Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Việc giải quyết vấn đề đức sau chiến tranh thế giới thứ hai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.25 KB, 15 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LỊCH SỬ

Đề tài:
VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ĐỨC SAU
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI
GVHD: TS.Tưởng Phi Ngọ
SVTH: Nhóm 3
Lớp: SP Lịch sử 3B_K37
Môn: Lịch sử quan hệ quốc tế
TP Hồ Chí Minh tháng 4 năm 2014
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 2
I. Những thỏa thuận giữa 3 cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh trong việc giải quyết
vấn đề Đức sau chiến tranh (1945-1947) 3
1. Tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề Đức 3
2. Thỏa thuận của các nước đồng minh về việc giải quyết vấn đề Đức sau chiến
tranh 4
a) Hội nghị Ianta (4-12/2/1945) 4
b) Hội nghị Pôtxđam (17/7-2/8/1945) 5
3. Cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề Đức trong những năm 1945-1947 6
II. Những diễn biến chủ yếu của Chiến tranh lạnh giữa hai cực Xô-Mĩ và hai
khối Đông-Tây qua việc giải quyết vấn đề Đức 7
1. Nước Đức bị chia cắt và âm mưu phục hồi chủ nghĩa quân phiệt ở Tây Đức
(1949-1955) 7
a) Quá trình chia cắt nước Đức (1948 – 1949) 7
b) Âm mưu phục hồi chủ nghĩa quân phiệt ở Tây Đức (1949-1955) 8
2. Sự thống nhất nước Đức 10
KẾT LUẬN 12


TÀI LIỆU THAM KHẢO 13
DANH SÁCH NHÓM 14
2
MỞ ĐẦU
Trong thế kỷ XX nhân loại đã chứng kiến một cuộc chiến tranh thế giới tàn bạo nhất
trong lịch sử nhân loại-chiến tranh thế giới thứ hai (1939–1945). Năm 1945, cuộc chiến
tranh này kết thúc với sự thất bại của các nước phát xít, tuy vậy việc giải quyết các vấn đề
liên quan đến chiến tranh vẫn đặt ra một cách bức thiết. Đặc biệt một vấn đề nổi trội cần phải
giải quyết đó là vấn đề Đức sau chiến tranh. Bởi lẽ, Đức là nước hình thành, là nơi sản sinh
ra chủ nghĩa phát xít hiếu chiến. Và cũng chính nước Đức là nước đã châm ngòi cho cuộc
chiến tranh tàn bạo nhất lịch sử nhân loại này. Tuy vậy số phận của nước Đức bại trận không
phải được giải quyết xong xuôi ngay sau khi chiến tranh kết thúc mà nó còn kéo dài trong
suốt thời kì “chiến tranh lạnh” giữa hai cực Xô-Mỹ và hai khối Đông–Tây.
Vấn đề Đức là một trong những điểm nóng của cuộc “chiến tranh lạnh”, nó là nơi thể
hiện gay gắt những biểu hiện của sự đối đầu Xô-Mỹ, nói cách khác Đức chính là bức tranh
thu nhỏ của cuộc “chiến tranh lạnh” giữa hai khối trên tất cả các lĩnh vực. Đồng thời tình
hình chính trị ở Đức từ sau năm 1945 đến khi chiến tranh lạnh kết thúc cũng là hậu quả của
sự mâu thuẫn, đấu tranh giữa hai khối Đông–Tây.
Năm 1949 nước Đức được tách thành hai Nhà nước riêng biệt và đến tháng 10/1990
lại được tái thống nhất dưới sự tác động của bốn cường quốc. Tuy nhiên nước Đức thống
nhất thực chất lại hoàn toàn nằm trong mưu đồ của Mỹ và các cường quốc phương Tây.
Vậy rốt cuộc vấn đề này đã được giải quyết như thế nào? Bài tiểu luận này sẽ giúp ta
hiểu rõ nội dung cũng như diễn biến của cuộc “chiến tranh lạnh”. Qua đó ta thấy được sự
phản động của Mỹ và các nước phương Tây trong việc giải quyết vấn đề Đức. Đồng thời
cũng thấy được sự đấu tranh kiên trì bền bỉ cho nền hoà bình thế giới nói chung, cho một
nước Đức hoà bình dân chủ nói riêng của Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân
yêu chuộng hoà bình Đức. Bên cạnh đó, nghiên cứu vấn đề Đức cũng để hiểu rõ thực chất
của cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề Đức trong quan hệ quốc tế nhằm mục tiêu gì và mang
lại lợi ích cho ai?
3

NỘI DUNG
I. Những thỏa thuận giữa 3 cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh trong việc giải quyết
vấn đề Đức sau chiến tranh (1945-1947)
1. Tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề Đức
Ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX ở nước Đức chủ nghĩa phát xít đã hình thành
và phát triển. Nước Đức cũng là nước châm ngòi cho cuộc chiến tranh thế giới thứ hai kéo
dài từ năm 1939–1945. Cuộc chiến tranh phi nghĩa này là cuộc chiến tranh tàn bạo nhất
trong lịch sử thế giới hiện đại, đã gây biết bao thảm hoạ cho các dân tộc và nhân dân toàn thế
giới.
Ngay từ đầu cuộc chiến tranh, khối trục phát xít Đức-Italia-Nhật Bản đã liên tiếp
giành thắng lợi, uy hiếp nhiều nước ở châu Âu. Trước tình hình đó đã khiến các nước lớn
Mỹ, Anh, Liên Xô họp bàn để chống lại chiến tranh phát xít, thành lập ra Mặt trận Đồng
minh chống phát xít. Đây là lực lượng thể hiện sự đoàn kết của các nước và các dân tộc yêu
chuộng hoà bình trên thế giới chống lại nguy cơ diệt chủng các dân tộc nhược tiểu, chống lại
chế độ phát xít tàn bạo, cùng nhau bảo vệ nền hoà bình thế giới. Một trong những ý nguyện
chung của các nước Đồng minh là tìm ra biện pháp nhằm triệt tiêu hoàn toàn nguy cơ gây
chiến của các lực lượng hiếu chiến Đức, không để chúng có thể làm tổn hại đến nền hoà bình
thế giới một lần nữa.
Sự phối hợp quân sự của các nước Đồng minh đã từng bước giành thắng lợi. Đặc biệt
từ sau chiến thắng của Liên Xô ở trận Xtalingrát (11/1942–2/1943) và sự đầu hàng của Italia
(3/9/1943), các nước Đồng minh đã mở mặt trận phía Tây tấn công vào sào huyệt của phát
xít Đức. Quân Đức dần bị đánh bại, việc chiến thắng chủ nghĩa phát xít của quân Đồng minh
đã dần mở ra trước mắt.
Cuộc chiến tranh này đã kết thúc bằng sự đầu hàng không điều kiện của phát xít Đức
trước các đại diện của các cường quốc đồng minh vào ngày 8/5/1945. Từ thời điểm đó cho
đến khi thành lập hai nhà nước Đức, Đức phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về cuộc chiến
tranh này, không thể tự mình quyết định vận mệnh tương lai của mình mà hoàn toàn phụ
thuộc vào những quyết định và chính sách của các nước Đồng minh.
Khi chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít đã giành thắng lợi hoàn toàn cũng là lúc các
nước Đồng minh phải họp bàn để nghĩ cách giải quyết các vấn đề của chủ nghĩa phát xít sau

chiến tranh đặc biệt là tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít ở Đức.
Việc giải quyết vấn đề phát xít Đức sau chiến tranh là vấn đề tối quan trọng bởi vì
Đức là nơi phát sinh chủ nghĩa phát xít, là nước châm ngòi cho cuộc chiến tranh, đồng thời
nước Đức có vị trí tiền đồn ở châu Âu. Việc tổ chức lại nước Đức sau chiến tranh có ý nghĩa
rất quan trọng không chỉ đối với các nước châu Âu mà còn đối với nền hoà bình dân chủ của
cả thế giới. Sau khi Hitler bị đánh bại, nước Đức bị lực lượng Đồng minh chiếm đóng. Theo
thỏa thuận giữa ba cường quốc, Liên Xô sẽ chiếm đóng vùng Đông Đức, Anh chiếm đóng
vùng Tây-Bắc, còn Mỹ sẽ chiếm đóng vùng Tây–Nam của nước Đức. Việc phát triển nước
4
Đức theo con đường chính trị nào cũng là vấn đề đấu tranh gay gắt giữa hai nước Liên Xô-
Mỹ và hai cực Đông Tây trong cuộc chiến tranh lạnh sau này. Mỗi thành viên của khối Đồng
minh, cụ thể là các nước Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp đều có những suy tính nhằm bảo vệ quyền
lợi riêng của dân tộc mình trong việc hoạch định và thực hiện sách lược hậu chiến đối với
nước Đức. Nói cách khác, việc giải quyết vấn đề Đức là một trong những vấn đề mấu chốt
quan trọng trong cuộc chiến tranh lạnh (1947–1989).
2. Thỏa thuận của các nước đồng minh về việc giải quyết vấn đề Đức sau
chiến tranh
a) Hội nghị Ianta (4-12/2/1945)
Trong khi quân đội của Đồng minh tiến vào cửa ngõ của Đức, thì ngày 4/2/1945
nguyên thủ ba quốc gia Liên Xô, Mỹ, Anh đã gặp nhau tại Crưm để nhóm họp Hội nghị
Ianta. Tham dự hội nghị có Chủ tịch hội đồng bộ trưởng Liên Xô Xtalin, Tổng thống Mĩ
Rudơve và Thủ tướng Anh Sớcsin.
Hội nghị đã thống nhất ý kiến về việc tiếp tục chiến tranh đánh bại phát xít Đức trên
các chiến trường và buộc Đức phải đầu hàng vô điều kiện. Về việc chiếm đóng và kiểm soát
nước Đức, theo kế hoạch đã thoả thuận lực lượng ba cường quốc sẽ chiếm đóng các khu vực
đã được phân chia, có thể sẽ thành lập một Hội đồng Trung ương để quản lý chung, bên cạnh
đó ba nước thống nhất mời Pháp kiểm soát một khu vực và là thành viên thứ tư của Hội đồng
nếu Pháp muốn. Một trong những mục tiêu không thay đổi của các nước là tiêu diệt chủ
nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa phát xít Đức, làm cho nước Đức không bao giờ có thể xâm hại
được nền hoà bình của thế giới nữa. Quyết định giải trừ và xoá bỏ hoàn toàn lực lượng quân

sự Đức, đập tan vĩnh viễn bộ chỉ huy quân sự Đức, tiêu diệt toàn bộ cơ sở quân sự Đức; tất
cả các tội phạm chiến tranh sẽ bị trừng trị một cách nghiêm minh; xoá bỏ các Đảng phát xít,
luật phát xít, tổ chức phát xít, tất cả những ảnh hưởng của chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa
phát xít sẽ được loại bỏ khỏi đời sống văn hoá và kinh tế Đức. Về vấn đề bồi thường thiệt hại
chiến tranh thì các nước Đồng minh thống nhất nước Đức phải có nghĩa vụ bồi thường vật
chất cho các nước trong phạm vi có thể cho cá nước bị thiệt hại và các nước có công trong
việc đánh bại phát xít Đức.
Như vậy, ngay từ khi chiến tranh vẫn còn tiếp diễn với quy mô và phạm vi lớn trên
toàn bộ lãnh thổ châu Âu, các nước Đồng minh đã họp bàn để định đoạt số phận của nước
Đức sau này. Điều đó chứng tỏ các nước trong khối Đồng minh đã rất quyết tâm, thống nhất
và tin tưởng chắc chắn vào thắng lợi của họ đối với nước Đức phát xít.
Trong thời gian tiếp theo, do có những bất đồng về quan điểm chính trị, về tư tưởng,
về quyền lợi nên giữa các nước Đồng minh đã bộc lộ những mâu thuẫn và hiệp ước Pôtxđam
vừa là sự thoả thuận nhưng cũng đã bộc lộ mâu thuẫn giữa một bên là Mỹ, Anh, Pháp và một
bên là Liên Xô.
5
b) Hội nghị Pôtxđam (17/7-2/8/1945)
Sau khi chiến tranh kết thúc ở châu Âu (5/1945), nhiều mâu thuẫn và những vấn đề quốc
tế lại nổi lên trong đó quan trọng nhất là vấn đề Đức và kết thúc chiến tranh ở Viễn Đông. Do đó
ngày 17/7/1945 nguyên thủ ba cường quốc Liên Xô, Mỹ, Anh là Xtalin, Truman (thay Rudơven
mới mất ngày 12/4/1945)và Sơcsin (sau Atly thay ngày 28/7) đã họp ở Pôtxđam. Đây là cuộc
họp thượng đỉnh cuối cùng của ba cường quốc trong liên minh chống phát xít.
Hội nghị đã quyết định thành lập Hội đồng ngoại trưởng bao gồm đại diện của Liên
Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc có nhiệm vụ chuẩn bị những hoà ước sẽ ký với Đức và các
nước đồng minh của Đức.
Đêm ngày mùng 01 rạng sáng ngày 02/08/1945, ba nguyên thủ quốc gia đã cùng nhau
kí vào biên bản Hội nghị Pôtxđam. Kết quả của các cuộc hội đàm tại Hội nghị Pôtxđam được
đúc kết trong một thông cáo chung gọi là Hiệp ước Pôtxđam. Hiệp ước này bao gồm các
điều khoản quy định cụ thể về kinh tế, về chính trị nước Đức. Tương lai nước Đức được định
rất cụ thể trong Hiệp ước thông qua các thoả thuận hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế.

Mục đích của Hiệp ước Pôtxđam là đề ra các biện pháp ngăn chặn không để cho nước
Đức có thể châm ngòi một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba. Theo đó, hội nghị đã thoả thuận
giải quyết vấn đề nước Đức dựa vào những nguyên tắc sau: tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa quân
phiệt và chủ nghĩa phát xít, phi quân sự hoá hoàn toàn nước Đức nhằm bảo đảm hoà bình và
an ninh của các nước láng giềng và các dân tộc; Đồng thời, thiết lập và tổ chức một cơ chế
chính trị tại Đức, trên cơ sở dân chủ và hoà bình, có vị trí xứng đáng trong các dân tộc tự do.
Hội nghị còn quyết định chuyển hoàn toàn nền công nghiệp quân sự sang dân sự, thủ tiêu các
tập đoàn tư bản lũng đoạn, vì đó là những lò lửa nguy hiểm của chủ nghĩa quân phiệt hiếu
chiến, coi nước Đức là một quốc gia thống nhất toàn vẹn về chính trị và kinh tế. Đức phải
bồi thường chiến tranh cho các nước Đồng minh. Thành lập Hội đồng kiểm soát gồm tổng tư
lệnh quân đội các nước Đồng minh ở bốn khu vực chiếm đóng xem như cơ quan chịu trách
nhiệm giải quyết những vấn đề chung của nước Đức. Quy định việc tổ chức toà án xét xử các
tội phạm chiến tranh, thành lập Hội đồng ngoại trưởng gồm đại biểu năm nước lớn, có nhiệm
vụ chuẩn bị những hoà ước sẽ kí kết với Đức và các nước thuộc phe Đức trước kia, giải
quyết một số vấn đề lãnh thổ ở Châu Âu sau chiến tranh.
Nhìn chung, Hiệp ước Pôtxđam đã được kí kết dựa trên sự thống nhất của các cường
quốc, tuy nhiên nó cũng đã bắt đầu bộc lộ những mâu thuẫn về mặt quyền lợi, tư tưởng giữa
các nước. Hiệp ước này cũng không được thực hiện triệt để sau này. Ở phía Đông Đức thuộc
phạm vi kiểm soát của Liên Xô, Liên Xô đã thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định như tịch thu
tài sản của bọn phát xít, quốc hữu hóa công nghiệp, cải cách ruộng đất nhằm tước bỏ quyền
lực kinh tế của các tập đoàn tư bản độc quyền. Nhưng ở phía Tây Đức việc này bị khất lần
mãi, sau chỉ được thực hiện nửa vời.
6
3. Cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề Đức trong những năm 1945-1947
Những thoả thuận tại hội nghị Pôtxđam nhằm xây dựng lại một nước Đức hoà bình và
dân chủ. Nhưng trong quá trình thực hiện, bọn đế quốc lại chủ trương phục hồi lại chủ nghĩa
quân phiệt Đức, biến nước Đức thành một lò lửa chiến tranh, một trung tâm phản cách mạng
để chống lại Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu, đàn áp cách mạng thế giới.
Ngược lại, phía Liên Xô chủ trương nhất quán triệt để thi hành hiệp ước quốc tế đã ki kết về
vấn đề Đức, đấu tranh để tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, tạo điều kiện thuận lợi cho các lực

lượng dân chủ phát triển ở Đức. Quá trình thực hiện các hiệp ước được thể hiện qua các vấn
đề sau:
 Xử tội phạm chiến tranh ở Nuyarămbe:
Bọn phát xít đã gây ra cho nhân loại những tàn phá nặng nề và những tội ác đâm máu
(tàn sát hơn 30 triệu người). Sau chiến tranh việc xử những tội phạm chiến tranh là một điều
cần thiết và quan trọng để nhằm củng cố những thắng lợi chống phát xít, bằng cách trừng trị
không để bọn phát xít ngóc đầu dậy và đồng thời cũng để cảnh cáo những bọn hiếu chiến âm
mưu gây chiến tranh xâm lược sau này.
Do cuộc đấu tranh của Liên xô và nhân dân thế giới, ngày 20/10/1945, các nước đồng
minh đã thành lập tòa án xét xử trên 400 phiên, đến ngày 31/8/1946 thì kết thúc và những án
lệ được công bố ngày 1/1/1946. Tòa án Nuyarămbeđã kết án: tổ chức Ghettapô, tổ chức cảnh
sát bí mật S.S, cơ quan “an ninh” đều là những tổ chức tội phạm…
Tuy không đạt được đầy đủ mọi kết quả, việc xử tội phạm chiến tranh cũng đã có tác
dụng quan trọng trong việc giáo dục nhân dân Đức, trong việc củng cố những thắng lợi
chống phát xít. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã tổ chức một toà án quốc tế để trừng trị
bọn tội phạm gây ra chiến tranh xâm lược.
 Hai chính sách khác nhau và hai tình hình khác nhau ở Đông Đức và Tây
Đức:
Sau khi phát xít Đức đầu hàng, theo quy định của Hội nghị cấp cao Ianta và Hội nghị
cấp cao Pốtxđam 4 nước Mĩ, Liên xô, Anh và Pháp tạm thời chiếm đóng nước Đức, và toàn
bộ chính quyền ở Đức bị tạm thời chuyển sang tay nhà đường cục quân sự 4 nước chiếm
đóng. Khu vực chiếm đóng của Liên xô ở miền Đông nước Đức. Khu vực chiếm đóng của
Mĩ, Anh, Pháp ở miền Tây nước Đức. Thủ đô Beclin nằm ở vùng Đông Đức, nhưng cũng
chia thành khu vực chiếm đóng của 4 nước Liên xô, Mĩ, Anh và Pháp.
Ở Tây Đức, các nước Mĩ, Anh, Pháp đã không thực hiện những điều kí kết trước đây,
bọn chúng đã dung túng, nuôi dưỡng lực lượng quân phiệt, phát xít, tìm mọi cách cho các thế
lực này tồn tại và ngóc đầu trở lại dưới các hình thức che đậy khác. Khu vực do Anh chiếm
đóng các tổ chức quân đội phát xít Đức vẫn tồn tại dưới những “nhóm sản xuất”, những “tổ
công tác”… Ở khu vực Mĩ chiếm đóng, các tổ chức quân sự phát xít được duy trì dưới hình
7

thức “tổ chức thể thao”. Chính quyền chiếm đóng Mĩ, Anh, Pháp công khai ủng hộ các đảng
phái tư sản, địa chủ, các thế lực phát xít Đức và các đảng phái này dần lên nắm chính quyền
ở Tây Đức. Đảng Cộng Sản bị công khai đàn áp.
Những quyết định về việc Đức bồi thường chiến tranh không được thực hiện. Các
nước Mĩ, Anh đã phá hoại công việc của Uỷ ban bồi thường Đồng minh. Những yêu cầu bồi
thường chính đáng của Liên xô và các nước khác bị ngăn trở không được giải quyết một
cách thích đáng.
Ngày 2/12/1946, Mĩ và Anh đó kí hiệp định về việc thống nhất kinh tế và hành chính
hai khu vực Mĩ và Anh. Quy định việc phát triển tiềm lực kinh tế của Tây Đức để làm cơ sở
mở rộng sản xuất phục vụ chiến tranh và phục hồi chủ nghĩa quân phiệt sau này. Việc buôn
bán giữa Đông Đức và Tây Đức đã bị cản trở nghiêm trọng vì đô la được dùng làm ngoại hối
chính trong việc thanh toán mậu dịch giữa hai miền.
Những chính sách và việc làm của Mĩ, Anh, Pháp trong những năm 1946–1947 đã
hoàn toàn trái ngược lại với những quyết định của Hội nghị cấp cao Pốtxđam, làm cho tình
hình nước Đức trở nên không ổn định và việc giải quyết vấn đề Đức càng trở nên khó khăn,
phức tạp.
II. Những diễn biến chủ yếu của Chiến tranh lạnh giữa hai cực Xô-Mĩ và hai
khối Đông-Tây qua việc giải quyết vấn đề Đức
1. Nước Đức bị chia cắt và âm mưu phục hồi chủ nghĩa quân phiệt ở Tây
Đức (1949-1955)
a. Quá trình chia cắt nước Đức (1948 – 1949)
 Hội nghị Luân Đôn (Từ 23/2–6/3/1948 và từ 2/4–2/6/1948)
Hội nghị giữa ba cường quốc Mỹ, Anh, Pháp ở Luân đôn và đưa đến việc thành lập
một quốc gia Tây Đức riêng rẽ. Đây là một bước quan trọng của Mỹ, Anh, Pháp trong việc
tiến hành chia cắt nước Đức, vi phạm những nguyên tắc của Hội nghị Ianta và Pôtxđam.
Trước tình hình này, Liên Xô đề nghị họp Hội nghị Ngoại trưởng của các nước Tiệp
Khắc, Ba lan, Nam tư, Ru-ma-ni, Bun-ga-ri, An-ba-ni, Hung-ga-ri và Liên Xô tại Vacsava
vào tháng 6/1948. Hội nghị ra bản tuyên bố không công nhận nghị quyết Luân đôn là hợp
pháp. Các nước tham gia Hội nghị tỏ thái độ quyết tâm đấu tranh giải quyết các vấn đề liên
quan đến nước Đức bằng phương pháp hoà bình.

 Cuộc bao vây phong toả Beclin
Ngày 18/6/1948, các nhà chức trách Mỹ, Anh, Pháp ở Tây Đức và Tây Beclin đã tiến
hành một cuộc cải cách tiền tệ ở đây. Các chính phủ phương Tây muốn dùng đồng Mác mới
để lũng đoạn nền kinh tế Đông Đức và Đông Đức sẽ bị đặt vào ảnh hưởng của Tây Đức và
kế hoạch Macssan.
8
Do đó để bảo vệ nền kinh tế Đông Đức, Liên Xô phải thi hành những hạn chế về việc đi
lại giữa khu miền Tây và miền Đông, cũng như giữa các khu vực Đông và Tây Beclin. Các
nước phương Tây đã dựa vào việc Liên Xô hạn chế đi lại giữa các vùng miền để thổi phồng
cái gọi là “vụ phong toả Beclin”.
Tháng 9/1948 Mỹ, Anh, Pháp đưa vấn đề này ra Hội đồng Bảo an của Liên Hợp
Quốc. Nhưng Liên Xô từ chối thảo luận vì điều này lại vi phạm Hiến chương Liên hợp Quốc
tại Hội đồng Bảo an, nhưng vẫn tỏ ý sẵn sàng thương lượng với các nước phương Tây về vấn
đề Đức.
 Hội nghị Ngoại trưởng Pari tháng 6/1948
Ngày 22/5/1948 Hội đồng Ngoại trưởng đã họp tại Pari để xem xét các vấn đề: thống
nhất nước Đức, chuẩn bị kí kết hoà ước với Đức và tình hình Beclin kể cả vấn đề hối đoái.
Đại biểu Liên Xô đã kiên trì đòi hỏi phải có kế hoạch khắc phục tình trạng chia cắt
nước Đức và 4 nước phải mau chóng kí hoà ước với Đức, nhưng bị các nước Anh, Pháp, Mỹ
bác bỏ. Tuy không chịu đồng ý với các đề nghị của Liên Xô nhưng do sợ dư luận quốc tế nên
các nước phương tây cũng buộc phải thoả thuận và nhượng bộ. Tuy nhiên các nước phương
Tây không nghiêm chỉnh thực hiện những điều cam kết mà xúc tiến việc thành lập một quốc
gia Tây Đức riêng rẽ.
 Thành lập hai nhà nước Đức
Chính phủ Anh, Mỹ, Pháp quyết tâm chia rẽ nước Đức. Qua việc cho triệu tập Hội
đồng Quốc hội ở Bon thông qua dự thảo Hiến pháp của Cộng hoà Liên bang Đức, tiến hành
tổng tuyển cử riêng rẽ. Ngày 7/9/1949 Quốc hội và Hội đồng Liên bang đã triệu tập phiên
họp đầu tiên và thông qua Hiến Pháp và thành lập Chính phủ Cộng hoà Liên bang.
Liên Xô và các nước XHCN kiên quyết lên án việc thành lập quốc gia riêng rẽ này.
Ngày 7/10/1949, Hội đồng nhân dân Đức tuyên bố thành lập Cộng hoà Dân chủ Đức, đồng

thời thông qua chương trình đấu tranh của nhân dân Đức đó là: thống nhất nước Đức, kí kết
hoà ước, rút hết quân đội chiếm đóng, thủ tiêu hoàn toàn chủ nghĩa quân phiệt, khôi phục
nền độc lập dân tộc và chủ quyền của nhân dân Đức trên cơ sở dân chủ.
Ngay sau khi thành lập, chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức đã được Liên Xô trao trả
lại những quyền về đối nội và đối ngoại. Đến ngày 15/10/1949 Liên Xô công nhận chính phủ
nước Cộng hoà Dân chủ Đức. Sau đó trong tháng 10 và 11/1949 các nước XHCN cũng đặt
quan hệ ngoại giao với Đức.
b. Âm mưu phục hồi chủ nghĩa quân phiệt ở Tây Đức (1949-1955)
Hai nước Đức đã được thành lập và phát triển theo hai đường hướng hoàn toàn khác
nhau do đó vấn đề thống nhất Đức trở nên xa vời hơn. Trong khi đó chiến tranh lạnh giữa hai
phe ngày càng leo thang, tình hình thế giới rất căng thẳng, dư luận phương tây lo ngại nguy
9
cơ xảy ra một cuộc khủng hoảng ở Châu Âu. Nước Mỹ cũng không đủ khả năng đối phó với
cuộc khủng hoảng mới nếu nó xảy ra.Vì vậy, để bảo vệ các nước Tây Âu các nước phương
Tây, Mỹ đã chủ trương tái vũ trang Tây Đức và đưa nước này vào khối quân sự NATO.
Để thực hiện việc tái vũ trang nước Đức các nước phương Tây đã tiến hành một loạt
các kế hoạch, biện pháp quan trọng:
 Kế hoạch Schuman
Ngày 18/4/1951 Hiệp định thành lập “Cộng đồng Than, Thép châu Âu” do Ngoại
trưởng Pháp Schuman đưa ra hồi tháng 5/1950 đã được kí kết. Hiệp định này quy định việc
thành lập thị trường thống nhất và điều hoà việc sản xuất than và thép ở Tây Đức, Pháp,
Italia, Bỉ, Hà lan và Lúc-xăm-bua.
Sau khi thông qua kế hoạch, Tây Đức đã nhận được khoản viện trợ lớn từ Mỹ để bước
đầu phục hồi nền công nghiệp quân sự và thực hiện kế hoạch tái vũ trang và đưa Tây Đức
vào Liên minh quân sự của các nước phương Tây.
Ngày 9/7/1951, các nước Mỹ, Anh, Pháp đơn phương tuyên bố chấm dứt tình trạng chiến
tranh với Cộng hoà Liên bang Đức, và hàng loạt tội phạm chiến tranh Đức được thả tự do, các
lực lượng cảnh sát Tây Đức được tăng cường, đấy chính là bước đầu tiên tiến đến thành lập lực
lượng vũ trang Tây Đức.
 Kế hoạch Pleven

Trước đề nghị của Mỹ về vấn đề đưa Đức vào khối NATO, chính phủ Pháp đã bác bỏ
dự án đó và đưa ra đề nghị thành lập “Quân đội Châu Âu”. Tuy nhiên kế hoạch này bị Tây
Đức phản đối, Mỹ ủng hộ lập trường của Tây Đức nên cuối cùng Pháp buộc phải nhượng bộ.
 Hiệp ước Bon–Pari 1952
Ngày 26/5/1952, Hiệp ước giữa ba cường quốc phương Tây và Tây Đức đã được ký
kết ở Bon. Hiệp ước tuyên bố huỷ bỏ chế độ chiếm đóng và giao cho Tây Đức toàn quyền
giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại, nhưng các lực lượng vũ trang phương Tây vẫn
đóng trên đất Đức và chính phủ các nước này vẫn có quyền giải quyết vấn đề Đức kể cả vấn
đề thống nhất nước Đức.
Ngày 27/5/1952, tại Pari đại biểu các nước CHLB Đức, Italia, Bỉ, Hà lan, Lúc-xăm-
bua đã kí hiệp ước thành lập “Cộng đồng phòng thủ chung Châu Âu”. Hiệp ước này đề cập
đến việc thành lập “Quân đội Châu Âu” gồm lực lượng vũ trang của các nước tham gia Hiệp
ước.
Như vậy, Hiệp ước Bon và Pari đã tạo những điều kiện cần thiết để khôi phục chủ
nghĩa quân phiệt ở Đức. Điều này đã vi phạm nghiêm trọng thoả thuận Ianta và Pôtxđam,
đồng thời cũng đe doạ nghiêm trọng chủ quyền độc lập của các nước tham gia đặc biệt là
Pháp. Chính vì vậy, ngày 30/8/1954 Quốc hội Pháp đã bác bỏ hiệp ước Bon-Pari bất chấp
sức ép mạnh mẽ từ phía Mỹ. Vì vậy Hiệp ước này không có hiệu lực thực hiện.
10
11
 Hiệp ước Luân đôn–Pari và sự thành lập Liên minh châu Âu
Sau thất bại của Hiệp ước Bon–Pari, theo sáng kiến của Anh, 9 nước: Anh, Mỹ,
Canada và 6 nước tham gia hiệp ước Bruc-xen đã họp ở Luân đôn từ ngày 23/9 đến
3/10/1954 và sau đó ở Pari ngày 20 đến 23/10/1954 và đi đến kết luận rằng Tây Đức cần
tham gia vào NATO, còn phía Pháp nhận được sự đảm bảo rằng Anh sẽ hợp tác thường
xuyên trong việc phòng thủ Châu Âu lục địa và sẽ hạn chế số lượng quân Đức tham gia công
việc phòng thủ đó, thành lập Liên minh Tây Âu do một hội đồng làm việc theo nguyên tắc
nhất trí chỉ huy; Tây nước phải chấp nhận không được sản xuất vũ khí hạt nhân, hoá học,
sinh học, vũ khí tầm xa…Những kết luận này đã làm thoả mãn yêu cầu của Pháp, ngày
12/10/1954 Quốc hội Pháp chấp nhận những kết luận ở Luân đôn.

Sau đó một Hội nghị được triệu tập ở Pari để kí kết một loạt các văn kiện trong đó có
Hiệp ước Pari. Căn cứ vào Hiệp ước này, Quân đội quốc gia Đức được thành lập và Tây Đức
trở thành thành viên của NATO. Hiệp ước Pari là một sự thoả hiệp của các nước Phương
Tây, nhằm thống nhất lực lượng để đối phó với Liên Xô và các nước XHCN. Giới cầm
quyền Mỹ, Anh, Pháp tìm mọi cách nhân nhượng nhau để đi đến xúc tiến khôi phục nhanh
chóng chủ nghĩa quân phiệt ở Tây Đức, tái vũ trang Đức và lôi kéo Tây Đức gia nhập
NATO. Hiệp ước Pari đã gây ra những cản trở mới trên con đường giải quyết vấn đề Đức,
làm cho tình hình Châu Âu và thế giới hết sức căng thẳng và phức tạp.
2. Sự thống nhất nước Đức
Tình hình thế giới cuối thập kỉ 80 có nhiều thay đổi đáng kể. Đặc biệt sự kết thúc của
cuộc “chiến tranh lạnh”, hai nước Liên Xô và Mỹ đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại có ảnh
hưởng to lớn đến quan hệ của CHDC Đức và CHLB Đức.
Từ ngày 27/10/1955, Hội nghị Ngoại trưởng bốn nước Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ đã
họp ở Gerneva để tiếp tục bàn và giải quyết ba vấn đề: an ninh Châu Âu và nước Đức, tái
giảm vũ khí cà phát triển quan hệ giữa phương Đông và phương Tây. Trong những năm 60
vấn đề Đông Đức và Tây Đức luôn là vấn đề nóng bỏng. Năm 1960, Đế quốc Mỹ tiếp tục
tìm mọi cách củng cố khối NATO, tăng cường vũ trang lại Tây Đức, năng đỡ cho bọn quân
phiệt Tây Đức tiến hành những hành động phục thù đụớ với CHDC Đức và hệ thống XHCN.
Ngoài ra, hàng “dũng người” CHDC Đức đã bỏ đất nước chạy sang CHLB Đức. Theo báo
cáo của CHDC Đức thì số người ra đi trong năm 1980 là 199.188 công dân, trong đó
152.291 người vượt qua biên giới tự do sang Tây Berlin.
Ngày 18/3/1961, CHDC Đức đã phải đưa vấn đề người di tản ra phiên họp Ủy ban
trung ương Đảng XHCN thống nhất Đức. Bức tường ngăn Đông và Tây Berlin đã xuất hiện
nhằm ngăn chặn chiến dịch “Săn người” do CHLB Đức và Tây Berlin. Nhưng vấn đề Đức
vẫn không được giải quyết.
12
Vào những năm 70 của thế kỉ XX Níchxơn đã buộc phải xuống thang về vấn đề Đức,
chấp nhận thương lượng với Liên Xô để tìm ra một giải pháp thoả đáng. Trên cơ sở những
nguyên tắc đã được thoả thuận giữa Liên Xô và Mỹ, ngày 9/11/1972, CHDC Đức và CHLB
Đức đã kí kết tại Bon “Hiệp định về những cơ sở của quan hệ quốc tế giữa Đông Đức và Tây

Đức. Hiệp định nhấn mạnh rằng, hai nước sẽ “thiết lập quan hệ láng giềng thân thiện, bình
thường với nhau trên cơ sở bình đẳng hai nước sẽ “tuân thủ theo những mục đích và nguyên
tắc được ghi trong Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Sau năm 1972, tình hình kinh tế của CHDC Đức và CHLB Đức nói chung đã đi vào
ổn định, đạt được một số thành tựu đáng kể. Nhưng trong khi tình hình chính trị ở CHLB
Đức khá ổn định thì tình hình chính trị ở CHDC Đức lại lâm vào bế tắc và khủng hoảng do
chậm thích ứng với những điều kiện mới và không chịu thay đổi cơ chế quản lý cũ đã quan
liêu, lỗi thời. Hậu quả là tình hình chính trị, xã hội ở CHDC Đức ngày càng trở nên phức tạp.
Ngày 18/10/1989, tân Tổng bí thư E.Crenxơ sau khi lên thay các cuộc biểu tình vẫn
tiếp tục nổ ra trong các thành phố của Cộng hoà Dân chủ Đức. Tình hình chính trị, xã hội
ngày càng xấu đi, và đang dần rơi vào khủng hoảng. Ngày 7/11/1989, Hội đồng bộ trưởng từ
chức. Ngày hôm sau 8/11, toàn thể Bộ chính trị uỷ ban trung ương Đảng Xã hội chủ nghĩa
thống nhất Đức xin từ chức. Ngày 9/11/1989, nhà cầm quyền tuyên bố bỏ ngỏ bức tường
Beclin. Việc thống nhất nước Đức đã đến gần. Các cuộc biểu tình rầm rộ vẫn tiếp tục diễn ra
Tháng 3/1990, do sức ép của các lực lượng đối lập trong và ngoài nước, cuộc bầu cử
Quốc hội diễn ra trước thời hạn. Kết quả là Đảng Xã Hội thống nhất Đức bị mất quyền lãnh đạo,
trở thành phe đối lập thiểu số trong Quốc Hội. Ngày 5/4/1990 trong kì họp Quốc hội, ông
Lôtha Đônredierơ-lãnh tụ Đảng liên minh dân chủ Thiên Chúa Giáo được bầu làm thủ tướng.
Bà Sadin Becmapôlơ làm Chủ tịch Quốc hội .
Ngày 18/5/1990, những người cầm quyền của CHLB Đức và CHDC Đức đó ký kết
một hiệp ước, đi tới một liên minh tiền tệ, kinh tế và xã hội. Theo hiệp ước, kể từ 1/7/1990
đồng Mác của CHLB Đức trở thành đồng tiền lưu hành sử dụng thống nhất trong cả nước
Đức, thực hiện một bước thống nhất tiền tệ và kinh tế.
Tới mùa thu 1990, 15 tỉnh trước đây của CHDC Đức đã đổi lại thành 5 bang như cơ
cấu hành chính của CHLB Đức nhằm tiến tới thống nhất lãnh thổ về mặt pháp lí. Trong
phiên họp đặc biệt ngày 23/8/1990, Quốc hội CHDC Đức đã quyết định gia nhập CHLB
Đức. Đúng 0 giờ ngày 3/10/1990, tại nhà Quốc hội CHDC Đức đã diễn ra lễ hạ cờ CHDC
Đức và kéo cờ CHLB Đức, tượng trưng cho sự thống nhất nước Đức đã hoàn thành. Như
vậy, chỉ trong vòng một năm, kể từ 10/1989, CHDC Đức từ một nước có chủ quyền đã sát
nhập vào CHLB Đức, kết thúc 41 năm tồn tại.

Như vậy, nước Đức đã được thống nhất thành một quốc gia, chấm dứt tình trạng chia
cắt, tạo điều kiện cho Đức phát triển thành một quốc gia hoà bình, dân chủ.
13
KẾT LUẬN
Thống nhất là xu thế tất yếu của thời đại, của mỗi quốc gia, dân tộc. Trên thế giới, đã
có nhiều quốc gia phải đấu tranh gian khổ để thực hiện hoà hợp dân tộc, thống nhất quốc gia,
Sau Chiến tranh thế giới hai, nhiều nước bị chia cắt, nước Đức là một điển hình. Vấn đề Đức
sau Chiến tranh thế giới hai là vấn đề quan trọng của đời sống chính trị châu Âu. Là một
nước trung tâm ở châu Âu, việc nước Đức đi theo con đường tư bản chủ nghĩa hay xã hội
chủ nghĩa đều có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị châu Âu.
Sau những năm 50, 60 vấn đề Đức vẫn chưa được giải quyết một cách thoả đáng,
nước Đức vẫn bị chia cắt thành hai quốc gia có hai chế độ chính trị, có hai nền kinh tế khác
nhau. Những thập kỉ 70,80, trong quan hệ quốc tế, mâu thuẫn giữa hai cực Xô-Mĩ, Đông-Tây
bớt căng thẳng, hoà dịu dần. Và đến 1989, trong cuộc gặp gỡ không chính thức giữa Busơ và
Goocbachốp trên đảo Manta đã chính thức chấm dứt “chiến tranh lạnh” kéo dài hơn 40 năm.
Quan hệ giữa hai nước đã chuyển từ “đối đầu” sang” đối thoại”, hợp tác với nhau để giải
quyết những tranh chấp quốc tế và những vụ xung đột quân sự mang tính đối địch giữ hai
cực trước đây ở các khu vực trên thế giới. Năm 1990, nước Đức đã được thống nhất sau hơn
một năm đấu tranh lâu dài, gian khổ. Đó cũng là cuộc đấu tranh giữa một bên là lực lượng
chủ tương dân chủ, hoà bình thống nhất nước Đức với một bên chủ trương chia cắt nước
Đức, đứng đầu là Mĩ. Đó cũng là vấn đề tâm điểm của cuộc “chiến tranh lạnh” sau Chiến
tranh thế giới hai.
Nước Đức thống nhất là điều kiện cho nhân dân Đức xây dựng một nước hoà bình,
dân chủ, phát triển khoa học, kĩ thuật. Ngày nay, Đức là một quốc gia phát triển mạnh về
kinh tế, có trình độ văn hoá, khoa học kĩ thuật tiên tiến, đời sống dân cư ở mức độ cao. Đức
đã và đang khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế về mọi mặt. Sự phát triển ngày
nay của Đức khiến cho nhiều quốc gia phải ngưỡng mộ, khâm phục và học hỏi.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
 SÁCH, LUẬN VĂN:

1. Nguyễn Thị Liên Hương, Quá trình hình thành nhà nước Cộng hòa Liên bang Đức
sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945-1949), NXB Đại học khoa học xã hội và nhân
văn, 2001.
2. Trương Tiểu Minh, Chiến tranh lạnh và di sản của nó, NXB Chính trị quốc gia Hà
Nội, 2002.
3. Nguyễn Anh Thái (chủ biên), Lịch sử thế giới hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006.
 TRANG WEB:
1. />cuc-xo-my-va-hai-khoi-dong-tay-qua-viec-giai-quyet-van-de-duc-sau-nam-1945-
128361
2. />duc-trong-chien-tranh-lanh-130254
3. />te-sau-chien-tranh/62997.html
4. />va-sau-khi-chien-tranh-the-gioi-thu-ii-ket-thuc-59186/
5. vi-
20 1 img-txIN-n%C6%B0%E1%BB%9Bc+%C4%91%E1%BB%A9c
6. />15
DANH SÁCH NHÓM 3
1. Vũ Thị An K37.602.001
2. Võ Thị Ngọc Điệp K37.602.020
3. Trần Bích Dịu K37.602.022
4. Nguyễn Văn Phước K37.602.078
5. Cao Thị Thu K37.602.090
6. Đỗ Thị Kim Thúy K37.602.091
7. Nguyễn Thị Thùy Trang K37.602.104
8. Lâm Thanh Tú K37.602.116
9. Đỗ Văn Tuấn K37.602.112
16

×