố định và nếu như tiền
gốc đến hạn hoàn trả vào thời điểm lạm phát cao thì sức mua của nó nhỏ hơn
nhiều so với vốn đầu tư ban đầu
Rủi ro thị trường: Rủi ro này thường xuất hiện ở những thị trường cổ
phiếu mới nổi như Việt Nam. Cung cầu thị trường biến động theo chiều
hướng bất lợi cho các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán làm
giá cổ phiếu sụt giảm. Loại rủi ro này ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Rủi ro về tỷ giá hối đoái: các nhà đầu tư đặc biệt là nhà đầu tư nước
ngoài rất quan tâm đến loại rủi ro này bởi nó liên quan mật thiết đến lợi nhuận
trong hoạt động đầu tư cổ phiếu của họ. Cụ thể là: khi tỷ giá tăng, đồng nội tệ
giảm giá và đồng ngoại tệ tăng giá, lợi nhuận mà nhà đầu tư nước ngoài
chuyển đổi thành đồng ngoại tệ để mang về nước sẽ ít hơn và ngược lại.
Rủi ro về pháp luật: trong bất kỳ lĩnh vực đầu tư nào, yếu tố luật pháp
luôn chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng. Nhà nước khuyến khích đầu tư
bằng luật pháp và hạn chế đầu tư cũng bằng luật pháp. Rủi ro về pháp luật là
khả năng các quy định luật pháp thay đổi theo chiều hướng bất lợi, gây nên
những tổn thất cho các nhà đầu tư.

11
Rủi ro do biến động của thị trường chứng khoán quốc tế: khi thị
trường chứng khoán trong nước kết nối với thị trường chứng khoán quốc tế
thì bất kỳ sự biến động nào từ thị trường chứng khoán quốc tế sẽ ảnh hưởng
đến thị trường chứng khoán trong nước. Rủi ro này mang tính chất ngoại vi
nên khó tránh khỏi một khi thị trường trong nước hội nhập với thị trường
chứng khoán quốc tế.
Rủi ro chính trị xã hội: là rủi ro do các chính sách về chính trị xã hội
hoặc do những trường hợp bất khả kháng như: chiến tranh, thiên tai, đảo
chính những rủi ro này làm cho sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng, làm cho
hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán bị ngưng trệ. Loại rủi ro này lúc
nào cũng tiềm ẩn trong mọi thị trường . Vì vậy cần hạn chế và kìm hãm chúng
để thị trường chứng khoán phát triển hiệu quả và ổn định.
R ủi

ro

phi

h ệ

thống
Rủi ro phi hệ thống là rủi ro chỉ tác động đến một loại tài sản hoặc một
nhóm tài sản, nghĩa là rủi ro này chỉ liên quan đến một loại chứng khoán cụ
thể nào đó.
Rủi ro phi hệ thống bao gồm:
Rủi ro kinh doanh: cổ phiếu của công ty mà nhà đầu tư đang nắm giữ
sẽ tụt mất giá trị nếu tình trạng và kết quả kinh doanh của công ty không
thuận lợi.
Rủi ro kinh doanh có thể phát sinh nội tại doanh nghiệp hoặc từ bên

ngoài:
- Rủi ro kinh doanh nội tại phát sinh trong quá trình vận hành hoạt động
kinh doanh của công ty. Mỗi công ty có một loại rủi ro nội tại riêng và mức
độ thành công của mỗi công ty thể hiện hiệu quả hoạt động.
- Công ty cũng chịu những rủi ro đến từ bên ngoài, phụ thuộc vào các
yếu tố môi trường kinh doanh cụ thể như lãi vay, sự cắt giảm ngân sách,
12
mức thuế nhập khẩu tăng, sự suy thoái của chu kỳ kinh doanh. Chính sách
Nhà nước cũng là một phần của rủi ro bên ngoài, các chính sách tiền tệ và
tài khóa có thể làm ảnh hưởng đến thu nhập thông qua tác động về chi phí
và nguồn vốn. Điều kiện tự nhiên không tốt cũng có thể ảnh hưởng đến sản
phẩm, máy móc thiết bị,… của công ty. Rủi ro bên ngoài là tất cả những
yếu tố tác động tiêu cực đến kết quả kinh doanh của công ty mà công ty
không kiểm soát được.
Rủi ro kinh doanh khiến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công
ty xấu đi lợi nhuận giảm dẫn đến cổ tức trả cho cổ đông giảm, giá cổ phiếu của
công ty giảm, điều này làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà đầu tư.
Rủi ro tài chính: liên quan đến những mất mát có thể xảy ra trên thị
trường tài chính. Những thay đổi trong các biến số tài chính như lãi suất, tỷ
giá hối đoái đều có thể tạo ra rủi ro cho các doanh nghiệp. Rủi ro tài chính
được phân thành rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro khả năng thanh toán,
rủi ro hoạt động, các loại rủi ro liên quan khác.
Rủi ro về vỡ nợ của nhà phát hành: là khả năng có thể người phát
hành cổ phiếu sẽ không thể thực hiện được việc thanh toán tiền lãi hoặc tiền
gốc khi
Rủi ro do thiếu thông tin hoặc thông tin không minh bạch: Công bố
thông tin công khai, đầy đủ và kịp thời là nguyên tắc cơ bản mà các công ty
niêm yết phải tuân thủ. Đây là điều hết sức cần thiết để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nhà đầu tư. Tuy nhiên, vì lý do trục lợi mà một số công ty
niêm yết không tuân theo nguyên tắc này, gây rủi ro lớn cho nhà đầu tư.

Rủi ro khả năng thanh khoản của cổ phiếu: Là rủi ro đối với khả năng
chuyển đổi cổ phiếu thành tiền. Cổ phiếu có khả năng thanh khoản càng cao
thì càng thu hút các nhà đầu tư. Tình thanh khoản của thị trường chứng khoán
đóng vai trò rất quan trọng đối với sự thành công hay thất bại của một thị
trường chứng khoán. Thị trường càng có tính thanh khoản càng tạo lực hút
13
với các nhà đầu tư. Khả năng thanh khoản của chứng khoán phụ thuộc vào
các yếu tố sau:
- Số người nắm giữ chứng khoán: loại cổ phiếu nào được phát hành
rộng rãi ra công chúng bao nhiêu thì việc mua bán chúng dễ dàng, phổ biến
bấy nhiêu.
- Chất lượng của cổ phiếu: được thể hiện chủ yếu ở khả năng sinh lợi của
cổ phiếu.
- Chi phí giao dịch: là chi phí liên quan đên việc thực hiện mua bán cổ
phiếu, chi phí này cao, thời gian bán chứng khoán càng kéo dài làm tính thanh
khoản của cổ phiếu giảm.
- Ngoại hối: nếu thủ tục chuyển đổi ngoại hối phức tạp, thời gian thanh
toán kéo dài sẽ làm giảm tính hoán tệ của cổ phiếu và do đó là yếu tố cản trở
đầu tư nước ngoài.
Khả năng thanh khoản cao sẽ thu hút sự chú ý và nguồn vốn của các nhà
đầu tư, hơn nữa, tính thanh khoản cao sẽ làm nguồn vốn trên thị trường luân
chuyển nhanh, vốn xoay nhanh hơn làm gia tăng giá trị lợi nhuận.
1.2.3. Đo lường rủi ro trong đầu tư cổ phiếu
Các nhà đầu tư khi đầu tư vào chứng khoán đều muốn đạt tới mức lợi
nhuận cao nhất với mức rủi ro thấp nhất. Muốn làm được điều này nhà đầu tư
cần phải nắm được một số hệ số thông dụng để đánh giá mức độ an toàn của
chứng khoán.
Đối với cổ phiếu, có rất nhiều chỉ số đánh giá mức độ rủi ro cũng như cơ
hội đầu tư cổ phiếu. Ở đây, chúng ta chỉ tập trung vào các phép đo lường rủi
ro cổ phiếu riêng lẻ, danh mục cổ phiếu và hệ số beta.

a. Rủi ro cổ phiếu riêng lẻ và danh mục cổ phiếu
Lợi nhuận kỳ vọng và độ lệch chuẩn
Đối với cổ phiếu riêng lẻ
Mức độ rủi ro sẽ được ước tính bằng việc xem xét các lĩnh vực ưu tiên
14
cần quan tâm bao gồm khi nào thị trường sẽ xảy ra rủi ro và chi phí là như thế
nào khi các rủi ro thực sự xảy ra. Các rủi ro ở mức ưu tiên thấp là những rủi
ro mà hiếm khi xảy ra và thường không gây chi phí nhiều khi xảy ra. Quy
trình ước tính rủi ro cho phép nhóm các rủi ro vào cùng loại và chỉ ra mối
quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các rủi ro.
Để đo lường rủi ro người ta dùng phân phối xác suất với hai tham số đo
lường phổ biến là kỳ vọng (Expectation) và độ lệch chuẩn (Standard
Deviation). Nếu quan sát chỉ tiêu lợi nhuận (Return) thì rủi ro là sự sai biệt
của lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng, theo đó lợi nhuận kỳ vọng
được xác định là trung bình gia quyền của của các lợi nhuận có thể xảy ra với
trọng số chính là xác suất xảy ra và được mô tả bởi công thức sau:
- Lợi nhuận kỳ vọng:
E(R) = ∑(R
i
)(P
i
)
Trong đó:
R
i
là lợi nhuận ứng với biến cố i;
P
i
là xác suất xảy ra biến cố i
Để đo lường độ phân tán hay sai biệt giữa lợi nhuận thực tế so với lợi

nhuận kỳ vọng, người ta dùng độ lệch chuẩn (σ).
- Độ lệch chuẩn chính là căn bậc 2 của phương sai (σ
2
).
( ) ( )
n
2
i i
i 1
[R E R ] P
=
σ = −

Như vậy, để đo lường lợi nhuận trước hết chúng ta phải xác định được
lợi nhuận kỳ vọng, tiếp đến xác định độ lệch chuẩn của lợi nhuận so với lợi
nhuận kỳ vọng. Trong trường hợp so sánh rủi ro của 2 cổ phiếu, nếu chỉ nhìn
vào độ lệch chuẩn có thể cho kết luận cổ phiếu nào có độ lệch chuẩn lớn hơn
sẽ có rủi ro hơn. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý sự ảnh hưởng của yếu tố quy mô
lợi nhuận kỳ vọng của cổ phiếu cũng như thái độ đối với rủi ro cũng sẽ ảnh
15
hưởng đáng kể đến mức độ rủi ro cụ thể.
Trên thực tế ít khi nhà đầu tư dồn hết toàn bộ tài sản của mình vào một
khoản đầu tư duy nhất mà thường đầu tư vào nhiều hơn một khoản đầu tư,
hay là sự kết hợp của hai hay nhiều chứng khoán hoặc tài sản như là một danh
mục đầu tư (Porfolio). Do vậy cũng cần thiết đề cập đến danh mục đầu tư và
rủi ro của danh mục đầu tư.
Đối với danh mục đầu tư
- Lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư là trung bình có trọng số của
các lợi nhuận kỳ vọng của từng chứng khoán trong danh mục đầu tư. Trọng số
chính là tỷ trọng của từng loại chứng khoán cá biệt trong danh mục đầu tư.

Gọi E
p
(R) là lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư, công thức tính lợi
nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư như sau:
( ) ( )
m
p j j
j 1
E R W E R
=
=

Trong đó:
W
j

là tỷ trọng của chứng khoán j
E
j
(R) là lợi nhuận kỳ vọng của chứng khoán j
m là tổng số chứng khoán có trong danh mục đầu tư
Rủi ro của danh mục đầu tư được đo lường bởi độ lệch chuẩn của danh
mục đầu tư. Khi kết hợp nhiều tài sản trong một danh mục đầu tư, lợi nhuận
của các chứng khoán cá biệt có quan hệ với nhau. Đồng phương sai
(covariance) là đại lượng thống kế dùng để đo lường mức độ tác động qua lại
lẫn nhau giữa tỷ suất lợi nhuận của hai tài sản cá biệt. Nói cách khác, độ lệch
chuẩn của danh mục đầu tư phụ thuộc vào mức độ quan hệ hay mức độ tương
quan giữa các chứng khoán trong danh mục đầu tư. Độ lệch chuẩn của danh
mục đầu tư được xác định bởi công thức:
16

m m
P j k j,k
j 1 k 1
w w
= =
σ = σ
∑∑

Trong đó:
o m là tổng số chứng khoán có trong danh mục đầu tư;
o W
j
là tỷ trọng của chứng khoán j trong danh mục;
o W
k
là tỷ trọng của chứng khoán k trong danh mục;
o σ
j,k
là đồng phương sai giữa lợi nhuận của chứng khoán j và k.
- Đồng phương sai lợi nhuận của hai chứng khoán là chỉ tiêu đo lường
mức độ tương quan hệ tuyến tính giữa hai chứng khoán.
Đồng phương sai được xác định bởi công thức:
σ
j
,
k
= r
j
,
k

σ
j
σ
k
Trong đó:
o R
j
,k là hệ số tương quan kỳ vọng giwac lợi nhuận của chứng
khoán j và chứng khoán k;
o σ
j
là độ lệch chuẩn lợi nhuận của chứng khoán j;
o σ
k
là độ lệch chuẩn lợi nhuận của chứng khoán k.
b. Hệ số beta (β)
Beta là hệ số phản ánh mức độ phản ứng của chứng khoán trước những
thay đổi của các nhân tố (thị trường, vĩ mô, nội tại công ty…). Thị giá của
chứng khoán càng phản ứng với các nhân tố mạnh bao nhiêu thì hệ số beta
của chứng khoán (hoặc doanh nghiệp) sẽ càng lớn. Chính vì vậy mà beta còn
được gọi là hệ số nhạy cảm của chứng khoán trước những biến đổi của các
nhân tố đang xét.
Như vậy, nếu xét n nhân tố làm phát sinh rủi ro thì cũng sẽ có n beta
tương ứng với từng nhân tố. Trong phạm vi luận văn này, chỉ giới hạn việc ước
17
tính theo mô hình định giá tài sản vốn (Capital Pricing Asset Model –
CAPM), nghĩa là chỉ xem xét một nhân tố đó là yếu tố thị trường – Tỷ suất lợi
nhuận của danh mục thị trường (R
m
) tác động đến chứng khoán– Tỷ suất lợi

nhuận của cổ phiếu (R
i
), điều này cũng đồng nghĩa với việc chỉ có một hệ số
beta biểu thị sự phản ứng của Ri theo Rm và trong mô hình CAPM, hệ số beta
của cổ phiếu chính là rủi ro của cổ phiếu này khi thêm vào danh mục thị
trường.
Công thức tính hệ số beta:
β = Covar(R
i
,R
m
)/Var(R
m
)
Trong đó:
o Var(R
m
): Phương sai của tỷ suất sinh lời của thị trường.
o Covar(R
i
,R
m
): Hiệp phương sai của tỷ suất sinh lời của chứng khoán
và tỷ suất sinh lời của thị trường.
Có nhiều cách để ước tính hệ số này, nhưng chung quy lại có ba nhóm cơ
bản, cụ thể:
- Sử dụng dữ liệu lịch sử về giá thị trường của từng cổ phiếu;
- Sử dụng các đặc trưng cơ bản của các khoản đầu tư;
- Sử dụng dữ liệu kế toán.
Trong ba cách trên, hệ số beta thị trường lịch sử được tính bằng cách hồi

quy tỷ suất lợi nhuận của cổ phiếu theo tỷ suất lợi nhuận của một chỉ số thị
trường. Trong mô hình CAPM, rủi ro thị trường tồn tại trong danh mục thị
trường (nên chỉ xác định được một hệ số beta duy nhất) nhưng nếu xét theo
mô hình chênh lệch giá (Arbitrage Pricing Model – APM) thì sẽ có nhiều
beta tương ứng với nhiều yếu tố rủi ro thị trường (không xác định) hoặc trong
mô hình đa yếu tố thì sẽ có các beta tương ứng với từng yếu tố kinh tế vĩ mô
xác định. Đối với những công ty đã niêm yết trên thị trường một thời gian dài
18
thì việc ước tính tỷ suất lợi nhuận của loại cổ phiếu này trong quá khứ sẽ không
gặp nhiều khó khăn. Một điều cần lưu ý khi tính beta thị trường lịch sử là cần
phải đặt tỷ suất lợi nhuận của cổ phiếu trong mối tương quan với tỷ suất lợi
nhuận của danh mục thị trường (danh mục bao gồm tất cả các tài sản được phép
giao dịch).
1.3. Hạn chế rủi ro trong đầu tư cổ phiếu
1.3.1. Sự cần thiết phải hạn chế rủi ro trong đầu tư cổ phiếu
Trong thực trạng nền kinh tế phát triển nhanh khi mà tình hình thị
trường diễn biến khá thuận lợi, rất nhiều cơ hội, giao dịch kinh tế được thực
hiện một cách dễ dàng và có lợi cho các bên… thì phần lớn nhà đầu tư đều
đầu tư thành công, dù ở cấp độ nhiều hay ít, mà không tính đến dài hạn hay
ngắn hạn. Các rủi ro khi đó được giảm thiểu một cách khách quan từ thị
trường và do đó bị xem nhẹ một cách đáng tiếc. Tuy nhiên, khi nền kinh tế
có dấu hiệu chững lại và kém thuận lợi, bắt đầu từ lạm phát cao, cạnh tranh
ngày càng gay gắt, đến việc khan hiếm nguồn lực tài chính cùng áp lực lãi
suất cao và gần nhất là tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh
tế toàn cầu, nhà đầu tư sẽ phải đương đầu với mặt trái của các biến động -
các rủi ro kinh doanh. Một yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thành
công, khả năng vượt qua tình trạng khó khăn hiện nay, thậm chí khả năng
tồn tại của các nhà đầu tư chính là việc họ có hay không một cơ chế nhận
diện, kiểm soát và hạn chế rủi ro. Nếu làm tốt điều này, nhiều nhà đầu tư có
thể biến rủi ro thành cơ hội cho mình.

Hạn chế rủi ro để đầu tư bền vững và nâng cao lợi nhuận là chiến lược
quan trọng của mỗi nhà đầu tư khi tham gia thị trường chứng khoán.
Nhà đầu tư muốn thu được lợi suất cao thì phải quản lý được những rủi ro
có thể xảy ra với mình. Một trong những vấn đề nhà đầu tư cần quan tâm là
quản lý rủi ro trong việc hoạch định chiến lược và lập kế hoạch đầu tư. Các
19
mục tiêu chiến lược và kế hoạch đầu tư phải phù hợp với khả năng tài chính và
xu hướng phát triển của thị trường, thích nghi được với những thay đổi bất ngờ
hoặc với những thay đổi mang chiều hướng xấu của thị trường hoặc bản thân
doanh nghiệp. Nhà đầu tư cần lựa chọn chiến lược, xem xét những ảnh hưởng
của chúng và phân bổ tỷ lệ đầu tư, có tính đến mức độ rủi ro có thể chấp nhận
được nhằm đạt được lợi nhuận mong muốn từ các khoản đầu tư. Đồng thời, đối
với các sự kiện và rủi ro khi xảy ra sẽ có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện
chiến lược hoặc việc đạt được các mục tiêu. Các sự kiện có tác động tích cực
được coi là cơ hội, các sự kiện có ít khả năng xảy ra sẽ vẫn được xem xét nếu
chúng có tác động lớn đến việc đạt được mục tiêu lợi nhuận.
Do đó mỗi nhà đầu tư nhất thiết phải thực hiện việc quản lý rủi ro, đó là
một quy trình và biện pháp để đạt mục đích chứ bản thân nó không phải là
mục đích. Theo đó rủi ro được xem như là điều không mong muốn nhà đầu tư
phải chấp nhận. Tuy nhiên, thực tiễn đó chỉ ra rằng, quản lý rủi ro tốt chính là
một trong những phương pháp đầu tư tạo ra giá trị, góp phần tạo ra chiến lược
đầu tư hiệu quả hơn.
1.3.2. Một số giải pháp hạn chế rủi ro trong đầu tư cổ phiếu
- Thiết lập quy trình quản trị rủi ro gồm các bước:
+ Nhận dạng rủi ro
+ Ước tính và định lượng rủi ro
+ Đánh giá tác động của rủi ro
+ Lựa chọn người phân tích, đánh giá, bảo hiểm rủi ro
+ Chọn công cụ thích hợp để phòng chống rủi ro
- Xác định lệnh dừng đúng lúc để mua được cổ phiếu ở mức giá thấp và

bán cổ phiếu ra với giá cao hoặc bán được giá chịu lỗ thấp;
- Đa dạng hóa danh mục đầu tư
- Sử dụng chứng khoán phái sinh
20
- Trang bị kiến thức vững vàng về cổ phiếu và thị trường chứng
khoán…
21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HẠN CHẾ RỦI RO TRONG
ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU TẠI VIỆT NAM
2.1. Hoạt động của thị trường chứng khoán từ năm 2007 đến 2011
N

h ữ

n g

k ế

t

qu ả

đ ã

đ ạ

t

đ ư




c :
TTCK Việt Nam đã được thành lập từ tháng 7/2000, qua
hơn
11 năm
hoạt động, thị trường đã từng bước trở thành kênh
dẫn
vốn trung và dài hạn
của nền kinh tế, hỗ trợ tiến trình cổ phần hoá và sắp xếp lại
doanh
nghiệp nhà
nước đồng thời góp phần huy động vốn cho ngân sách nhà
nước
và cho đầu tư
phát triển góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất
nước. Kết quả
hoạt động thị trường chứng khoán được thể hiện trên các phương
diện
chủ
yếu
sau:
a) Thị trường chứng khoán đã tạo điều kiện cho Chính phủ, các
doanh
nghiệp
huy động vốn cho đầu tư phát triển và mở rộng sản xuất kinh
doanh. Thông qua
thị
trường, Chính phủ đã huy động được 625 nghìn tỷ

đồng trái phiếu; doanh nghiệp
đã
huy động được 400 nghìn tỷ đồng thông
qua đấu giá cổ phần hoá và phát hành
cổ
phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ
đầu tư góp phần làm tăng quy mô vốn đầu tư xã hội

thúc đẩy tăng trưởng
kinh
tế.
b) Quy mô và tính thanh khoản của thị trường chứng khoán ngày một
cải
thiện,
góp phần thu hẹp thị trường tự do, thu hút đông đảo các nhà đầu
tư trong nước,
nước
ngoài. Cho đến cuối năm 2010 đã có 642 công ty niêm
yết, 05 loại chứng chỉ quỹ
đầu
tư và 500 loại trái phiếu niêm yết trên các
Sở giao dịch chứng khoán (GDCK) với
giá
trị vốn hoá thị trường đạt 36,5%
GDP năm 2010. Trong năm 2011, mặc dù yếu tố
kinh
tế vĩ mô còn khó
khăn, song vẫn có nhiều doanh nghiệp phát hành, niêm yết cổ
phiếu
trên thị

trường chứng khoán nâng tổng số công ty niêm yết lên 699 công ty và 450
loại
trái phiếu niêm yết. Tổng giá trị giao dịch giai đoạn 2006 – 2010 đạt
22

×