Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

nghiên cứu tính đa dạng thực vật và tài nguyên cây thuốc trong một số trạng thái thảm thực vật tại xã vũ chấn, huyện võ nhai tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 130 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM







TRƯƠNG THỊ TỐ UYÊN




NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG THỰC VẬT VÀ TÀI
NGUYÊN CÂY THUỐC TRONG MỘT SỐ TRẠNG
THÁI THẢM THỰC VẬT Ở XÃ VŨ CHẤN, HUYỆN
VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN





LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC











THÁI NGUYÊN – 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM





TRƯƠNG THỊ TỐ UYÊN





NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA DẠNG THỰC VẬT VÀ TÀI
NGUYÊN CÂY THUỐC TRONG MỘT SỐ TRẠNG
THÁI THẢM THỰC VẬT Ở XÃ VŨ CHẤN, HUYỆN
VÕ NHAI, TỈNH THÁI NGUYÊN

CHUYÊN NGÀNH: SINH THÁI HỌC
MÃ SỐ: 60.42.60




LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ NGỌC CÔNG






THÁI NGUYÊN – 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Lời cảm ơn

Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Sinh thái học, khoa Sinh - KTNN Trường Đại học Sư phạm -
Đại học Thái Nguyên, tôi đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của các thầy cô
giáo, các đồng nghiệp, bạn bè và gia đình!
Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến TS. Lê Ngọc
Công - người thầy đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt những kiến thức và kinh
nghiệm quý báu để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy cô giáo khoa Sinh
trường Đại học Sư phạm, khoa Sau Đại học - Đại học Thái Nguyên đã nhiệt tình
giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn UBND xã Vũ Chấn, Chi cục Kiểm
lâm, phòng Thống kê huyện Võ Nhai, đặc biệt là TS La Quang Độ - giảng
viên trường Đại học Nông lâm Thái nguyên! Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành đến trường THPT Gang thép – tỉnh Thái Nguyên đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học Cao học!

Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới toàn thể gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp đã luôn cổ vũ, động viên tôi trong suốt thời gian qua!
Trong quá trình thực hiện luận văn do còn hạn chế về mặt thời gian, kinh phí
cũng như trình độ chuyên môn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong nhận được những ý kiến quý báu của các thầy cô giáo, các nhà khoa
học, cùng bạn bè, đồng nghiệp!
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 24 tháng 8 năm 2010
Tác giả

Trương Thị Tố Uyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết
quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.

Tác giả


Trương Thị Tố Uyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

CÁC TỪ VIẾT TẮT


Viết tắt
Viết đầy đủ

EN
Nguy cấp
IUCN
The International Union for Conservation of
Nature and Natural Resources - Tổ chức Bảo tồn
thiên nhiên và Tài nguyên thiên nhiên Quốc tế
KVNC
Khu vực nghiên cứu
NXB
Nhà xuất bản
OTC
Ô tiêu chuẩn
SCN
Sau công nguyên
SĐVN
Sách đỏ Việt Nam
TCN
Trước công nguyên
VU
Sẽ nguy cấp
WHO
World Health Organization - Tổ chức y tế thế giới




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quí giá của chúng ta. Rừng có
vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đất, chống xói mòn, lũ lụt, giữ cân bằng sinh
thái và sự phát triển bền vững trên trái đất. Bên cạnh đó rừng còn là nơi cung cấp
trữ lượng gỗ lớn, các loài cây thuốc quí và những lâm sản có giá trị khác nữa. Xuất
phát từ những lợi ích to lớn mà rừng đem lại, chúng ta cần phải kết hợp giữa khai
thác hợp lý, bảo vệ và phục hồi nguồn tài nguyên quí giá này. Việc phục hồi rừng là
một trong những vấn đề cấp thiết nhất hiện nay đối với ngành lâm nghiệp Việt Nam
cũng như của tất cả các nước trên thế giới khi độ che phủ của rừng giảm mạnh
xuống dưới mức an toàn sinh thái.
Hiện nay khi dân số tăng nhanh, nhu cầu cải thiện đời sống con người ngày
càng được nâng cao, sự phát triển mạnh của ngành công nghiệp đã dẫn tới sự khai
thác quá mức tài nguyên rừng, thu hẹp diện tích đất rừng gây nên hậu quả vô cùng
nghiêm trọng cho các vùng sinh thái trên thế giới. Ban đầu rừng chiếm diện tích
khoảng 6 tỉ ha trên bề mặt trái đất, diện tích này giảm xuống còn 4,4 tỉ ha vào năm
1958 và 3,8 tỉ ha vào năm 1973. Hiện nay diện tích rừng khép kín chỉ còn khoảng
2,9 tỉ ha. Các nhà khoa học đã dự báo rằng hàng năm trên thế giới mất đi trung bình
16,7 triệu ha rừng. Nếu tiếp tục đà này trong vòng 166 năm nữa, trên trái đất sẽ
không còn rừng [73].
Ở Việt Nam, theo P.Maurand thì năm 1943 có 14,352 triệu ha rừng chiếm
43% diện tích đất nước [73]. Từ năm 1945 - 1975 nước ta mất 3 triệu ha, tỉ lệ che
phủ của rừng giảm từ 43% (1943) xuống còn 38% (1975). Từ năm 1975 - 1995 tỉ lệ
che phủ của rừng giảm xuống mức 28% (1995), cả nước chỉ còn khoảng 9,3 triệu
ha rừng (trong đó có 1 triệu ha rừng trồng) [21]. Hiện nay diện tích rừng bị giảm
ước tính vào khoảng 200.000ha/năm trong đó 60.000 ha bị chặt để chuyển thành đất
nông nghiệp ngoài kế hoạch, 50.000 ha bị cháy và 90.000 ha bị khai thác làm gỗ
củi. Trong khi đó tốc độ trồng rừng khoảng 80.000 - 100.000ha/năm không thể bù
lại tốc độ mất rừng [9]. Hệ thực vật nướ c ta hiệ n có tớ i 10.368 loài thuộc 2.257 chi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2
và 305 họ thực vật bậc cao có mạch chiếm 4% tổ ng số loà i, 15% tổ ng số chi và 57
% tổ ng số họ toà n thế giớ i.
Trong cuộ c đấ u tranh hà ng ngà y vớ i bệ nh tậ t để bả o tồ n s ự sống và sức khe
con ngườ i, nhiề u cây thuố c đã đượ c nhân dân ta sử dụ ng trong cá c bà i thuố c cổ
truyề n để phò ng chữ a bệ nh tậ t. Theo thố ng kê củ a Việ n dượ c liệ u năm 2005 các nhà
khoa họ c đã phá t hiệ n đượ c 1.863 loài cây thuố c thuộ c 238 họ, thu thậ p đượ c 8000
tiêu bả n thuộ c 1296 loài. Việ c sử dụ ng nguồ n dượ c liệ u từ thự c vậ t ngà y cà ng đượ c
sử dụ ng rộ ng rã i vì nó có ưu điể m : Đá p ứ ng đượ c nhu cầ u phò ng và chữ a bệ nh
tương đố i tố t mà lạ i r tiền, dễ kiế m, đặ c biệ t í t gây tá c dụ ng phụ . Chính vì vậy ,
những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã hết sức chú trọng vấn đề bảo vệ , phát
triển và phục hồi rừng , thảm thực vật nói riêng và tà i nguyên cây thuố c nó i chung ,
thảm thực vật là đối tượng chịu tác động không ngừng của các nhân tố vô sinh và
hữu sinh, đồng thời còn là nơi xảy ra quá trình diễn thế, quá trình phục hồi và suy
thoái rừng. Để xây dựng kế hoạch trong việc bảo vệ, phục hồi và khai thác có hiệu
quả tài nguyên rừng cũng như như nắm vững được quy luật phát triển của nó, chúng
ta cần có những hiểu biết về tính đa dạng thực vật và những tài nguyên cây thuốc
trong rừng.
Võ Nhai là huyện thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam với địa bàn có cả vùng
miền núi và trung du. Theo số liệu kiểm kê năm 2006 và kết quả điều tra tháng 9
năm 2008 của phân viện điều tra qui hoạch rừng Tây bắc bộ , trong tổng số diện tích
đất tự nhiên của huyện Võ Nhai là 84.510,41 ha thì diện tích đất lâm nghiệp là
62.689,50 chiếm 74,18%. Trong đó gồm rừng sản xuất có 24.855,73 ha, rừng phòng
hộ 18.974,87 ha, rừng đặc dụng 18.858,9 ha. Ngoài ra còn đất đồi núi chưa được sử
dụng là 10.69,68 ha chiếm 12,03% diện tích đất tự nhiên [50]. Đặc biệt xã Vũ Chấn
trong tổng diện tích đất tự nhiên là 7.340,9 ha thì diện tích đất lâm nghiệp của xã là
5.031,9 ha. Đây là một xã có nhiều rừng của huyện Võ Nhai nên rất thuận lợi cho
việc nghiên cứu tính đa dạng thực vật và tài nguyên cây thuốc. Vì vậy chúng tôi
chọn đề tài "Nghiên cứu tính đa dạng thực vật và tài nguyên cây thuốc trong một
số trạng thái thảm thực vật tại xã Vũ Chấn, huyện Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên".

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định sự đa dạng các trạng thái thảm thực vật trong khu vực nghiên cứu
- Xác định đa dạng hệ thực vật và đa dạng các loài cây quý hiếm có nguy cơ
tuyệt chủng trong các trạng thái thảm thực vật chọn nghiên cứu.
- Xác định đa dạng tài nguyên cây thuốc và các loài cây thuốc quý hiếm có
nguy cơ bị tuyệt chủng trong các trạng thái thảm thực vật chọn nghiên cứu
- Đề xuất một số biện pháp bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên cây thuốc
ở khu vực nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài được thực hiện từ năm 2008 đến năm 2010 tại khu vực xã Vũ Chấ n ,
huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.
- Do điều kiện hạn chế về thời gian và kinh phí , đề tài chỉ tập trung nghiên
cứu, xác định tính đa dạng cá c trạ ng thá i thả m thự c vậ t , hệ thự c vậ t, các loài cây quí
hiế m, tài nguyên cây thuốc và các loài cây thuốc quí hiếm có nguy cơ tuyệt chủng
trong cá c trạ ng thá i thả m thự c vậ t chọ n nghiên cứ u.
4. Đóng góp mới của luận văn
- Bước đầu đã xác định được đa dạng các loài cây quý hiếm trong các trạng
thái thảm thực vật, hệ thực vật ở xã Vũ Chấn, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.
- Xác định được một số loài cây thuố c quý hiế m có nguy cơ bị tuyệt chủng
theo Sách đ Việt Nam (2007), Danh lục đ IUCN (2006) và Nghị định
32/2006/NĐ-CP.
- Đề xuất một số biện pháp để bảo tồn và phát triển bề n vữ ng nguồn tài
nguyên cây thuố c ở khu vự c nghiên cứ u .







Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật, hệ thực vật trên thế giới và Việt Nam
1.1.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật
Có nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đưa ra các định nghĩa khác nhau về
thảm thực vật (vegetation). Theo J.Schmithusen (1959) thì thảm thực vật là lớp thực
bì của trái đất và các bộ phận cấu thành khác nhau của nó. Thái Văn Trừng (1978)
[63] cho rằng thảm thực vật là các quần hệ thực vật phủ trên mặt đất như một tấm
thảm xanh. Trần Đình Lý (1998) [43] cho rằng thảm thực vật là toàn bộ lớp phủ
thực vật ở một vùng cụ thể hay toàn bộ lớp phủ thảm thực vật trên toàn bộ bề mặt
trái đất. Thảm thực vật là một khái niệm chung chưa chỉ rõ đối tượng cụ thể nào. Nó
chỉ có ý nghĩa và giá trị cụ thể khi có định ngữ kèm theo như: thảm thực vật cây
bụi, thảm thực vật rừng ngập mặn…
1.1.1.1. Những nghiên cứu về thảm thực vật trên thế giới
H.G. Champion (1936) khi nghiên cứu các kiểu rừng Ấn Độ - Miến Điện đã
phân chia 4 kiểu thảm thực vật lớn theo nhiệt độ đó là: nhiệt đới, á nhiệt đới, ôn đới
và núi cao.
J. Beard (1938) đưa ra hệ thống phân loại gồm 3 cấp (quần hợp, quần hệ và
loạt quần hệ). Ông cho rằng rừng nhiệt đới có 5 loạt quần hệ: loạt quần hệ rừng
xanh từng mùa; loạt quần hệ khô thường xanh; loạt quần hệ miền núi; loạt quần hệ
ngập từng mùa và loạt quần hệ ngập quanh năm [45].
Maurand (1943) nghiên cứu về thảm thực vật Đông Dương đã chia thảm thực vật
Đông Dương thành 3 vùng: Bắc Đông Dương, Nam Đông Dương và vùng trung gian.
Đồng thời ông đã liệt kê 8 kiểu quần lạc trong các vùng đó [73].
1.1.1.2. Những nghiên cứu về thảm thực vật ở Việt Nam

Ở Việt Nam những công trình nghiên cứu về thảm thực vật đến nay còn ít.
Chevalier (1918) là người đầu tiên đã đưa ra một bảng phân loại thảm thực vật rừng
Bắc bộ Việt Nam (đây được xem là bảng phân loại thảm thực vật rừng nhiệt đới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Châu Á đầu tiên trên thế giới). Theo bảng phân loại này rừng ở Miền bắc Việt Nam
được chia thành 10 kiểu [70].
Năm 1953 ở Miền nam Việt Nam xuất hiện bảng phân loại thảm thực vật rừng
Miền nam của Maurand khi ông tổng kết về các công trình nghiên cứu các quần thể
rừng thưa của Rollet, Lý Văn Hội, Neang Sam Oil.
Bảng phân loại đầu tiên của ngành Lâm nghiệp Việt Nam về thảm thực vật
rừng ở Việt Nam là bảng phân loại của Cục điều tra và quy hoạch rừng (1960).
Theo bảng phân loại này rừng trên toàn lãnh thổ Việt Nam được chia làm 4 loại
hình lớn:
Loại I: đất đai hoang trọc, những trảng c và cây bụi, trên loại này cần phải
trồng rừng.
Loại II: gồm những rừng non mới mọc, cần phải tra dặm thêm cây hoặc tỉa
thưa.
Loại III: gồm tất cả các loại hình rừng bị khai thác mạnh trở nên nghèo kiệt
tuy còn có thể khai thác lấy gỗ, trụ m, củi, nhưng cần phải xúc tiến tái sinh, tu bổ,
cải tạo.
Loại IV: gồm những rừng già nguyên sinh còn nhiều nguyên liệu, chưa bị phá
hoại, cần khai thác hợp lý.
Thomasius (1965) đưa ra bảng phân loại các kiểu lập quần vùng Quảng Ninh
dựa trên các điều kiện địa hình, đất đai, đá mẹ, khí hậu và các loài cây ưu thế.
Phan Nguyên Hồng (1970) [35], phân chia kiểu thảm thực vật ven bờ biển Miền bắc
Việt Nam thành rừng ngập mặn, rừng gỗ ven biển và thực vật bãi cát trống.
Trần Ngũ Phương (1970) [47] đưa ra bảng phân loại rừng ở Miền bắc Việt
Nam, chia thành 3 đai lớn theo độ cao: đai rừng nhiệt đới mưa mùa; đai rừng á nhiệt

đới mưa mùa; đai rừng á nhiệt đới mưa mùa núi cao.
Thái Văn Trừng (1970) [63] đã đưa ra 5 kiểu quần lạc lớn (quần lạc thân gỗ
kín tán; quần lạc thân gỗ thưa; quần lạc thân c kín rậm; quần lạc thân c thưa và
những kiểu hoang mạc) và nguyên tắc đặt tên cho các thảm thực vật. Năm 1975,
trên cơ sở các điều kiện lập địa trên toàn lãnh thổ Việt Nam, tại hội nghị thực vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
học quốc tế lần thứ XII (Leningrat), ông đưa ra bảng phân loại thảm thực vật rừng
Việt Nam theo quan điểm sinh thái, đây được xem là bảng phân loại thảm thực vật
rừng ở Việt Nam phù hợp nhất theo quan điểm sinh thái cho đến nay [64].
Phan Kế Lộc (1985) [41] dựa trên bảng phân loại của UNESCO 1973, cũng đã
xây dựng thang phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam thành 5 lớp quần hệ, 15
dưới lớp, 32 nhóm quần hệ và 77 quần hệ khác nhau. Nguyễn Nghĩa Thìn (1994-
1996) cũng đã áp dụng cách phân loại này trong những nghiên cứu của ông.
Nguyễn Hải Tuất (1991) [65] nghiên cứu một số đặc trưng chủ yếu về sinh
thái của các quần thể thực vật tại vùng núi cao Ba Vì đã chia ra 3 kiểu rừng cơ bản:
kiểu rừng hỗn giao ẩm á nhiệt đới; kiểu rừng kín hỗn giao ẩm á nhiệt đới núi cao;
kiểu rừng kín hỗn giao cây hạt kín và hạt trần.
Vũ Tự Lập và cộng sự (1995) [39] cho rằng khí hậu ảnh hưởng đến sự hình
thành và phân bố các kiểu thực bì thông qua nhiệt độ và độ ẩm. Dựa vào mối quan
hệ giữa hình thái thực bì và khí hậu chia ra 15 kiểu thực bì khác nhau: kiểu rừng
rậm nhiệt đới gió mùa rụng lá; kiểu rừng rậm nhiệt đới ẩm thường xanh; kiểu rừng
rậm nhiệt đới gió mùa nửa rụng lá; kiểu rừng khô nhiệt đới gió mùa khô rụng lá;
kiểu rừng thưa nhiệt đới khô lá kim; kiểu sa van nhiệt đới khô; kiểu truông nhiệt đới
khô; kiểu rừng nhiệt đới trên đất đá vôi; kiểu rừng nhiệt đới trên đất mặn; kiểu rừng
nhiệt đới trên đất phèn; kiểu rừng rậm á nhiệt đới ẩm lá rộng thường xanh; kiểu
rừng rậm á nhiệt đới ẩm hỗn giao; kiểu rừng thưa á nhiệt đới hơi ẩm lá kín; kiểu
rừng rêu á nhiệt đới mưa mùa; kiểu rừng lùn đỉnh cao.
Thái Văn Trừng (1998) [64] khi nghiên cứu hệ sinh thái rừng nhiệt đới Việt

Nam đã kết hợp 2 hệ thống phân loại (hệ thống phân loại lấy đặc điểm cấu trúc
ngoại mạo làm tiêu chuẩn và hệ thống phân loại thực vật dựa trên yếu tố hệ thực vật
làm tiêu chuẩn) để phân chia thảm thực vật Việt Nam thành 5 kiểu thảm (5 nhóm
quần hệ) với 14 kiểu quần hệ (14 quần hệ). Bảng phân loại này của ông từ bậc quần
hệ trở lên gần phù hợp với hệ thống phân loại của UNESCO (1973).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Nguyễn Thế Hưng (2003) [37] cũng dựa trên nguyên tắc phân loại UNESCO
(1973) đã xây dựng được 8 trạng thái thảm thực vật khác nhau đặc trưng cho loại
hình thảm cây bụi ở huyện Hoành Bồ, thị xã Cẩm Phả (Quảng Ninh).
Lê Ngọc Công (2004) [22] cũng dựa theo khung phân loại của UNESCO
(1973) đã phân chia thảm thực vật của tỉnh Thái Nguyên thành 4 lớp quần hệ:
rừng rậm; rừng thưa; trảng cây bụi và trảng c. Ở đây, những trạng thái thứ
sinh (được hình thành do tác động của con người như: khai thác gỗ, củi, chặt
đốt rừng làm nương rẫy…) bao gồm: trảng c; trảng cây bụi và rừng thưa.
Ngô Tiến Dũng (2004) [29] dựa theo phương pháp phân loại thảm thực vật
của UNESCO (1973) đã phân chia thảm thực vật Vườn quốc gia Yok Don
thành: kiểu rừng kín thường xanh; kiểu rừng thưa nửa rụng lá và kiểu rừng thưa
cây lá rộng rụng lá gồm 6 quần xã khác nhau.
1.1.2. Những nghiên cứu về hệ thực vật
1.1.2.1. Những nghiên cứu về hệ thực vật trên thế giới
Tổng số loài thực vật hiện nay trên thế giới có nhiều biến động và chưa cụ thể
tuỳ từng tác giả do chưa có sự nghiên cứu và điều tra đầy đủ. Các nhà thực vật học
dự đoán số loài thực vật bậc cao hiện có trên thế giới vào khoảng 500.000 – 600.000
loài.
Năm 1965, Al. A. Phêđôrốp đã dự đoán trên thế giới có khoảng: 300.000 loài
thực vật hạt kín; 5.000 – 7.000 loài thực vật hạt trần; 6.000 – 10.000 loài quyết thực
vật; 14.000 – 18.000 loài rêu; 19.000 – 40.000 loài tảo; 15.000 – 20.000 loài địa y;
85.000 – 100.000 loài nấm và các loài thực vật bậc thấp khác.

Năm 1962, G. N. Slucop đã đưa ra số lượng các loài thực vật hạt kín phân bố ở
các châu lục như sau:
Châu Mỹ có khoảng 97.000 loài trong đó: Hoa Kỳ và Canada: 25.000 loài;
Mehico và Trung Mỹ: 17.000 loài; Nam Mỹ: 56.000 loài; Đất lửa và Nam cực:
1.000 loài.
Châu Âu có khoảng 15.000 loài trong đó: Trung và Bắc Âu: 5.000 loài; Nam
Âu, vùng Ban căng và Capcasơ: 10.000 loài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Châu Phi có khoảng 40.500 loài trong đó: các vùng nhiệt đới ẩm: 15.500 loài;
Madagasca: 7.000 loài; Nam Phi: 6.500 loài; Bắc Phi, Angieri, Ma Rốc và các vùng
phụ cận khác: 4.500 loài; Abitxini: 4.000 loài; Tuynidi và Ai cập: 2.000 loài;
Xomali và Eritrea: 1.000 loài.
Châu Á có khoảng 125.000 loài trong đó: Đông Nam Á: 80.000 loài; các khu
vực nhiệt đới Ấn Độ: 26.000 loài; Tiểu Á: 8.000 loài; Viễn đông thuộc Liên bang
Nga, Triều Tiên, Đông bắc Trung Quốc: 6.000 loài; Xibêria thuộc Liên bang Nga,
Mông Cổ và Trung Á: 5.000 loài.
Châu Úc có khoảng 21.000 loài trong đó: Đông Bắc Úc: 6.000 loài; Tây Nam
Úc: 5.500 loài; Lục địa Úc: 5.000 loài; Taxman và Niu Di Lân: 4.500 loài [26],
[71].
1.1.2.2. Những nghiên cứu về hệ thực vật ở Việt Nam
Trong thực vật chí Đại cương Đông Dương và các tập bổ sung tiếp theo đã mô
tả và ghi nhận ở nước ta có khoảng 240 họ với khoảng 7.000 loài thực vật bậc cao
có mạch [72]. Những năm gần đây, nhiều nhà thực vật dự đoán con số đó có thể lên
tới 10.000 đến 12.000 loài. Trên cơ sở những thông tin mới nhất và những căn cứ
chắc chắn, năm 1997 Nguyễn Tiến Bân đã giới thiệu khái quát những đặc điểm cơ
bản của 265 họ và khoảng 2.300 chi thuộc ngành hạt kín ở nước ta [5]. Gần đây,
Phan Kế Lộc (1998) đã kiểm kê và ghi nhận đến nay trong hệ thực vật Việt Nam đã
biết được 9.653 loài thực vật bậc cao có mạch mọc tự nhiên, thuộc 2.011 chi và 291

họ. Nếu kể cả khoảng 733 loài cây trồng đã được nhập nội thì tổng số loài thực vật
bậc cao có mạch biết được ở Việt Nam đã lên tới 10.386 loài, thuộc 2.257 chi và
305 họ, chiếm khoảng 4% tổng số loài, 15% tổng số chi và 57% tổng số họ của toàn
thế giới. Cũng do điều kiện khí hậu và địa hình đa dạng, đặc thù nên hệ thực vật
nước ta có thành phần loài khá phong phú mang cả yếu tố của thực vật nhiệt đới ẩm
Indonesia – Malaisia, yếu tố của thực vật nhiệt đới gió mùa, thực vật ôn đới nam
Trung Hoa và các yếu tố của thực vật Ấn độ - Trung và Nam Tiểu Á [44].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Những nghiên cứu về thảm thực vật của các tác giả nhìn chung đều chỉ tập
trung nghiên cứu ở một vùng cụ thể và phần lớn các tác giả đều dựa vào khung phân
loại của UNESCO (1973) để phân loại.
Những nghiên cứu về hệ thực vật trên thế giới và ở Việt Nam hầu hết các tác
giả đều mới chỉ đưa ra con số dự đoán về hệ thực vật ở một châu lục, một quốc gia,
hoặc một khu vực cụ thể. Những số liệu này chưa được nghiên cứu và điều tra đầy
đủ. Vì vậy, số loài thực vật hiện có chắc chắn còn dao động và cao hơn nhiều.
1.2. Những nghiên cứu về thành phần dạng sống
Hình thái cấu trúc cơ thể thực vật thích nghi với điều kiện môi trường của nó
biểu hiện qua dạng sống của nó, dạng sống của thực vật đã được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu từ rất sớm.
I. K. Patsoxki (1915) chia thảm thực vật thành 6 nhóm: thực vật thường xanh;
thực vật rụng lá vào thời kỳ bất lợi trong năm; thực vật tàn lụi phần trên mặt đất
trong thời kỳ bất lợi; thực vật tàn lụi vào thời kỳ bất lợi; thực vật có thời kỳ sinh
trưởng và phát triển ngắn; thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát triển lâu năm. G.
N. Vưxôxki (1915) chia thực vật thảo nguyên làm 2 lớp: lớp cây nhiều năm và lớp
cây hàng năm [45].
Braun – Blanquet (1951) đánh giá cách mọc của thực vật dựa vào tính liên tục
hay đơn độc của loài đã chia thành 5 thang: mọc l; mọc thành vạt; mọc thành dải
nh; mọc thành vạt lớn và mọc thành khóm lớn [2].

Hiện nay, người ta vẫn dùng hệ thống của Raunkiaer (1934) [17] để sắp xếp
các loài của hệ thực vật nghiên cứu vào một trong các dạng sống. Cơ sở phân chia
dạng sống của ông là sự khác nhau về khả năng thích nghi của thực vật qua thời
gian bất lợi trong năm. Từ tổ hợp các dấu hiệu thích nghi, Raunkiaer chỉ chọn một
dấu hiệu là vị trí của chồi nằm ở đâu trên mặt đất trong suốt thời gian bất lợi trong
năm.
Raunkiaer đã chia 5 nhóm dạng sống cơ bản:
1. Phanerophytes (Ph): nhóm cây có chồi trên mặt đất
2. Chamaetophytes (Ch): nhóm cây có chồi sát mặt đất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
3. Hemicryptophytes (He): nhóm cây có chồi nửa ẩn
4. Cryptophytes (Cr): nhóm cây có chồi ẩn
5. Therophytes (Th): nhóm cây sống 1 năm
Ông đã xây dựng phổ chuẩn của các dạng sống ở các vùng khác nhau trên trái
đất (SB):
SB = 46Ph + 9Ch + 26He + 6Cr + 13Th
Hệ thống phân chia dạng sống của Raunkiaer có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo
tính khoa học, dễ áp dụng. Phân chia dạng sống của Raunkiaer dựa trên những đặc
điểm cơ bản của thực vật, nghĩa là dựa trên đặc điểm cấu tạo, phương thức sống của
thực vật, đó là kết quả tác động tổng hợp của các yếu tố môi trường tạo nên. Thuộc
về những đặc điểm này có hình dạng ngoài của thực vật, đặc điểm qua đông, sinh
sản…
Xêrêbriacốp (1964) đưa ra bảng phân loại dạng sống mang tính chất sinh thái
học hơn của Raunkiaer. Trong bảng phân loại này, ngoài những dấu hiệu hình thái
sinh thái Xêrêbriacốp sử dụng cả những dấu hiệu như ra quả nhiều lần hay một lần
trong cả đời của cá thể bao gồm: ngành, kiểu, lớp và lớp phụ. Trong bảng phân loại
này không bao gồm những cây thuỷ sinh. Trong bảng phân loại này ông còn chia ra
các đơn vị nh hơn là nhóm, nhóm phụ, tổ và các dạng đặc thù.

Bảng phân loại dạng sống cây thuộc thảo đã được lập ra lần đầu tiên bởi
Canon (1911), sau đó hàng loạt bảng đã được đưa ra. Với cây thảo, đặc điểm phần
dưới đất đóng vai trò rất quan trọng trong phân chia dạng sống, nó biểu thị mức độ
khắc nghiệt khác nhau của môi trường sống, là phần sống lâu năm của cây. Vì thế
việc sử dụng phần dưới đất để làm tiêu chuẩn phân chia dạng sống sẽ giúp cho ta
đánh giá đúng hơn kiểu thảm, những đặc điểm đặc trưng của môi trường [17].
Công trình nghiên cứu về dạng sống ở Việt Nam như: Doãn Ngọc Chất (1969)
nghiên cứu dạng sống của một số loài thực vật thuộc họ Hoà thảo. Hoàng Chung
(1980) thống kê thành phần dạng sống cho loại hình đồng c Bắc Việt Nam, đã đưa
ra 18 kiểu dạng sống cơ bản và bảng phân loại kiểu đồng c sa van, thảo nguyên
[16].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Thái Văn Trừng (1978) cũng áp dụng nguyên tắc của Raunkiaer khi phân chia
dạng sống của hệ thực vật ở Việt Nam [63].
Hoàng Chung (2008) khi nghiên cứu thực vật trong đồng c vùng núi bắc Việt
Nam, đã phân chia 8 kiểu dạng sống chính là: kiểu cây gỗ, kiểu cây bụi, kiểu cây
bụi thân bò, kiểu cây bụi nh, kiểu cây bụi nh bò, kiểu nửa bụi, kiểu thực vật có
khả năng tạo chồi mới từ rễ, kiểu cây thảo có hệ rễ cái sống lâu năm [17].
Phan Nguyên Hồng (1991) [36] khi nghiên cứu hình thái thảm thực vật rừng
ngập mặn Việt Nam đã chia thành 7 dạng sống cơ bản: cây gỗ (G), cây bụi (B), cây
thân thảo (T), dây leo (L), cây gỗ thấp hoặc dạng cây bụi (G/B), ký sinh (K), bì sinh
(B).
Áp dụng theo nguyên tắc của Raunkiaer, Nguyễn Bá Thụ, Phùng Ngọc Lan,
Nguyễn Nghĩa Thìn (1995) đã xây dựng phổ dạng sống của hệ thực vật Vườn quốc
gia Cúc Phương [54] là:
SB = 57,8Ph + 10,5Ch + 12,4He + 8,3Cr + 11,0Th
Phạm Hồng Ban (1999) [3] nghiên cứu tính đa dạng sinh học của hệ sinh thái
tái sinh sau nương rẫy vùng Tây Nam Nghệ An, áp dụng khung phân loại của

Raunkiaer để phân chia dạng sống, phổ dạng sống là:
SB = 67,40Ph + 7,33Ch + 12,62He + 8,53Cr + 4,09Th
Đặng Kim Vui (2002) [66] nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi sau
nương rẫy ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã phân chia dạng sống thực vật
dựa vào hình thái cây: cây gỗ, cây bụi, cây leo và cây c, đồng thời ông đã xác định
được có 17 kiểu dạng sống, trong đó có 5 kiểu dạng cây bụi (cây bụi; cây bụi thân
bò; cây bụi nh; cây bụi nh thân bò; cây nửa bụi).
Nguyễn Thế Hưng (2003) khi nghiên cứu dạng sống thực vật trong các trạng
thái thảm thực vật tại Hoành Bồ (Quảng Ninh) đã kết luận: nhóm cây chồi trên đất
có 196 loài chiếm 60,49% tổng số loài của toàn hệ thực vật; nhóm cây chồi sát đất
có 26 loài chiếm 8,02%; nhóm cây chồi nửa ẩn có 43 loài chiếm 13,27%; nhóm cây
chồi ẩn có 24 loài chiếm 7,47%; nhóm cây 1 năm có 35 loài chiếm 10,80% [37].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Phạm Ngọc Thường (2003) [58] khi nghiên cứu thảm thực vật sau nương rẫy ở
Thái Nguyên và Bắc Kạn đã cho kết quả phổ dạng sống của hệ thực vật là:
SB = 56,37Ph + 12,73Ch + 14,23He +8,80Cr + 7,87Th
Lê Ngọc Công (2004) [22] khi nghiên cứu quá trình phục hồi rừng bằng
khoanh nuôi trên một số thảm thực vật ở Thái Nguyên đã phân chia thực vật thành
các nhóm dạng sống sau: cây gỗ; cây bụi; cây c và dây leo.
Ngô Tiến Dũng (2004) [29] nghiên cứu tính đa dạng thực vật ở Vườn quốc gia
Yok Don đã lập được phổ dạng sống của thực vật Yok Don là:
SB = 71,73Ph + 1,41Ch + 7,77He + 4,59Cr + 6Th
Vũ Thị Liên (2005) [40] phân chia dạng sống thực vật trong thảm thực vật sau
nương rẫy ở Sơn La theo thang phân loại của Raunkiaer. Kết quả phổ dạng sống
như sau:
SB = 69,69Ph + 3,76Ch + 9,29He + 10,84Cr + 6,42Th.
1.3.Những nghiên cứu về các loài thực vật quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng
Do những nguyên nhân khác nhau trong quá trình phát triển kinh tế xã hội,

nhiều loài thực vật đã bị tuyệt chủng hoặc bị đe doạ tuyệt chủng, các nguồn tài
nguyên sinh học không ngừng bị suy giảm. Để nâng cao nhận thức trong xã hội và
toàn cộng đồng về tính cấp thiết của việc bảo tồn đa dạng sinh học và tạo cứ liệu
quan cho công tác bảo tồn, từ năm 1964, hiệp hội bảo tồn thiên nhiên thế giới
(IUCN) đã cho xuất bản các Bộ Sách đ nhằm cung cấp một cách khoa học và có hệ
thống danh sách về tình trạng bảo tồn và đa dạng của các loài động vật và thực vật
đang có nguy cơ tuyệt chủng trên thế giới. Năm 1994, IUCN đã đề xuất những thứ
hạng và tiêu chuẩn mới cho việc phân hạng tình trạng các loài động vật, thực vật bị
đe doạ trên thế giới [71]. Các thứ hạng và tiêu chuẩn của IUCN được cụ thể hoá
như sau: loài tuyệt chủng (EX), loài rất nguy cấp (CR), loài nguy cấp (EN), loài sẽ
nguy cấp (VU)…
Ở Việt Nam, tuyển tập “Sách đỏ Việt Nam (phần thực vật)” của tập thể tác
giả thuộc Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc gia, nay là Viện Khoa
học và công nghệ Việt Nam là tài liệu duy nhất công bố một cách đầy đủ các loài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam. Cuốn sách được xuất bản
vào các năm 1992, 1996 và mới nhất là năm 2007. Trong cuốn “Sách đỏ Việt Nam
(phần thực vật)” năm 2007 đã công bố 847 loài (thuộc 201 họ) quý hiếm có nguy
cơ tuyệt chủng cần được bảo vệ.
Theo nghị định 32/2006/NĐ-CP về quản lý thực vật, động vật rừng nguy cấp,
quý, hiếm đã chia thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm thành 2 nhóm:
- Nhóm I: nghiêm cấm khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại, gồm những
loài thực vật rừng, động vật rừng có giá trị đặc biệt về khoa học, môi trường hoặc có
giá trị cao về kinh tế, số lượng quần thể còn rất ít trong tự nhiên hoặc có nguy cơ
tuyệt chủng cao. Thực vật rừng, động vật rừng nhóm I được phân thành: nhóm IA
gồm các loài thực vật rừng thuộc 2 ngành là: ngành Thông với 7 loài và ngành Mộc
lan với 8 loài, nhóm IB gồm các loài động vật rừng.
- Nhóm II: hạn chế khai thác sử dụng vì mục đích thương mại, gồm những loài

thực vật rừng, động vật rừng có giá trị khoa học, môi trường hoặc có giá trị cao về
kinh tế, số lượng quần thể còn ít trong tự nhiên hoặc có nguy cơ tuyệt chủng. Thực
vật rừng, động vật rừng nhóm II cũng được chia thành: nhóm IIA gồm các loài thực
vật rừng thuộc 2 ngành: ngành Thông với 10 loài và ngành Mộc lan với 27 loài,
nhóm IIB gồm các loài động vật rừng [15].
Ngoài tập “Sách đỏ Việt Nam (phần thực vật)” thống kê số loài thực vật có
nguy cơ tuyệt chủng của cả nước, thì các công trình nghiên cứu về các loài có nguy
cơ tuyệt chủng ở từng vùng và khu vực cụ thể còn rất ít. Một số công trình đáng chú
ý là:
Nguyễn Thị Yến (2003) [68] khi nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tính đa dạng
nguồn tài nguyên cây thuốc ở một số kiểu thảm thực vật tại xã Xuân Sơn, huyện
Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, đã thống kê được 20 loài thực vật quý hiếm, trong đó có 15
loài ở mức sẽ nguy cấp (VU) và 5 loài ở mức nguy cấp dựa theo những thứ hạng và
tiêu chuẩn của Sách đ Việt Nam (2007) và IUCN.
Phân viện Điều tra quy hoạch rừng Tây Bắc Bộ (2009) khi nghiên cứu hiện
trạng hệ thực vật ở khu Bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng đã thống kê
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
và lập danh mục số loài thực vật quý hiếm ở khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa –
Phương Hoàng gồm có 44 loài có tên trong Sách đ Việt Nam và 22 loài có tên
trong nghị định số 32/2006/NĐ-CP [10].
Hoàng Thanh Thủy (2009), Nghiên cứu đặc điểm cấu trúc và tính đa dạng
thực vật trong một số trạng thái thảm thực vật ở xã Thần Sa, huyện Võ Nhai , tỉnh
Thái nguyên cho thấy, số loài thực vật quý hiếm thống kê được là 17 loài, trong đó
có 8 loài ở mức sẽ nguy cấp (VU); 6 loài ở mức nguy cấp (EN), 2 loài nghiêm cấm
khai thác, sử dụng và 4 loài hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại.
Nếu không có các biện pháp bảo vệ thì sẽ có nguy cơ tuyệt chủng trong thời gian
không xa [56].
Lê Ngọc Công (2010) khi điều tra các loài thực vật có nguy cơ tuyệt chủng ở

Thái Nguyên đã ghi nhận được 71 loài. Trong đó có một loài bị tuyệt chủng thiên
nhiên (EW), 2 loài trong tình trạng rất nguy cấp ( CR) loài nguy cấp (EN) và 37 loài
sẽ nguy cấp (VU). Tác giả xác định được 7 loài thuộc nhóm IIA ( theo nghị định
32/2006-NĐ-CP của chính phủ [25].
Nhìn chung, những nghiên cứu về các loài thực vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt
chủng ở nước ta còn rất ít. Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà số lượng
loài thực vật có giá trị đang bị giảm sút, bị đe doạ và có nguy cơ tuyệt chủng. Tuỳ
từng thời điểm, một loài có thể đang ở cấp này có thể chuyển sang cấp khác (do
nhiều nguyên nhân). Vì vậy, cần có nhiều nghiên cứu đầy đủ hơn để đánh giá số
loài thực vật có nguy cơ tuyệt chủng ở từng vùng cụ thể và phải đánh giá thường
xuyên nhằm có thể bảo tồn các loài thực vật quý hiếm có giá trị ở nước ta.
1.4. Những nghiên cứu về thảm thực vật, đa dạng thực vật ở Thái Nguyên và
khu vực nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu về thảm thực vật và đa dạng thực vật ở Thái
Nguyên còn rất ít. Cuối năm 70, Sở Nông lâm Thái Nguyên đã nghiên cứu một số
mô hình rừng trồng nhằm phủ xanh đất trống đồi núi trọc như mô hình Lim, D,
Trám…ở xã Hoá Thượng, huyện Đồng Hỷ. Mô hình Bạch đàn hoặc Bạch đàn - Keo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
ở vùng hồ Núi Cốc, huyện Đại Từ. Các mô hình này có hiệu quả kinh tế tốt đối với
người dân, rừng đã được phục hồi.
Năm 1986 – 1987 Vụ Khoa học kỹ thuật - Bộ Lâm nghiệp tiến hành nghiên
cứu một số mô hình nông lâm kết hợp, trong đó có mô hình cây màu xen cây công
nghiệp (chè) hoặc cây màu trồng xen với cây ăn quả (Mít, Dứa…) ở xã Hoá
Thượng, huyện Đồng Hỷ đã có kết quả tốt [67].
Lê Ngọc Công, Hoàng Chung (1994) nghiên cứu thành phần loài, thành phần
dạng sống của quần hệ sa van cây bụi trên vùng đồi trung du Thái Nguyên, đã đưa
ra một số loại hình khoanh nuôi phục hồi và một số mô hình rừng trồng (Lim, D,
Trám…) [20].

Bùi Thị Dậu và cộng sự (2004) đã thống kê các loài thực vật bậc cao có mạch
của tỉnh Thái Nguyên là 160 họ, 468 chi, 654 loài chủ yếu là cây lá rộng thường
xanh, trong đó có nhiều cây gỗ quý như: Lim, D, Trai, Nghiến… [22]
Nguyễn Xuân Quát (1995) nghiên cứu mô hình rừng tự nhiên, mô hình vườn
chè tại các vùng đồi núi thấp, đất đai bị thoái hoá mạnh của các huyện Đồng Hỷ,
Phú Lương, Định Hoá, Đại Từ và thành phố Thái Nguyên [48].
Đặng Kim Vui (2002) [66] khi nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng phục hồi
sau nương rẫy ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã thống kê số họ và số loài
thực vật ở từng giai đoạn phục hồi, đó là: giai đoạn phục hồi 1 – 2 tuổi, thành phần
loài thực vật là 72 loài thuộc 36 họ; giai đoạn 3 – 5 tuổi có 65 loài thuộc 34 họ; giai
đoạn 5 – 10 tuổi có 56 loài thuộc 36 họ; giai đoạn 11 – 15 tuổi có 57 loài thuộc 31
họ.
Năm 2008, Ban quản lý khu Bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng đã
thống kê số loài số loài thực vật trong khu bảo tồn là 1635 loài thuộc 817chi, 191 họ
được phân bố cụ thể trong bảng 1.3 [4].




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Bảng 1.2. Số loài thực vật ở khu Bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phƣợng Hoàng
STT
Ngành thực vật
Số họ
Số chi
Số loài
1
Ngành Thông đất – Lycopodiophyta

2
3
7
2
Ngành Mộc tặc – Equisetophyta
1
1
1
3
Ngành Dương xỉ - Polypodiophyta
15
31
58
4
Ngành Thông – Pinophyta
3
5
7
5
Ngành Mộc lan – Magnoliophyta
170
777
1561

5.1 Lớp Mộc lan – Magnoliopsida
142
606
1166
5.2 Lớp Hành – Liliopsida
28

171
395
Cộng
191
817
1635
Trong tổng số 191 họ ở khu vực nghiên cứu có 55 họ chỉ có 1 loài, 42 họ có 2
– 3 loài. 53 họ có 4 – 9 loài, 25 họ có 10 – 19 loài, 17 họ có 20 loài.
Ở khu vực nghiên cứu, các công trình công bố về thảm thực vật và hệ thực vật
ở đây còn rất ít.
Phân viện Điều tra quy hoạch rừng Tây Bắc Bộ [10] đã lập danh mục các loài
thực vật ở Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng bao gồm 5 ngành, 160
họ và 1096 loài. Bên cạnh đó, các tác giả còn phân chia giá trị sử dụng của các loài
thực vật theo 4 nhóm chính là: cây lấy gỗ, cây làm thuốc, cây ăn được và cây làm
cảnh. Những kết quả vừa nêu mới chỉ là số liệu bước đầu, cần phải có những nghiên
cứu sâu hơn để làm cơ sở cho công tác quản lý, bảo tồn đa dạng sinh học và đầu tư
phát triển khu du lịch sinh thái.
1.5. Những nghiên cứu về cây thuốc, vị thuốc
1.5.1. Những nghiên cứu về cây thuốc, vị thuốc trên thế giới
Tài liệu cổ nghiên cứu về cây thuốc hiện còn lại không nhiều, tuy nhiên có
thể coi năm 2838 trước Công nguyên (TCN) là năm hình thành bộ môn nghiên
cứu cây thuốc và dược liệu. Cuốn "Kinh Thần Nông" (Shen' nong Bencạoing,
vào thế kỷ I-SCN) đã ghi chép 364 vị thuốc. Đây là cuốn sách tạo nền tảng cho
sự phát triển liên tục của nền y học dược thảo Trung Quốc cho đến ngày nay [1].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
Năm 1595, Lý Thời Trân (Trung Quốc) đã tổng kết tất cả kinh nghiệm về cây
thuốc và dược liệu để soạn thành quyển: "Bản thảo cương mục". Đây là cuốn sách vĩ
đại nhất của Trung Quốc về lĩnh vực này. Tác giả đã mô tả và giới thiệu 1.094 cây

thuốc và vị thuốc từ cây c [61].
Năm 384 - 322 (TCN), Aristote người Hy Lạp đã ghi chép và lưu giữ sớm nhất
về kiến thức cây c ở nước này. Sau đó, năm 340 (TCN) Theophraste với tác phẩm
"Lịch sử thực vật" đã giới thiệu gần 480 loài cây c và công dụng của chúng. Tuy công
trình của ông mới chỉ dừng lại ở mức mô tả, thống kê, song nó mở đầu cho một giai
đoạn tìm tòi, nghiên cứu sâu về lĩnh vực này [18].
Thầy thuốc người Hy Lạp Dioscorides năm 60 - 20 (TCN) giới thiệu 600 loài
cây c chủ yếu để chữa bệnh. Đồng thời, ông cũng là người đặt nền móng cho nền y
dược học [18].
Năm 79 - 24 (TCN), nhà tự nhiên học người La Mã Plinus soạn thảo bộ sách
"Vạn vật học" gồm 37 tập giới thiệu 1000 loài cây có ích [18].
Năm 1952, tác giả người Pháp A.Pétélot có công trình "Les phantes de
médicinales du Cambodye, du Laos et du Viet nam" gồm 4 tập nghiên cứu về
cây thuốc và sản phẩm làm thuốc từ thực vật ở Đông Dương [74].
Nói chung những công trình nghiên cứu về dược liệu đã có từ lâu đời, hình
thành và phát triển cùng với tiến trình lịch sử của nhân loại. Tuy nhiên, do sự hạn
chế của trình độ khoa học đương thời nên những công trình này chưa có cơ sở khoa
học để chứng minh thành phần hoá học các chất có tồn tại trong đó và nó tham gia
vào việc chữa bệnh như thế nào mà chỉ dừng lại ở mức độ mô tả, thống kê và chỉ ra
công dụng của chúng,. Chỉ đến khi khoa học kỹ thuật phát triển thì vấn đề này mới
được làm sáng t, tạo độ tin cậy đối với người bệnh khi sử dụng.
1.5.2. Những nghiên cứu về cây thuốc và vị thuốc ở Việt Nam
Ở Việt Nam, tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ lâu. Trong quá trình tìm
kiếm thức ăn, tổ tiên chúng ta đã ngẫu nhiên phát hiện ra công dụng và tác hại của
nhiều loại cây. Suốt một thời gian dài như vậy, tổ tiên chúng ta đã dần dần tích luỹ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
được nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính chất của cây rừng để làm thức ăn và làm
thuốc chữa bệnh.

Từ những buổi đầu dựng nước, dưới thời các vua Hùng, ông cha ta đã biết sử
dụng hành, ti, gừng, riềng… làm gia vị trong những bữa ăn hàng ngày.
Thế kỷ XI (TCN), nhân dân ta có tục ăn trầu cho ấm người, thơm miệng, uống
nước chè xanh cho mát, nụ vối cho dễ tiêu… Điều đó nói lên những hiểu biết về
dinh dưỡng và sử dụng thuốc của dân tộc [44].
Thế kỷ II (TCN), hàng trăm loại thuốc đã được phát hiện như: sắn dây, khoai
lang, mơ, quýt… và trong thời kỳ Bắc thuộc, nhiều vị thuốc của ta đã được xuất
sang Trung Quốc [33].
Dưới triều vua nhà Lý (1010 - 1244) có nhiều lương y nổi tiếng, trong đó có
nhà sư Minh Không (Nguyễn Chí Thành) ở chùa Giao Thuỷ đã có công chữa bệnh
cho Lý Thần Tông. Nhà Lý đặt quan hệ với Tống Huy Tông (Trung Quốc) trao đổi
thuốc Nam lấy thuốc Bắc [33].
Dưới triều Trần (1244 - 1399), đã có kế hoạch tự túc thuốc Nam để kháng
chiến. Tướng Phạm Ngũ Lão đã trồng cây thuốc ở Vạn An và Dược Sơn (xã Hưng
Đạo - Chí Linh - Hải Dương) để cung cấp cho quân y [32].
Ở địa phương hạt Giao Thuỷ, Sơn Nam (Nam Định), Dạ Cẩm, Hồng Châu
(Cẩm Bình, Hải Dương) Tuệ Tĩnh đã mở nhiều cơ sở chữa bệnh làm phúc ở các
chùa và gây phong trào trồng cây thuốc ở gia đình. Ông là một đại sư nước Việt
dùng thuốc Nam, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân với phương châm: "Thuốc
Nam chữa bệnh người Nam" ông đã truyền bá y dược cổ truyền cho nhân dân trong
các tác phẩm:
- "Nam dược thần hiệu": gồm 499 vị và 3.932 phương thuốc trị 184 loại bệnh,
chia làm 10 khoa (năm 1725). Đây là tập sách thứ hai xuất hiện trong lịch sử nghiên
cứu cây thuốc ở nước ta sau tập "Bản thảo thực vật toàn yếu" do Phan Chu Tiên biên
soạn (1429) là tập cây thuốc và dược liệu đầu tiên của Việt Nam.
- "Các bài thuốc Nam và thập tam phương gia giảm": chép 13 cổ phương với
bổ âm đơn do ông sáng chế để chữa các bệnh gia giảm theo chứng. Các tài liệu này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19

được in lại trong "Nam dược chính bản". Sau được triều hậu Lê in lại trong "Hồng
Nghĩa giác tư y thư" (1717 và 1723) và được lưu truyền đến nay [60].
Thế kỷ XVIII, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1729 - 1791) đã thừa kế
dược học của Tuệ Tĩnh chép vào tập "Lĩnh Nam bản thảo", nội dung gồm 496 vị
thuốc Nam của "Nam dược thần hiệu" và phát hiện thêm hơn 300 vị nữa. Tư liệu vĩ
đại nhất của ông là bộ sách: "Hải Thượng y tông tâm lĩnh" gồm 66 quyển viết về lý
luận cơ bản, phương pháp chẩn đoán, trị bệnh [31].
Ngoài các bộ sách trên, còn kể đến tập "Vạn phương thập nghiệm" của Nguyễn
Nho và Ngô Văn Tĩnh gồm 8 tập, xuất bản năm 1763. Tập "Nam bang thảo mộc" của
Trần Nguyệt Phương mô tả 100 loài cây thuốc Nam, xuất bản năm 1858 [33].
Triều Tây Sơn (1788 - 1808) Nguyễn Hoành đã để lại tập "Nam dược" với
620 vị thuốc, với các phương thuốc kinh nghiệm gia truyền [32].
Triều Nguyễn (1802 - 1845) có quyển "Nam dược tập nghiệm quốc âm" của
Nguyễn Quang Lượng về phương thuốc dân gian [32].
Công trình nghiên cứu của Ch.Crévost và A.Pétélote (1928 - 1935), đã nghiên
cứu và công bố kết quả điều tra về tài nguyên thực vật ở Việt Nam và Đông Dương
[69].
Sau cách mạng tháng 8-1945, y dược học cổ truyền đạt được những thành tựu
to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Bộ Y tế cùng y học hiện đại, sức kho của người dân
được quan tâm và chăm lo chu đáo hơn.
Sau khi nước nhà thống nhất (năm 1975), việc nghiên cứu cây thuốc ở nước ta
được quan tâm nhiều. Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm tòi và phát hiện thêm
nhiều loài cây thuốc mới.
Dược điển Việt Nam tập 2 (1983) của NXB Y học do nhiều thành viên và các
cơ quan tham gia xây dựng, đã mô tả và nêu công dụng của hơn 430 loài cây thuốc
[21].
Trần Đình Lý (1995) đã xuất bản "1900 loài cây có ích" cho biết trong số các
loài thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam, có 76 loài cho nhựa thơm, 160
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


20
loài có tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 loài chứa tanin, 50 loài cây gỗ có giá trị,
40 loài tre nứa, 40 loài song mây [43].
Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần Đức với tác phẩm "Cây thuốc
Việt Nam" (1995) đã mô tả hơn 830 loài cây thuốc và giới thiệu cách trồng, hái, chế
biến, trị bệnh ban đầu [33].
Đỗ Tất Lợi (1970 - 2005) khi nghiên cứu các loài cây thuốc và vị thuốc Việt
Nam đã công bố 793 loài thuộc 164 họ ở hầu hết các tỉnh nước ta. Trong tài liệu
này, tác giả cũng tiến hành mô tả từng cây, cách thu hái và chế biến, thành phần hoá
học, công dụng và liều dùng. Tuy nhiên, nơi phân bố của từng loài tác giả giới thiệu
rất khái quát [42].
Võ Văn Chi (1996) với bộ sách "Từ điển cây thuốc Việt Nam" đã giới thiệu
3.200 loài cây mọc hoang và trồng ở Việt Nam. Tác giả đã mô tả khá chi tiết từng
loài, bộ phận dùng, nơi sống và thu hái, tính vị, công dụng của chúng. Ngoài ra,
sách còn có hình vẽ và ảnh chụp một số loài cây nên thuận lợi cho việc tra cứu [14].
Đặng Quang Châu (2001) đã công bố một số dẫn liệu về cây thuốc của dân
tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An) gồm 177 loài, thuộc 149 chi, thuộc 71 họ
khác nhau [12].
Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải (2003), khi điều tra các loài cây thuốc của
dân tộc Thái ở huyện Quỳ Châu (Nghệ An) đã thu được 93 loài thuộc 7 chi, 42 họ
[13].
Các tác giả đã phân loại cây được sử dụng theo các nhóm bệnh: bệnh ngoài
da, bệnh về đường tiêu hoá, bệnh về gan, bệnh về xương…
Lưu Đàm Cư, Hà Tuấn Anh, Trương Anh Thư (2004), khi điều tra các loài
cây có ích của dân tộc H'Mông ở vùng núi cao phía Bắc đã phân loại được 4 nhóm
theo công dụng: cây lương thực - thực phẩm, cây làm thuốc, cây có độc, cây để
nhuộm màu, cây ăn quả. Trong nhóm cây làm thuốc, các tác giả đã thống kê được
657 loài thuộc 118 họ mà người H'Mông sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người
và gia súc [27].

×