Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN THỊ HÀ
NGHIÊN CỨU SỰ LƢU HÀNH CỦA VI KHUẨN
PASTEURELLA MULTOCIDA TRONG BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG
Ở TRÂU, BÕ TẠI MỘT SỐ HUYỆN CÓ DỊCH TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HÀ GIANG VÀ BIỆN PHÁP PHÕNG TRỊ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Thái Nguyên, năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
NGUYỄN THỊ HÀ
NGHIÊN CỨU SỰ LƢU HÀNH CỦA VI KHUẨN
PASTEURELLA MULTOCIDA TRONG BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG
Ở TRÂU, BÕ TẠI MỘT SỐ HUYỆN CÓ DỊCH TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HÀ GIANG VÀ BIỆN PHÁP PHÕNG TRỊ
Chuyên ngành: Thú y
Mã số: 60.62.50
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Đặng Xuân Bình
Thái Nguyên, năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi trực tiếp thực
hiện cùng với sự giúp đỡ của TS. Đặng Xuân Bình. Các số liệu, hình ảnh và
kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
một công trình nào khác. Tôi xin đảm bảo rằng các thông tin, trích dẫn trong
luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã luôn
nhận được sự giúp đỡ quý báu, chỉ bảo tận tình của các thầy trong suốt quá
trình thực hiện đề tài.
Nhân dịp này, cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu
sắc đối với thầy: T.S. Đặng Xuân Bình, người đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Khoa Sau đại học - Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên, tập thể cán bộ nghiên cứu của Bộ môn Công nghệ Vi Sinh
- Viện Khoa học Sự sống, Chi cục Thú y Hà Giang, cùng gia đình, bạn bè
đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, giúp đỡ tôi trong quá trình
hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, ngày… tháng….năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Tình hình nghiên cứu bệnh tụ huyết trùng trong và ngoài nước 3
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 3
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 4
1.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh tụ huyết trùng 6
1.2.1. Quá trình sinh dịch 6
1.2.1.1. Nguồn bệnh 6
1.2.1.2. Yếu tố truyền lây 7
1.2.1.3. Động vật mẫn cảm 8
1.2.2. Tuổi mắc bệnh 9
1.2.3. Mùa vụ phát bệnh và tần suất xuất hiện dịch 10
1.2.4. Vùng phát bệnh 12
1.2.5. Hiện tượng mang vi khuẩn Pasteurella multocida ở đường hô hấp trên
của động vật khoẻ 13
1.3. Các đặc tính sinh học của mầm bệnh 15
1.3.1. Phân loại vi khuẩn Pasteurella multocida 15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1.3.2. Đặc điểm hình thái và tính chất bắt màu 16
1.3.3. Đặc tính nuôi cấy 16
1.3.4. Đặc tính sinh hoá 19
1.3.5. Kháng nguyên của vi khuẩn P. multocida 21
1.3.6. Sức đề kháng của vi khuẩn P. multocida 24
1.4. Bệnh tụ huyết trùng do vi khuẩn P. multocida gây ra 25
1.4.1. Biểu hiện đặc trưng của trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng 25
1.4.1.1. Triệu chứng của trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng 25
1.4.1.2. Bệnh tích 27
1.4.2. Chẩn đoán bệnh 27
1.4.2.1. Chẩn đoán lâm sàng 27
1.4.2.2. Chẩn đoán vi khuẩn học 27
1.4.2.3. Chẩn đoán huyết thanh học 28
1.4.3. Phòng và trị bệnh 29
1.4.3.1. Phòng bệnh 29
1.4.3.2. Điều trị bệnh 30
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG - NGUYÊN LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 32
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 32
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 32
2.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 32
2.2. Nội dung nghiên cứu 32
2.2.1. Điều tra một số đặc điểm dịch tễ bệnh tụ huyết trùng tại tỉnh Hà Giang 32
2.2.2. Phân lập vi khuẩn Pasteurella multocida từ dịch ngoáy mũi gia súc khoẻ 32
2.2.3. Đề xuất biện pháp phòng chống bệnh tụ huyết trùng tại tỉnh Hà Giang 33
2.3. Nguyên liệu dùng cho nghiên cứu 33
2.3.1. Mẫu bệnh phẩm dùng phân lập vi khuẩn 33
2.3.2. Động vật thí nghiệm 33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.3.3. Hóa chất và dụ ng cụ nghiên cứ u 33
2.4. Phương pháp nghiên cứu 34
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu dịch tễ học 34
2.4.2. Phương pháp tính tỷ lệ và hệ số 34
2.4.3. Phương pháp xác định tương quan giữa các yếu tố khí hậu và số gia
súc mắc bệnh tụ huyết trùng 35
2.4.4. Phương pháp nuôi cấy, phân lập và xác định vi khuẩn Pasteurella
multocida 37
2.4.4.1. Phương pháp nuôi cấy, phân lập 37
2.4.4.2. Phương pháp xác định tính chất sinh vật, hoá học của P. multocida 38
2.4.5. Kiểm tra độc lực của vi khuẩn của vi khuẩn Pasteurella multocida
phân lập được 41
2.4.5.1. Kiểm tra độc lực của vi khuẩn trên chuột bạch 41
2.4.5.2. Phương pháp làm kháng sinh đồ 42
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 43
3.1. Đặc điểm dịch tễ học bệnh tụ huyết trùng gia súc tại Hà Giang 43
3.1.1. Tình hình bệnh tụ huyết trùng trâu, bò, lợn trên địa bàn tỉnh Hà Giang
từ năm 2007 - 2009. 43
3.1.2. Tần suất xuất hiện dịch bệnh tụ huyết trùng trâu, bò tại các huyện từ
năm 2007 - 2009 45
3.1.3. Kết quả điều tra trâu, bò mắc bệnh và chết do bệnh tụ huyết trùng trâu,
bò theo loài gia súc 47
3.1.4. Kết quả điều tra trâu, bò mắc bệnh và chết do bệnh tụ huyết trùng trâu,
bò theo mùa vụ 49
3.1.5. Kết quả điều tra trâu, bò mắc bệnh và chết do bệnh tụ huyết trùng trâu,
bò theo lứa tuổi 51
3.1.6. Triệu chứng đặc trưng của trâu, bò mắc bệnh tụ huyết trùng 55
3.2. Nghiên cứu mức độ và thời gian xảy ra dịch bệnh 56
3.2.1. Nghiên cứu mức độ dịch và hệ số năm dịch 56
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.2.2. Nghiên cứu thời điểm phát dịch, mùa dịch 57
3.3. Nghiên cứu các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng đến bệnh tụ huyết trùng trâu, bò . 60
3.3.1. Kết quả điều tra trâu, bò mắc bệnh và chết do bệnh tụ huyết trùng trâu,
bò theo vùng địa lý 61
3.3.2. Ảnh hưởng các yếu tố khí hậu 64
3.4. Kết quả phân lập, xác định một số đặc tính sinh vật hoá học, độc lực
Pasteurella multocida từ dịch ngoáy mũi của gia súc tại tỉnh Hà Giang 68
3.4.1. Kết quả phân lập vi khuẩn Pasteurella multocida từ dịch ngoáy mũi của gia
súc khoẻ 68
3.4.2. Kết quả giám định một số đặc tính sinh vật hoá học của các chủng vi
khuẩn Pasteurella multocida phân lập 69
3.4.3. Kết quả thử độc lực của các chủng vi khuẩn Pasteurella multocida
phân lập 70
3.4.4. Kết quả thử tính mẫn cảm với kháng sinh và hoá dược của các chủng
Pasteurella multocida phân lập 72
3.4.5. Kết quả xác định type của Pasteurella multocida bằng kỹ thuật PCR 73
3.4.6. Kết quả thử nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh tụ huyết trùng trâu, bò 73
3.4.7. Biện pháp phòng trị bệnh tụ huyết trùng trâu, bò tại Hà Giang 75
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 77
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADN : acid deoxyribonucleic
BHI : Brain Heart Infusion
Cs : Cộng sự
FAO : Food and Agriculture Oganization
HSND : Hệ số năm dịch
HSTD : Hệ số tháng dịch
MR : Methylen Red
PCR : Polymerase Chain Reaction
P. multocida : Pasteurella multocida
THT : Tụ huyết trùng
TT : Thể trọng
VP : Voges Proskauer
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Phân biệt các loài Pasteurella 21
Bảng 1.2. Mối quan hệ giữa hai hệ thống phân loại Carter - Robert 22
Bảng 1.3. Hệ thống phân loại serotype của P. multocida 24
Bảng 3.1. Kết quả điều tra tình hình bệnh tụ huyết trùng gia súc tại Hà
Giang từ năm 2007 - 2009 43
Bảng 3.2. Tần suất xuất hiện dịch tụ huyết trùng tại Hà Giang 45
Bảng 3.3. Kết quả xác định tỷ lệ trâu bò mắc bệnh, chết, tử vong do bệnh tụ
huyết trùng theo loài gia súc 48
Bảng 3.4. Kết quả xác định tỷ lệ trâu bò mắc bệnh, chết, tử vong do bệnh
tụ huyết trùng theo mùa vụ 50
Bảng 3.5. Kết quả xác định tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh, chết, tử vong do bệnh
tụ huyết trùng theo lứa tổi 53
Bảng 3.6. Kết quả theo dõi triệu chứng đặc trưng của trâu bò mắc bệnh tụ
huyết trùng 55
Bảng 3.7. Hệ số năm dịch tụ huyết trùng trâu, bò từ năm 2007 - 2009 56
Bảng 3.8. Hệ số tháng dịch tụ huyết trùng trâu, bò 58
Bảng 3.9. Kết quả xác định tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh, chết, tử vong do bệnh
tụ huyết trùng theo vùng địa lý 63
Bảng 3.10. Mối tương quan giữa các yếu tố khí hậu với trâu, bò mắc bệnh
tụ huyết trùng trung bình/tháng từ năm 2007 - 2009 65
Bảng 3.11. Kết quả phân lập Pasteurella multocida từ dịch ngoáy mũi gia
súc khoẻ 68
Bảng 3.12. Kết quả giám định một số đặc tính sinh vật hoá học của vi
khuẩn Pasteurella multocida phân lập 70
Bảng 3.13. Kết quả thử độc lực của các chủng Pasteurella multocida phân lập 71
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bảng 3.14. Kết quả thử tính mẫn cảm kháng sinh của các chủng
Pasteurella multocida phân lập 72
Bảng 3.15. Kết quả thử nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh tụ huyết
trùng trâu, bò 74
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1. Sơ đồ phân loại nhóm vi khuẩn gây bệnh theo tính chất sinh vật học 37
Hình 2.2. Sơ đồ phân lập vi khuẩn Pasteurella 39
Hình 3.1. Biểu đồ tỷ lệ trâu bò mắc bệnh và chết từ năm 2007 - 2009 44
Hình 3.2. Biểu đồ tỷ lệ lợn mắc bệnh và chết từ năm 2007 - 2009 44
Hình 3.3. Biểu đồ tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết theo loài 49
Hình 3.4. Biểu đồ tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết theo mùa vụ 51
Hình 3.5. Biểu đồ tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết theo lứa tuổi 54
Hình 3.6. Biểu đồ tỷ lệ trâu, bò mắc bệnh và chết theo vùng địa lý 64
Hình 3.7. Biểu đồ Mối quan hệ giữa các yếu tố khí hậu và số trâu, bò mắc bệnh 67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
56
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Bệnh tụ huyết trùng (Pasteurellosis) là một trong những bệnh truyền
nhiễm nguy hiểm, hàng năm gây chết hàng loạt gia súc, gia cầm làm thiệt
hại đáng kể cho nền kinh tế nước ta. Trong các năm 1999 - 2003 bệnh tụ
huyết trùng xảy ra trên diện rộng của tỉnh Hải Phòng, Hà Tây, Nghệ An
làm chết nhiều trâu, bò gây hoang mang cho người chăn nuôi (Phan Thanh
Phượng, 2000) [21].
Về khả năng đáp ứngmiễn dịch của một số vắc xin phòng bệnh tụ huyết
trùng của trâu, bò đang lưu hành ở nước ta, bệnh tụ huyết trùng ở thể bại huyết
(Haemorrhagic septicaemia) đã và đang gây thiệt hại đáng kể cho người chăn
nuôi (Hoàng Xuân Nghinh và cs, 2004) [18]. Do vậy, ngoài việc hoàn thiện các
biện pháp chăn nuôi đảm bảo vệ sinh, thì yêu cầu nghiên cứu sự lưu hành của
vi khuẩn gây bệnh, chọn chủng kháng nguyên phù hợp chế tạo vắc xin phòng
bệnh hiệu quả, một vấn đề cấp thiết để hạn chế thiệt hại do bệnh gây ra cho
trâu, bò ở các tỉnh miền núi phía bắc nói chung và cả nước nói riêng.
Hà Giang là một tỉnh miền núi phía bắc có diện tích tự nhiên rộng, chủ
yếu là rừng núi, đây là điều kiện thuận lợi để Hà Giang phát triển chăn nuôi
đại gia súc, đặc biệt là trâu, bò. Hiện nay, tổng đàn trâu, bò tỉnh Hà Giang
trên 224000 con. Trâu, bò là nguồn sức kéo quan trọng và nguồn thu nhập
đáng kể cho người chăn nuôi. Hàng năm bệnh tụ huyết trùng trâu, bò gây chết
trung bình từ 300 - 500 con làm thiệt hại lớn cho nghành chăn nuôi. Xuất phát
từ những yêu cầu thực tiễn, trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của tác giả
đi trước ở trong và ngoài nước, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài:
"Nghiên cứu sự lưu hành của vi khuẩn Pasteurella multocida trong bệnh
tụ huyết trùng ở trâu, bò tại một số huyện có dịch trên địa bàn tỉnh Hà
Giang và biện pháp phòng trị ".
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
56
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
- Xác định đặc điểm dịch tễ bệnh tụ huyết trùng trâu, bò trên địa bàn
tỉnh Hà Giang.
- Nghiên cứu vai trò của các yếu tố khí hậu tác động đến đặc điểm dịch
tễ bệnh tụ huyết trùng trâu, bò.
- Xác định sự lưu hành vi khuẩn Pasteurella multocida ở trâu, bò.
- Đề xuất các biện pháp phòng và trị bệnh hiệu quả.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Bổ sung tư liệu về đặc điểm dịch tễ bệnh tụ huyết trùng trâu, bò và
tình trạng lưu hành vi khuẩn Pasteurella multocida ở gia súc khoẻ.
- Bổ sung tư liệu về kết quả phân lập và giám định đặc tính sinh vật
học của vi khuẩn Pasteurella multocida, kết quả xác định type vi khuẩn
Pasteurella multocida bằng kỹ thuật PCR (Polymerase Chain Reaction).
- Là cơ sở để xác định biện pháp phòng bệnh hiệu quả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
56
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu bệnh tụ huyết trùng trong và ngoài nƣớc
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Có nhiều nghiên cứu về bệnh tụ huyết trùng, theo Phan Đình Đỗ và
Trịnh Văn Thịnh (1958) [5], bệnh tụ huyết trùng trâu bò được phát hiện
đầu tiên vào năm 1868 bởi Condamine ở Bà Rịa, Long Thành, sau đó được
Gemain phát hiện bệnh ở Gò Công, Shein xác nhận có bệnh này ở Tây
Ninh. Những năm sau này Nguyễn Vĩnh Phước (1978) [24], Hoàng Đạo
Phấn (1986) [20], đã nghiên cứu về đặc tính của Pasteurella multocida và
type huyết thanh của chúng. Đoàn Thị Băng Tâm (1987) [26], bệnh tụ huyết
trùng trâu bò ở Việt Nam thường xảy ra ở Nam bộ và đặc biệt ở miền tây
Nam bộ, vào những năm 1910, 1919, 1920, 1933, 1935 dịch xảy ra mạnh gây
thiệt hại và lây lan nhiều hơn ở những vùng đất trũng, thấp, khí hậu ẩm ướt.
Một số tác giả trong nước đã nghiên cứu bệnh tụ huyết trùng ở gia
súc như: Nguyễn Ngã (1996) [17] đã nghiên cứu tính kháng nguyên và độc
lực của vi khuẩn tụ huyết trùng ở khu vực miền Trung; Dương Thế Long
(1995) [15] nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ và vi khuẩn học của bệnh
tụ huyết trùng trâu bò Sơn La để xác định biện pháp phòng trị thích hợp;
Võ Văn Hùng (1997) [11] nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ học bệnh tụ
huyết trùng lợn ở Đăk Lăk và biện pháp phòng trị.
Trước đây bệnh tụ huyết trùng lợn xảy ra mạnh ở các tỉnh phía Nam và
xảy ra lẻ tẻ ở các tỉnh phía Bắc. Trong những năm 70 cuối thế kỷ 20, có 80% số
ổ dịch và 84% số thiệt hại gia súc do bệnh tụ huyết trùng thuộc về các tỉnh ở
phía Nam. Đến những năm 90, phân bố địa lý của bệnh nghiêng về các tỉnh
phía Bắc, số địa phương có dịch tụ huyết trùng cũng tăng lên nhiều, hàng năm
có 20 - 25 tỉnh thông báo có bệnh lưu hành (Bùi Quý Huy, 1998) [12].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
56
Nguyễn văn Quang (1998) [25] nghiên cứu về vắc xin phòng bệnh tụ
huyết trùng và đóng dấu lợn. Bùi Văn Dũng (2000) [2] nghiên cứu tình hình
bệnh tụ huyết trùng và vi khuẩn P. multocida phân lập từ dịch ngoáy mũi trâu
bò khoẻ ở tỉnh Lai Châu. Phan Thanh Phượng (2000) [21] nghiên cứu về bệnh
tụ huyết trùng ở gia súc, gia cầm và biện pháp phòng chống. Cao Văn Hồng
(2001) [10] nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học bệnh tụ huyết trùng trâu, bò, lợn
tại Đăk Lăk. Hoàng Đăng Huyến (2004) [13] nghiên cứu đặc điểm dịch tễ,
các yếu tố ảnh hưởng đến bệnh tụ huyết trùng trâu bò ở Bắc Giang. Nguyễn
Văn Minh (2005) [16] nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh tụ huyết
trùng và xác định tỷ lệ mang trùng Pasteurella ở đàn trâu bò tỉnh Hà Tây.
Trần Xuân Hạnh và Tô Thị Phấn (2007) [9] nghiên cứu một số đặc tính của vi
khuẩn P. multocida phân lập từ trâu, bò, lợn. Đỗ Ngọc Thuý và cs (2007) [31]
đã ứng dụng kỹ thuật PCR để xác định type các chủng vi khuẩn P. multocida
phân lập từ vật nuôi; Đỗ Quốc Tuấn (2008) [35] nghiên cứu bệnh tụ huyết
trùng lợn ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Bệnh tụ huyết trùng đã được Bollinger phát hiện đầu tiên năm 1878,
những năm tiếp theo nhiều nhà nghiên cứu đã phát hiện ra bệnh ở các loài vật
khác nhau. Mầm bệnh được tìm thấy ở bò tại Munic (Đức) năm 1878, ở thỏ
năm 1881, ở lợn do Loeffer phát hiện năm 1886, ở trâu năm 1887 và sau đó
đã phát hiện vi khuẩn còn gây bệnh cho nhiều loài động vật khác (Carter,
1959) [44]. Parvi và Apte (1976) [68] đã ghi nhận vi khuẩn tụ huyết trùng gây
bệnh cho hươu, nai, chó, ngựa, chồn, khỉ v.v.
Khi nghiên cứu vi khuẩn tụ huyết trùng gây bệnh ở các loài gia súc các
nhà khoa học thấy sự giống nhau về tính chất gây bệnh, tương đồng kháng
nguyên nhưng có sự khác nhau về tính gây bệnh cho các loài vật. Năm 1887,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
56
Trevisan đã đề nghị đặt tên cho vi khuẩn là Pasteurella để ghi nhớ công lao của
Louis Pasteur.
Thời gian sau đó người ta đặt tên vi khuẩn gây bệnh tụ huyết trùng cho
động vật theo tên vật chủ mà chúng thích nghi và gây bệnh.
Pasteurella suiseptica gây bệnh ở lợn
Pasteurella boviseptica gây bệnh ở bò
Pasteurella aviseptica gây bệnh ở gà
Pasteurella oviseptica gây bệnh ở dê, cừu v.v.
Đến năm 1939, Rosenbush và Merchant [74] đã đề nghị đặt tên cho vi
khuẩn này là Pasteurella multocida để chỉ khả năng gây bệnh cho nhiều loài
vật của chúng, tên này đã được công nhận chính thức trên thế giới và được sử
dụng cho đến ngày nay.
Từ năm 1887 đến nay, bệnh đã được phát hiện ở nhiều địa phương trên
thế giới, bệnh gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế cho nhiều nước, nhất là
các nước nhiệt đới nóng ẩm thuộc Châu Á. Bệnh xảy ra tại các nước Đông
Dương, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, ở Nhật Bản bệnh được phát hiện vào
năm 1923, song không gây thành dịch và không thể hiện dịch tễ. Bệnh cũng
được phát hiện ở bò rừng Vườn thú Quốc gia Mỹ vào các năm 1912, 1922,
1967 và chỉ thấy một báo cáo cho biết bệnh có ở bò sữa vào năm 1969
(Carter, 1982) [46]. Năm 1984, tổ chức dịch tễ thế giới (OIE: Office
International Epizooties) chính thức công bố bệnh tụ huyết trùng trâu bò trên
thế giới (FAO, 1991) [56]. Theo De Alwis (1992a) [53], bệnh cũng đã xảy ở
Châu Phi và gây thiệt hại nghiêm trọng cho đàn gia súc.
Ngày nay, sau hơn 100 năm kể từ khi phát hiện bệnh lần đầu, P.
multocida vẫn là nguyên nhân gây bệnh tụ huyết trùng cho nhiều loài gia súc,
gia cầm. Tuy có tính thích nghi gây bệnh trên các loài vật khác nhau, nhưng
Pasteurella multocida đều có những đặc tính cơ bản giống nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
56
1.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh tụ huyết trùng
1.2.1. Quá trình sinh dịch
1.2.1.1. Nguồn bệnh
Nguồn lây bệnh tụ huyết trùng là những trâu, bò, lợn và gia cầm bị
bệnh và mang trùng. Theo Bùi Quý Huy (1998) [12], ổ dịch đầu tiên trong
vùng xảy ra từ trâu, bò của địa phương bị bệnh, do việc mổ thịt đem phân tán,
làm cho dịch lây lan rộng. Dịch thường xảy ra và lan rộng theo các triền sông
do dòng nước bị nhiễm vi khuẩn gây bệnh. Các nguồn bệnh khác có thể là dê,
cừu hay ngựa bị bệnh.
Tại các vùng dịch cũ, phần lớn những gia súc sống sót sau khi dịch
thường trở thành những con vật mang trùng tiềm ẩn và thường xuyên bài tiết
mầm bệnh ra ngoài ngoại cảnh, nhưng bệnh không xảy ra. Bệnh chỉ phát ra
khi xuất hiện những gia súc cảm thụ mới là những gia súc mới sinh ra sau
dịch hay gia súc mới nhập chưa có miễn dịch (De Alwis,1999) [55].
Trong cơ thể gia súc khoẻ mạnh, P. multocida thường tồn tại ở trạng
thái cộng sinh với vật chủ. Khi sức đề kháng của cơ thể giảm, vi khuẩn tăng
độc lực và gây bệnh. Hiramune và De Alwis (1982) [62] cho rằng có một tỷ lệ
thấp trâu, bò mang khuẩn ở hầu, họng, mũi và tuyến hạnh nhân. Ở những con
này có hiệu giá kháng thể cao hơn với con vật không mang trùng và vi khuẩn
thông qua dịch tiết niêm mạc mũi bài xuất ra ngoài gây nhiễm cho gia súc
khác. Theo De Alwis (1982b) [50] kiểm tra 72 con trâu thấy trong đó có 5 con
có kháng thể, trong số 5 con này có 3 con có mang vi khuẩn P. multocida có
mang vi khuẩn P. multocida chủng 6:B, còn trong 67 con không có kháng thể
thì không mang vi khuẩn.
Nguyễn Vĩnh Phước và cs (1986a) [22], Gupta (1962) [58], thấy rằng
con vật mang trùng là nguồn bệnh tiềm tàng có liên quan đến tần số xuất hiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
56
dịch tụ huyết trùng trong vùng. Theo Chung và cs (1992) [48], P. multocida
có sẵn trong cơ thể, khi gặp điều kiện thuận sẽ gây chứng viêm phổi. Một số
tác giả cho rằng nguồn tàng trữ mầm bệnh là động vật hoang dại (chồn, cáo, thỏ
rừng, loài gặm nhấm và các loài côn trùng như bọ chó, ruồi trâu v.v). Chuột nhắt
rất mẫn cảm với P. multocida. Những gia súc mang trùng từ những vùng có dịch
xâm nhập vào vùng chưa có dịch cũng là nguyên nhân quan trọng làm cho bệnh
phát ra (Saharee và cs, 1991) [75].
1.2.1.2. Yếu tố truyền lây
Sự xuất hiện bệnh có liên quan đến các yếu tố stress do môi trường,
hoặc do quản lý chăm sóc (nóng, lạnh, các kích động, chăn nuôi kém vệ sinh,
thức ăn không tốt) kèm theo những vi khuẩn gây bệnh như nấm độc, vi khuẩn
độc hoặc độc tố làm giảm sức đề kháng của cơ thể là nguyên nhân làm tăng tỷ
lệ nhiễm trùng và phát sinh bệnh. Gia súc bị nuôi nhốt quá chật trong những
chuồng kém thông gió, ẩm ướt, gia súc phải làm việc quá sức, làm việc trong
những điều kiện không thuận lợi ảnh hưởng đến sức khoẻ, bệnh cũng dễ phát
ra (Bolin và Eveleth, 1951) [40].
Vận chuyển đi xa trong những phương tiện thiếu vệ sinh, thiếu
không khí, nhốt quá chật, thiếu nước uống trong khi vận chuyển, vận
chuyển với tốc độ nhanh, đi dưới trời nóng, không cho gia súc nghỉ, đó là
nguyên nhân làm cho bệnh tụ huyết trùng gia súc dễ dàng xảy ra và làm
chết gia súc, gia cầm (Carter, 1982) [46].
Cho đến nay không rõ vi khuẩn tồn tại bằng cách truyền lần lượt trong
một số dãy cá thể của một quần thể hay nó còn tồn tại lâu dài một số con. Có
nhiều cách lây bệnh khác nhau: Nhiễm qua đường hô hấp, đường tiêu hoá,
qua vết xây xước trên da. Bệnh có thể lây lan trực tiếp từ con ốm sang con
khoẻ qua tiếp xúc: Ở chung một chuồng, cùng chăn thả một bãi, uống chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
56
Bệnh lây lan do việc mổ gia súc ốm, phân tán thịt da. Chó mèo và một số côn
trùng hút máu như ruồi, mòng v.v, cũng có thể là vật môi giới truyền mầm
bệnh đi xa (Nguyễn Vĩnh Phước, 1978) [24].
Trong giai đoạn đầu của bệnh, khi con vật còn đi lại được, vi khuẩn
từ nước dãi và phân, nước tiểu được bài ra xung quanh. Ổ dịch rộng hay
hẹp tuỳ theo điều kiện tồn tại của vi khuẩn và sức miễn dịch của đàn (Phan
Thanh Phượng, 1994) [19].
1.2.1.3. Động vật mẫn cảm
Trong tự nhiên hầu hết các loài gia súc, gia cầm, loài có vú hoang dại
và chim đều mẫn cảm với với bệnh. Theo Lignieres (1900) [65] ít nhất có 6
dạng bệnh tụ huyết trùng khác nhau: Ở gà, cừu, trâu, bò, lợn, ngựa và chó, cả
6 dạng bệnh này đều thấy ở thỏ.
Theo De Alwis (1982b) [50] động vật cảm nhiễm mạnh nhất đối với bệnh
tụ huyết trùng trâu bò là trâu, bò trong đó trâu mẫn cảm hơn bò. Bệnh có thể lây
sang lợn, ngựa, chó v.v, nên trong ổ dịch tụ huyết trùng trâu bò cần chú ý phòng
bệnh cho cả ngựa, lợn, chó. Đặc biệt là dê cũng dễ mắc bệnh tụ huyết trùng này.
Nhiều tác giả đã khẳng định: Nơi nào có bệnh tụ huyết trùng trâu, bò thì ở đó
người ta cũng phát hiện bệnh này ở động vật hoang dã (voi tại Srilanka, lạc đà tại
Sudan, gấu tại Anh và báo tuyết tại Hymalaya) (De Alwis, 1982a) [49]. Tỷ lệ
mắc bệnh và tỷ lệ chết của các loài vật bị bệnh tụ huyết trùng trâu, bò phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như: Mức độ cảm nhiễm, sức đề kháng cơ thể, lứa tuổi v.v .
Vi khuẩn P. multocida có thể đóng vai trò tiên phát hoặc kế phát đối
với nhiều bệnh ở nhiều loài động vật và ở người. Bệnh do Pasteurella
multocida đóng vai trò gây bệnh tiên phát được gọi là Pasteurellosis như bệnh
tụ huyết trùng trâu bò, bệnh tụ huyết trùng gia cầm, bệnh tụ huyết trùng lợn
v.v, trong những trường hợp này bệnh phát sinh do chỉ nhiễm P. multocida.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
56
Trong một số trường hợp như viêm vú, viêm teo mũi ở lợn, viêm phổi bò có
vai trò thứ phát của P. multocida (Nguyễn Như Thanh và cs, 2001) [29].
Bệnh tụ huyết trùng lợn thường gặp ở Malaysia, Thái Lan, Ấn Độ và
Việt Nam v.v (FAO,1991) [56]. De Alwis (1999) [55] cho rằng, mặc dù
không phải là vật chủ thường xuyên của bệnh tụ huyết trùng, nhưng lợn
vẫn là loài mẫn cảm với bệnh.
Bệnh có thể lây từ trâu, bò sang ngựa, chó và lợn. Khả năng cảm nhiễm
của dê, cừu với P. multocida rất lớn. Bệnh cũng xảy ra ở lợn và truyền từ lợn
sang trâu, bò, gà và ngược lại. Ở một số nơi, bệnh tụ huyết trùng xảy ra ít hơn
hoặc nhiều hơn so với dịch tả lợn cổ điển (Townsend và cs, 1998) [78].
1.2.2. Tuổi mắc bệnh
Bệnh xảy ra hầu hết ở các lứa tuổi. Những con đang bú mẹ ít mắc
hơn những con trưởng thành. Gia súc non dễ mắc hơn gia súc già. Bệnh
thường xảy ra ở lợn 3 - 6 tháng tuổi. Trâu, bò 1 -3 tuổi dễ mắc hơn trâu, bò
già và khi mắc bệnh thì có tỷ lệ chết cao hơn. Trâu, bò càng béo, khoẻ, trẻ
càng dễ mắc bệnh và có tỷ lệ chết cao. Bê, nghé dưới 6 tháng tuổi ít mắc
bệnh (Bùi Quý Huy,1998) [12].
Theo De Alwis (1984) [51] mức độ cảm nhiễm của động vật non mạnh
hơn động vật già. Khi nghiên cứu vùng có dịch tại Srilanka tác giả cho biết, tỷ
lệ mắc bệnh tụ huyết trùng đối với trâu bò dưới hai năm tuổi là 30 - 32%,
trong khi đó trâu bò trên hai năm tuổi chỉ mắc bệnh 3 - 5 % ở bò và 8 - 9 % ở
trâu. De Alwis (1999) [55] trong vùng có dịch, phần lớn gia súc trưởng thành
có lượng kháng thể cao hơn trong cơ thể và kháng thể tự nhiên này sẽ được
trâu, bò dưới 6 tháng tuổi hấp thu qua sữa mẹ. Cũng theo tác giả, kháng thể có
trong sữa đầu có thể tồn tại liên tục cho đến ngày thứ 28 và giảm dần cho đến
ngày thứ 58.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
56
Dương Thế Long (1995) [15] theo dõi bệnh tụ huyết trùng trâu, bò ở
Sơn La thấy tuổi cảm nhiễm với bệnh nhất là dưới 36 tháng tuổi. Đỗ Văn
Được (1998) [6] cho biết bệnh tụ huyết trùng trâu, bò ở Lạng Sơn xảy ra ở
mọi lứa tuổi, gây thiệt hại không nhỏ về mặt kinh tế. Bùi Quý Huy (1998)
[12] thống kê trên 1000 trường hợp cho thấy 75% trâu, bò mắc bệnh lứa
tuổi 2 - 6 năm, các lứa tuổi khác chỉ chiếm 25%. Cao Văn Hồng (2001)
[10] tại Đăk Lăk cũng cho thấy, lứa tuổi cảm nhiễm với bệnh nhất là dưới
36 tháng tuổi. Nguyễn Đăng Huyến (2004) [13] cho biết tại Bắc Giang trâu
bò nhỏ hơn 2 năm tuổi mẫn cảm với bệnh nhất.
1.2.3. Mùa vụ phát bệnh và tần suất xuất hiện dịch
Bệnh tụ huyết trùng ở gia súc phụ thuộc nhiều vào thời tiết khí hậu,
Mustafa và cs (1978) [66] nghiên cứu ảnh hưởng của mùa vụ tới bệnh tụ
huyết trùng đã nhận xét bệnh thường liên quan đến điều kiện khí hậu ẩm ướt.
Theo Yeo và Mukhtar (1992) [80] khi nghiên cứu dịch tễ học bệnh tụ huyết
trùng phải quan tâm đến điều kiện thời tiết, khí hậu và địa lý của từng vùng vì
những yếu tố này ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của mầm bệnh trong
môi trường sinh sống của động vật cảm nhiễm.
Mùa phát bệnh tụ huyết trùng ở các nước Châu Á tập chung vào các
tháng và mùa khác nhau trong năm. Carter và De Alwis (1989) [47] nhận xét
bệnh tụ huyết trùng xảy ra quanh năm song tập chung vào các tháng mưa, ẩm.
Ở Lào bệnh phát ra từ tháng 5 đến tháng 8, ở Pakistan bệnh xảy ra rải rác
quanh năm song thường ở tháng 4 đến tháng 6 hàng năm (FAO, 1991) [56];
bệnh xảy ra các tháng 8, 9 ở Malaysia (Yeo và Mukhtar, 1992) [80]; ở
Campuchia bệnh xảy ra vào cuối mùa nóng (Kral và cs, 1992) [64].
Ở Việt Nam, bệnh xảy ra quanh năm nhưng thường xảy ra vào các
tháng mưa nhiều. Nguyễn Vĩnh Phước (1978) [24] cho rằng khi bắt đầu mùa
mưa, khí hậu nóng ẩm thì bệnh lây lan và phát thành dịch. Đặc biệt sau những
trận mưa đầu mùa mang đến những thay đổi về sức khoẻ do gia súc bị lạnh, ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
56
những vùng ngập lụt, sau khi nước rút đi, cỏ bị dính bùn và thối, nên bệnh
thường phát sinh vào các tháng có mưa nhiều (Đoàn Thị Băng Tâm, 1987)
[26]. Dương Thế Long (1995) [15], Nguyễn Xuân Bình (1996) [1], Nguyễn
Thiên Thu (1996) [30], Võ Văn Hùng (1997) [11], đều cho rằng vào thời gian
mưa, bệnh xảy ra nhiều.
Bùi Quý Huy (1998) [12] cho biết, ở miền Bắc bệnh xảy ra quanh năm
nhưng tập trung vào các tháng mưa nhiều từ tháng 7 đến tháng 9. Ở miền
Nam, bệnh xảy ra mạnh khi mưa và nắng từ tháng 4 đến tháng 10. Đỗ Văn
Được (1998) [6] cho biết, ở Lạng Sơn bệnh xảy ra mạnh từ tháng 4 đến tháng
8, 9; bệnh xảy ra nhiều đối với gia súc chưa tiêm phòng vắc xin. Bùi Xuân
Đồng (2000) [4] nghiên cứu bệnh tụ huyết trùng trâu, bò ở Hải Phòng cho
thấy bệnh bắt đầu vào tháng 4, đỉnh cao là tháng 6, 7. Theo Bùi Văn Dũng
(2000) [2], ở Lai Châu bệnh tụ huyết trùng xảy ra quanh năm nhưng tập trung
vào các tháng 3, 4, 7, 8 hàng năm, vào cuối mùa khô, đầu mùa mưa. Cao Văn
Hồng (2001) [10] cho biết, mùa dịch tụ huyết trùng ở Đăk Lăk từ tháng 5 đến
tháng 9, đây là những tháng mưa nhiều. Theo Hoàng Đăng Huyến (2004) [13]
bệnh tụ huyết trùng xảy ra ở Bắc Giang từ tháng 4 đến tháng 9 hàng năm, thời
gian này cũng đang là mùa mưa. Cũng theo Nguyễn Văn Minh (2005) [16] bệnh
tụ huyết trùng xảy ra rải rác quanh năm nhưng tập trung từ tháng 3 đến tháng 8,
vào đầu mùa mưa đến cuối mùa mưa của vụ hè thu, cao nhất là tháng 5, 6 đây là
những tháng nắng, nhiệt độ cao và mưa nhiều.
Nguyễn Vĩnh Phước (1986a) [22]; (1986b) [23] khi nghiên cứu tỷ lệ
mang trùng ở trâu, bò và lợn bằng cách lấy dịch ngoáy mũi đã rút ra kết
luận ở vùng nào có tỷ lệ tiêm phòng càng cao, thì tỷ lệ mang trùng càng
thấp thậm chí là không có con mang trùng. De Alwis (1992b) [54] nhận xét
rằng, bệnh thường xảy ra vào các năm kế do tiêm phòng không tốt, vào các
tháng mưa nhiều.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
56
Bùi Quý Huy (1998) [12] cho biết, vùng xảy ra ổ dịch đều là nơi mà
đàn trâu, bò từ lâu không được tiêm phòng hoặc tiêm chỉ đạt tỷ lệ 10 - 15%
tổng đàn. Một khu vực có tỷ lệ tiêm phòng từ 80% trở lên bệnh khó xảy ra.
Bain và cs (1982) [37], gia súc một làng đã bị bệnh trong một năm thì
năm sau có thể không bị mắc, mặc dầu mức độ bệnh chung của cả huyện vẫn
giữ nguyên trong các năm.
Theo kết quả điều tra ở Sri Lanka của De Alwis (1992b) [54], tỷ lệ
những con có miễn dịch tự nhiên tuỳ theo đàn và trong cùng một đàn nó cũng
thay đổi theo thời gian. Nó liên quan trực tiếp với bệnh tụ huyết trùng mới
xuất hiện trong đàn. Tỷ lệ có miễn dịch cao nhất thuộc về những con không
có tiêm chủng qua một vụ dịch. Sức miễn dịch này giảm dần theo thời gian
nhưng thường mạnh và tốt hơn miễn dịch sau khi tiêm phòng.
Nguyễn Đình Trọng (2002) [34], ở Bắc Kạn do việc triển khai các công
tác về thú y, trong đó có công tác tiêm phòng và xử lý ổ dịch không được tốt nên
bệnh thường xuyên tái phái.
1.2.4. Vùng phát bệnh
Các nghiên cứu đều cho thấy, bệnh tụ huyết trùng thường xảy ra ở
những vùng đất trũng, khí hậu nóng và ẩm ướt. Theo Phan Đình Đỗ và Trịnh
Văn Thịnh (1958) [5], bệnh thường xảy ra ở những vùng ẩm thấp, khí hậu
nóng ẩm, mưa nhiều, đặc biệt là vào đầu mùa mưa. Điều kiện tự nhiên, khí
hậu và phương thức chăn nuôi cũng ảnh hưởng đến quá trình phát sinh và lây
lan bệnh. Đặc biệt là ở những vùng đất trũng, ẩm thấp, lầy lội, bị ngập lụt, có
nhiều ruộng nước, nhiều kênh rạch, bệnh thường xảy ra và lây lan mạnh, làm
chết nhiều gia súc (Đoàn Thị Băng Tâm, 1987) [26].
Nguyễn Ngã (1996) [17] cho biết, bệnh này phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. Theo Võ Văn Hùng (1997) [11], bệnh xảy
ra ở vùng địa hình phức tạp như núi cao, đầm lầy, trình độ dân trí thấp, tập
quán chăn nuôi lạc hậu .v.v. Năm 1990, riêng ba tỉnh Sơn la, Hoàng Liên Sơn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
56
Bắc Thái, số ổ dịch tụ huyết trùng gia súc chiếm 60% và trong đó có tới 70%
số gia súc chết so với toàn Miền Bắc (Bùi Quý Huy, 1998) [12]. Đỗ Văn
Được (2003) [7] cho biết, ở Lạng Sơn vùng núi đất có độ dốc lớn, nhiệt độ
thấp, độ ẩm cao, tập quán chăn nuôi còn lạc hậu, chăn thả tự do thì tỷ lệ
nhiễm bệnh và chết cao. Theo Hoàng Đăng Huyến (2004) [13], ở Bắc Giang
vùng đồi núi thấp, tỷ lệ mắc bệnh tụ huyết trùng và chết cao. Nguyễn Văn
Minh (2005) [16], ở Hà Tây tỷ lệ trâu, bò ốm, chết vì bệnh tụ huyết trùng ở vùng
đồi, bán sơn địa cao hơn vùng chiêm trũng và vùng đồng bằng. Nguyễn Đình
Trọng (2002) [34], ở Bắc Cạn bệnh tụ huyết trùng xảy ra chủ yếu ở các vùng
sâu, vùng xa, trình độ dân trí thấp có tập quán thả rông trâu, bò nên trâu, bò dễ
tiếp xúc với mầm bệnh. Ở những vùng có phương thức chăn nuôi thả rông,
không có người chăm sóc, không làm chuồng nuôi nhốt, để gia súc nơi bùn
lầy, ngập nước, không dọn phân thường xuyên, việc vệ sinh, chăm sóc nuôi
dưỡng kém thì khả năng xảy ra bệnh cao. Ngoài ra trình độ dân trí thấp,
nhận thức của người dân về công tác phòng chống bệnh chưa cao, việc áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào việc phòng chống dịch bệnh còn nhiều
khó khăn v.v, thì cũng không tránh khỏi dịch bệnh thường xuyên xảy ra.
Carter và De Alwis (1989) [47] cũng xác định bệnh thường xảy ra ở những
vùng sâu, hẻo lánh nên việc phòng chống bệnh gặp nhiều khó khăn.
1.2.5. Hiện tượng mang vi khuẩn Pasteurella multocida ở đường hô hấp
trên của động vật khoẻ
Vi khuẩn Pasteurella multocida có thể tìm thấy ở các hạch lympho
của đường hô hấp trên của trâu, bò khoẻ đóng vai trò mang trùng. Những
trâu bò mang trùng tiềm tàng không xuất hiện triệu chứng lâm sàng vì vậy
được coi là không mắc bệnh nhưng liên tục thải vi khuẩn qua đường mũi. Ở
giai đoạn tiềm ẩn này chỉ có thể xác định được vi khuẩn bằng nuôi cấy các
hạch lympho lấy từ lò mổ hoặc dịch tiết ở mũi, hầu (Singh, 1948 [76],
Wijewantha và cs, 1992 [79]).