Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.23 KB, 65 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Trong điều kiện tồn cầu hố, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới diễn ra ngày
càng mạnh mẽ, mỗi quốc gia cần phải tích cực và chủ động tham gia để đạt đựơc vị
trí thuận lợi trong sự phân công lao động quốc tế và trao đổi thương mại quốc tế.
Điều đó có nghĩa là mỗi quốc gia cần phải phát triển mạnh mẽ lĩnh vực kinh tế đối
ngoại.
Đối với nước ta phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan nhằm
phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, chúng ta vẫn đang trong qúa trình tiến hành sự
nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước. Chỉ có thông qua hoạt động kinh tế
đối ngoại chúng ta mới tạo đựơc nguồn ngoại tệ cần thiết để phục vụ nhập khẩu kỹ
thuật hiện đại, công nghệ thiết bị, đồng thời phát huy tiềm năng của đất nước, tận
dụng nguồn vốn và cơng nghệ nước ngồi để đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước, rút ngắn khoảng cách tụt hậu và đưa nền kinh tế đất nước
từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Như một mắt xích khơng thể thiếu được trong hoạt động kinh tế đối ngoại,
hoạt động thanh tốn quốc tế của các Ngân hàng ngày càng có vị trí và vai trị quan
trong, nó được xem là công cụ, là cầu nối trong quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ
kinh tế và thương mại giữa các nước trên thế giới.
Hoạt động thanh toán quốc tế là một trong những mặt hoạt động quan trọng
của Ngân hàng, nó có liên quan đến nhiều mặt hoạt động khác của Ngân hàng.
Ngân hàng cơng thương Hồn Kiếm mới tham gia hoạt động thanh toán nhưng
đã đạt được một số thành quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt động thanh toán quốc tế
của Ngân hàng cơng thương Hồn Kiếm với quy mơ nhỏ và cịn gặp nhiều khó
khăn. Việc tìm ra giải pháp để phát triển là hết sức cần thiết và cấp bách, nó khơng
những tạo điều kiện cho phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt động kinh tế đối
ngoại, góp phần vào việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước mà
còn là một tất yếu quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng

Trang 1



trong cơ chế thị trường, giúp cho Ngân hàng công thương Hoàn Kiếm sớm hội nhập
với hệ thồng Ngân hàng trong nước và thế giới.
Thanh toán quốc tế thực sự là phức tập và còn nhiều tồn tại trong cơ chế
nghiệp vụ cũng như trong công tác tổ chức và thực hiện. Chính vì vậy, chúng ta cần
phải quan tâm nghiên cứu, tìm ra biện pháp khắc phục. Xuất phát từ những vấn đề
trên, em đã nghiên cứu đề tài:
“ Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng
cơng thương Hồn Kiếm”.
Bố cục của chuyên đề gồm có ba chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân hàng cơng
thương Hồn Kiếm.
Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Chi nhánh Ngân
hàng cơng thương Hồn Kiếm.
Do cịn có những hạn chế về kiến thức chuyên môn và thời gian thực tập nên
đề tài khơng thể khơng có những hạn chế thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp
đỡ của thầy cơ để đề tài được hồn thiện hơn.
Hà Nội tháng 9 năm 2003
Sinh viên

Trang 2


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
I- Sự cần thiết của hoạt động thanh toán quốc tế qua Ngân hàng.
1. Khái niệm về thanh toán quốc tế.
“ Thanh toán quốc tế là việc chi trả các nghiệp vụ và yêu cầu về tiền tệ, phát
sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức tài

chính quốc tế, giữa các hãng, các cá nhân của các quốc gia khác nhau để kết thúc
một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình thức chuyển
tiền hay bù trừ trên các tài khoản tại Ngân hàng”.
2. Sự cần thiết của thanh toán quốc tế qua Ngân hàng thương mại.
Khi đề cập đến hoạt động ngoại thương là đề cập đến quan hệ buôn bán trao
đổi hàng hoá giữa các nước. Về cơ bản thanh toán quốc tế phát sinh dựa trên cơ sở
hoạt động ngoại thương. Thanh toán quốc tế là khâu cuối cùng của một q trình
sản xuất và lưu thơng hàng hố. Vì vậy, nếu cơng tác thanh tốn quốc tế được tổ
chức tốt thì giá trị của hàng hố xuất khẩu mới được thực hiện, góp phần thúc đẩy
ngoại thương phát triển. Thanh toán quốc tế trở thành một yếu tố quan trọng để
đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại.
Nhưng trong hoạt động mua bán luôn gắn liền với lợi ích của các bên tham
gia. Cơng tác thanh tốn trong nội địa từng nước đã khó khăn phức tạp nhưng thanh
tốn quốc tế càng khó khăn phức tạp hơn nhiều (các bên tham gia hợp đồng khác
nhau ở nhiều lĩnh vực: Chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, …). Trong mối quan hệ này
mỗi bên tham gia ngoài việc chấp hành luật pháp trong nước còn phải tuân thủ các
hiệp định, hiệp ước cũng như các tập quán thương mại khác.
Trong mua bán quyền lợi của các bên tham gia thường mâu thuẫn với nhau,
bên nào cũng muốn dành về mình phần thuận lợi hơn. Để giải quyết mâu thuẫn này

Trang 3


cần có sự tham gia của Ngân hàng, lúc này Ngân hàng đóng vai trị trung gian, tạo
sự tin tưởng, thuận lợi cho cả hai bên.
Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng thương mại hiện đại đã góp phần thúc
đẩy hoạt động thanh toán quốc tế giữa các nước diễn ra nhanh chóng, thuận lợi
chính xác và đảm bảo được quyền lợi của các bên tham gia thanh toán quốc tế.
Ngân hàng là một tổ chúc trung gian tài chính, có bề dày kinh nghiệm hoạt động
trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, đồng thời Ngân hàng có mạng lưới và quan hệ đại lý

với các Ngân hàng khác rất rộng. Ngoài ra, Ngân hàng là tổ chức tiếp cận và ứng
dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến bậc nhất nên có thể sử dụng vào các hoạt dộng
thanh tốn một cách nhanh chóng, chính xác. Chính những điều trên mà hầu hết mọi
hoạt động thanh toán quốc tế đều diễn ra cần có sự tham gia của các Ngân hàng.
3.Vai trị của hoạt động thanh tốn quốc tế của Ngân hàng.
- Đối với nền kinh tế mà đặc biệt là đối với hoạt động kinh tế đối ngoại:
Thanh tốn quốc tế có vị trí quan trọng đặc biệt trong hoạt động kinh tế đối
ngoại nói chung và trong hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, đặc biệt trong bối
cảnh hiện nay khi mỗi quốc gia đều đặt kinh tế đối ngoại lên vị trí hàng đầu, coi
hoạt động kinh tế đối ngoại là con đường tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế
của mình.
Thanh tốn quốc tế là khâu quan trọng trong quá trình mua bán, trao đổi hàng
hoá, dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Nếu khơng có
hoạt động thanh tốn quốc tế thì khơng có hoạt động kinh tế đối ngoại.
Thanh toán quốc tế là chiếc cầu nối liền giữa các quốc gia quan hệ kinh tế đối
ngoại. Khi thiết lập mối quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ thương mại với các nước
thì điều kiện quan trọng không thể thiếu đựơc là phải thiết lập quan hệ thanh toán
quốc tế.
Thanh toan quốc tế thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển, nếu việc tổ
chức thanh tốn quốc tế được tiến hành nhanh chóng, an tồn chính xác sẽ làm cho
các nhà sản xuất kinh doanh sẽ yên tâm và đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của

Trang 4


mình, nhờ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển, đặc biệt là hoạt động
ngoại thương.
Thanh toán quốc tế hạn chế rủi ro trong qúa trình thực hiện hợp đồng kinh tế
đối ngoại: Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, do vị trí địa lý của bạn hàng cách xa
nhau làm hạn chế việc tìm hiểu khả năng tài chính, khả năng thanh tốn của người

mua, của con nợ, đồng thời trong điều kiện tiền tệ thường xuyên biến động, khả
năng thanh toán của con nợ là rất bấp bênh, hơn nữa trong cơ chế thị trường tình
trạng lừa đảo ngày càng nhiều vì vậy rủi trong việc thực hiện hợp đồng kinh tế đối
ngoại ngày càng lớn. Nếu tổ chức tốt hoạt động thanh toán quốc tế sẽ giúp cho các
nhà kinh doanh xuất nhập khẩu hạn chế được rủi ro trong quá trình thực hiện hợp
đồng, nhờ đó thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển.
- Đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng: Việc hoàn thiện để phát triển
hoạt động thanh tốn quốc tế có một ý nghĩa hết sức thiết thực, hoạt động thanh toán
quốc tế là một dịch vụ thuần tuý làm tăng khả năng cạnh tranh của Ngân hàng, nó
bổ sung và hỗ trợ cho các hoạt động khác của Ngân hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho Ngân hàng thu hút thêm nhiều khách
hàng, trên cơ sở đó Ngân hàng tăng được quy mơ hoạt động của mình, giúp cho
Ngân hàng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, trên cơ sở đó tạo được niền tin cho
khách hàng và nâng cao uy tín của mình. Từ đó mà có thể khai thác được nguồn vốn
tài trợ của Ngân hàng nước ngoài về nguồn vốn trên thị trường tài chính quốc tế để
đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho Ngân hàng phát triển được nghiệp vụ
bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ và các dịch vụ khác. Nếu hoạt động thanh tốn quốc
tế được đẩy mạnh thì sẽ đẩy mạnh được hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu
cũng như tăng cường được nguồn vốn huy động do tạm thời quản lý được nguồn
vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp có quan hệ thanh tốn quốc tế qua Ngân hàng.
Hoạt động thanh toán quốc tế giúp cho Ngân hàng tăng thu nhập và tăng
cường khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trong cơ chế thị trường, đồng thời nó
giúp cho hoạt động Ngân hàng vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và hoà nhập với hệ
thống Ngân hàng thế giới.
Trang 5


II- Các phương thức thanh toán quốc tế.
Phương thức chuyển tiền.

“ Phương thức chuyển tiền là phương thức mà trong đó khách hàng (người trả
tiền) yêu cầu Ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác
(người hưởng lợi) ở một địa điểm nhất định bằng phương thức chuyển tiền do khách
hàng yêu cầu”.
Phương thức này có thể mơ tả khái qt theo sơ đồ sau:

Người nhận chuyển tiền

Người chuyển tiền

(1)

Ngân hàng nước
người chuyển tiền

(3)

(2)

Ngân hàng nước nhận
chuyển tiền

(1). Người chuyển tiền yêu cầu Ngân hàng nước mình chuyển một số tiền nhất
định cho người được hưởng ở nước ngoài.
(2). Ngân hàng phục vụ người chuyển tiền nhận thực hiện yêu cầu của người
chuyển tiền, làm thủ tục chuyển tiền ra nứơc ngoài.
(3). Ngân hàng nước ngoài nhận đựơc chuyển tiền sau khi đã nhận tiền chuyển
đến, thực hiện trả tiền cho người nhận.
Thanh toán chuyển tiền bao gồm các loại:
- Chuyển tiền bằng điện (Telegraphic Transfer – T/T).

Chuyển tiền bằng điện tốc độ nhanh, nhưng chi phí cao. Ngày nay khi tham
gia mạng SWITF thì hầu hết chuyển tiền được thực hiện trên mạng SWITF.
- Chuyển tiền bằng thư (Mail Transfer – M/T).
Trang 6


Chuyển tiền bằng thư chi phí thấp hơn chuyển tiền bằng điện, song tốc độ lại
chậm hơn. Chuyển tiền bằng điện thì người chuyển tiền khơng bị động vốn lâu
ngày, nhưng tỷ giá ngoại tệ áp dụng trong điện hối cao hơn tỷ giá ngoại tệ trong thư
hối.
Chuyển tiền là một phương thức thanh toán trực tiếp giữa hai bên. Phương
thức này rất đơn giản, ở đây Ngân hàng chỉ là người trung gian thực hiện việc thanh
toán theo uỷ nhiệm hưởng hoa hồng, khơng bị ràng buộc gì về tránh nhiệm. Khi áp
dụng phương thức này thì giữa hai bên mua bán phải có tín nhiệm rất cao, việc
thanh tốn phụ thuộc vào thiện chí của người mua. Vì vậy chuyển tiền ít được sử
dụng trong thánh tốn hàng hoá ngoại thương mà thường được sử dụng trong quan
hệ trả nợ, tiền đặt cọc, tiền ứng trước, trả tiền thừa, thanh tốn những khoản chi phí
phi mậu dịch hay tiền bồi thường.
Phương thức ghi sổ (Open account).
“ Là phương thức thanh toán mà người bán mở một tài khoản (hoặc một quyển
sổ) để ghi nợ người mua sau khi người bán đã hồn thành giao hàng hố hay dịch
vụ, đến từng định kỳ (tháng, quý, nửa năm) người mua trả tiền cho người bán”.
Đặc điểm của phương thức này là một phương thức thanh tốn khơng có sự
tham gia của Ngân hàng với chức năng là người mở tài khoản và thực thi thanh
toán. Chỉ mở tài khoản đặc biệt, không mở tài khoản song biên. Nếu người mua mở
tài khoản để ghi thì tài khoản ấy chỉ là tài khoản theo dõi, khơng có giá trị quyết
tốn giữa hai bên, chỉ có hai bên tham gia thanh tốn: người bán và người mua.
Trình tự tiến hành:
(1). Giao hàng hoặc dịch vụ cùng với gửi chứng từ hàng hoá.
(2). Báo nợ trực tiếp.

(3). Người mua dùng phương thức chuyển tiền để trả tiền khi đến định kỳ
thanh toán.

Ngân hàng bên bán
(3)

Ngân hàng bên mua

Trang 7

Người bán

Người mua


(3)

(3)
(2)
(1)

Phương thức này thường được dùng cho thanh toán nội địa, hai bên mua bán
phải thực sự tin cậy lẫn nhau. Dùng cho thanh toán tiền gửi bán hàng ở nước ngồi,
hay dùng trong thanh tốn phi mậu dịch như: tiền cước phí vận tải, tiền phí bảo
hiểm, tiền hoa hồng trong nghiệp vụ môi giới, uỷ thác, tiền lãi cho vay và đầu tư.
Dùng cho phương thức hàng đổi hàng, nhiều lần thường xuyên trong một thời kỳ
nhất định. Phương thức này chỉ có lợi cho người mua.
Phương thức thanh toán nhờ thu( Collection of payment).
“ Phương thức thanh toán nhờ thu là một phương thức thanh toán quốc tế trong
đó người xuất khẩu (người bán) sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng, hoặc

cung ứng dịch vụ cho người nhập khẩu (người mua), uỷ thác cho Ngân hàng phục
vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu nước ngoài, trên cơ sở hối phiếu do người
xuất khẩu ký phát”.
Trong thanh toán quốc tế, khi sử dụng phương thức này các nước thường vận
dụng “ Bản quy tắc thông nhất về nhờ thu chứng từ thương mại – ICC 522” do
phòng thương mại quốc tế Paris ban hành, bản sửa đổi năm 1995.
* Quy trình thanh tốn uỷ thác thu:
Khi việc chi trả được tiến hành theo phương thức uỷ thác thu, thì có thể mơ tả
khái qt quy trình đó như sau:
(1). Căn cứ vào hợp đông mua bán ngoại thương, người xuất khẩu tiến hành
gửi hàng cho người nhập.

Trang 8


(2). Ngay sau khi đã gửi hàng ra nước ngoài, người xuất khẩu lập bộ chứng từ,
phát hành hối phiếu và gửi cho Ngân hàng phục vụ mình để nhờ Ngân hàng thu hộ
tiền.
(3). Nhận đựơc bộ chứng từ hàng hoá, hối phiếu do người xuất khẩu gửi tới,
Ngân hàng xuất khẩu tiến hành kiểm tra chứng từ và lập thư uỷ nhiệm, rồi gửi các
chứng từ ấy cho Ngân hàng nước người nhập khẩu.
(4). Nhận được các chứng từ từ Ngân hàng xuất khẩu, Ngân hàng nhập khẩu
phải kiểm tra những nội dung trên các chứng từ đó, rồi thông báo cho người nhập
khẩu biết.
(5). Sau khi đựơc thông báo về bộ chứng từ do người xuất khẩu gửi tới. Nếu
nhất trí, thì người nhập khẩu phải chấp nhận trả tiền hối phiếu hoặc trả tiền ngay bộ
chứng từ đó.
(6). Sau khi đã được người nhập khẩu trả tiền, Ngân hàng nhập khẩu làm thủ
tục chuyển trả số tiền ấy cho người xuất khẩu thông qua Ngân hàng xuất khẩu.
(7). Khi đã nhận được tiền do Ngân hàng nhập khẩu chuyển tiền đến, Ngân

hàng xuất khẩu trả số tiền đó cho người xuất khẩu.

Người xuất khẩu

(2)

Người nhập khẩu

(1)

(7)

(4)

(5)

Ngân hàng nước nhập
khẩu

Ngân hàng nước
xuất khẩu
(3)
(6)

Trong thanh toán uỷ thác thu, nếu người xuất khẩu không thực hiện trọn vẹn
và đầy đủ các cam kết với người nhập khẩu trong hợp đồng mua bán ngoại thương

Trang 9



thì người nhập khẩu có quyền từ chối thanh tốn (một phần hay tồn bộ) số tiền trên
giấy địi tiền của người xuất khẩu.
Trong thanh toán uỷ thác thu, người xuất khẩu thông qua Ngân hàng chỉ khống
chế được quyền định đoạt hàng hoá, mà chưa khống chế được việc trả tiền của
người nhập khẩu. Người nhập khẩu có thể bằng cách chưa nhận bộ chứng từ hàng
hoá, để kéo dài việc trả tiền cho người xuất khẩu, hoặc có thể khơng trả tiền khi tình
hình thị trường bất lợi cho họ.
Đối với hình thức thanh tốn uỷ nhiệm thu, Ngân hàng chỉ là người trung gian
thu hộ tiền cho người xuất khẩu, cịn khơng có trách nhiệm với việc trả tiền của
người nhập khẩu. Hình thức này tuy về thủ tục có phần đơn giản song việc trả tiền
cịn chậm.
Trong thanh toán ngoại thương, nhờ thu được chia làm hai loại:
a. Nhờ thu phiếu trơn (nhờ thu không kèm chứng từ – Clean collection): Khi
việc đòi tiền chỉ dựa trên chứng từ đòi tiền là hối phiếu do người xuất khẩu ký phát,
mà không kèm theo các chứng từ hàng hố, thì được gọi là nhờ thu phiếu trơn.
Loại này thường được dùng trong thanh toán tiền chi trả về dịch vụ, cước phí
bảo hiểm, tiền phạt, tiền bồi thường,…
b. Uỷ thác thu kèm chứng từ (Documentary collectttion). Khi việc địi tiền,
ngồi hối phiếu do người xuất khẩu ký phát, cịn phải kèm theo các chứng từ về
hàng hố, gọi là uỷ thác thu kèm chứng từ.
Tuỳ theo cách thức trả tiền của người nhập khẩu, mà uỷ thác thu kèm chứng từ
có thể là chấp nhận trả tiền trao chứng từ (Documents against acceptance – D/A)
hoặc trả tiền trao chứng từ (Documents against payment – D/P).
Nếu là D/A thì người nhập khẩu phải ký tên chấp nhận trả tiền trên hối phiếu
do người xuất khẩu ký phát, thì mới được nhận hàng trao cho bộ chứng từ hàng hố.
Nếu là D/P thì người nhập khẩu phải trả ngay số tiền theo tờ phiếu trả tiền
ngay do người xuất khẩu lập, thì mới đuợc quyền lấy bộ chứng từ hàng hoá từ Ngân
hàng.

Trang 10



Phương thức tín dụng chứng từ (Letter of credit – L/C).
Trong thanh tốn quốc tế nói chung, đặc biệt trong thanh tốn ngoại thương
hình thức thanh tốn bằng L/C được sử dụng rất phổ biến. Khi vận dụng vào hình
thức thanh toán này, các nước dựa vào “ Bản điều lệ và cách thức thực hành thống
nhất về tín dụng chứng từ – UCP 500” do phòng thương mại quốc tế Paris ban hành
năm 1993.
Theo “ Bản điều lệ và cách thức thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ”
thì tín dụng chứng từ được hiểu như sau:
“ Thư tín dụng (L/C) là một bản cam kết dùng trong thanh tốn, trong đó một
Ngân hàng (Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu) theo yêu cầu của người nhập
khẩu tiến hành mở và chuyển đến chi nhánh hay đại lý của ngân hàng này ở nước
ngoài (Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu) một L/C cho người được hưởng
(Người xuất khẩu) một số tiền nhất định trong thời hạn qui định, với điều kiện
người được hưởng phải xuất trình đầy đủ các chứng từ phù hợp với những nội dung,
điều kiện ghi trong thư tín dụng “.
Tham gia nghịệp vụ thanh tốn bằng thư tín dụng có thể gồm nhiều bên, thơng
thường có các bên sau:
- Người u cầu mở thư tín dụng (The applicant for the credit) là người nhập
khẩu (Người mua).
- Người hưởng thư tín dụng (The benifitciary) là người xuất khẩu (Người bán).
Các ngân hàng liên quan: ít nhất có hai Ngân hàng tham gia: Ngân hàng mở L/
C còn gọi là Ngân hàng phát hành L/C (The issuing bank), Ngân hàng này có trách
nhiệm trích trả tiền cho người xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với
L/C; Ngân hàng thông báo L/C (Advising Bank) là Chi nhánh Ngân hàng hoặc đại
lý của Ngân hàng phát hành L/C hoặc Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.
Tuỳ theo từng L/C cụ thể, mà còn có các Ngân hàng khác tham gia như:
- Ngân hàng thanh toán, chiết khấu (The Negotiating Bank) : Ngân hàng này
trực tiếp trả tiền cho L/C. Trên thực tế Ngân hàng thanh tốn L/C chính là Ngân


Trang 11


hàng L/C hoặc Ngân hành thông báo, hoặc một ngân hàng nào đó do Ngân hàng
phát hành L/C chỉ định.
- Ngân hàng xác nhận L/C (The confirming Bank). Theo yêu cầu của người
hưởng lợi, một Ngân hàng đứng ra xác nhân L/C sẽ cùng với Ngân hàng phát hành
L/C có trách nhiệm trả tiền đối với L/C.
* Qui trình thanh toán L/C:
(1). Người nhập khẩu dựa vào hợp đồng mua bán ngoại thương ký với người
xuất khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng của mình, yêu cầu Ngân hàng này
mở L/C cho người xuất khẩu hưởng.
(2). Theo đơn xin mở L/C, Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu mở một L/C
(phát hành L/C) cho người xuất khẩu hưởng. Ngân hàng này chuyển bản chính L/C
cho người xuất khẩu (Ngân hàng thông báo).
(3). Ngân hàng xuất khẩu xác nhận L/C bằng văn bản và gửi bản chính L/C
cho người xuất khẩu.
(4). Căn cứ vào nội dung của L/C, Người xuất khẩu thực hiện giao hàng cho
người nhập khẩu.
(5). Sau khi hoàn tất việc giao hàng, người xuất khẩu phải hồn chỉnh ngay bộ
các chứng từ hàng hố và hối phiếu gửi về ngân hàng phục vụ mình, yêu cầu ngân
hàng này trả tiền cho bộ chứng từ đó.
(6). Ngân hàng thông báo nhận được bộ chứng từ. Kiểm tra kỹ nội dung các
chứng từ đó nếu thấy phù hợp thì ngân hàng thanh tốn (hoặc chấp nhận chiết khấu
theo những điều khoản của L/C).
(7). Ngân hàng thông báo chuyển bộ chứng từ thanh toán cho Ngân hàng phục
vụ người nhập khẩu.
(8). Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu (Ngân hàng phát hành L/C) sau khi
nhận đựơc bộ các chứng từ từ Ngân hàng thông báo chuyển đến, tiến hành kiểm tra

kỹ các chứng từ này, nếu thấy đáp ứng được những yêu cầu của L/C, thì chuyển tiền
trả cho Ngân hàng thông báo.

Trang 12


(9). Ngân hàng phát hành L/C thông báo cho người nhập khẩu biết đã trả tiền
cho người xuất khẩu, đồng thời yêu cầu người nhập khẩu hoàn lại số tiền này, sau
đó Ngân hàng phát hành L/C trao người nhập khẩu bộ chứng từ để làm căn cứ nhận
hàng.

Ngân hàng xuất
khẩu(Ngân hàng thông
báo L/C)
(3)

(5)

(2)
(7)
(8)

(6)

Người xuất khẩu

Ngân hàng nhập khẩu
(Ngân hàng mở L/C)

(1)


(4)

(9)

Người nhập khẩu

Nét đặc thù trong thanh toán L/C là việc trả tiền của Ngân hàng chỉ căn cứ vào
sự phù hợp của các chứng từ hàng hoá với những điều kiện nêu trong thư tín dụng
mà khơng trực tiếp dựa vào hợp đồng mua bán ngoại thương. Do vây, Ngân hàng
không bị ràng buộc bởi những điều khoản trong hợp đồng mua bán ngoại thương,
mà chỉ bị ràng buộc các điều kiện trong nội dung của L/C khi nó đã được mở.
Thanh tốn bằng L/C tuy có phức tạp về mặt thủ tục, song các nguyên tắc
thanh toán rất chặt chẽ, rõ ràng, nên việc nhận hàng và trả tiền ln ln được đảm
bảo. Vì thế, hình thức này được sử dụng rất rộng rãi trong thương mại quốc tế.
Hiện nay trong thanh tốn quốc tế có nhiều loại thư tín dụng được sử dụng:
- Thư tín dụng có thể huỷ bỏ (Revocable L/C): Với loại này, sau khi L/C được
mở, thì nội dung của L/C có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào,
khơng cần có sự đồng ý của người được hưởng và người yêu cầu mở L/C.
Như vậy, thư tín dụng này chưa phải là văn bản cam kết trả tiền thực sự, mà
mới chỉ là một thư hẹn sẽ trả tiền. Do vậy, loại L/C này ít được sử dụng.

Trang 13


- Thư tín dụng khơng thể huỷ bỏ (Irrevocable L/C): Khi loại L/C này được mở
thì người yêu cầu mở L/C sẽ không được tự ý sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ những
nội dung của nó, nếu khơng có sự đồng ý của người được hưởng L/C. Như vậy, tính
đảm bảo của L/C này rất cao, nên nó được dùng khá phổ biến trong thanh toán
thương mại quốc tế. Loại L/C này là cơ sở của các loại L/C khác.

- Thư tín dụng khơng thể huỷ bỏ có xác nhận (Irevocable confirmed L/C): Đây
là loại thư tín dụng khơng thể huỷ bỏ, đồng thời lại có sự xác nhận trả tiền của một
Ngân hàng nhất định. Dùng thư tín dụng loại này thì việc nhận tiền của người xuất
khẩu là vô cùng chắc chắn.
Đối với người nhập khẩu khi phải mở loại L/C này thì ngồi việc phải ký vốn
mở L/C tại Ngân hàng, trả thủ tục phí mở L/C, cịn phải chịu thêm phí xác nhận và
đặt cọc tiền xác nhận cho Ngân hàng xác nhận L/C. Đó là những bất lợi cho người
nhập khẩu.
- Thư tín dụng khơng thể huỷ bỏ miễn truy địi (Irrevocable without recuorse
L/C): Khi sử dụng loại L/C này, thì người xuất khẩu (người hưởng lợi L/C) phải
phát hành một hối phiếu ghi “ khơng được truy địi người phát phiếu”. Như vậy, sau
khi đã thanh toán cho người huởng, Ngân hàng mở L/C mất quyền truy đòi lại số
tiền của L/C bất kỳ trong trường hợp nào. Loại L/C này được dùng rất phổ biến
trong các hợp đồng mua bán chịu hàng hố.
- Thư tín dụng khơng thể huỷ bỏ có thể chuyển nhượng đựơc (Irrevocable
Transferable L/C): Đây là loại thư tín dụng khơng thể huỷ bỏ, trong đó quy định
quyền của Ngân hàng trả tiền được trả toàn bộ hay một phần số tiền của L/C cho
một hay nhiều người khác, theo lệnh của người được hưởng lợi đầu tiên. Loại L/C
này chỉ được chuyển nhượng một lần, chi phí cho việc chuyển nhượng do người
hưởng lợi đầu tiên chịu.
- Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): Thơng thường khi tiến hành mua
bán qua trung gian thì người ta dùng loại thư tín dụng này.

Trang 14


Sau khi nhận được L/C do người nhập khẩu mở cho mình, thì người xuất khẩu
dùng L/C này để mở một L/C khác cho người khác hưởng với những nội dung gần
giống như L/C ban đầu (L/C gốc), như vậy L/C sau gọi là L/C giáp lưng.
- Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): Loại L/C này thường được dùng

trong phương thức mua bán quốc tế hàng đổi hàng hoặc trong gia cơng quốc tế. Thư
tín dụng đối ứng chỉ bắt đầu có hiệu lực khi một thư tín dụng đối ứng nới nó đã
được mở.
- Thư tín dụng tuần hồn (Revolving L/C): Là loại thư tín dụng được dùng để
trả tiền nhiều lần, trong khuôn khổ thời hạn do hợp đồng mua bán ngoại thương quy
định. Sau khi thư tín dụng truớc đã được trả tiền song, thì thư tín dụng kế tiếp tự
động có hiệu lực. Khi khối lượng hàng hoá lớn được giao đều đặn làm nhiều lần thì
dùng loại L/C này sẽ rất thuận tiện.
- Thư tín dụng dự phịng (Stand-by L/C): Đây là loại thư tín dụng mà Ngân
hàng mở L/C chịu trách nhiệm trước người nhập khẩu về mặt tài chính khi L/C tuy
đã được mở, nhưng người xuất khẩu không thực hiện được nghĩa vụ của mình đối
với L/C. Loại L/C này được dùng phổ biến ở Mỹ.
III- Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc của Ngân
hàng thương mại.
1. Nhân tố chủ quan.
Một trong những nhân tố để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của một
Ngân hàng thương mại là đối với bản thân Ngân hàng phải có tiềm lực, phải có khả
năng để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế.
Chất lượng thanh toán quốc tế phụ thuộc vào trình độ, khả năng xử lý cơng
việc của cán bộ thanh toán, phụ thuộc vào trang thiết bị máy móc phục vụ cho việc
trao đổi thơng tin, phụ thuộc vào nguồn ngoại tệ của Ngân hàng có đủ đáp ứng kịp
thời cho việc thanh toán và một điều quan trọng là phải có sự lãnh đạo, phương
hướng hoạt động đúng đắn của ban lanh đạo.

Trang 15


Để hoạt động thanh toán quốc tế của một Ngân hàng thương mại ngày càng
phát triển thì phải khơng ngừng chú trọng nâng cao trình độ của cán bộ Ngân hàng
nói chung và cán bộ thanh tốn nói riêng, đầu tư và nâng cao trang thiết bị máy móc

cho các phịng nghiệp vụ. Ngân hàng phải tạo được uy tín, nâng cao được chất
lượng của các dịch vụ Ngân hàng để thu hút đựơc nhiều khách hàng về giao dịch từ
đó có thể khai thác được nguồn ngoại tệ cần thiết phục vụ cho nghiệp vụ cho vay
ngoại tệ tạo điều kiện mở L/C.
Bên cạnh đấy cũng phải thấy rằng kiến thức của khách hàng về lĩnh vực ngoại
thương nói chung cũng như hoạt động thanh tốn quốc tế nói riêng sẽ ảnh hưởng tới
chất lượng của quá trình thanh tốn. Thiện chí của các bên tham gia trong khi mua
bán cũng ảnh hưởng tới q trình thanh tốn. Và một điều quan trọng là khách hàng
của Ngân hàng phải có khă năng thanh tốn. Chính vì vây mà cán bộ thanh toán cần
phải tư vấn kỹ cho khách hàng, xem xét khả năng tài chính của khách hàng và Ngân
hàng phải có các biện pháp thu hút được nhiều khách hàng hơn.
2. Nhân tố khách quan.
Các nhân tố khách quan ảnh hưởng tới hoạt động thanh toán quốc tế của các
Ngân hàng thương mại như: Tình hình kinh tế xã hội của đất nước nói chung và
hoạt động kinh tế đối ngoại nói riêng, đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu. Các
chính sách kinh tế đối ngoai, chính sách tài chính quốc gia của đất nước tạo bước
phát triển về hoạt động kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu,
khuyến khích vốn đầu tư nước ngoài, cải tổ lại hệ thống Ngân hàng .v.v.. từ đó thúc
đẩy hoạt động thanh tốn quốc tế phát triển.
Bên cạnh đấy hệ thống thanh tốn của hệ thơng Ngân hàng, quy trình các
nghiệp vụ thanh tốn cần phải được hồn thiện để thúc đẩy hoạt động thanh tốn
quốc tế được nhanh chóng hơn, chính xác hơn.

Trang 16


CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG CƠNG THƯƠNG HỒN KIẾM.
I- Khái qt chung về chi nhánh Ngân Hàng Cơng thương Hồn Kiếm.

1. Giới thiệu khái qt về Chi nhánh.
Ngân hàng cơng thương Hồn Kiếm có trụ sở tại 37 Hàng Bồ – Hà Nội. Là
một doanh nghiệp nhà nước, được hình thành trên cở sở cũ là Ngân hàng Nhà nước
chi nhánh quận Hoàn Kiếm vào thời kỳ hệ thống ngân hàng một cấp. Lúc đó Ngân
hàng chủ yếu phục vụ cho sự phát triển kinh tế quận Hoàn Kiếm, doanh thu hoạt
động của Ngân hàng lúc đó chỉ hơn 1 tỷ.
Năm 1985 thay đổi cơ chế quy mô hoạt động của ngân hàng, từ hệ thống ngân
hàng một cấp chuyển thành hệ thống ngân hàng hai cấp cho nên vào ngày 1/7/1988
Ngân hàng Nhà nước Hồn Kiếm trở thành Ngân hàng Cơng Thương khu vực Hoàn
Kiếm, trực thuộc Ngân hàng thành phố Hà Nội.
Năm 1985 - 1986 dư nợ của ngân hàng hơn 200 tỷ, nguồn vốn chủ yếu là các
quỹ tiết kiệm, các luồng tiền gửi của dân cư. Do đặc thù hoạt động phục vụ kinh tế
quận cho nên doanh thu không lớn, mức độ rủi ro tiềm ẩn là rất cao. Cho nên năm
1997 Ngân hàng cơng thương Hồn Kiếm quyết định chuyển hướng, thay thế đội
ngũ khách hàng, mở rộng cơ cấu nguồn vốn, hoạt động phục vụ chủ yếu các doanh
nghiệp lớn có tình hình tài chính lành mạnh, có thị phần hàng hố và biết sử dụng
vốn của ngân hàng một cách có hiệu quả. Nguồn vốn khoảng từ 300 tỷ đă lên 1600
tỷ vào cuối năm 1988 và dư nợ từ 170 tỷ lên từ 600 tỷ dến 700 tỷ.
Doanh số cho vay năm 2000 đạt 1690 tỷ đồng, tăng 18% so với năm 1999.
Năm 2001 dự nợ tăng 17% so với năm 2000, trong năm khơng có phát sinh nợ q
hạn. Năm 2002, tổng dư nợ cho vay của Chi nhánh đạt 808 tỷ đồng, tăng 26% so
với năm 2001.

Trang 17


Đến nay tổng cán bộ công nhân viên của Ngân hàng hơn 230 người, trong đó
có một giám đốc và ba phó giám đốc. Là một đơn vị trực thuộc Ngân hàng cơng
thương Việt Nam. Hiện nay ngân hàng có 10 phòng ban, mỗi phòng ban thực hiện
các chức năng và mảng cơng việc riêng, cụ thể có: Phịng nguồn vốn, Phịng kinh

doanh, Phịng kế tốn, Phịng kinh doanh đối ngoại, Phịng ngân quỹ, Phịng vi tính,
Phịng kiểm sốt, Phịng thu nợ, Phịng tổ chức hành chính nhân sự, Phịng giao dịch
Đồng Xuân, Phòng dịch vụ chuyển tiền cá nhân, Tổ dịch vụ Sài Đồng. Riêng phịng
nguồn vốn có 11 quỹ tiết kiệm nằm rải rác trên địa bàn quận.
Các hoạt động dịch vụ của ngân hàng ngày càng được phát triển thêm, hiện
nay Ngân hàng sẵn sàng đáp ứng các dịch vụ ngân hàng – tài chính như: Mở tài
khoản tiền gửi doanh nghiệp và cá nhân, nhận tiền gửi tài khoản bằng đồng VNĐ và
ngoại tệ, tín dụng, bảo lãnh, thanh toán trong nước và quốc tế, chuyển kiều hối,
thanh tốn thẻ tín dụng quốc tế - séc du lịch, mua bán ngoại tệ, dịch vụ chuyển tiền
nhanh, dich vụ chi trả tiền lương, dịch vụ kho quỹ.
Đặc biệt, phục vụ tận doanh nghiệp: Dịch vụ Bảo hiểm, dịch vụ thẻ ATM,
dịch vụ tư vấn quản lý tài chính,.v.v...
2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Chi nhánh mấy năm gần đây.
Trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế và của ngành ngân hàng,
nhưng Ngân hàng cơng thương Hồn kiếm đã cố gắng vưon lên về nhiều mặt và đã
đạt được những kết quả tốt đẹp, đáng khích lệ. Kết quả đó củng cố được vị thế của
Ngân hàng, cải thiện một bước đời sống cán bộ cơng nhân viên, đồng thời góp phần
vào sự nghiệp phát triển của nền kinh tế.
Với phương châm “ổn định - an toàn - hiệu quả và phát triển” ngay từ đầu năm
1998, Chi nhánh đã xác định cho mình một hướng đi đúng đắn. Cùng với mục tiêu
tăng trưởng dư nợ đối với khách hàng chiến lược Chi nhánh đã đa dạng hoá sản
phẩm, dịch vụ ngân hàng, phát triển các hình thức cho vay nội tệ, ngoại tệ, trung và
dài hạn, nghiệp vụ mua bán ngoại tệ, thanh tốn quốc tế và chuyển tiền nhanh qua
mang vi tính, dich vụ thẻ ATM.

Trang 18


Lịch sử phát triển của Chi nhánh là huy động tiền gửi của dân cư từ các quỹ
tiết kiệm, trong đó VNĐ chiếm gần 100% với lãi suất đầu vào rất lớn. Việc cho vay

tập trung chủ yếu ở các hợp tác xã, hợp tác tiểu thủ công nghiệp thuộc kinh tế quận
cùng các khách hàng tư nhân, cá thể. Từ đầu năm 1997 với một tập thể ban lãnh đạo
và lãnh đạo các phịng ban mới kiện tồn, có tâm huyết, nhiệt tình, tận tâm với nghề,
đồn kết một lịng với sự chỉ đạo của Ngân hàng cơng thương Viêt Nam và xu thế
phát triển kinh tế của đất nứơc. Khởi đầu là sự thay đổi trong cách đánh giá, nhìn
nhận về cơ cấu chiến lược khách hàng, chi nhánh đã tìm hiểu, tiếp cận thuyết phục
được để đầu tư cho những khách hàng có tiềm lực kinh tế dồi dào, có thế mạnh
trong cạnh tranh, hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Với nền kinh tế đang ngày càng tiến gần ngữơng cửa hội nhập : Mở cửa và hội
nhập đang tạo ra cơ hội và thách thức mới cho các doanh nghiệp Việt Nam và
những người bạn đồng hành với nó - các ngân hàng.
Nhận thức rõ cơ hội và thách thức, bám sát chỉ đạo của Ngân hàng cơng
thương Việt Nam, cấp uỷ chính quyền, tranh thủ sự hợp tác giúp đỡ của bạn hàng,
Chi nhánh Ngân hàng cơng thương Hồn Kiếm đã nỗ lực phấn đấu vươn lên phát
triển kinh doanh và đã đạt được:
1. Công tác huy động vốn:
Mạng lưới quỹ tiết kiệm của Chi nhánh nằm rải rác khắp địa bàn quận, tận thu
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, tốc độ nguồn vốn huy động tăng trưởng cao trong
bối cảnh hầu hết các Ngân hàng thương mại đều tăng lãi suất huy động để thu hút
nguồn vốn.
Năm 2000 thu được 530 tỷ đồng tăng 12% so với năm 1999 đưa tổng nguồn
vốn của Chi nhánh lên đến hơn 2182 tỷ đồng, tăng 14% so với năm 1999.
Năm 2001, tổng nguồn vốn huy động là 4200 tỷ đồng, tăng 2027 tỷ đồng, vượt
93% so với năm 2000.
Năm 2002, đạt 4700 tỷ đồng (tăng 12,6% và vượt 5,2 % so với kế hoạch đặt
ra).

Trang 19



Có thể nói, sự tăng trưởng lớn về nguồn vốn không chỉ là kết quả của phong
cách phục vụ văn minh, lịch sự, tận tình chu đáo, mà cịn khẳng định về uy tín và vị
thế của Chi nhánh trên thương trường. Với tổng nguồn vốn lớn và ổn định, Chi
nhánh có đủ khả nằng để đáp ứng mọi nhu cầu về vốn đối với khách hàng, đồng
thời chuyển vốn về Ngân hàng cơng thương Việt Nam, góp phần điều hoà toàn bộ
hệ thống và tham gia thị trường vốn.
2. Hoạt động tín dụng:
Là hoạt động cơ bản, quan trọng của Chi nhánh. Vì vậy đây khơng chỉ là
nhiệm vụ của ngành cán bộ kinh doanh, mà là lĩnh vực lơi cuốn tất cả các phịng
ban, các hoạt động hướng về phục vụ một cách tốt nhất đối với khách hàng.
Mục tiêu cơ bản được đặt ra là nâng cao chất lượng tín dụng, hoạt động tín
dụng chủ yếu đi vào chiều sâu. Chính vì vậy Chi nhánh đã liên tục rà sốt, đáng giá
chất lượng tín dụng sàng lọc và nâng cao chất lượng dư nợ đối với những khách
hàng truyền thống, đồng thời khơng ngừng nghiên cứu, tìm kiếm và tiếp thị các
khách hàng mới là các tổng cơng ty 90, 91 và các doanh nghịêp có vốn đầu tư nước
ngồi có uy tín và khả năng tài chính lành mạnh, tiếp cận các dự án có tính khả thi
cao, đặt nền móng cho việc mở rộng cơng tác tín dụng một cách vững chãi. Vốn tín
dụng được đầu tư an toàn, hiêu quả cho các ngành kinh tế trọng điểm như: Than,
Điện, Dầu khí, Lương thực, Lắp máy, chế biến nông sản xuất khẩu, Xây dựng v.v…
Các doanh nghiệp dân doanh và hộ gia đình có nhu cầu cũng được chú ý nhiều
hơn.
Doanh số cho vay năm 2000 đạt 1690 tỷ đồng tăng 18% so với năm 1999.
Doanh số thu nợ đạt 1713 tỷ tăng 13% so với năm 1999.
Dư nợ cho vay bình quân đạt 330 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay nội tệ
chiếm 82%, dư nợ cho vay ngoại tệ chiếm 18%, dư nợ ngắn hạn chiếm 72%, dư nợ
trung dài hạn chiếm 28% tổng dư nợ.
Năm 2001 dư nợ đạt 641 tỷ đồng, tằng 17,3% so với năm 2000. Trong năm
không phát sinh nợ quá hạn. Dư nợ ngắn hạn chiếm 62%, dư nợ trung dài hạn chiếm

Trang 20



38%. Doanh số cho vay đạt 1933 tỷ đồng, tăng so với năm 2000 là 14%, trong đó
doanh số cho vay xuất nhập khẩu đạt 1291 tỷ đồng.
Năm 2002 tổng dư nợ cho vay của Chi nhánh đạt 808 tỷ đồng tăng 26% so với
năm 2001, ngắn hạn chiếm 44%, trung dài hạn chiếm 56%, dư nợ cho vay ngoài
quốc doanh chiếm 29%, tập trug chủ yếu vào các công ty có vốn đầu tư nước ngồi,
sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và trên thế giới.
Sở dĩ dư nợ ngày càng tăng vì Ngân hàng đã xác định qui mô dư nợ phù hợp
với trình độ, khả năng và kinh nghiệm quản lý của cán bộ, lấy an toàn, hịêu quả làm
mục tiêu hàng đầu, phát triển đúng hướng, phù hợp chủ trương của Ngân hàng công
thương Việt Nam.
3. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế .
Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế của Chi nhánh bắt đầu
phát triển mạnh từ cuối năm 1997 và đến năm 1998 trở thành hiện tượng quan trọng
đóng góp lớn vào hiệu quả của Ngân hàng cơng thương Hồn Kiếm. Năm 2000
đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của Chi
nhánh. Với tinh thần cố gắng làm việc phấn đấu vươn lên, với nghiệp vụ vững vàng
và phong cách giao dịch được hoàn thiện một cách rõ nét của từng cán bộ kinh
doanh đối ngoại, sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các phòng ban nên dù gặp mn
vàn khó khăn do sự khan hiếm ngoại tệ mang lại…. Nhưng với thời gian hoạt động
chưa bằng một nửa các chi nhánh khác, Chi nhánh đựơc đánh giá là 1 trong 6 đơn vị
có hoạt động thanh toán quốc tế phát triển nhất trong hệ thống Ngân hàng công
thương Việt Nam.
Năm 2000 Chi nhánh đă đạt được doanh số thanh toán hàng xuất là 60 triệu
USD, chiếm 20% tổng doanh số hàng xuất của hệ thống Ngân hàng công thương,
mở được 440 L/C với doanh số 40 triệu USD, đáp ứng yêu cầu nhập khẩu của khách
hàng. Đối với nghiệp vụ nhờ thu, TTR Chi nhánh cũng đã làm rất tốt, doanh só nhờ
thu đạt 12 triệu 741 ngàn USD, doanh số TTR đạt 52 triệu USD, đưa doanh số thanh
toán hàng nhập khẩu lên 104 triệu USD (quy đổi). Doanh số mua bán ngoại tệ đạt

95 triệu USD, thu phí về hoạt động thanh tốn quốc tế là 2,4 tỷ đồng.

Trang 21


Năm 2001, doanh số kinh doanh ngoại tệ đạt 190 triệu USD (trong đó doanh
số mua 96 triệu USD, bán 94 triệu USD) tăng gấp 2 lần so với năm 2000. Doanh số
thanh toán xuất nhập khẩu đạt 170 triệu USD, tăng 4% so với năm 2000, trong đó
doanh số xuất khẩu đạt 55 triệu USD. Tổng thu phí dich vụ kinh doanh đối ngoại và
thanh toán quốc tế đạt 3,5 tỷ đồng, tăng 46% so với năm 2000, trong đó thu phí từ
kinh doanh ngoại tệ là 1,1 tỷ đồng.
Năm 2002, tổng thu phí hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế
đạt 3,3 tỷ đồng, trong đó thu từ kinh doanh ngoại tệ là 1 tỷ đồng tăng 27% so với
năm 2001.
4. Cơng tác kế tốn và lợi nhuận.
Cùng với các phòng ban khác, phòng kế tốn đã có nhiều cố gắng nâng cao
chất lượng dich vụ, củng cố thêm nguồn tiền gửi kỳ hạn ổn định, tăng khối lượng
thanh toán qua ngân hàng, chuyển tiền điện tử, tạo ra nguồn thu nhập không nhỏ từ
thu phí dich vụ.
Cơng tác kế tốn đã chấp hành nghiêm chỉnh pháp lệnh kế toán thống kê của
Nhà nước, đảm bảo chính xác, trung thực, hợp lệ, hợp pháp.
Đặt biệt từ tháng 8/2000 Ngân hàng đã thành lập thêm Tổ dich vụ chuyển tiền
và tài khoản cá nhân ở 39 Hàng Bồ và Tổ dịch vụ thanh tốn khu cơng nghiệp Sài
Đồng tạo nên một bứơc đột phá, nhằm đa dạng hoá hoạt động dich vụ để phục vụ
khách hàng đựơc tốt hơn.
Năm 2000, Chi nhánh đã có đựơc gần 22 tỷ đồng lợi nhuận hạch toán. Năm
2001 vẫn đạt 17,5 tỷ đồng, vượt 16% so với kế hoạch Ngân hàng công thưong Việt
Nam giao.
Đặc biệt, năm 2002 Chi nhánh đa tham gia mạng thanh toán điện tử liên ngân
hàng và phát triển thêm dịch vu thẻ ATM. Trong năm, tổng thu dich vụ là 6865 triệu

đồng, tăng 65% so với năm 2001, chiếm 11% lợi nhuận hạch tốn.
5. Cơng tác đào tạo, tổ chức nhân sự và các công tác khác:
- Công tác đào tạo luôn được quan tâm và coi trọng. Trong năm 2002, Chi
nhánh đã liên tục cử cán bộ tham gia các khoá học bồi dưỡng nghiệp vụ của Ngân
Trang 22


hàng công thương Việt Nam. Đặt biệt đã tổ chức lớp học kỹ năng bán hàng cho 30
cán bộ thuộc các phòng ban khác nhau nhằm cung cấp kỹ năng thuyết trình, kỹ năng
đàm phán, kỹ năng lắng nghe, gợi mở nhu cầu, …theo phương pháp bán hàng hiện
đại. Lớp học đựơc anh chị em rất hoan nghênh và nhiệt tình phổ biến những kiến
thức đã học tới tồn thể cán bộ công nhân viên Chi nhánh.
- Công tác ngân quỹ luôn được cải tiến, đảm bảo thực hiện thu chi tiền mặt
nhanh chóng chính xác, hiệu quả.
- Cơng tác thơng tin điện tốn được Chi nhánh rất chú trọng tới việc ứng dụng
tin học vào công tác quản lý, đã xây dựng thành cơng các chương trình quản lý nhân
sự và quản lý dữ liệu nhằm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời cho ban lãnh đạo.
- Cơng tác kiểm tra nội bộ thường xuyên, liên tục, theo định kỳ hoặc đột xuất
nhằm phát hiện kịp thời những thiếu sót trong tất cả các nghiệp vụ.
- Cơng tác thu hồi nợ đọng cũng được đẩy mạnh, giảm được một phần những
khoản nợ đọng do lịch sử để lại.
- Năm qua, Chi nhánh đã triển khai thực hiện tốt, có sáng tạo quy chế dân chủ
tại cơ sở. Qua kiểm tra, Chi nhánh đã được chủ tịch Cơng đồn ngành và Ban lãnh
đạo Ngân hàng Nhà nước đánh giá cao.
- Ngồi ra, Chi nhánh ta đã duy trì được các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể
thao, thường xuyên tổ chức giao lưu với các đơn vị, khách hàng và ngân hàng bạn
làm phong phú đời sống tinh thần của cán bộ nhân viên và củng cố thêm niềm tin,
mối quan hệ tốt đẹp giữa Chi nhánh với bạn hàng.
II- Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế ở Chi nhánh Ngân hàng
cơng thương Hồn Kiếm.

1. Sự ra đời và phát triển.
Kể từ năm 1990, do sự biến động về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong
nước cũng như trên thế giới đã làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước
thay đổi nhiều mặt. Trước tiên, do nền kinh tế trong nước bắt đầu chuyển sang cơ
chế thị trường, nên các giao dịch ngoại thương khơng cịn bị bó buộc bởi Nhà nước

Trang 23


nên đã bùng nổ theo sự chỉ đạo của “ bàn tay vơ hình” dẫn đến kim ngạch xuất nhập
khẩu tăng lên.
Đặc biệt, từ khi Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam thì ngày càng có
nhiều doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Trước tình hình đó, nếu
vẫn để một mình Ngân hàng ngoại thương độc quyền trong thanh tốn quốc tế thì
chắc chắn Ngân hàng ngoại thương khơng thể kham nổi. Chính vì vậy, ngày
24-5-1992 Hội đồng Nhà nước đã ký pháp lệnh số 38/CCT - HĐNN cho phép các
Ngân hàng thương mại tham gia vào các quan hệ tín dụng và thanh tốn quốc tế.
Kể từ đó, Chi nhánh Ngân hàng cơng thương Hoàn Kiếm đã được phép tham
gia vào nghiệp vụ thanh toán quốc tế, song tự xét thấy chưa đủ khả năng cũng như
chưa có nhu cầu từ phía khách hàng nên Chi Nhánh vẫn chưa thực sự tham gia vào
hoạt động này.
Nhưng cùng với quá trình đi lên của nền kinh tế, đứng trước thực trạng là
khách hàng có quan hệ tín dụng với Chi nhánh Ngân hàng cơng thương Hồn Kiếm,
có tài khoản ở Chi nhánh song nếu có quan hệ thanh tốn quốc tế lại phải thực hiện
thơng qua Ngân hàng ngoại thương, điều đó kéo theo nhiều thủ tục rườm rà. Tại sao
trong khi Chi nhánh Ngân hàng cơng thương Hồn Kiếm được phép tham gia vào
hoạt động thanh toán quốc tế mà khách hàng của mình lại phải thơng qua Ngân hàng
Ngoại thương. Để giải quyết vấn đề này, năm 1996 Tổ thanh toán quốc tế và kinh
doanh đối ngoại được nâng cấp lên thành phòng Kinh doanh đối ngoại.
Ban đầu Chi nhánh gặp rất nhiều khó khăn do chưa có kinh nghiệm trong

nghiệp vụ này, nhưng được sự chỉ đạo của Ngân hàng công thương Việt Nam, cùng
với trình độ chun mơn và sức sáng tạo của đội ngũ nhân viên làm công tác kinh
doanh đối ngoại, Chi nhánh đã đạt được nhiều kết quả khả quan trong hoạt động
kinh doanh hết sức mới mẻ này. Nghiệp vụ bắt đầu phát triển mạnh từ cuối năm
1997 và đến năm 1998 đã trở thành hoạt động quan trọng đóng góp lớn vào kết quả
của Chi nhánh Ngân hàng cơng thương Hồn Kiếm.
Phịng kinh doanh đối ngoại hiện nay có 15 người, các nghiệp vụ chính của
phịng như: Mở L/C thanh tốn hàng nhập khẩu, thanh toán L/C xuất khẩu, thanh

Trang 24


toán chuyển tiền, kinh doanh ngoại tệ, dich vụ thẻ ATM, ngồi ra cịn có các dịch vụ
như chi trả kiều hối, thanh tốn séc du lịch,.v.v..
2. Quy trình một số nghiệp vụ thanh toán quốc tế chủ yếu ở Ngân hàng
cơng thương Hồn Kiếm.
Trước đây hoạt động thanh tốn quốc tế của hệ thống Ngân hàng công thương
Viêt Nam được thông qua hai đầu mối là hội sở Ngân hàng cơng thương Việt Nam
(đối với các chi nhánh phía bắc) và Chi nhánh Ngân hàng công thương thành phố
Hồ Chí Minh (đối với các Chi nhánh phía nam). Từ năm 1995 để đảm bảo sử dụng
nguồn ngoại tệ một cách tiết kiệm, có hiệu quả nhất, đồng thời để phát huy được sức
mạnh của cả hệ thống và đảm bảo vai trị kiểm sốt của Ngân hàng cơng thương
Viêt Nam hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng công thương Việt Nam được
tập trung một đầu mối là Ngân hàng công thương Viêt Nam.
Ngân hàng công thương Viêt Nam là đầu mối duy nhất của cả hệ thống thực
hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế, các chi nhánh trực thuộc Ngân hàng cơng thương
Việt Nam có đủ điều kiện tham gia thanh toán quốc tế đều thực hiện qua đầu mối
duy nhất là Ngân hàng công thương Việt Nam. Chỉ có Ngân hàng cơng thương Việt
nam mới được phép đặt quan hệ đại lý và mở tài khoản NOSTRO tại Ngân hàng đại
lý ở nước ngoài, các tài khoản tiền gửi tiền vay tại Ngân hàng Nhà nước và các

Ngân hàng thương mại khác trên lãnh thổ Việt Nam.
Ngân hàng công thương Việ Nam mở tài khoản điều chuyển vốn ngoại tệ, tiền
gửi dữ trữ bắt buộc,… cho các Chi nhánh theo từng loại ngoại tệ và thực hiện tính
lãi cho các Chi nhánh. Các Chi nhánh được yêu cầu Ngân hàng công thương Việt
Nam chuyển đổi từ loại ngoại tệ này sang loại ngoại tệ khác.
Hàng quý, Ngân hàng công thương Việt Nam thông báo hạn mức sử dụng
ngoại tệ cho từng Chi nhánh Ngân hàng công thương (bao gồm hạn mức tối thiểu và
hạn mức gia tăng) để Chi nhánh chủ động trong việc giải quyết các mối quan hệ với
khách hàng. Nếu Chi nhánh có nhu cầu tăng thêm phải báo ngay về Ngân hàng công
thương Việt Nam.

Trang 25


×