Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

phát triển thanh toán quốc tế tại chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.91 KB, 90 trang )

MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU ĐỒ
TÓM TẮT LUẬN VĂN
LUẬN VĂN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Agribank : Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
CNTT : Công nghệ thông tin
DN : Doanh nghiệp
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
HTX : Hợp tác xã
KH : Khách hàng
NH : Ngân hàng
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHNo & PTNT : Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NHPH : Ngân hàng phát hành
NHTB : Ngân hàng thông báo
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
SWIFT : Hiệp hội viễn thông liên Ngân hàng thế giới
TCTD : Tổ chức tín dụng
TGCKH : Tiền gửi có kỳ hạn
TGĐ : Tổng Giám đốc
TMQT : Thương mại quốc tế
TTQT : Thanh toán quốc tế
UCP : Quy tắc và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Danh mục sơ đồ
Danh mục bảng
Danh mục biểu đồ


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện toàn cầu hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới diễn ra
ngày càng mạnh mẽ, mỗi quốc gia cần phải tích cực và chủ động tham gia để
đạt được vị trí thuận lợi trong sự phân công lao động quốc tế và trao đổi
thương mại quốc tế. Điều đó có nghĩa là mỗi quốc gia cần phải phát triển
mạnh mẽ lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
Đối với nước ta phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan
nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo định
hướng XHCN. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, chúng ta vẫn đang trong
quá trình tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Chỉ có
thông qua hoạt động kinh tế đối ngoại chúng ta mới tạo được nguồn ngoại tệ
cần thiết để phục vụ nhập khẩu kỹ thuật hiện đại, công nghệ thiết bị, đồng
thời phát huy tiềm năng của đất nước, tận dụng nguồn vốn và công nghệ nước
ngoài để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước, rút
ngắn khoảng cách tụt hậu và đưa nền kinh tế đất nước từng bước hội nhập với
nền kinh tế khu vực và thế giới.
Như một mắt xích không thể thiếu được trong hoạt động kinh tế đối
ngoại, hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng ngày càng có vị trí và
vai trò quan trọng, nó được xem là công cụ, là cầu nối trong quan hệ kinh tế
đối ngoại, quan hệ kinh tế và thương mại giữa các nước trên thế giới.
Thanh toán quốc tế là một trong những mặt hoạt động quan trọng của
ngân hàng, nó có liên quan đến nhiều mặt hoạt động khác của ngân hàng như
hoạt động tín dụng ngoại tệ, huy động vốn ngoại tệ
Agribank Bắc Ninh mới tham gia thực hiện thanh toán quốc tế nhưng
đã đạt được một số thành quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt động thanh toán
1
quốc tế của chi nhánh với quy mô nhỏ và còn gặp nhiều khó khăn. Việc phát
triển thanh toán quốc tế là hết sức cần thiết và cấp bách, nó không những tạo
điều kiện cho phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt động kinh tế đối ngoại,

góp phần vào việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước mà còn
là một tất yếu quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng
trong cơ chế thị trường, giúp Agribank Bắc Ninh sớm hội nhập với hệ thống
Ngân hàng trong nước và thế giới.
Thanh toán quốc tế thực sự là phức tạp và còn nhiều tồn tại trong cơ
chế nghiệp vụ cũng như trong công tác tổ chức và thực hiện. Chính vì vậy,
chúng ta cần phải quan tâm nghiên cứu, tìm ra biện pháp khắc phục. Xuất
phát từ những vấn đề trên và là một cán bộ làm việc tại Ngân hàng tôi chọn đề
tài “ Phát triển thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn tỉnh Bắc Ninh” để nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận cơ bản về thanh toán quốc tế của
Ngân hàng thương mại.
- Phân tích và đánh giá việc phát triển thanh toán quốc tế tại Agribank
Bắc Ninh.
- Đề xuất các giải pháp phát triển thanh toán quốc tế tại Agribank Bắc Ninh.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thanh toán quốc tế tại Agribank
Bắc Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu: thực trạ ng thanh toán quốc tế tại Agribank Bắc
Ninh giai đoạn 2005-2008.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp hệ thống, thống kê, so sánh và phân
tích để xử lý các thông tin, số liệu đã được thu thập về tình hình thanh toán
2
quốc tế để thấy rõ được những kết quả cũng như những hạn chế của Agribank
Bắc Ninh trong hoạt động này. Đồng thời tìm hiểu các định hướng, chiến lược
phát triển thanh toán quốc tế của chi nhánh trong thời gian tới. Từ đó tìm ra
một số giải pháp, đề xuất nhằm phát triển thanh toán quốc tế tại chi nhánh.
5. Đóng góp của đề tài

- Hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm một số khái niệm, đặc điểm, bản
chất và vai trò của thanh toán quốc tế. Trên cơ sở đó làm sáng tỏ vấn đề phát
triển thanh toán quốc tế của NHTM.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển thanh toán quốc tế tại
Agribank Bắc Ninh từ năm 2005 đến năm 2008. Từ đó nêu bật được những
kết quả đạt được và nguyên nhân tồn tại giúp chi nhánh rút ra được những
kinh nghiệm, những vấn đề cần lưu ý trong phát triển thanh toán quốc tế.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm phát triển thanh toán
quốc tế tại Agribank Bắc Ninh, góp phần thực hiện thành công chiến lược đưa
Agribank Việt Nam trở thành tập đoàn tài chính đa năng mang tầm khu vực
và thế giới.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lí luận cơ bản về thanh toán quốc tế.
Chương 2: Thực trạng phát triển thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Giải pháp phát triển thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Bắc Ninh.
3
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
THANH TOÁN QUỐC TẾ
1.1 Tổng quan về thanh toán quốc tế
1.1.1 Khái niệm thanh toán quốc tế
Trong xu thế toàn cầu hoá ngày nay thật hiếm khi một quốc gia lại tự sản
xuất mọi thứ mình cần. Mỗi nước đều có lợi thế so sánh hơn về một mặt hàng nào
đó so với nước khác và họ sẽ sản xuất mặt hàng này để đổi lấy những mặt hàng
khác không có lợi thế. Việc trao đổi vượt ra khỏi biên giới một quốc gia hình
thành nên hoạt động xuất nhập khẩu, kết quả của hành vi này là việc chi trả, thanh
toán giữa các chủ thể ở các nước khác nhau. Từ đó hình thành nghiệp vụ TTQT,

trong đó NHTM là cầu nối trung gian.
TTQT là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả về tiền tệ phát sinh từ các quan
hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng và dịch vụ phi mậu dịch giữa các tổ
chức, cá nhân của các nước khác nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong
lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các phương thức thanh toán khác nhau như
chuyển tiền, nhờ thu, thư tín dụng Từ khái niệm trên cho thấy, TTQT phục vụ
cho hai lĩnh vực hoạt động là kinh tế và phi kinh tế. Trong thực tế, giữa hai lĩnh
vực này thường có sự giao thoa nhau. TTQT được hình thành trên cơ sở hoạt động
ngoại thương và phục vụ chủ yếu cho hoạt động ngoại thương, chính vì vậy,
người ta chia TTQT thành hai lĩnh vực rõ ràng là: thanh toán trong ngoại thương
và thanh toán phi ngoại thương.
TTQT trong ngoại thương là việc thực hiện thanh toán trên cơ sở hàng hoá
xuất nhập khẩu và các dịch vụ thương mại cung ứng cho nước ngoài theo giá cả
thị trường quốc tế. Cơ sở để các bên tiến hành mua bán và thanh toán cho nhau là
hợp đồng ngoại thương.
4
Thanh toán phi ngoại thương là việc thực hiện thanh toán không liên quan
đến hàng hoá xuất nhập khẩu cũng như cung ứng lao vụ cho nước ngoài, nghĩa là
thanh toán cho các hoạt động không mang tính thương mại. Đó là việc chi trả các
chi phí của các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài, các chi phí đi lại ăn ở của các
đoàn khách nhà nước, tổ chức và cá nhân; các nguồn tiền quà biếu, trợ cấp của cá
nhân người nước ngoài cho cá nhân người trong nước, các nguồn trợ cấp của một
tổ chức từ thiện nước ngoài cho tổ chức, đoàn thể trong nước
Nhìn chung hoạt động ngoại thương có một số điểm khác cơ bản so với
hoạt động nội thương, trong đó hoạt động ngoại thương liên quan đến:
- Người mua và người bán ở hai nước hoặc hai quốc tịch khác nhau
- Đồng tiền sử dụng trong thanh toán có thể là đồng tiền của một trong hai
nước hoặc đồng tiền của nước thứ ba.
- Hàng hoá mua bán thường dịch chuyển qua biên giới giữa các nước, đi từ
nước người bán đến nước người mua.

- Luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán và thanh toán chứa đựng yếu tố
quốc tế. Kiểm soát ngoại hối, tỷ giá và các chính sách hạn chế ngoại thương của
chính phủ.
1.1.2 Vai trò của thanh toán quốc tế
- TTQT đối với nền kinh tế: Trong xu thế hội nhập hoá nền kinh tế thế
giới, các quốc gia đều coi trọng việc phát triển kinh tế đối ngoại. TTQT là cầu
nối giữa nền kinh tế trong nước với bên ngoài, có tác dụng thúc đẩy hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, đầu tư nước ngoài, thu hút kiều hối và các
quan hệ tài chính, tín dụng quốc tế khác. TTQT ngày càng được khẳng định
trong nền kinh tế quốc dân nói chung và hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng.
Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, mỗi quốc gia đều đặt kinh tế đối ngoại lên
hàng đầu, coi trọng hoạt động kinh tế đối ngoại là con đường tất yếu trong
chiến lược phát triển kinh tế mỗi quốc gia.
5
TTQT là khâu quan trọng trong quá trình mua bán hàng hoá, dịch vụ
giữa các tổ chức, các cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Nếu không có
TTQT thì hoạt động kinh tế đối ngoại khó tồn tại và phát triển được. Nếu việc
thực hiện TTQT được nhanh chóng, an toàn, hiệu quả sẽ giải quyết được mối
quan hệ lưu thông hàng hoá - tiền tệ giữa người mua và người bán một cách
trôi chảy và hiệu quả.
- Đối với hoạt động kinh doanh của NHTM: Hoạt động TTQT giúp các
NHTM thu hút thêm nhiều KH có nhu cầu thanh toán vượt ra khỏi biên giới của
một quốc gia, tạo ưu thế cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó
TTQT còn tạo điều kiện cho NH hoàn thiện và đa dạng hoá các dịch vụ kinh
doanh như kinh doanh ngoại tệ, nghiệp vụ bảo lãnh và các dịch vụ khác nhằm đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế, tạo niềm tin cho KH trên cơ sở đó
nâng cao uy tín NH.
Do đẩy mạnh TTQT mà các NHTM đã phát triển được hoạt động tín
dụng quốc tế, tài trợ xuất nhập khẩu cũng như tăng cường được nguồn vốn huy
động do tạm thời tận dụng được nguồn vốn của KH ký quỹ khi tham gia TTQT

hoặc khi ngoại tệ từ nước ngoài về thông qua con đường kiều hối hay thanh
toán hàng xuất khẩu.
TTQT giúp các NHTM nâng cao uy tín, ưu thế của mình trên thị trường
quốc tế. Từ đó khai thác được nguồn vốn tài trợ của các NH nước ngoài và nguồn
vốn trên thị trường tài chính quốc tế để đáp ứng được nhu cầu tín dụng trong
nước, thu được các khoản phí dịch vụ thanh toán như phí thanh toán L/C, nhờ thu,
chuyển tiền, phí từ kiều hối, bảo lãnh góp phần không nhỏ vào doanh thu và lợi
nhuận của NH.
- Đối với các DN xuất nhập khẩu: TTQT là khâu cuối cùng trong việc thực
hiện hợp đồng ngoại thương, nó khép lại một chu trình mua bán hàng hoá, dịch
vụ. Đây là một nghiệp vụ phức tạp, ẩn chứa nhiều rủi ro ngoài dự kiến, bởi vậy,
6
ngay cả khi hai bên mua bán thống nhất mức giá, phương thức thanh toán, thời
hạn thanh toán nhưng rủi ro vẫn có thể xảy ra do những nguyên nhân khách quan
hoặc những nguyên nhân bất khả kháng. Do đó, yêu cầu đặt ra cho TTQT là phải
đảm bảo an toàn cho các hợp đồng ngoại thương, thu tiền và nhận hàng đầy đủ,
đúng như hợp đồng đã quy định.
Thông qua hoạt động TTQT với các bạn hàng nước ngoài, các DN xuất
nhập khẩu có điều kiện nắm bắt các thông tin về thị trường, hiểu biết thêm về đối
tác. Trên cơ sở đó cân đối về tiềm lực, đề ra các chiến lược kinh doanh thích hợp,
ngăn ngừa, hạn chế rủi ro.
Khi TMQT phát triển, đòi hỏi TTQT cũng phải đổi mới để phù hợp với nó.
Chính vì thế, nghiên cứu TTQT và các vấn đề có liên quan như tiền tệ, tỷ giá hối
đoái luôn là sự quan tâm của các nhà kinh tế, các NH và các DN xuất nhập khẩu.
1.1.3 Các hình thức thanh toán quốc tế
Các hình thức hay phương thức TTQT là toàn bộ nội dung, điều kiện và
cách thức để NH tiến hành việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán giữa cá nhân, tổ
chức ở những quốc gia, lãnh thổ khác nhau.
Lựa chọn phương thức thanh toán sao cho thích hợp với từng thương vụ, mối
quan hệ giữa các bên hợp đồng là một yếu tố góp phần hạn chế rủi ro trong TTQT. Các

phương thức thanh toán hiện nay: tín dụng chứng từ, chuyển tiền, nhờ thu và ghi sổ.
1.1.3.1 Phương thức tín dụng chứng từ
a/ Khái niệm về phương thức tín dụng chứng từ
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận, trong đó theo yêu cầu
của KH (người yêu cầu mở L/C), NH sẽ phát hành một bức thư, gọi là L/C (Letter
of Credit) theo đó NH này (gọi là NHPH L/C) cam kết trả tiền hoặc chấp nhận hối
phiếu cho một bên thứ ba (người thụ hưởng L/C) khi xuất trình cho NHPH bộ
chứng từ thanh toán phù hợp với điều kiện và điều khoản quy định của L/C.
7
Theo Điều 2, UCP 600 thì “Tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận bất kỳ,
cho dù được mô tả hoặc gọi tên như thế nào, thể hiện một cam kết chắc chắn và
không huỷ ngang của NHPH về việc thanh toán khi xuất trình phù hợp”.
b/ Trình tự tiến hành nghiệp vụ theo phương thức tín dụng chứng từ:
(2)
(5)
(6)
(8) (7) (1) (6) (5) (3)
(4)
Sơ đồ 1.1: Quy trình nghiệp vụ L/C
(1) Nhà nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến NH của mình yêu
cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng;
(2) Căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, NHPH thư tín dụng sẽ lập một thư
tín dụng và thông qua NH đại lý của mình ở nước người xuất khẩu thông báo việc
mở thư tín dụng và chuyển thư tín dụng đến nhà xuất khẩu.
(3) Khi nhận được thông báo này, NHTB sẽ thông báo cho người xuất khẩu
toàn bộ nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng đó, và khi nhận được bản gốc
thư tín dụng thì chuyển ngay cho nhà xuất khẩu.
(4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng,
nếu không thì đề nghị người nhập khẩu thông qua NHPH L/C sửa đổi, bổ sung
thư tín dụng cho phù hợp với hợp đồng.

(5) Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của
thư tín dụng, xuất trình qua NHTB cho NHPH L/C đề nghị thanh toán.
8
NHPH
L/C
NHTB
L/C
Nhà
nhập khẩu
Nhà
xuất khẩu
(6) NHPH L/C kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì tiến
hành trả tiền nhà xuất khẩu. Nếu thấy không phù hợp, NH từ chối thanh toán và
gửi lại toàn bộ chứng từ cho người xuất khẩu.
(7) NHPH L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển toàn bộ chứng từ cho
họ sau khi nhận được tiền hoặc chấp nhận thanh toán.
(8) Nhà nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì
trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền, nếu không phù hợp thì có quyền từ chối trả tiền.
c/ Một số điểm cần lưu ý khi sử dụng phương thức thư tín dụng:
- Văn bản pháp lý quốc tế thông dụng của tín dụng chứng từ là “Quy tắc
thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ, số 600, bản sửa đổi năm 2007” của
Phòng Thương mại quốc tế (viết tắt là UCP 600). Bản quy tắc này mang tính chất
pháp lý tuỳ ý, nghĩa là khi áp dụng nó các bên đương sự phải thoả thuận ghi vào
L/C. Hiện nay ở nước ta, các NHTM và các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu đã
thống nhất sử dụng bản Quy tắc này như một văn bản pháp lý điều chỉnh các loại
thư tín dụng được áp dụng trong TTQT giữa Việt Nam và các quốc gia khác.
- Đặc điểm giao dịch L/C:
+ L/C là hợp đồng kinh tế hai bên: Nhiều người lầm tưởng cho rằng, L/C là
hợp đồng kinh tế ba bên, gồm: người yêu cầu mở L/C, NHPH và người thụ
hưởng. Thực tế L/C là hợp đồng kinh tế độc lập chỉ của hai bên là NHPH và

người thụ hưởng. Mọi yêu cầu và chỉ thị của người xin mở L/C đã do NHPH đại
diện, do đó, tiếng nói chính thức của người xin mở L/C không được thể hiện trong
L/C. Hiểu được điều này là rất quan trọng, bởi vì nhiều nhà xuất nhập khẩu cho
rằng L/C là của họ, NH chỉ cung cấp dịch vụ để hưởng phí, do đó, mọi thoả thuận
giữa nhà nhập khẩu và xuất khẩu mới là quan trọng, còn việc NH có đồng ý hay
không chỉ là yếu tố phí thanh toán. Hãy hình dung, một sửa đổi thư tín dụng đã
được người xuất khẩu và nhập khẩu đồng ý, nhưng nếu NHPH không chấp nhận
thì sửa đổi đó có bao giờ trở nên có giá trị thực hiện?
9
+ L/C độc lập với hợp đồng cơ sở và hàng hoá: Điều này đã được khẳng
định trong các phiên bản của UCP. Về bản chất, L/C là một giao dịch hoàn toàn
độc lập với hợp đồng ngoại thương hoặc hợp đồng khác mà hợp đồng này là cơ sở
để hình thành giao dịch L/C. Trong mọi trường hợp, NH không liên quan đến
hoặc bị ràng buộc vào hợp đồng như vậy, ngay cả khi L/C có bất cứ dẫn chiếu nào
đến hợp đồng này.
Như vậy, L/C có tính chất quan trọng, nó hình thành trên cơ sở của hợp
đồng ngoại thương, nhưng sau khi được thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp
đồng này. Một khi L/C đã được mở và đã được các bên chấp nhận thì cho dù nội
dung của L/C có đúng với hợp đồng ngoại thương hay không cũng không làm
thay đổi quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan đến L/C.
Một số nhà nhập khẩu không hiểu hoặc làm ngơ quy tắc này, khi gặp rủi ro
trong giao dịch hợp đồng cơ sở đã quay sang khiếu nại hay ngăn cản việc NH
thanh toán bộ chứng từ xuất trình phù hợp. Điều này là không được phép.
Trong thực tế, một số nhà nhập khẩu có thể sử dụng L/C như là công cụ dự
phòng để cụ thể hoá, chi tiết hoá hoặc bổ sung những điều khoản mà hợp đồng
thương mại còn sót; ngoài ra, còn để đính chính, sửa chữa những nội dung bất lợi
trong hợp đồng ngoại thương đã ký kết. Tuy nhiên, việc làm này chỉ tránh được
việc phải mở một L/C cho nhà xuất khẩu hưởng, còn nhà xuất khẩu có thế kiện
nhà nhập khẩu ra toà trên cơ sở các điều khoản của hợp đồng thương mại.
- L/C chỉ giao dịch bằng chứng từ và thanh toán chỉ căn cứ vào chứng từ:

Các NH, chỉ trên cơ sở chứng từ kiểm tra việc xuất trình để quyết định xem trên
bề mặt của chứng từ có tạo thành một xuất trình phù hợp hay không. Như vậy, các
chứng từ trong giao dịch L/C có tầm quan trọng đặc biệt, nó là bằng chứng về việc
giao hàng của người bán, là đại diện cho giá trị hàng hoá đã được giao, do đó,
chúng trở thành căn cứ để NH trả tiền, là căn cứ để nhà nhập khẩu hoàn trả tiền
cho NH, là chứng từ đi nhận hàng của nhà nhập khẩu Việc nhà xuất khẩu có thu
10
được tiền hay không, phụ thuộc duy nhất vào xuất trình chứng từ có phù hợp,
đồng thời, NH cũng chỉ trả tiền khi bộ chứng từ xuất trình phù hợp, nghĩa là NH
không chịu trách nhiệm về sự thật của hàng hoá mà bất kỳ chứng từ nào đại diện.
Khi chứng từ xuất trình là phù hợp thì NHPH phải thanh toán vô điều kiện
cho nhà xuất khẩu, mặc dù trên thực tế hàng hoá có thể không được giao hoặc
được giao không hoàn toàn đúng như ghi trên chứng từ. Như vậy, việc thanh toán
L/C không thể căn cứ vào tình hình thực tế của hàng hoá, nếu hàng hoá không
khớp với chứng từ thì hai bên mua bán trực tiếp giải quyết với nhau trên cơ sở hợp
đồng mua bán, không liên quan đến NH. Chỉ trong trường hợp chứng từ không
phù hợp, mà NH vẫn thanh toán cho người xuất khẩu, thì NH phải chịu hoàn toàn
trách nhiệm, bởi vì người nhập khẩu có quyền từ chối thanh toán lại tiền cho NH.
- Nội dung của L/C và bộ chứng từ phải không được mâu thuẫn nhau: Vì
giao dịch chỉ bằng chứng từ và thanh toán chỉ căn cứ vào chứng từ nên yêu cầu
tuân thủ chặt chẽ của chứng từ là nguyên tắc cơ bản của giao dịch L/C. Để được
thanh toán, người xuất khẩu phải lập được bộ chứng từ phù hợp, tuân thủ chặt chẽ
các điều khoản và điều kiện của L/C.
- L/C là công cụ thanh toán, hạn chế rủi ro hay là công cụ từ chối thanh
toán và lừa đảo? Xét về giác độ là công cụ thanh toán và phòng ngừa rủi ro cho
nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu thì L/C có ưu điểm vượt trội so với các phương
thức thanh toán khác. Chính vì vậy mà phương thức này đã tồn tại phát triển như
ngày nay. Tuy nhiên, trong thực tiễn TMQT, do diễn biến của thị trường, giá cả
hàng hoá mà L/C có thể bị lạm dụng trở thành công cụ để từ chối nhận hàng, từ
chối thanh toán và là công cụ để gian lận và lừa đảo.

Từ bản chất của L/C là chỉ giao dịch bằng chứng từ và khi kiểm tra chứng
từ lại chỉ xem xét trên bề mặt chứng từ chứ không xem xét tính chất “bên trong
của chứng từ”, chính vì điều này mà không ít các tranh chấp xảy ra về tính chất
tuân thủ chặt chẽ của chứng từ. Trong thực tế, lập được một bộ chứng từ hoàn hảo
11
không có bất cứ sai sót nào là một việc làm không hề dễ chút nào, hơn nữa, giữa
phù hợp và “sai sót” lại có ranh giới thật mong manh, tuỳ thuộc vào tập quán,
trình độ, quan điểm, động cơ của những người có liên quan. Ngoài ra, do tính chất
độc lập của L/C với hợp đồng cơ sở nên bọn lừa đảo có thể lợi dụng không giao
hàng hoặc giao hàng không đúng, nhưng vẫn lập bộ chứng từ phù hợp để thanh
toán. Thực tế trên thế giới đã xảy ra không ít trường hợp như thế.
1.1.3.2 Phương thức chuyển tiền
a/ Khái niệm:
Là phương thức thanh toán trong đó KH (người chuyển tiền) yêu cầu NH
phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng lợi)
theo một địa chỉ nhất định và trong một thời gian nhất định.
Có thể nói, chuyển tiền là phương thức thanh toán đơn giản, trong đó người
chuyển tiền và người nhận tiền tiến hành thanh toán trực tiếp với nhau. NH khi
thực hiện chuyển tiền chỉ đóng vai trò trung gian thanh toán theo uỷ nhiệm để
hưởng hoa hồng và không bị ràng buộc bất cứ trách nhiệm gì đối với người
chuyển tiền và người thụ hưởng.
b/ Trình tự tiến hành nghiệp vụ:
Sơ đồ 1.2: Quy trình nghiệp vụ chuyển tiền
12
NH
chuyển tiền
NH
trả tiền
Người
chuyển tiền

Người
hưởng lợi
(4)
(2)
(3)
(5)
(1)
- (1) Bước này chỉ thực hiện khi có hợp đồng ngoại thương xuất hiện. Sau
khi ký kết hợp đồng ngoại thương, bên xuất khẩu thực hiện việc giao hàng, đồng
thời gửi cho nhà nhập khẩu bộ chứng từ (hoá đơn, B/L )
- (2) Sau khi kiểm tra bộ chứng từ (hoặc hàng nếu quyết định trả tiền thì
nhà nhập khẩu viết đơn yêu cầu chuyển tiền gửi NH phục vụ mình
- (3) Sau khi kiểm tra chứng từ và các điều kiện chuyển tiền theo quy định,
nếu thấy hợp lệ và đủ khả năng thanh toán, NH của nhà nhập khẩu sẽ tiến hành
chuyển tiền.
- (4) NH chuyển tiền ra lệnh cho NH phục vụ bên xuất khẩu chi trả cho
người thụ hưởng.
- (5) NH trả tiền ghi có vào tài khoản của người hưởng lợi và gửi giấy báo
có cho người hưởng lợi.
c/ Ưu, nhược điẻm của phương thức chuyển tiền
+ Ưu điểm:
Đối với người chuyển tiền: thông thường trong ngoại thương chuyển tiền
được thực hiện sau khi đã nhận xong hàng hoá, chính vì vậy nhà nhập khẩu có thể
tận dụng được vốn của nhà xuất khẩu do chưa phải thanh toán ngay. Bên cạnh đó
chi phí để thực hiện chuyển tiền bao giờ cũng rẻ hơn chi phí để thực hiện phương
thức khác như tín dụng chứng từ.
Đối với người nhận tiền: Cũng như người chuyển tiền, người nhận tiền sẽ
mất ít chi phí hơn, thời gian và thủ tục nhanh gọn hơn các phương thức khác do
vậy tiết kiệm được công sức và tiền bạc.
+ Nhược điểm: Bên chuyển tiền có thể chiếm dụng vốn của bên nhận tiền

trong quan hệ thương mại do việc thực hiện chuyển tiền thường diễn ra sau khi đã
giao nhận hàng hoá xong.
13
1.1.3.3 Phương thức nhờ thu
a/ Khái niệm:
Nhờ thu là phương thức thanh toán, trong đó bên bán (nhà xuất khẩu) sau
khi giao hàng hay cung ứng dịch vụ, uỷ thác cho NH phục vụ mình xuất trình bộ
chứng từ thông qua NH thu hộ cho bên mua (nhà nhập khẩu) để được thanh toán,
chấp nhận hối phiếu hay chấp nhận các điều kiện và điều khoản khác.
Để nhờ thu trở thành phương thức thanh toán hiệu quả thì người mua và
người bán phải thoả thuận chi tiết các điều kiện thanh toán quy định trong hợp
đồng ngoại thương. Trên cơ sở các thoả thuận này, người bán thực hiện nhờ thu
qua NH phục vụ mình.
Văn bản pháp lý điều chỉnh nhờ thu là Quy tắc thống nhất về nhờ thu hiện
hành có hiệu lực từ tháng 6 năm 1995 (viết tắt là URC 522). Khi URC 522 được
dẫn chiếu trong Lệnh nhờ thu thì tất cả các bên liên quan phải thực thi quyền lợi
và nghĩa vụ của mình theo đúng bản Quy tắc này. Tuy nhiên, nếu các bên có thoả
thuận khác với bản Quy tắc hoặc bản Quy tắc trái với luật pháp quốc gia thì bản
Quy tắc sẽ không được áp dụng; nghĩa là các bên liên quan có quyền thoả thuận
riêng về nhờ thu; đồng thời luật pháp quốc gia luôn phải được tôn trọng vượt lên
trên Quy tắc này. Điều này xảy ra là vì URC 522 chỉ là bản Quy tắc tuỳ ý, nó chỉ
có hiệu lực khi các bên thoả thuận áp dụng và được dẫn chiếu vào trong nhờ thu,
vì là Quy tắc tuỳ ý nên không thể vượt lên trên luật quốc gia được. Chính vì vậy
khi áp dụng URC 522 các bên liên quan luôn phải tính đến đặc điểm luật pháp các
quốc gia liên quan đến nhờ thu.
Nhờ thu có hai loại: Nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ
b/ Nhờ thu phiếu trơn: Là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho NH
thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ gửi
hàng thì gửi thẳng cho người mua không qua NH.
14

- Trình tự tiến hành nghiệp vụ nhờ thu phiếu trơn gồm các bước:
+ Người bán sau khi gửi hàng và chứng từ gửi hàng cho người mua, lập
một hối phiếu đòi tiền người mua và uỷ thác cho NH của mình đòi tiền hộ bằng
chỉ thị nhờ thu.
+ NH phục vụ bên bán gửi thư uỷ thác nhờ thu kèm hối phiếu cho NH đại
lý của mình ở nước người mua nhờ thu tiền.
+ NH đại lý yêu cầu người mua trả tiền hối phiếu (nếu là hối phiếu trả tiền
ngay) hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu (nếu là trả chậm).
+ NH đại lý chuyển tiền thu được cho người bán, nếu chỉ là chấp nhận hối
phiếu thì NH giữ hối phiếu hoặc chuyển lại cho người bán. Khi đến hạn thanh
toán NH sẽ đòi tiền người mua và thực hiện chuyển tiền trả người bán.
Sau đây là sơ đồ trình tự nghiệp vụ nhờ thu phiều trơn:




Sơ đồ 1.3: Quy trình nghiệp vụ nhờ thu phiếu trơn
(1) Nhờ thu hối phiếu
(2, 3) Đòi tiền người mua
(4) Người mua trả tiền cho người bán
- Phương thức nhờ thu phiếu trơn thường chỉ được áp dụng cho những
trường hợp sau:
15
NH
chuyển chứng từ
NH thu và
xuất trình chứng từ
Người bán
Người mua
(2)

(4)
(4)
(1)
(3)
(4)
Gửi hàng và chứng từ
+ Người bán và người mua tin cậy lẫn nhau hoặc là có quan hệ liên doanh
với nhau giữa công ty mẹ, công ty con hoặc chi nhánh của nhau.
+ Thanh toán về các dịch vụ có liên quan tới xuất khẩu hàng hoá, vì việc
thanh toán này không cần thiết phải kèm theo chứng từ như tiền phí vận tải, bảo
hiểm, phạt bồi thường v.v
Phương thức nhờ thu phiếu trơn không được áp dụng nhiều trong thanh
toán về mậu dịch, vì nó không bảo đảm quyền lợi cho người bán, vì việc nhận
hàng của người mua hoàn toàn tách rời khâu thanh toán, do đó người mua có thể
nhận hàng và không trả tiền hoặc chậm trễ trả tiền. Đối với người mua áp dụng
phương thức này cũng có điều bất lợi, vì nếu hối phiếu đến sớm hơn chứng từ,
người mua phải trả tiền ngay trong khi không biết việc giao hàng của người bán
có đúng hợp đồng hay không.
c/ Nhờ thu kèm chứng từ: Là phương thức thanh toán, trong đó chứng từ
gửi đi nhờ thu bao gồm: hoặc chứng từ thương mại cùng với chứng từ tài chính;
hoặc chỉ chứng từ thương mại mà không có chứng từ tài chính gửi cùng. NH thu
hộ chỉ trao bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu sau khi người này trả tiền hoặc chấp
nhận trả tiền hối phiếu.
- Trình tự tiến hành nghiệp vụ nhờ thu kèm chứng từ:



Sơ đồ 1.4: Quy trình nghiệp vụ nhờ thu kèm chứng từ
16
NH

chuyển chứng từ
NH thu và
xuất trình chứng từ
Người bán
Người mua
(4)
(2)
(4)
(4)
(3)
(1)
Gửi hàng
Cũng giống như nhờ thu phiếu trơn, chỉ khác ở khâu (1) là lập một bộ
chứng từ nhờ NH thu hộ tiền. Bộ chứng từ gồm có hối phiếu và các chứng từ gửi
hàng kèm theo, ở khâu (3) là NH đại lý chỉ trao chứng từ gửi hàng cho người mua
nếu như người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu.
Trong nhờ thu kèm chứng từ, người bán uỷ thác cho NH ngoài việc thu hộ
tiền còn nhờ NH khống chế chứng từ vận tải đối với người mua. Đây là sự khác
nhau cơ bản giữa nhờ thu kèm chứng từ và nhờ thu phiếu trơn. Với cách khống
chế chứng từ này, quyền lợi của người bán được đảm bảo hơn.
- Người bán thông qua NH mới khống chế được quyền định đoạt hàng hoá
của người mua, chứ chưa khống chế được việc trả tiền của người của người mua.
Người mua có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận chứng từ hoặc có thể
không trả tiền cũng được, khi tình hình thị trường bất lợi với họ.
- Trong phương thức này NH chỉ đóng vai trò là người trung gian thu tiền
hộ, còn không có trách nhiệm đến việc trả tiền của người mua.
d/ Những vấn đề sử dụng phương thức nhờ thu:
- Văn bản pháp lý quốc tế thông dụng của nhờ thu là “Quy rắc thống nhất
về nhờ thu” số 522 của Phòng thương mại quốc tế, bản sửa đổi năm 1995
(Uniform Rules for the Collection, 1995 Revision No 522, ICC).

Quy tắc này mang tính tuỳ ý nên muốn áp dụng nó, hai bên mua bán phải
thống nhất quy định trong hợp đồng.
- Người bán phải lập một chỉ thị nhờ thu gửi đến NH đại diện cho mình
nhờ thu hộ tiền. Trong chi thị nhờ thu, người bán phải đề ra những điều kiện nhờ
thu và được NH chấp nhận. Đây là chứng từ pháp lý cụ thể điều chỉnh quan hệ
giữa người bán và NH phục vụ bên bán.
Nội dung của chỉ thị nhờ thu thường bao gồm điều kiện sau: Điều kiện trả
tiền là D/A hay D/P. Điều kiện D/P (Documentary against payment: thanh toán
17
đổi lấy chứng từ), người mua phải trả tìên hối phiếu thì NH mới trao chứng từ
cho. Điều kiện D/A (Documentary against acceptance: chấp nhận đổi lấy chứng
từ) thì người mua phải chấp nhận trả tiền NH mới trao trả chứng từ.
1.1.3.4 Phương thức ghi sổ.
a/ Khái niệm
Là phương thức thanh toán, trong đó người bán mở một tài khoản (hoặc
một quyển sổ) để ghi nợ người mua sau khi người bán đã hoàn thành giao hàng
hay dịch vụ, đến từng kỳ hạn đã định người mua trả tiền cho người bán.
b/ Đặc điểm của phương thức ghi sổ:
- Không có sự tham gia của NH với chức năng là người mở tài khoản và
thực hiện thanh toán.
- Chỉ có hai bên tham gia thanh toán là nhà xuất khẩu và nhập khẩu
- Chỉ mở tài khoản đơn biên, không mở tài khoản song biên. Nếu người
nhập khẩu mở tài khoản để ghi nợ thì tài khoản này chỉ là để theo dõi, không có
hiệu lực thanh quyết toán.
- Hai bên mua bán phải thực sự tin tưởng lẫn nhau
- Dùng chủ yếu trong mua bán hàng đổi hàng hay cho một loạt các chuyến
hàng thường xuyên, định kỳ trong thời gian nhất định.
- Giá hàng trong phương thức này thường cao hơn giá hàng bán trả tiền
ngay vì có tính đến yếu tố lãi suất và rủi ro tín dụng.
Hiện nay nước Anh và các nước EU hay sử dụng phương thức thanh toán

ghi sổ bởi vì giữa các nước này có sự tương đồng về văn hoá, tập quán kinh
doanh, luật lệ, các KH có mối quan hệ kinh doanh truyền thống, thường xuyên,
lâu dài và tin tưởng lẫn nhau.
18
c/ Trình tự tiến hành nghiệp vụ:
Ng
Sơ đồ 1.5: Quy trình nghiệp vụ ghi sổ
(1) Giao hàng hoặc dịch vụ cùng với gửi chứng từ hàng hoá.
(2) Báo nợ trực tiếp
(3) Người mua dùng phương thức chuyển tiền để trả tiền khi đến kỳ thanh toán.
d/ Trường hợp cho áp dụng:
- Thường dùng cho thanh toán nội địa.
- Hai bên mua, bán phải thực sự tin cậy lẫn nhau.
- Dùng cho phương thức mua bán hàng đổi hàng, nhiều lần, thường xuyên
trong một thời kỳ nhất định (6 tháng, 1 năm).
- Phương thức này chỉ có lợi cho người mua.
- Dùng cho thanh toán tiền gửi bán hàng ở nước ngoài.
- Dùng trong thanh toán phi mậu dịch như: tiền cước phí vận tải, tiền phí bảo
hiểm, tiền hoa hồng trong nghiệp vụ môi giới, uỷ thác, tiền lãi cho vay và đầu tư.
e/ Những điều cần chú ý khi áp dụng là:
- Quy định thống nhất đồng tiền ghi trên tài khoản.
- Căn cứ ghi nợ của người bán thường là hoá đơn thương mại.
- Căn cứ nhận nợ của người mua, hoặc là dựa vào trị giá hoá đơn giao
hàng, hoặc là dựa vào kết quả nhận hàng ở nơi nhận hàng.
19
NH
bên Bán
NH bên mua
Người bán
Người mua

(3)
(3)
(2)
(1)
(3)
- Phương thức chuyển tiền hoặc là bằng thư, hoặc là bằng điện cần phải
thoả thuận thống nhất giữa hai bên.
- Giá hàng trong phương thức ghi sổ này thường cao hơn giá hàng bán tiền
ngay. Chênh lệch này là tiền lãi phát sinh ra của số tiền ghi sổ trong khoảng thời
gian bằng định kỳ thanh toán theo mức lãi suất được người mua chấp nhận.
1.2 Phát triển thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Quan niệm về phát triển thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại
Để hiểu rõ phát triển TTQT là gì, phải bắt đầu từ khái niệm thế nào là
phát triển. Theo từ điển bách khoa Việt Nam, phát triển được hiểu là biến đổi
hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp.
Từ khái niệm này cho thấy muốn đề cập đến phát triển một đối tượng
nào đó là thể hiện sự gia tăng cả về mặt chất lượng và số lượng đối tượng ấy.
Ví dụ, khi nói đến phát triển kinh tế thì được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi
mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả
về lượng và về chất, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện
của hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia.
Vậy khái niệm phát triển TTQT là sự gia tăng về mặt số lượng và chất
lượng của hoạt động này. Phát triển TTQT về mặt số lượng cho thấy việc
thanh toán các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh có liên quan tới các quan hệ kinh tế,
thương mại và các mối quan hệ khác giữa các tổ chức, các công ty, các chủ
thể khác nhau của các nước ngày càng tăng lên. Sự tăng lên được thể hiện ở
số món, số tiền kỳ sau cao hơn kỳ trước, năm sau cao hơn năm trước. Theo
nghĩa này thì phát triển TTQT gần như là việc mở rộng quy mô hoạt động,
phát triển theo chiều rộng. Tuy nhiên, phát triển TTQT theo chiều rộng không

thể nói lên chất lượng và độ an toàn của hoạt động này. Do đặc thù của TTQT
có liên quan đến yếu tố nước ngoài nên mức độ rủi ro lớn, chính vì lẽ đó
20
ngoài việc mở rộng quy mô hoạt động các NHTM không thể bỏ qua khâu chất
lượng. Và đó chính là việc phát triển TTQT về mặt chất. Để nâng cao chất
lượng TTQT, các NHTM có nhiều biện pháp hữu hiệu, có thể nêu ra một số
biện pháp như:
+ Thiết lập các NH đại lý ở các nước, vùng, lãnh thổ trên thế giới và
coi đây như là một mắt xích quan trọng giúp NH trong nước tìm hiểu rõ đối
tượng KH tại nước có đặt NH đại lý.
+ Xây dựng một quy trình TTQT phù hợp với luật pháp trong nước và
các tập quán, luật pháp quốc tế. Điều này giúp cho hệ thống hoạt động trơn
tru hơn, chuyên nghiệp hơn và do đó hạn chế được những rủi ro.
+ Một yếu tố vô cùng quan trọng khác chính là nguồn nhân lực. Bố trí,
phân công cán bộ làm nghiệp vụ TTQT ngoài những tiêu chuẩn chung phải là
những người có trình độ chuyên môn và ngoại ngữ.
Ngày nay, TTQT là một dịch vụ trở lên quan trọng đối với các NHTM,
nó đem lại nguồn thu đáng kể không những về số lượng tuyệt đối mà còn cả
về tỷ trọng. TTQT còn là một mắt xích quan trọng trong việc chắp nối và thúc
đẩy phát triển các hoạt động kinh doanh khác của NH như kinh doanh ngoại
tệ, bảo lãnh NH, kiều hối, tăng cường nguồn vốn huy động, đặc biệt là vốn
bằng ngoại tệ.
Việc hoàn thiện và phát triển TTQT có vai trò hết sức quan trọng đối
với hoạt động NH, nó không chỉ là một dịch vụ thanh toán thuần tuý mà còn
là khâu trung tâm không thể thiếu trong dây chuyền hoạt động kinh doanh, bổ
sung và hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh khác của NH.
Ngày nay, do nghiệp vụ NH quốc tế phát triển mạnh mẽ, thuận tiện, an
toàn và hiệu quả nên hầu hết hoạt động TTQT đều diễn ra thông qua hệ thống
NH, đồng thời TTQT đã phát triển theo một tập quán thống nhất trên quy mô
toàn thế giới thông qua các phương thức TTQT khác nhau.

21
1.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh phát triển TTQT.
1.2.2.1 Chỉ tiêu định tính
Phản ánh phát triển TTQT bằng chỉ tiêu định tính được thể hiện qua
nhiều tiêu chí, trong đó phải nói đến các tiêu chí sau:
- Sự hài lòng của KH: Sự hài lòng của KH đối với mỗi sản phẩm, dịch
vụ của NH ngày càng được nâng cao, do đó mà uy tín, thương hiệu của NH
ngày càng được nâng lên. Việc mang đến cho KH sự hài lòng tuy không thể
lượng hoá bằng con số cụ thể nhưng có thể được thể hiện thông qua việc gia
tăng số lượng KH đến với NHTM hoặc số lượng giao dịch ngày càng tăng lên
của mỗi một KH. Để hài lòng KH và nâng cao uy tín của NHTM trong nước
và quốc tế thì trước hết nghiệp vụ TTQT phải đa dạng, phong phú. Bên cạnh
đó, cán bộ NHTM còn phải am hiểu sâu về lĩnh vực ngoại thương từ đó tư
vấn giúp KH hạn chế được những rủi ro, tổn thất. Nhìn chung, muốn đem đến
cho KH sự hài lòng, thoả mãn NH cần phải thực hiện tốt các vấn đề dưới đây:
+ Chính sách chăm sóc KH: Chính sách của NH để phát triển TTQT
trong thời kỳ có sự cạnh tranh gay gắt giữa các NHTM như hiện nay phải
thực sự hấp dẫn nhằm thu hút KH sử dụng dịch vụ của NH mình. Chính sách
TTQT của NH được gọi là hấp dẫn khi nó hội đủ các vấn đề như khả năng
cung cấp dịch vụ tín dụng xuất nhập khẩu, khả năng cung ứng nguồn ngoại tệ
khi KH cần, phí thực hiện TTQT, mức ký quỹ mở L/C Thông thường, một
DN có nhu cầu TTQT tại một NHTM thì bao giờ cũng có nhu cầu kèm theo là
tài trợ vốn. NHTM cung ứng đầy đủ vốn ngoại tệ cho KH khi có yêu cầu, kể
cả trong điều kiện thị trường ngoại hối bấp bênh và khan hiếm thì chắc chắn
sẽ gây dựng trong lòng KH sự tin tưởng và hài lòng. Hiện nay, do nguồn USD
rất khó để mua nên việc nhập hàng của các DN nhập khẩu thực sự rơi vào khó
khăn. Trong khi đó DN xuất khẩu lại có động thái “găm” USD chờ giá tăng
cao hơn nữa nhằm kiếm lời. Đứng trước tình hình này, NHTM thực sự chờ
22

×