Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

giải pháp huy động nguồn vốn của tổng công ty xây dựng bạch đằng hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.58 KB, 82 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cấp thiết của đề tài.
Nguồn vốn là một trong những nguồn lực quan trọng nhất và không thể thiếu
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì nhu cầu nguồn vốn đối với các doanh
nghiệp ngày càng trở nên quan trọng và bức xúc hơn vì nó là cơ sở để các
Doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh,mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh
doanh… Vậy vấn đề là làm thế nào để nâng cao huy động nguồn vốn tại các
Doanh nghiệp ? Đây là vấn đề mà các nhà quản lý Doanh nghiệp rất quan tâm vì
chỉ có nâng cao hiệu quả huy động nguồn vốn,có một cơ cấu vốn hợp lý,tốc độ
luân chuyến phù hợp của nguồn vốn mới có thể gia tăng lợi nhuận,nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp .
Xuất phát từ thực tế và những vấn đề đặt ra trên đây ; xuất phát từ bản thân
trong việc tìm hiểu và làm sáng tỏ vấn đề này,tôi đã chọn đề tài :” Giải pháp
huy động nguồn vốn của Tổng công ty xây dựng Bạch Đằng Hải Phòng “ làm
đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình với hy vọng góp một phần nhỏ bé vào
việc phân tích,thảo luận,rút ra giải pháp,kiến nghị nhằm nâng cao huy động
nguồn vốn tại Tổng công ty xây dựng Bạch Đằng Hải Phòng .
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Hệ thống hóa lý luận cơ bản về huy động nguồn vốn, tìm hiểu xác định
các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng huy động nguồn vốn, đánh giá chất lượng
huy động nguồn vốn
Đánh giá thực trạng chất lượng huy động nguồn vốn của Tổng công ty
xây dựng Bạch Đằng Hải Phòng,
phân tích mức độ đạt được và chưa đạt được.
Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng huy động nguồn vốn
của Tổng công ty xây dựng Bạch Đằng Hải Phòng
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
 Đối tượng nghiên cứu: Huy động nguồn vốn của Tổng công ty xây dựng
Bạch Đằng Hải Phòng
.


 Phạm vi nghiên cứu: Số liệu nghiên cứu từ năm 2011 đến ngày 31/12/2013
tại Tổng công ty xây dựng Bạch Đằng Hải Phòng
4. Phương pháp nghiên cứu.
1
Để phục vụ cho đề tài nghiên cứu này, tác giả tiến hành sử dụng các
phương pháp thu thập số liệu, trên cơ sở đó vận dụng các phương pháp phân tích
dữ liệu
 Phương pháp phân tích dữ liệu.
- Phương pháp so sánh: So sánh dữ liệu giữa các thời kỳ khác nhau, so sánh
kết quả huy động nguồn vốn trong giai đoạn 2011-2013.
- Phương pháp chỉ số: Các chỉ số được sử dụng để đánh giá sự tăng lên
hoặc giảm xuống, tỷ trọng, thị phần của Tổng công ty trên các thị trường về mặt
quy mô qua đó đánh giá được hiệu quả hoạt động trong hiện tại, và dự báo phát
triển trong tương lai.
- Phương pháp khảo sát:Khảo sát các phương pháp huy động nguồn vốn
của Tổng công ty
- Trên cơ sở đó phân tích các nhân tố chính tác động đến
chất
lượng huy
động nguồn vốn của Tổng công ty xây dựng Bạch Đằng Hải Phòng sau đó tiến
hành phân
tích
mức độ đạt được và chưa đạt được thông qua khảo sát thực tế,
xử lý bằng phần
mềm
SPSS, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng
huy động nguồn vốn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn đề tài.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng chất lượng huy động nguồn vốn của
Tổng công ty xây dựng Bạch Đằng Hải Phòng, phân tích các yếu tố đạt

được và chưa đạt được, đánh giá mức độ thành công của Công ty, từ đó đề
xuất các giải pháp nhằm nâng
cao
huy động nguồn vốn của Tổng công ty
trong
thời gian
tới.
2
6. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần Giới thiệu nội dung đề tài và phần Kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo, danh mục chữ viết tắt,danh mục sơ đồ bảng
biểu, đề tài nghiên
cứu
được chia thành ba chương với nội dung cụ thể như
sau:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về huy động nguồn vốn của doanh
nghiệp .
Chương 2: Thực trạng huy động của Tổng công ty xây dựng Bạch Đằng
Hải Phòng giai đoạn 2011-2013.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện việc huy động nguồn vốn của
Tổng công ty xây dựng Bạch Đằng
Hải Phòng.
3
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG
NGUỒN VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về nguồn vốn và huy động nguồn vốn trong doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm,vai trò của nguồn vốn
1.1.1.1.Khái niệm về nguồn vốn
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức của một số người, có tài sản riêng,
tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trên một lĩnh vực nào đó, với mục tiêu

tối đa hóa lợi nhuận, gọi là các doanh nghiệp. Như vậy, một trong những điều
kiện tối thiểu để được công nhận là doanh nghiệp, đó là phải có tài sản riêng, và
chịu trách nhiệm bằng những tài sản này. Cơ sở đầu tiên của doanh nghiệp là
nguồn vốn.
Nguồn vốn là giá trị của toàn bộ tài sản doanh nghiệp ứng ra để tiến hành
các hoạt động sản xuất kinh doanh.Hay nói cách khác ,nguồn vốn là sự biểu hiện
bằng tiền các nguồn tài sản của Doanh nghiệp
Nguồn vốn tồn tại dưới nhiều hình thức
Hình thái tồn tại đầu tiên của nguồn vốn, đó là hình thái giá trị, bao gồm
tiền mặt, chứng khoán, các khoản đầu tư khác.Nguồn vốn cũng tồn tại dưới dạng
hiện vật, được coi là nguồn vốn cố định như thiết bị,nhà xưởng,cở sở vật
chất,nguyên nhiên vật liệu,thành phấm ……
Một hình thái nữa của nguồn vốn nữa là nguồn vốn vô hình. Đây là nguồn
vốn đặc biệt tuy không thể nhìn thấy nhưng có vai trò ngày càng quan trọng
trong suốt quá trình tồn tại của doanh nghiệp. Ví dụ như những lợi thế thương
mại, thương hiệu, những mối quan hệ, những bằng phát minh sáng chế Đây là
nguồn mang lại giá trị thặng dư siêu ngạch cho doanh nghiệp, song không có
cách thức đo lường định giá giá trị của nguồn vốn vô hình.
Tóm lại, Nguồn vốn là toàn bộ nguồn tiền hiện có và nguồn tiền nhàn rỗi
mà Doanh nghiệp huy động được.
1.1.1.2.Vai trò của nguồn vốn trong doanh nghiệp
Như đã phân tích, vốn là một trong những điều kiện tiên quyết để định
nghĩa một doanh nghiệp. Vốn có vai trò đặc biệt quan trọng trong suốt quá trình
4
tồn tại của doanh nghiệp, từ khi doanh nghiệp hình thành, sản xuất kinh doanh,
phát triển, đến khi phá sản, hay bị mua lại Trong bất kỳ thời điểm nào, vốn cũng là
một yếu tố không thể thiếu khi đánh giá tình hình một doanh nghiệp, doanh nghiệp có
phát triển đi lên, hay phải tuyên bố phá sản, đều thể hiện rõ ràng trong tình hình tài
chính, mà tình hình nguồn vốn là một đóng góp quan trọng.
Doanh nghiệp muốn thực hiện bất kỳ hoạt động gì đều cần có vốn. Khi doanh

nghiệp muốn mở rộng quy mô, mở rộng thị trường, sản xuất một sản phẩm mới, thì
vốn là nhân tố không thể thiếu. Trong quá trình tham gia vào thị trường, doanh nghiệp
luôn phải cạnh tranh để tồn tại, và những hướng tăng khả năng cạnh tranh sẽ không
thể thực hiện nếu không có vốn. Đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, hạ giá
thành, tăng chất lượng sản phẩm, vốn là vấn đề đầu tiên cần giải quyết.
Làm thế nào để đảm bảo khả năng chi trả, đảm bảo tình hình tài chính lành
mạnh, đảm bảo khả năng cạnh tranh, đảm bảo nguồn vốn phục vụ cho đầu tư
phát triển, đó là một câu hỏi thường trực của bất kỳ doanh nghiệp nào. Và đó
cũng là một trong những công việc quan trọng bậc nhất cho những nhà điều
hành doanh nghiệp: Quản lý nguồn vốn.
1.1.1.3. Phân loại nguồn vốn trong doanh nghiệp
a) Phân loại nguồn vốn theo nguồn hình thành
Toàn bộ tài sản của doanh nghiệp có thể được hình thành từ hai nguồn là
nguồn vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
- Nguồn vốn chủ sở hữu: Đây là nguồn vốn ban đầu, quan trọng do chủ sở
hữu là doanh nghiệp bỏ ra để tạo nên các loại tài sản nhằm thực hiện các hoạt
động sản xuất kinh doanh; ngoài ra nguồn vốn chủ sở hữu còn được bổ sung
thêm trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Tuỳ theo hình thức sở hữu mà
nguồn vốn chủ sở hữu có thể là do nhà nước cấp, do cổ đông hoặc xã viên góp
cổ phần, do chủ doanh nghiệp tư nhân tự bỏ ra… Nguồn vốn chủ sở hữu có đặc
điểm là nguồn vốn sử dụng dài hạn và không cam kết phải thanh toán. Nó có vị
trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc duy trì và phát triển hoạt động của
doanh nghiệp. Nguồn vốn chủ sở hữu được phân thành các khoản:
5
 Nguồn vốn kinh doanh.
 Lợi nhuận chưa phân phối.
 Các loại quỹ chuyên dùng.
+ Nguồn vốn kinh doanh được hình thành do các bên tham gia góp vốn và
được bổ sung từ lợi nhuận sau thuế. vốn do chủ doanh nghiệp bỏ ra kinh doanh
từ số tiền mà đã góp cổ phần, đã mua cổ phiếu tùy từng loại hình DN mà có

nguồn vốn kinh doanh khác nhau.
+ Lợi nhuận chưa phân phối: là phần lợi nhuận sau thuế chưa chia cho chủ
sở hữu, hoặc chưa trích lập các quỹ.
+ Các loại quỹ chuyên dùng: Bao gồm các nguồn vốn và các quỹ chuyên
dùng của đơn vị kế toán được hình thành chủ yếu từ việc phân phối lợi nhuận,
bao gồm: quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng phúc
lợi, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản, chênh lệch tỷ giá hối đoái…
-Nợ phải trả: là nghĩa vụ hiện tại của DN phát sinh từ các giao dịch và các sự
kiện đã qua mà DN phải có trách nhiệm thanh toán bằng các nguồn lực của mình.
Đây là nguồn vốn bổ sung quan trọng nhằm đáp ứng đủ vốn cho nhu cầu sản
xuất kinh doanh. Nợ phải trả bao gồm các khoản nợ ngắn hạn và nợ dài hạn của
ngân hàng, của các tổ chức kinh tế, của các cá nhân… Nợ phải trả có đặc điểm
là nguồn vốn sử dụng có thời gian kèm theo nhiều ràng buộc như phải có thế
chấp, phải trả lãi… Nợ phải trả cũng có vị trí và ý nghĩa quan trọng trong việc
phát triển hoạt động của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là phải sử dụng các khoản
nợ có hiệu quả để đảm bảo có khả nãng thanh toán và có tích luỹ để mở rộng và
phát triển doanh nghiệp. Nợ phải trả bao gồm các khoản:
 Vay ngắn hạn.
 Vay dài hạn.
 Phải trả cho người bán.
 Phải trả công nhân viên.
 Phải trả khác……
6
Nợ phải trả được phân loại theo thời hạn thanh toán, gồm có:
+ Nợ ngắn hạn: Là các khoản nợ có thời hạn thanh toán dưới 1 năm hoặc chu
kì kinh doanh. Ví dụ: vay ngắn hạn, phải trả người bán ngắn hạn, tiền đặt trước
ngắn hạn của người mua, các khoản phải trả, phải nộp ngân sách Nhà nước, các
khoản phải trả công nhân viên, các khoản nhận kí quỹ, kí cược ngắn hạn…
+ Nợ dài hạn: Là các khoản nợ có thời hạn thanh toán trên 1 năm hoặc 1 chu
kỳ kinh doanh trở lên như: vay dài hạn, nợ dài hạn về thuê tài chính TSCĐ, các

khoản nhận kí quỹ dài hạn, nợ do mua tài sản trả góp dài hạn, phải trả người bán
dài hạn, tiền đặt trước dài hạn của người mua….
b) Phân loại nguồn vốn dựa trên góc độ chu chuyển của nguồn vốn
• Vốn cố định: là một bộ phận của vốn đầu tư, ứng trước về tài sản cố
định, mà đặc điểm của nó là luân chuyên từng phần trong nhiều chu kì sản xuất
và hoàn thành vòng chu chuyển khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng.
Trong doanh nghiệp, vốn cố định giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình
sản xuất. Nó quyết định đổi mới kỹ thuật, công nghệ , trang thiết bị cơ sở sản
xuất, là nhân tố quan trọng bảo đảm tái sản xuất mở rộng .
Về mặt hiện vật vốn cố định bao gồm toàn bộ những tài sản cố định đang phát huy
trong quá trình sản xuất : nhà xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải Vốn cố
định tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Sau mỗi chu kì sản xuất thì
hình thái hiện vật của vốn cố định không thay đổi nhưng giá trị của nó giảm dần và
chuyển vào giá trị sản phẩm hàng hoá dưới dạng hình thức khấu hao.
• Vốn lưu động : Là số tiền ứng trước về tài sản lưu động và tài sản lưu
thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất và tái sản xuất của doanh
nghiệp tiến hành bình thường.
Vốn lưu động bao gồm giá trị tài sản lưu động như: nguyên vật liệu chính, nửa
thành phẩm mua ngoài, vật liệu phụ, bao bì và vật liệu bao bì, nhiên liệu, phụ tùng thay
thế, sản phẩm dở dang và vốn lưu thông như: thành phẩm, hàng hoá mua ngoài tiêu
dùng cho tiêu thụ sản phẩm, vật tư mua ngoài chế biến, vốn tiền mặt
Khác với vốn cố định, vốn lưu động chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm
sau mỗi chu kì sản xuất. Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động được
7
luân chuyển không ngừng qua ba giai đoạn: dự trữ, sản xuất và tiêu thụ. Trong
mỗi giai đoạn vốn lưu động được biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau, có
thể là hình thái hiện vật hay hình thái giá trị.
Giá trị của các loại tài sản lưu động của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
thường chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị của chúng. Vì vậy, quản lí và sử
dụng vốn lưu động hợp lý có ảnh hưởng đến việc hoàn thành nhiệm vụ chung

của doanh nghiệp.
Có thể thấy rằng vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu của
quá trình tái sản xuất. Nếu doanh nghiệp không đủ vốn thì việc tổ chức sử dụng
vốn sẽ gặp nhiều khó khăn và do đó quá trình sản xuất cũng bị trở ngại hay gián
đoạn
c) Phân loại theo cách huy động
• Nguồn vốn tự có của chủ doanh nghiệp
Đây là vốn của các chủ sỡ hữu,các nhà đầu tư góp vốn ban đầu để thành
lập doanh nghiệp. Do vậy vốn này không phải là một khoản nợ. Nguồn vốn này
là điều kiện tiên quyết để thành lập doanh nghiệp.
- Đối với công ty tư nhân, chủ doanh nghiệp phải có một số vốn nhất định
để xin đăng kí thành lập doanh nghiệp.
- Đối với công ty cổ phần, nguồn vốn do các cổ đông góp là yếu tố quyết
định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chịu
trách nhiệm hữu hạn trên trị giá số cổ phần mà họ nắm giữ.
• Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại
- Nguồn vốn tín dụng ngân hàng: Có thể nói rằng vốn vay ngân hàng là
một trong những nguồn vốn quan trọng nhất không chỉ đối với bản thân
doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Các hoạt động và sự phân tích
của các công ty, doanh nghiệp đều gắn liền với dịch vụ tài chính do ngân hàng
thương mại cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng. Trong quá
trình hoạt động doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, đặc biệt là đảm bảo đủ vốn cho
các dự án mở rộng hoặc đầu tư theo chiều sâu
8
- Nguồn vốn tín dụng thương mại : Là khoản mua chịu từ người cung cấp
hoặc ứng trước của khách hàng mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng. Tín dụng
thương mại luôn gắn với một lượng hàng hóa cụ thể, gắn với một hệ thống thanh
toán cụ thể nên nó chịu tác động của chính sách tín dụng mà doanh nghiệp được
hưởng. Đây là phương thức tài trợ tiện lợi, linh hoạt trong kinh doanh, tạo khả

năng mở rộng và cơ hội hợp tác làm ăn trong tương lai.
• Nguồn vốn huy động từ việc phát hành cổ phiếu: Phát hành cổ phiếu là
một kênh rất quan trọng để huy động vốn dài hạn cho công ty một cách nhanh
và rộng rãi thông qua mối liên hệ với thị trường chứng khoán. Cách huy động
này sẽ giúp doanh nghiệp huy động được một lượng vốn lớn từ nhiều nguồn
khác nhau. Đặc điểm quan trọng của nguồn vốn nay là không gây nợ nên đây là
một hình thức huy động quan trọng để sử dụng vào mục đích dài hạn, đáp ứng
nhu cầu vốn sản xuất của doanh nghiệp.
• Nguồn vốn huy động từ việc phát hành trái phiếu
Trái phiếu là các giấy tờ vay nợ trung và dài hạn, bao gồm trái phiếu
chính phủ và trái phiếu công ty. Hiện nay huy động vốn bằng trái phiếu cũng là
một kênh huy động khá phổ biến của các công ty nhằm huy động được những
nguồn vốn lâu dài. Tuy nhiên khi phát hành trái phiếu các doanh nghiệp cần xem
xét là nên phát hành loại trái phiếu nào và khi nào nên phát hành để phù hợp
nhất với điều kiện cụ thể của công ty và tình hình trên thị trường tài chính.
• Nguồn vốn nội bộ.
Tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là con đường tốt vì doanh nghiệp sẽ phát
huy được năng lực của mình, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Nhiều công
ty đặt ra mục tiêu phải có khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm đáp ứng nhu
cầu vốn ngày càng tăng. Nhưng điều này đối với công ty cổ phần thì việc để lại
lợi nhuận đó liên quan đến một số yếu tố nhạy cảm vì khi công ty để lại một
phần lợi nhuận, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia cho các cổ đông.
Điều này một mặt khuyến khích các cổ đông nắm giữ cổ phiếu lâu dài hơn,
nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong ngắn hạn do cổ
đông chỉ nhậnđược phần cổ tức nhỏ hơn.
9
1.1.1.4 Ngun hỡnh thnh vn trong doanh nghip
a) Phân loại theo thời gian huy động và sử dụng vốn thì nguốn vốn của
doanh nghiệp bao gồm:


Nguồn vốn thờng xuyên: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng để tài
trợ cho toàn bộ tài sản cố định của mình. Nguồn vốn này bao gồm vốn chủ sở
hữu và nợ dài hạn của doanh nghiệp. Trong đó:
- Nợ dài hạn: Là các khoản nợ dài hơn một năm hoặc phải trả sau một kỳ
kinh doanh, không phân biệt đối tợng cho vay và mục đích vay.

Nguồn vốn tạm thời: Đây là nguồn vốn dùng để tài trợ cho tài sản lu
động tạm thời của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm: vay ngân hàng, tạm
ứng, ngời mua vừa trả tiền
Nh vậy, ta có:
TS = TSLĐ + TSCĐ
= Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu
= Vốn tạm thời + Vốn thờng xuyên
Việc phân loại theo cách này giúp doanh nghiệp thấy đợc yếu tố thời gian
về vốn mà mình nắm giữ, từ đó lựa chọn nguồn tài trợ cho tài sản của mình một
cách thích hợp, tránh tình trạng sử dụng nguồn vốn tạm thời để tài trợ cho tài sản
cố định.
b) Phân loại vốn theo phạm vi huy động và sử dụng vốn thì nguồn vốn
của doanh nghiệp bao gồm: nguồn vốn trong doanh nghiệp và nguồn vốn ngoài
doanh nghiệp.
Nguồn vốn trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động đợc từ
hoạt động bản thân của doanh nghiệp nh: Tiền khấu hao TSCĐ, lợi nhuận giữ lại,
các khoản dự trữ, dự phòng, khoản thu từ nhợng bán, thanh lý TSCĐ
Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: Là nguồn vốn mà doanh nghiệp có
thể huy động từ bên ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh nh: Vay ngân hàng, vay của các tổ chức kinh tế khác, vay của cá
nhân và nhân viên trong công ty
10
Cách phân loại này giúp cho các doanh nghiệp xem xét, lựa chọn trong việc
sử dụng nguồn vốn sao cho hợp lý nhằm đem lại hiệu quả cao, linh hoạt hơn và

tránh đợc rủi ro, đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thể có các nguồn vốn khác nh: Nguồn vốn
FDI, ODA thông qua việc thu hút các nguồn vốn này, các doanh nghiệp có thể
tăng vốn đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nh vậy, phân loại vốn sẽ giúp cho nhà quản lý doanh nghiệp lập kế hoạch
tài chính, hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn vốn trong tơng lai
trên cơ sở xác định quy mô về vốn cần thiết, lựa chọn thích hợp cho từng hoạt
động sản xuất kinh doanh để đạt hiệu quả sử dụng vốn cao nhất.
1.1.2. Khỏi nim,vai trũ ca huy ng ngun vn
1.1.2.1.Khỏi nim v huy ng ngun vn
Xut hin khỏ lõu i v khụng ngng phỏt trin, thay i cựng vi s phỏt
trin ca cỏc doanh nghip cng nh cỏc NHTM, ni hm ca khỏi nim hot
ng huy ng ngun vn ó cú nhng thay i rt ỏng k, c v quy mụ v
cỏc hỡnh thc th hin. Hn na, gn nh khụng tỡm c mt nh ngha hon
thin v hot ng ny cng nh khụng cú c s thng nht hon ton gia
cỏc quan im. c bit, l s khỏc bit trong cỏch hiu khi cp vn ny
di cỏc khớa cnh khỏc nhau.
Ph bin nht l vic s dng thut ng ny trong cỏc khớa cnh khụng
chuyờn, c bit l ngụn ng thng nht ca xó hi v bỏo chớ, khỏi nim huy
ng ngun vn c s dng õy i vi hot ng ca cỏc doanh nghip cú
th núi l hp v khụng rừ rng nht, trong nhiu trng hp cú s khụng thng
nht trong ni hm ca bn thõn khỏi nim.
Tuy nhiờn, khi nhc n hot ng huy ng ngun vn ca cỏc doanh
nghip, mt s ti liu chuyờn ngnh ụi lỳc cng cú cỏch tip cn hp hn.
Chng hn, trong mt s giỏo ti liu ging dy ca cỏc trng khi kinh t ti
chớnh khi cp n cỏc hỡnh thc ca hot ng huy ng ngun vn thng
ch bao gm: Ngun vn tớn dng ngõn hng,ngun vn tớn dng thng
mi,ngun vn phỏt hnh c phiu cụng ty,phỏt hnh trỏi phiu cụng ty
11
Qua nghiên cứu trên tác giả đưa ra định nghĩa như sau: “Hoạt động huy động

nguồn vốn của các doanh nghiệp là hoạt động mà trong đó các doanh nghiệp
tìm kiếm nguồn vốn khả dụng từ các chủ thể khác nhằm mục đích kinh doanh và
đảm bảo sự vận hành bình thường, hiệu quả của bản thân nó theo đúng các quy
định pháp luật”.
1.1.2.2.Vai trò của huy động nguồn vốn
a) Vai trò huy động nguồn vốn đứng trên góc độ doanh nghiệp
- Huy động nguồn vốn tốt là tiền đề thúc đẩy các hoạt động sản xuất,kinh
doanh của doanh nghiệp
- Là hoạt động giúp cho doanh nghiệp có thể duy trì,phát triển hoạt động
sản xuất,kinh doanh một cách ổn định
b) Vai trò của huy động nguồn vốn đối với nền kinh tế
- Điều tiết lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế,giúp ổn định thị trường
tiền tệ,kiểm soát lạm phát.
- Huy động vốn giúp tăng vốn để phát triển kinh tế.
- Giúp phát triển thị trường tài chính ví dụ như kỳ phiếu,trái phiếu trở
thành hàng hóa trên thị trường chứng khoán.
1.2. Nội dung huy động nguồn vốn
1.2.1. Nguồn vốn tự có của chủ doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải đầu
tư một số vốn nhất định. Đối với doanh nghiệp nhà nước, nguồn vốn tự có ban
đầu chính là vốn đầu tư của ngân sách nhà nước. Trong công ty tư nhân, chủ
doanh nghiệp phải có đủ số vốn pháp định cần thiết để đăng ký thành lập doanh
nghiệp. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật
để thành lập doanh nghiệp.
Còn đối với công ty cổ phần, nguồn vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố
quyết định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và
chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên giá trị cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên, các
công ty cổ phần cũng có một số hình thức khác nhau, do đó cách thức huy động
vốn cổ phần cũng khác nhau.
12

Trên thực tế, vốn tự có của chủ doanh nghiệp thường lớn hơn nhiều so với
vốn pháp định, nhất là sau một thời gian hoạt động và mở rộng kinh doanh
1.2.2. Nguồn Vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại.
Có thể nói rằng nguồn vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn
quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp
mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các
công ty, các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân
hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng.
Bên cạnh đó, không một công ty nào có thể hoạt động tốt mà không vay vốn
ngân hàng hoặc tín dụng thương mại. Trong quá trình hoạt động, các doanh
nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt đông sản
xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư
chiều sauu của doanh nghiệp.Về mặt thời hạn, vốn vay ngân hàng có thể được
phân loại theo thời hạn vay, bao gồm: vay dài hạn(từ 5 năm trở lên), vay trung
hạn(từ 1 đến 5 năm), vay ngắn hạn(dưới 1 năm).
Bên cạnh những ưu điểm trên, nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất
định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi
phí sử dụng vốn
Điều kiện tín dụng: Các ngân hàng thương mại khi cho doanh nghiệp vay
vốn luôn luôn phải đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro tín dụng thông qua
một hệ thống các biện pháp bảo đảm tín dụng. Trước tiên, ngân hàng phải phân
tích hồ sơ xin vay vốn, đánh giá các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc
kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn. Doanh nghiệp phải
cung cấp những báo cáo tài chính và những thông tin cần thiết cho ngân hàng.
Các điều kiện đảm bảo tiền vay: Khi doanh nghiệp xin vay vốn, nói chung
các ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp đi vay phải có các bảo đảm tín
dụng, phổ biến nhất là bằng tài sản thế chấp. Việc yêu cầu người vay có tài sản
thế chấp trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được
các điều kiện vay, kể cả những thủ tục pháp lý về giấy tờ do đó, doanh nghiệp
cần tính đến yếu tố này khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.

13
Sự kiểm soát của ngân hàng cho vay: Một khi doanh nghiệp vay vốn ngan
hàng thì doanh nghiệp cũng phải chịu sự kểm soát của ngân hàng về mục đích
và tình hình sử dụnh vốn vay. Nói chung, sự kiểm soát không gây ra vấn đề quá
lớn cho doanh nghiệp, tuy nhiên trong một số trường hợp điều đó cũng làm cho
doanh nghiệp có cảm giác bị kiểm soát.
Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi suất
vốn tín dụng ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong
từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phai chịu chi phí sử
dụng vốn quá lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp.
Ngoài việc vay vốn từ ngân hàng, doanh nghiệp còn có thể khai thác vốn tín
dụng thương mại. Nguồn vốn này hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ
mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có
ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp mà còn với cả toàn bộ
nền kinh tế. nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện
dụng và linh hoạt trong kinh doanh, mặt khác nó còn tạo khả năng mở rộng các
quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buọc cụ thể có
thể được ấn định khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói
chung. Tuy nhiên doanh nghiệp cũng cần để ý tới tính chất rủi ro của quan hệ tín
dụng thương mại khi quy mô tài trợ vượt quá giới hạn an toàn. Chi phí của việc
sử dụng nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất của khoản vay, đó là chi phí lãi
vay. Nó sẽ được tính váo giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua hàng hoá trả
chậm, chi phí này có thể ẩn dưới hình thức thay đổi mức giá tuỳ thuộc quan hệ
thoả thuận giữa các bên.
1.2.3. Nguồn vốn phát hành cổ phiếu.
Phát hành cổ phiếu là một kênh rất quan trọng để huy động vốn dài hàn cho
công ty một cách rộng rãi thông qua mối liên hệ với thị trường chứng khoán.
Trong các nước công nghiệp phát triển, thị trường chứng khoán là nơi hội tụ
những hoạt động tài chính sôi động nhất của nền kinh tế. Để nắm rõ những khía
cạnh chủ yếu của việc phát hành cổ phiếu, cần hiểu rõ đặc điểm của các loại cổ

phiếu khác nhau.
14
1.2.3.1.Cổ phiếu thường.
Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì các ưu điểm của nó đáp
ứng được yêu cầu của cả người đầu tư và công ty phát hành. Lượng cổ phiếu tối
đa mà công ty được cơ quan quản lý nhà nước cho phps phát hành gọi là vốn cổ
phần được phép phát hnàh. Lượng cổ phiếu đó phụ thuộc vào quy định của uỷ
ban chứng khoán nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền. Con số này cũng
được hi trong điều lệ của công ty. Muốn tăng vốn cổ phần cần phải được đại hội
cổ đông cho phép. Tuy nhiên trên thực tế, việc quản lý và kiểm soát quá trình
phát hành chứng khoán tuỳ thuộc vào chính sách cụ thể của nhà nước và uỷ ban
chứng khoán nhà nước.
Phần lớn những cổ phiếu đã phát hành nằm trong tay những nhà đầu tư.
Những cổ phiếu này được coi là đang lưu hành trên thị trường. Tuy nhiên, có thể
chính công ty phát hành mua lại một số cổ phiếu của mình và giữ nó nhằm mục
đích nhất định. Những cổ phiếu đó được coi như không lưu hành. Việc mua lại
hoặc bán ra những cổ phiếu nàyphụ thuộc và một số yếu tố như: tình hình cân
đối vốn và khả năng đầu tư, chính sách đối với việc sát nhập hoặc thôn tính, tình
hình trên thị trường chứng khoán.
• Mệnh giá và thị giá cổ phiếu
Trên thực tế, khái niệm mệnh giá và thị giá được sử dụng không chỉ đối với
cổ phiếu mà đối với cả các công cụ tài chính khac như trái phiều, thương phiếu.
Giá trị ghi trên mặt cổ phiếu gọi là mệnh giá, giá cả của cổ phiếu trên thị trường
gọi là thị giá. Trị giá của cổ phiếu được phản ánh trong sổ sách kế toán của công
ty gọi là giá trị ghi sổ của cổ phiếu. Mệnh giá không chỉ được ghi trên mặt cổ
phiếu mà còn được ghi rõ trong giấy phép phát hành và trên sổ sách kế toán của
công ty. Tuy nhiên, mệnh giá chỉ có ý nghĩa khi phát hành cổ phiếu và đối với
khoảng thời gian ngắn sau khi cổ phiếu được phát hành. Cũng giống như các
hàng hoá khác, cổ phiếu là một hàng hoá nên thị giá của nó phản ánh quan hệ
cung cầu trên thị trường đối với cổ phiếu đó, phản ánh lòng tin của nhà đầu tư

đối với hoạt động của công ty.
15
• Quyền hạn của cổ đông.
Các cổ đông nắm giữ số cổ phiếu thường chính là những người sở hữu công
ty, do đó họ có quyền trước hết đối với tài sản và sự phân chia tài sản hoặc thu
nhập của công ty. Hàng năm công ty cổ phần tổ chức cuộc họp chính thức gọi là
đại hội cổ đông. Cổ đông có quyền tham gia kiểm soát và theo dõi quản lý các
công việc của công ty thông qua cơ chế đại diện và biểu quyết. Tuy nhiên, thông
thường có một số lượng lớn cổ đông của công ty, nên mỗi cổ đông chỉ có một
quyền lục giới hạn trong việc bỏ phiếu hoặc chỉ định thành viên ban giảm đốc.
1.2.3.2.Cổ phiếu ưu đãi.
Thông thường cổ phiếu ưu đãi chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ
phiếu được phát hành. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc dùng cổ phiếu
ưu tiên là thích hợp. Cổ phiếu ưu đãi có đặc điểm là có mức cổ tực cố định.
Người chủ của cổ phiếu này có quyền được nhận tiền lãi trước các cổ đông
thường. Nếu số lãi chỉ đủ trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông
thường sẽ không nhận được cổ tức của kỳ đó. Việc giả quyết chính sách cổ tức
được nêu rõ trong điều lệ công ty. Một vấn đề quan trong càn đề cập khi phát
hành cổ phiếu ưu đãi là thuế. Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính
thuế thu nhập công ty, cổ tức lấy được từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của
cổ phiếu ưu đãi. Mặc dù vậy, cổ phiếu vẫn có những ưu điểm đối với cả công ty
phát hành và nhà đầu tư.
1.2.4. Phát hành trái phiếu công ty.
Một trong những vấn đề cần xem xét trước khi phát hành là lựa chọn loại
trái phiếu nào phù hợp nhất với điều kiện công ty và tình hình trên thị trường tài
chính. Việc lựa chọn trái phiéu thích hợp là rất quan trọng vì có liên quan đến
chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái
phiếu. Trước khi quyết định phát hành, cần hiểu rõ đặc điểm và ưu nhược điểm
của mỗi loại trái phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước, hiện nay thường
lưu hành những loại trái phiếu công ty sau:

16
1.2.4.1.Trái phiếu có lãi suất cố định.
Loại trái phiếu này được sử dụng phổ biến, cho nên khi mói đến trái phiếu
công ty người ta thường hay nhắc đến lãi suất cố định. Lãi suất được ghi ngay
trên mặt trái phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của nó. Như vậy, cả
công ty và người sở hữu trái phiếu đều biết rõ mức lãi suất của khoản nợ trong
suốt thời gian tồn tại của trái phiếu. Việc thanh toán lãi trái phiếu cũng thường
được quy định rõ.
Để huy động vốn trên thị trường bằng trái phiếu, phải tính đến mức độ hấp
dẫn của trái phiếu. Tính hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Lãi suất của trái phiếu: Đương nhiên, người đầu tư muốn được hưởng mức
lãi suất cao nhưng công ty phát hành phải cân nhắc lãi suất có thể chấp nhận
được đối với trái phiếu của họ chứ không thể trả thật cao cho nhà đầu tư. Lãi
suất của trái phiếu phải được đặt ra trong mối tương quan so sánh với lãi suất
trên thị trường vốn, đặc biệt phải tính đến sự cạnh tranh của trái phiếu các công
ty khác. Tuy nhiên công ty cũng phải tính tới khả năng xem mình có gánh được
chi phí lãi vay này hay không rồi mới quyết định được lãi suất của trái phiếu.
Trong một số trường hợp, việc đưa thêm một số yếu tố khuyến khích vào trái
phiếu thì có thể không cần nâng cao mức lãi suất.
Kỳ hạn của trái phiếu: Đây cũng là một yếu tố quan trong khi cân nhắc phát
hành trái phiếu công ty.
Uy tín của công ty cũng có ảnh hưởng đến việc phát hành trái phiếu. Mức
độ thuận lợi và tính hấp dẫn của tría phiếu công ty luôn luôn phụ thuộc vào uy
tín công ty, nhất là độ tin cậy về tài chính.
Trong việc phát hành trái phiếu công ty cũng cần chú ý đến mệnh giá của
trái phiếu. Mệnh giá cao quá làm nhà đầu tư không đủ khả năng tài chính để
mua trái phiếu, mệnh giá thấp quá sẽ không huy động được tối đa nguồn vốn
nhàn rỗi. Một trái phiếu có mệnh giá vừa phải làm nhiều người có thể mua
được, tạo sự lưu thông đẽ dàng cho trái phiếu trên thị trường.
17

1.2.4.2.Trái phiếu có lãi suất thay đổi.
Trái phiếu có lãi suất thay đổi nhưng trên thực tế loại này có lãi suất phụ
thuộc vào một số yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường quốc
tế, chẳng hạn như lãi suất LIRBOR (Longdon Interbank Offered Rate) hoặc lãi
suất cơ bản do ngân hàng Trung ương quy định. Tuy vậy, trái phiếu có lãi suấ
thay đổi không phải là loại phổ biến đối với trái phiếu. Trong điều kiện có mức
lạm phát cao và lãi suất thị trường không ổn định thì có thể khai thác tính ưu việt
của loại trái phiếu này. Tuy nhiên loại trái phiếu này cũng có một số nhược
điểm.
Thứ nhất, công ty không thể biết chắc về chi phí lãi vay của trái phiếu, điều
này gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính.
Thứ hai, việc quản lý trái phiếu đòi hỏi tốn nhiều thời gian hơn do phải theo
dõi và thông báo các lần điều chỉnh lãi suất cho người mua trái phiếu.
1.2.4.3.Trái phiếu có thể thu hồi.
Một số công ty lựa chọn cách phát hành trái phiếu có thể thu hồi, tức là công
ty có thể mua lại và một thời gian nào đó. Trái phiếu như vậy phải được quy
định ngay khi phát hành để người mau được biết. Phải quy định rõ vè thời gian
và giá cả khi công ty chuộc lại trái phiếu. Thông thường người ta quy định thời
hạn tối thiểu mà trái phiếu sẽ không bị thu hồi. Loại trái phiếu này có ưu điểm
là: thứ nhất, có thể sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn sử dụng. Khi
không cần thiết, công ty có thể mau lại trái phiếu, tức là giảm số vốn vay. Thứ
hai, công ty có thể thay trái phiếu loại này bừng một nguồn tài chính khác bằng
cách mua lại các trái phiếu đó. Tuy nhiên, nếu không có tính hấp dẫn nào đó thì
trái phiếu này không được ưa thích.
1.2.5.Nguồn vốn nội bộ
Tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ là một con đường tố vì công ty phát huy
được nguồn lực của chính mình, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều
công ty coi trọng chính sách tái đầu tư từ số lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu
phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn
ngày càng tăng. Tuy nhiên, đối với các công ty cổ phần thì việc lợi nhuận có liên

18
quan đến một số tất yếu nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong
năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia cổ phần. Các cổ
đông không được nhận cổ tức nhưng bù lại, họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần
tăng lên của công ty.
1.3.2.Phân loại huy động nguồn vốn
Doang nghiệp huy động nguồn vốn từ nhiều nguồn khác nhau, ở đây em chỉ
xin đi sâu phân tích những nguồn cơ bản và quan trọng nhất.
Thứ nhất,huy động từ vốn chủ sở hữu, do chủ sở hữu của doanh nghiệp bỏ
ra. Nguồn này bao gồm 3 loại chính
• Vốn góp ban đầu
• Vốn từ lợi nhuận để lại
• Vốn từ phát hành cổ phiếu mới
1.3.2.1.Huy động từ vốn góp ban đầu của doanh nghiệp do chủ sở hữu –
các cổ đông đóng góp. Nguồn này khác nhau tùy theo hình thức sở hữu của
doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp là DNNN, chủ sở hữu doanh nghiệp là Nhà
nước, tương tự với các loại hình doanh nghiệp khác, chủ sở hữu có thể là một cá
nhân, hay nhiều cá nhân, một tổ chức, hay nhiều tổ chức, hoặc do các bên tham
gia liên doanh góp vốn
Đây là cơ sở đầu tiên để doanh nghiệp bắt đầu hoạt động. Do vậy, thời
điểm duy nhất huy động nguồn này là khi doanh nghiệp bắt đầu sản xuất kinh
doanh.
1.3.2.2. Huy động từ lợi nhuận để lại, theo kế hoạch trích lập lợi nhuận.
Đây là một nguồn quan trọng phục vụ cho tái sản xuất mở rộng. Doanh nghiệp
càng phát triển, vai trò của nguồn vốn này càng được khẳng định. Đây là nguồn
có độ an toàn cao, hấp dẫn do doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm sự phụ
thuộc vào nguồn vốn từ bên ngoài. Chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại
thường được coi trọng vì khả năng tự đáp ứng nhu cầu vốn. Song, một điều đơn
giản nhưng quan trọng, đó là doanh nghiệp chỉ có lợi nhuận để lại khi tình hình
kinh doanh tốt, có lợi nhuận, vậy nên khi doanh nghiệp gặp khó khăn, việc huy

động nguồn này hầu như bất khả thi. Đối với những doanh nghiệp cổ phần,
19
nguồn vốn này lại có một khó khăn khác, mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp
là mang lại lợi ích tối đa cho nhà đầu tư, nên khi doanh nghiệp sử dụng nguồn
này, cũng đồng nghĩa với việc không chia hết lợi nhuận cho cổ đông, tuy về
danh nghĩa cổ đông vẫn sở hữu số vốn tăng lên của doanh nghiệp. Việc này sẽ
làm cho tỷ lệ chi trả cổ tức thấp, ảnh hưởng giảm giá cổ phiếu trong ngắn hạn.
Vấn đề này cần được dung hòa trong nội bộ doanh nghiệp, và có kế hoạch huy
động dựa trên phân tích tình hình. Đó là tình hình hoạt động của doanh nghiệp,
như số lãi ròng trong kỳ, tỷ lệ cổ tức những năm trước, tình hình thị trường
chứng khoán và độ ổn định của thị giá cổ phiếu doanh nghiệp, cùng tâm lý và
đánh giá của công chúng, và cuối cùng là hiệu quả của tái đầu tư. Doanh nghiệp
cần cân nhắc những yếu tố này trước khi sử dụng nguồn vốn này.
1.3.2.3. Huy động từ phát hành cổ phiếu mới
Đây là một nguồn huy động vốn trung và dài hạn khá phổ biến. Khi thị
trường tài chính lành mạnh và ổn định, môi trường đầu tư tốt, doanh nghiệp
hoàn toàn có khả năng huy động vốn trung và dài hạn phục vụ các kế hoạch phát
triển mở rộng doanh nghiệp bằng hoạt động tài trợ dài hạn, hay chính là phát
hành cổ phiếu mới.
Cổ phiếu có nhiều loại, dựa trên tình hình thị trường, yêu cầu của doanh
nghiệp cũng như của nhà đầu tư mà doanh nghiệp nên lựa chọn sử dụng loại cổ
phiếu phù hợp.
Cổ phiếu thường (cổ phiếu thông thường) là loại cổ phiếu có tính thanh
khoản cao, được mua bán trên thị trường chứng khoán.
Cổ phiếu ưu tiên chiếm số lượng ít, có một số đặc quyền cũng như hạn chế,
đó là được trả cổ tức cố định, song không có quyền bỏ phiếu.
Hầu hết các nước trên thế giới sử dụng công cụ giới hạn phát hành để kiểm
soát hạn chế rủi ro cho công chúng. Đây là một văn bản pháp lý quy định những
điều kiện để được phát hành cổ phiếu tăng vốn, đặc biệt cũng có thể quy định
lượng cổ phiếu được phép phát hành trong một thời kỳ nhất định.

Doanh nghiệp cũng có một biện pháp hạn chế rủi ro của việc phát hành cổ
phiếu, đó là sử dụng cổ phiếu ngân quỹ. Cổ phiếu trong ngân quỹ được mua bán
20
khi doanh nghiệp muốn đầu tư tài chính ngắn hạn, ổn định thị giá cổ phiếu của
doanh nghiệp, trong trường hợp thị trường chứng khoán khủng hoảng hay điều
chỉnh, hay trong trường hợp có sát nhập thôn tính giữa các doanh nghiệp.
Nếu thị trường tài chính an toàn, doanh nghiệp hoạt động tốt, thì phát hành
thêm cổ phiếu là một lựa chọn tốt. Đây là nguồn vốn trung và dài hạn với chi phí
phụ thuộc tình hình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp không bị sức ép trả nợ và
lãi vay.
Nhưng, nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu có một số hạn chế. Hạn chế đầu
tiên đó là phát hành thêm cổ phiếu gây ảnh hưởng quyền sở hữu doanh nghiệp,
doanh nghiệp có thể bị giảm quyền kiểm soát, thậm chí bị thôn tính. Hạn chế
thứ hai đó là việc chi trả cổ tức dựa trên lợi nhuận sau thuế, còn chi phí lãi vay
được tính trước khi tính thuế. Doanh nghiệp phải nộp thuế nhiều hơn so với đi
vay trong trường hợp hoạt động hiệu quả.
Huy động là vốn vay, vay từ nhiều nguồn khác nhau, tựu chung lại có 4
loại chính : tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại, tín dụng thuê mua, và cuối
cùng là vay bằng việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp, tín phiếu doanh
nghiệp
Huy động là tín dụng ngân hàng : Đây là một nguồn huy động vốn vô cùng
quan trọng, thậm chí có thể khẳng định một doanh nghiệp có quan hệ tốt với
ngân hàng, doanh nghiệp đó nhất định hoạt động tốt. Ngân hàng, với vai trò của
một trung gian tài chính trên thị trường, có thể cung cấp đáp ứng hầu hết các nhu
cầu về vốn của doanh nghiệp tại mọi thời điểm, từ vốn ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn. Hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc chặt chẽ với hoạt động của ngân
hàng. Doanh nghiệp có lịch sử tín dụng tốt, trả nợ đúng hạn, là một khách hàng
quen thuộc của ngân hàng, có kế hoạch sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ
tốt, thì hoàn toàn có khả năng huy động vốn từ nguồn tín dụng này. Doanh
nghiệp có thể đảm bảo khả năng thanh toán, cũng như có thể thực hiện các kế

hoạch phát triển, đều ít nhiều có sự phụ thuộc vào ngân hàng.
Song, tín dụng ngân hàng cũng có những điểm yếu của nó. Điểm yếu đầu
tiên, chính là sự phụ thuộc quá lớn vào ngân hàng. Ngân hàng có những điều
21
kiện tín dụng, những thông tin cần thiết, cơ sở bảo đảm tiền vay (tài sản thế
chấp), sự kiểm soát của ngân hàng (quyền gửi giám sát để theo dõi tình hình
doanh nghiệp, qua đó đánh giá tình trạng nợ và khả năng trả nợ). Vấn đề này rõ
ràng đã xâm phạm quyền bảo mật của doanh nghiệp, cũng như các quyền khác
như quyền quyết định Một hạn chế nữa đó là vấn đề trả nợ cả gốc và lãi là
một sức ép nặng nề lên tình hình tài chính của doanh nghiệp, dù rằng chi phí lãi
vay được trừ trước thuế, song lãi được quyết định bởi thị trường, nên có những
thời điểm lãi cao gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình tài chính của doanh
nghiệp.
Huy động từ tín dụng thương mại. Loại tín dụng này rất phổ biến giữa các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, đó là các quan hệ mua bán chịu, trả
chậm hay trả góp. Nguồn tín dụng này có ảnh hưởng không nhỏ với hoạt động
của doanh nghiệp, có thể chiếm tới 20-40% tỷ lệ nguồn vốn. Nguyên nhân của
việc chiếm tỷ lệ cao, đó là do tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ
khá rẻ, tiện dụng và linh hoạt. Bởi trên thực tế, có rất ít doanh nghiệp có thể lập
tức trả tiền mua hàng. Như vậy, bằng tín dụng thuê mua, doanh nghiệp có thể
mở rộng quan hệ với bạn hàng một cách chặt chẽ, tin cậy lẫn nhau. Chi phí của
khoản vay này thường thấp, trong ngắn hạn, và được tính vào giá thành.
Loại tín dụng này cũng có một nhược điểm cần chú ý. Đó là khi quy mô tài
trợ của loại tín dụng này chiếm tỷ lệ lớn trong nguồn vốn, đó là khi mức độ rủi
ro đã lên tới mức khó kiểm soát. Do vậy khi doanh nghiệp sử dụng nguồn này,
doanh nghiệp cần chú ý vấn đề cơ cấu nguồn vốn cho hợp lý, đảm bảo quản lý
tốt rủi ro.
Loại tiếp theo trong các hoạt động huy động của doanh nghiệp, đó là tín
dụng thuê mua. Các công ty tài chính cung cấp dịch vụ thuê mua như một kênh
cung cấp vốn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp tạo vốn bằng việc thuê mua các

thiết bị, cơ sở vật chất cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Khi doanh nghiệp khó khăn về tài chính, doanh nghiệp có thể bán lại tài
sản, rồi sau đó thuê tài sản đó, hết hạn hợp đồng có thể mua lại hoặc không.
22
Loại tín dụng này có ưu điểm là mang lại một kênh huy động vốn, cung cấp
cho doanh nghiệp nhiều công cụ hơn. Trong nền kinh tế chưa phát triển, công cụ
này dễ thực hiện hơn, khá linh hoạt. Nó thích hợp với các doanh nghiệp nhỏ khó
thu hút vốn, không cần tài sản bảo lãnh, không làm tăng hệ số nợ của doanh
nghiệp. Nhược điểm của loại tín dụng này cũng giống tín dụng thương mại, và
tín dụng ngân hàng. Sức ép trả phí thuê, thường là rất đắt, ảnh hưởng không nhỏ
đến lợi nhuận doanh nghiệp
Hoạt động huy động cuối cùng, còn khá mới mẻ, đó là vay bằng phát hành
trái phiếu doanh nghiệp, tín phiếu doanh nghiệp.
Trái phiếu là một phiếu vay nợ dài hạn thường với một lãi suất cố định (trừ
trái phiếu biến đổi), rất phù hợp khi doanh nghiệp muốn huy động vốn dài hạn,
có kế hoạch chi tiết kinh doanh và trả nợ. Tín phiếu ít sử dụng hơn, là phiếu vay
nợ ngắn hạn.
Trái phiếu có nhiều loại, khác nhau về chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả
năng lưu hành và tính hấp dẫn. Bao gồm Trái phiếu có lãi suất cố định, Trái
phiếu có lãi suất biến đổi, trái phiếu có thể thu hồi và trái phiếu chuyển đổi
Trái phiếu thường được sử dụng đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ,
uy tín chưa có, vốn ít. Doanh nghiệp khó tiếp cận những nguồn vốn khác như
phát hành cổ phiếu hay tín dụng ngân hàng thì có thể dùng công cụ này để thu
hút vốn dài hạn sản xuất kinh doanh.
Công cụ này nhiều ưu điểm, giúp các doanh nghiệp huy động vốn, tăng
lượng hàng hóa trên thị trường chứng khoán, nó có tính linh hoạt tương đối, khả
năng thanh khoản cao. Trái phiếu chuyển đổi là một sự lựa chọn tốt khi doanh
nghiệp đang tiến hành cổ phần hóa.Phát hành trái phiếu giúp doanh nghiệp sử
dụng một nguồn vốn dài hạn ổn định, do nguồn vốn vay ngân hàng bị có thể bị
hạn chế bởi nhiều lý do. Doanh nghiệp cũng không cần lo ngại khả năng bị thao

túng do phát hành cổ phiếu, và chi phí thì đã được tính trước.
Song tín dụng bằng trái phiếu cũng mắc một số nhược điểm như tín dụng
ngân hàng, đó là sức ép trả nợ gốc và lãi, đặc biệt khi lãi trái phiếu thường cao
hơn để cạnh tranh với các loại chứng khoán khác như trái phiếu Chính phủ.
23
Như vậy, các nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp khá phong phú, công
việc còn lại là sử dụng công cụ nào cho hợp lý và hiệu quả, xây dựng cơ cấu vốn
tối ưu. Công việc này cơ bản sẽ được giải quyết trong phần sau.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động nguồn vốn của doanh nghiệp
1.3.1.Nhóm nhân tố chủ quan
1.3.1.1.Các hình thức huy động
Để thực hiện tốt công tác huy động nguồn vốn,các Doanh nghiệp thường
đưa ra nhiều hình thức huy động vốn đa dạng. Khối lượng vốn mà Doanh nghiệp
huy động được phụ thuộc trực tiếp vào các hình thức huy động vốn mà doanh
nghiệp áp dụng. Khi áp dụng nhiều hình thức huy động vốn sẽ tạo những cơ hội
để tìm kiếm được những nguồn vốn có chi phí huy động thấp.Mỗi Doanh nghiệp
đều tìm cho mình những hình thức huy động vốn phù hợp với điều kiện kinh tế
xã hội, tâm lý NHTM,tổ chức tín dụng vùng mà doanh nghiệp đặt địa điểm,
đồng thời phù hợp với yêu cầu sử dụng cũng như dễ dàng quản lý có hiệu quả
nguồn vốn của mình. Khi hình thức huy động vốn đa dạng nghĩa là số lượng vốn
huy động được tăng lên và chi phí huy động có xu hướng giảm xuống.
1.3.1.2.Uy tín của doanh nghiệp
Trên thực tế, mỗi doanh nghiệp đã, đang và sẽ tạo được một hình ảnh riêng
của mình trong lòng NHTM,tổ chức tín dụng,tổ chức và cá nhân. Một Doanh
nghiệp lớn, sẵn có uy tín sẽ có lợi thế hơn trong hoạt động huy động nguồn vốn.
Sự tin tưởng của NHTM,tổ chức tín dụng sẽ giúp doanh nghiệp có khả năng ổn
định khối lượng nguồn vốn huy động và tiết kiệm chi phí huy động. Từ đó
doanh nghiệp có thể đề ra chiến lược hoạt động dễ dàng hơn.
1.3.1.3.Chiến lược hoạt động của doanh nghiệp
Trong một doanh nghiệp hoạt động huy động nguồn vốn chịu tác động trực

tiếp từ các hoạt động về sử dụng nguồn vốn huy động được đó . Mỗi doanh
nghiệp đều có một chiến lược hoạt động riêng theo từng thời kỳ, tuỳ thuộc vào
đặc điểm hoạt động của bản thân doanh nghiệp và điều kiện môi trường hoạt
động . Từ đó doanh nghiệp có thể đưa ra chiến lược huy động vốn là thu hẹp hay
mở rộng cho phù hợp với chính sách thu hẹp hay mở rộng nguồn vốn của doanh
24
nghiệp trong thời kỳ đó. Cơ cấu nguồn vốn có thể thay đổi về tỷ lệ các khoản
mục cấu thành, chi phí huy động có thể tăng hay giảm. Nếu chiến lược hoạt
động được xây dựng đúng đắn phù hợp với điều kiện bản thân doanh nghiệp, các
nguồn vốn được khai thác tối đa và hợp lý thì công tác huy động vốn phát huy
hiệu quả.
1.3.2.Nhóm nhân tố khách quan
1.3.2.1. Tình hình chính trị trong nước, chủ trương của nhà nước
Sự ổn định về chính trị, sự nhất quán trong chủ trương đường lối chính sách
của Nhà nước luôn là yếu tố tạo mối trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn với các
nhà đầu tư và doanh nghiệp trong và ngoài nước. Một xã hội ổn định về chính
trị, hệ thống pháp luật chặt chẽ, không chồng chéo lên nhau thì doanh nghiệp
được đảm bảo an toàn về đầu tư, quyền sở hữu tài sản, mức độ yên tâm của nhà
đầu tư được củng cố thông qua việc đánh giá các yếu tố rủi ro chính trị. Ngoài ra
còn có một số yếu tố quan trọng trong môi trường chính trị như xu thế chính trị,
là định hướng của nhà nước sẽ áp dụng trọng việc điều hành quốc gia. Đặc biệt
là đối với các doanh nghiệp nhà nước, hoạt động chủ yếu theo các định hướng
và chính sách của nhà nước, sự ổn định của chính trị đảm bảo các nguồn vốn của
ngân sách nhà nước được huy động và sử dụng một phần cho các DNNN hoạt
động sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển.
Nổi bật nhất trong các chủ trương của nhà nước ta trong nhưng năm vừa
qua là chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm huy động và đa
dạng hoá vốn chủ sở hữu. Quá trình cổ phần hóa không những huy động được
nguồn vốn không nhỏ cho doanh nghiệp nhà nước mà còn tạo động lực cho các
doanh nghiệp nhà nước trước đây vốn bị coi là chậm chạp trong đổi mới phương

thức kinh doanh và phương pháp quản lý, nay với sự tham gia của tư nhân đã
chủ động hơn trong sử dụng vốn. Cổ phần hóa giúp các DNNN tự quản lý kinh
doanh, tự chủ về tài chính và lợi nhuân nên thúc đẩy các doanh nghiệp năng
động hơn trong sản xuất.
25

×