Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

khảo sát tình hình nhiễm vi nấm malassezia.spp ở một số bệnh da thường gặp tại bệnh viện da liễu tw

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.11 KB, 71 trang )

BỘ Y TẾ
BỆNH VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNG
===========
ĐỂ CƯƠNG

Kh¶o s¸t t×nh h×nh nhiÔm vi nÊm
Malassezia.spp
ë mét sè bÖnh da thêng gÆp t¹i bÖnh viÖn Da liÔu TW
Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Thị Xuân
Thư ký đề tài: Trần Cẩm Vân

Nhóm thực hiện: Th.s Trần Mẫn Chu
Th.s Nguyễn Minh Thu
Cố vấn chuyên môn: PGS.TS. Trần Hậu Khang
PGS.TS. Trần Lan Anh
HÀ NỘI - 2012
1
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BN : Bệnh nhân
HIV/AIDS : Human Immuno Deficiency virus/Acquired Immuno
Deficiency Syndrom
ICD : Internationnal Classification of Diseases
LB : Lang ben
M. dermatitis : Malassezia dermatitis
M. furfur : Malassezia furfur
M. globosa : Malassezia globosa
M. obtusa : Malassezia obtusa
M.pachydermatis : Malassezia pachydermatis
M.sympodialis : Malassezia sympodialis
Malassezia. Spp : Malassezia species plus
P. orbiculair : Pityrosporum orbiculair


P. oval : Pityrosporum oval
PCR : Polymerase Chain Reaction
TB : Tế bào
TW : Trung ương
VDCĐ : Viêm da cơ địa
VDD : Viêm da dầu
VT : Vi trường
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm nấm là một trong những bệnh khá phổ biến trên thế giới. Nấm
tồn tại ở khắp mọi nơi: môi trường đất, nước, không khí, ở thực vật, động
vật và trên cả cơ thể người. Khi gặp điều kiện thuận lợi như nóng ẩm, sang
chấn, sức đề kháng suy giảm…nấm sẽ phát triển và gây bệnh. Bệnh do nấm
gây ra gặp nhiều ở các nước nhiệt đới và ôn đới. Bệnh có thể gặp ở cả
người lớn và trẻ em [1],[2].
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa có nhiệt độ và độ ẩm cao
là điều kiện thuận lợi cho vi nấm phát triển và dễ dàng gây nhiễm nấm ở
người. Những năm gần đây, tỷ lệ nhiễm nấm thông thường do ý thức kém và
điều kiện vệ sinh thiếu thốn đã giảm nhiều. Tuy nhiên, do sự xuất hiện đại
dịch HIV/AIDS cùng với việc ứng dụng những thành tựu mới của y học hiện
đại như: Ghép tạng, dùng thuốc ức chế miễn dịch, hoá trị, xạ trị điều trị ung
thư, sử dụng kháng sinh hoạt phổ rộng, corticoid kéo dài, các bệnh rối loạn
chuyển hoá Thực tế nghiên cứu cho thấy tỷ lệ nhiễm nấm da trong các bệnh
ngoài da trong cộng đồng chiếm tỷ lệ khá cao. Ở Đông Nam Á bệnh da do
nấm chiếm 40-60% tổng số bệnh da [3]. Ở Việt Nam, bệnh nấm da đứng hàng
thứ 2 trong các bệnh da sau chàm [4]. Trong đó, nhóm nấm men gây bệnh ở
da chiếm tỷ lệ khá cao, đặc biệt trong thời gian gần đây người ta đề cập nhiều
đến chủng nấm men Malassezia ssp.
Tại bệnh viện Da liễu TW số bệnh nhân đến khám và làm xét nghiệm
tìm nấm rất đông và đa dạng. Trong đó, vi nấm Malassezia ssp gây bệnh

ngoài da chiếm tỷ lệ khá cao. Malassezia có rất nhiều loài, mỗi loài có độc
tính khác nhau nên khả năng gây bệnh khác nhau vì vậy lâm sàng cũng rất đa
dạng. Bệnh biểu hiện các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu như: Ngứa, đỏ
da, bong vẩy,…Thương tổn có thể gặp bất kỳ vùng nào trên cơ thể nhưng
3
thông thường khu trú vùng tiết nhiều bã nhờn như: da đầu, lưng, ngực, mặt.
Ngoài ra, có thể gặp ở nếp kẽ, nang lông, vùng móng…thậm chí vi nấm xâm
nhập các cơ quan, bộ phận gây nhiễm nấm nội tạng, nhiễm nấm huyết…
Nhiều khi Malassezia.ssp là căn nguyên gây bệnh, nhưng đôi khi chỉ phối hợp
làm nặng thêm tình trạng bệnh. Do đó, những trường hợp điển hình thường
thuận lợi cho chẩn đoán. Còn những trường hợp không điển hình, nếu thiếu
điều kiện xét nghiệm dễ dẫn đến chẩn đoán nhầm hoặc bỏ qua. Bệnh da do
nhiễm Malassezia.spp không tử vong, nhưng gây nhiều phiền toái ảnh hưởng
đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, đặc biệt nếu không điều trị đúng và
kịp thời sẽ diễn biến dai dẳng, tiến triển nặng nề. Ở Việt Nam còn rất ít
nghiên cứu đầy đủ và hệ thống về đặc tính vi nấm, đặc điểm lâm sàng các
bệnh biểu hiện ngoài da do nấm Malassezia.spp gây nên. Chính vì lý do trên
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với hai mục tiêu:
1. Khảo sát tình hình nhiễm nấm Malassezia spp ở bệnh lang ben,
viêm da dầu và viêm da cơ địa tại Bệnh viện Da liễu TW năm 2012.
2. Đánh giá mức độ nhiễm Malassezia spp ở một số bệnh da bằng kỹ
thuật KOH kết hợp Parker ink.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Lịch sử vi nấm Malassezia
Bệnh nấm da nói chung mô tả rất sớm trong lịch sử loài người. Năm
1800, Gruby đã nuôi cấy nấm gây bệnh thực nghiệm trên vùng da ẩm ướt.
Năm 1910, Sabouraud là người đầu tiên đưa ra bảng định danh các loài nấm,
đặc điểm lâm sàng và phương pháp điều trị bệnh nấm. Với công sức này ông

được coi là cha đẻ ngành nấm y học hiện đại [14]. Nấm gây bênh trên bề mặt
da rất phổ biến vì chúng có mặt ở khắp nơi và rất dễ lây nhiễm đặc biệt ở các
nước khí hậu nóng ẩm nhiệt đới như nước ta. Bệnh có thể gây ra bởi các
chủng Dermatophyte, Candida, Malassezia, Trichosporon Trong đó, bệnh
do nấm Malassezia nói riêng cũng đã được mô tả từ lâu trong y văn thế giới.
Đầu những năm 50 của thế ký 18, Robin phát hiện một loại nấm ở thương tổn
vẩy da bệnh nhân lang ben đặt tên Malassezia furfur. Cũng trong thời gian đó,
Raymond Sabouraud đã xác định vi sinh vật gây hiện tương gầu da đầu cũng
có tên gọi là: Pityrosporum. Nhưng mãi đến giữa thế kỷ 20 một số nhà khoa
học tìm được 3 loài nấm là: P. oval, P.orbiculair, P.pachydermatis. Trong đó,
có hai loài nấm men ưa lipid gây bệnh ở người là P.oval & P.orbiculair.
Ngoại trừ một loài không ưa Lipid thường gây bệnh cho động vật đó là
P.pachydermatis [15]. Còn Louis - Charler lại mô tả vi nấm này dưới tên gọi
Malassezia. Ban đầu một số nhà khoa học cho rằng hình thái Malassezia là
tồn tại dưới dạng sợi nấm, còn Pityrosporum là hình thái nấm men. Nhưng
sau đó không lâu Sabouraud khẳng định rằng thực chất đó chỉ là sự phân
chia biến đổi trong vòng đời của nấm men và tác giả đã ghi nhận vai trò nấm
gây bệnh của vi nấm ở một số bệnh như: Lang ben, viêm da dầu, viêm nang
lông, viêm da cơ địa Năm 1995-1996, thành tựu khoa học công nghệ phát
5
triển nhanh chóng đã ứng dụng thành công trong việc giải mã trình tự bộ
gen của vi nấm này và tìm được 7 loài Malassezia.spp [16]. Năm 2004 các
nhà khoa học Nhật Bản tiếp tục tìm ra thêm 4 loài mới nữa. Hiện nay số
loài Malassezia có khoảng hơn 11 loài: M. globosa, M. restricta, M.
sympodialis, M. furfur, M. obtusa, M. slooffiae, M. pachydermatis, M.
japonica, M. nana, M. dermatis and M. yamatoensis [17]. Các nhà khoa học
tiết lộ tìm thêm 3 loài mới và đang tiếp tục tìm một số loài khác sẽ công bố
trong thời gian gần đây [20]. Từ đó, các nhà khoa học đã thống nhất dưới
tên gọi vi nấm là Malassezia.spp [18],[19].
Gần đây trên thưc tế tại bệnh viện Da liễu TW số bệnh nhân đến khám

cũng như làm xét nghiệm tìm nấm rất đông và đa dạng. Trong đó, vi nấm
Malassezia.spp bội nhiễm trên một số bệnh da thông thường chiếm tỷ lệ khá
cao. Theo ICD những bệnh da thông thường gồm rất nhiều bệnh nhưng trong
khuân khổ nghiên cứu này chúng tôi chỉ đề cập những bệnh da thường gặp
liên quan đến Malassezia.spp như: Lang ben, viêm da dầu, viêm da cơ địa.
1.2. Đặc điểm Malassezia.spp
Trước đây, Malassezia được biết đến như một vi nấm men thuộc hệ vi sinh
vật bình thường trên da người và cả ở động vật. Và bấy lâu nay người ta vẫn
cho rằng Malassezia không phải tác nhân gây bệnh cho dù là căn nguyên tiên
phát hay bội nhiễm thứ phá bởi con người đã cố chứng minh rằng họ vẫn
thích nghi và kiểm soát được loài vi nấm ký sinh này.
Nhưng vài thập kỷ gần đây rất nhiều nghiên cứu khác nhau ở nhiều nơi
trên thế giới đã cho biết vi nấm này được chú ý rất nhiều trong cơ chế bệnh
sinh của một số bệnh da thường gặp như: Viêm da cơ địa, viêm da dầu, gầu
da đầu [19], [20], [22], [23]
6
Malassezia là nấm men ưa lipid, đa phần các loài gây bệnh cho người
như: M.globosa, M. furfur, M. dermatits, M.sympothealis Chúng thường
biểu hiện ở mọi lúa tuổi và trong rất nhiều bệnh lý với nhiều vị trí khác nhau
nhưng chủ yếu là độ tuổi thanh niên có liên quan vùng da mỡ. Ngoài ra, một
số loài khác gây bệnh móng và cơ quan, hệ thống. Bên cạnh đó, một số loài
gây bệnh động vật như: M.pachydermatis. Nhưng đôi khi cũng gây bệnh cho
người trong một số trường hơp suy giảm miễn dịch , có thể biểu hiện tình
trạng bệnh cảnh lâm sàng nặng nề, nguy kịch.
Malassezia spp có cấu tạo đơn bào và sinh sản hình thức nảy chồi. Tuy
nhiên, một số loài có cấu tạo đa bào như: M.globosa, loài này có phương thức
sinh sản hữu tính tức do đó chúng thích nghi, sinh sản và phát triển hàng loạt.
Đồng thời di truyền những đặc tính về khả năng thích nghi và đề kháng với
những yếu tố có tính chất đào thải nấm trong chính mỗi cá thể hoặc từ môi
trường tự nhiên qua nhiều thế hệ. Do đó, loài M.globosa mang tính chọn lọc

tự nhiên rất cao hơn nữa loài nấm này tồn tại ở vi hệ rất nhiều và là căn
nguyên gây bệnh chủ yếu [18],[21],[22].
Nấm Malassezia.spp thuộc vi hệ trên da của người và động vật máu
nóng. Nhiều nghiên cứu cho thấy có khoảng 70-90% vi nấm Malassezia.spp
có mặt trên da người khỏe mạnh [17],[22]. Tuy nhiên,vi nấm tồn tại ở vi hệ
không bền vững nhiều khi cũng thay đổi. Ngay từ khi mới sinh, vi nấm đã
xuất hiện và có mặt ở nhiều vị trí trên cơ thể. Nhưng đa phần chúng phát
triển nhiều ở tuổi vị thành niên, bởi lứa tuổi này tuyến bã hoạt động mạnh
nên chế tiết nhiều chất bã… Bên cạnh đó, vi nấm cũng có thể đồng nhiễm
với một số vi khuẩn và vi nấm khác cũng thuộc vi hệ gây bệnh cơ hội. Do
đó, chúng có thể là căn nguyên gây bệnh hoặc bội nhiễm thứ phát làm nặng
thêm tình trạng bệnh. Ngoài ra, chúng còn gây bệnh cơ hội khi có điều kiện
thuận lợi [18], [19],[23].
7
1.3. Cơ chế gây bệnh
Hầu hết các loại nấm thường sống hoại sinh, chúng phát triển ở thực vật
hoặc trong đất, ít khi thích ứng trên cơ thể người. Do đó, người khỏe mạnh ít
khi bị mắc bệnh nấm. [24], [25],[15].
Sự xâm nhập diễn ra khi một bào tử nấm nhiễm vào cơ thể ở trạng thái
nghỉ không hoạt động, sau đó chuyển hóa trong cơ thể vật chủ, nẩy mầm và
sinh sản rồi xâm nhập vào mô. Mỗi hình thái nấm như: Sợi nấm, bào tử nấm
hoặc tế bào nấm men có tính kháng nguyên đặc trưng khác nhau. Do đó, khi
xâm nhập vào cơ thể nấm gây ra sự đáp ứng miễn dịch với cơ thể vật chủ và
sẽ có hai cơ chế bảo vệ: Miễn dịch dịch thể và miễn dịch qua trung gian tế
bào [26].
Trong quá trình trao đổi chất vì lý do nào đó è thiếu hụt gen mã hóa
Enzym tổng hợp axit béoè vi nấm không tự tổng hợp axit béo è sử dụng
nguồn axit béo từ bên ngoài.
- Xu hướng tìm vùng giàu chất bã nhờn: da đầu, mặt, lưng, ngực…
Malassezia.spp tiết 8 loại Lipase và 3 loại Photpholipase

è
Thủy phân
axit béo trung tính
è
axit béo tự do
è
phản ứng trung gian tế bào
è
kích
hoạt con đường gây viêm [18]
- Khả năng né tránh và chống lại quá trình thực bào do:
+ Lớp lipid dày bao quanh tế bào nấm
+ Tính đa kháng nguyên và thay đổi thành phần tế bào.
1.4. Một số yếu tố thuận lợi
Bệnh do nấm Malassezia thường có nguồn gốc nội sinh do các loài
Malassezia phát triển quá mức gây bệnh, đặc biệt khi có điều kiện thuận lợi
[27],[28],[29],[15]
8
Các yếu tố thuận lợi hay gặp là:
* Yếu tố bên trong:
- Sinh lý: phụ nữ có thai, trẻ sơ sinh
- Bệnh lý toàn thân: Nhiễm trùng cấp và mạn tính, bệnh chuyển hóa, béo
phì…Các bệnh lý như bỏng, ung thư, Hodking, nhiễm HIV/AIDS…
- Bệnh lý tại chỗ làm thay đổi tính chất da: VDCD, VDD, Bạch biến…
- Sử dụng hóa chất: Dùng kháng sinh phổ rộng, kéo dài làm thay đổi sự
cân bằng vi hệ…
* Yếu tố bên ngoài:
- Người già sức đề kháng suy giảm
- Loét do bỏng
- Điều kiện vệ sinh kém, không ý thức bệnh tật hoặc thiếu kiến thức

- Môi trường vi khí hậu thay đổi…
- Ngoài ra, thói quen dùng dầu dưỡng tóc, kem chống nắng, môi trường
nóng ẩm… là yếu tố thuận lợi cho Malassezia ssp phát triển và gây bệnh.
1.5. Tình hình nhiễm vi nấm Malassezia ssp
1.5.1. Trên thế giới
Nhiều nghiên cứu chứng minh: các loài Malassezia đóng vai trò rất
quan trọng trong căn nguyên sinh bệnh của: lang ben, viêm da tiết bã, viêm
da cơ địa, viêm nang lông… [20],[30],[31]
Nhiễm vi nấm Malassezia có thể gặp ở mọi lứa tuổi ở các vùng địa lý và
khí hậu khác nhau. Trong các báo cáo ở vùng Mexico, Trung và Nam Mỹ gặp
tỷ lệ bệnh lang ben do Malassezia là 50%. Ở Thái Lan tỷ lệ bệnh lang ben
chiếm 4% trong tổng số bệnh nhân khám Da liễu tại bệnh viện Ramathibodi.
Một nghiên cứu ở bệnh viện nhi khoa Sal-PaoLo (Brasil) cho biết tỷ lệ trẻ
9
nhiễm Malassezia.spp chiếm 23% (độ tuổi 0-18 tháng tuổi), 28% ( 11-15
tuổi). Tại Tây Ban Nha, Martinez - Roig và cộng sự nghiên cứu trên 1000
bệnh nhi ở độ tuổi từ 2 tháng đến 7 tuổi thấy tỷ lệ nhiễm Malassezia chiếm
khoảng 34,5% trong số bệnh da. Nghiên cứu tại Thụy Sỹ cho biết tỷ lệ nhiễm
Malassezia chiếm 87% ở nhóm trẻ em độ tuổi 2 tháng đến 15 tuổi. Nhưng
cũng có một nghiên cứu ở Israell lại kết luận là không tìm thấy vi nấm
Malassezia ở nhóm trẻ em độ tuổi 2 tháng đến 15 tuổi [32]
Tuỳ theo số liệu nghiên cứu của từng tác giả cho thấy viêm da dầu chiếm
khoảng 1-5% dân số [33], [22]. Tajima và cộng sự (2008) nghiên cứu trên 31
bệnh nhân VDD cho thấy ở 93,5% vùng da bị tổn thương có Malassezia và
cao gấp 3 lần so với ở vùng da lành 61,3%. Ở người nhiễm HIV/AIDS, tỷ
lệ mắc bệnh viêm da dầu rất cao. Theo Betty Anne Johnson tỷ lệ này là
85% [35]. Cũng theo nghiên cứu này cho biết ở những bệnh nhân suy giảm
miễn dịch bệnh thường nặng, dai dẳng và kém đáp ứng với các phương
pháp điều trị thông thường.
Gần đây các nhà khoa học phát hiện ra rằng M. globosa là nguyên

nhân của hầu hết các trường hợp của gàu. Nhiều nghiên cứu chứng minh
gầu da đầu không chỉ ảnh hưởng tới người bệnh ở góc độ bệnh lý như bong
vẩy gầu nhiều, ngứa ngáy, khó chịu mà còn ảnh hưởng tâm lý, không tự tin
trong giao tiếp sinh hoạt, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. [20]
Viêm da cơ địa là bệnh mạn tính có liên quan yếu tố di truyền. Thông
thường điều trị bằng corticoid, điều biến miễn dịch và dưỡng ẩm nhiều khi
không đáp ứng. Đặc biệt khi tình trạng da khô và chức năng da suy yếu là
điều kiện thuận lợi kích hoạt quá trình dị ứng bởi các vi sinh vật, bọ ve, bụi
nhà…Trong đó, phải kể đến vai trò vi sinh vật gây bệnh là một yếu tố quan
trọng làm trầm trọng hơn tình trạng bệnh.
10
Một nghiên cứu chỉ ra rằng có hơn 90% VDCĐ vùng đầu và cổ có hàm
là lượng kháng thể IgE trong huyết thanh kháng lại kháng nguyên của
Malassezia. Trong đó có khoảng 83% VDCĐ ở người lớn liên quan đến
Malassezia [22]. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng chính việc lạm dụng thuốc điều
trị taị chỗ Corticoit cũng như các chất dưỡng ẩm và kết hợp một số yếu tố
liên quan khác đã vô hình chung tạo môi trường thuận lợi cho sự gia tăng số
lượng cũng như sự sinh sản và phát triển của vi nấm Malassezia.
Một báo cáo năm 2008 tại Trung Quốc cho thấy có khoảng 1,5% các
bệnh nhân Da liễu đã được chẩn đoán viêm nang lông do vi nấm Malassezia.
Trong số đó, hầu hết họ đều là nam giới khỏe mạnh và đang ở độ tuổi trung
niên [36]. Một nghiên cứu khác ở Philippines cho biết có khoảng 16% bệnh
nhân viêm nang lông do Malassezia trong tổng số bệnh lý nang lông [37].
Từ tháng 7 năm 1996 đến tháng 12 năm 1999, một nghiên cứu trên 588
bệnh nhân có thương tổn móng tay với chẩn đoán nấm móng tại các Phòng
khám Da liễu và vi khuẩn học EPM \ UNIFESP, Brazil. Cùng thời gian đó ở
Chile, V.Silva cũng có báo cáo về các trường hợp nhiễm nấm móng do
Malassezia spp. Bên cạnh đó, bằng các xét nghiệm soi tươi, nuôi cấy định loại
và sinh học phân tử, một số nghiên cứu đã khẳng định M.furfur là căn nguyên
gây nấm móng [26],[38],[39].

Ngoài ra vi nấm Malassezia còn gây viêm tai giữa, nấm móng, đôi khi
phối hợp với các viêm nhiễm do virus ở dạng u nhú. Có nhiều báo cáo về tình
trạng nhiễm Malassezia spp ở máu ngoại vi và nội tạng; năm 1996 tại Iran
báo cáo trường hợp nhiễm Malassezia spp trong máu trẻ sơ sinh khi đang
truyền máu [40]. Năm 1987, Gueaho E và cộng sự đã báo cáo trường hợp
nhiễm nấm hệ thống do một loài vi nấm rất đặc biệt thường gây bệnh cho
động vật có tên là Malassezia pachydermatis gây nên. [20]
11
1.5.2. Việt Nam
Việt Nam là nước có nguy cơ mắc các bệnh do nấm rất cao. Bởi nơi đây
có những điều kiện thuận lợi: đặc điểm tự nhiên, địa lý nằm trong vùng nhiệt
đới gió mùa nên có nhiệt độ và độ ẩm cao. Bên cạnh đó, ý thức kém trong
việc thực hiện đúng nguyên tắc vệ sinh và phòng bệnh. Ngoài ra, việc sử
dụng thuốc một cách bừa bãi và thiếu kiểm soát, kèm theo một số bệnh lý
gây suy giảm miễn dịch như: nhiễm HIV/AIDS, ung thư, nhóm bệnh
chuyển hóa… [24], [27].
Một số nghiên cứu liên quan đến biểu hiện bệnh da do Malassezia tại
Việt Nam; theo số liệu Trần Lan Anh điều tra ở một xã thuộc ngoại thành Hà
Nội thì Lang ben chiếm 3,1% trong số 513 người được khám [41]. Nghiên
cứu của Lê Anh Tuấn năm 2006 cho thấy viêm da dầu chiếm 1,5% số bệnh
nhân đến khám tại Bệnh viện Da liễu TW [42]. Nghiên cứu của Hoàng Thị
Phượng năm 2009 khoảng 2,13% [33]. Tại một phòng khám ở Việt Nam ghi
nhận có khoảng 16% bệnh nhân nhiễm vi nấm Malassezia ở nang lông. Ngoài
ra, sự tham gia của vi nấm Malassezia ssp vào quá trình gây bệnh trứng cá đã
được Lê Kinh Duệ đề cập đến. Nhưng theo tác giả này nhận định vai trò của
vi nấm là rất nhỏ so với vi khuẩn Propioni bacterium acnes trong sinh bệnh
học của trứng cá [9].
1.6. Một số biểu hiện bênh lý do nhiễm nấm Malassezia.ssp
1.6.1. Lang ben
Lang ben ( Pityriasis Versicolor - PV) là một bệnh mạn tính của lớp

sừng, gây ra bởi một nhóm nấm men trước đây có tên là Pityrosporium, nay
thống nhất dưới tên gọi là Malassezia.spp.
Bệnh gặp bất kỳ tuổi nào nhưng thông thường từ 20 – 45 tuổi, còn trẻ
em và người già ít bị. Có một số quan điểm khác nhau về bệnh lang ben có
12
lây hay không? Theo Eduado Silva bình thường bệnh không lây vì nó thuộc vi
hệ. Nhưng dưới ảnh hưởng một số yếu tố thuận lợi: khí hậu nóng ẩm, tính
chất da thay đổi, sức đề kháng suy giảm…tạo điều kiện vi nấm tăng sinh và
gây bệnh [43]. Nhưng Jose Latoni thì cho rằng bệnh có thể lây do dùng chung
ga giường, quần áo.
● Chẩn đoán của lang ben nói chung là đơn giản
- Triệu chứng lâm sàng điển hình: Đó là đám màu hồng nâu, hình tròn,
ranh giới rõ, đôi khi là những đám thuơng tổn mất sắc tố. Thường khu trú
vùng cổ, ngực, lưng, vai, cánh tay. Hiếm khi ở cẳng tay, chân cũng như lòng
bàn tay và bàn chân [44].
- Xét nghiệm: Kết quả soi trực tiếp cho hình ảnh điển hình sợi và tế bào
nấm men hay gọi là “mì ống và thịt viên”. Ngoài ra, còn quan sát tế bào nấm
men đứng đám hoặc rải rác. Năm 2000, F.Sanchez F nhận ra rằng căn nguyên
gây lang ben là M.globosa [45]. Trong đó, M.globosa chiếm khoảng 53,3%,
tiếp theo M. furfur 25,3%, M. sympodialis 9,3% Bên cạnh đó, Gupta et al
cũng tìm thấy M. sympodialis là tác nhân chủ yếu trong lang ben đối với vùng
khí hậu ôn đới, còn M. globosa là tác nhân chính ở các vùng nhiệt đới. Khi
tiến hành phân tích bộ gen của Malassezia đã khẳng định: M. globosa là loài
gây bệnh phổ biến nhất trong bệnh lang ben [22]
1.6.2.Viêm da dầu
Viêm da dầu (Seborrheic Dermatitis - SD) là bệnh da mạn tính thường
gặp. Bệnh chủ yếu ở trẻ sơ sinh, tuổi dậy thì và độ tuổi ngoài 50, nam gặp
nhiều hơn nữ [42]. Tác nhân gây bệnh viêm da dầu còn đang tiếp tục được
làm rõ, tuy nhiên nhiều nghiên cứu cho thấy viêm da dầu thường xảy ra trên
cơ địa những người tăng tiết chất nhờn kết hợp nhiễm nấm Malassezia ssp

[23], [46]. Theo Parry và Sharpe, Malassezia có thể gây phản ứng viêm do
13
sản xuất ra các chất gây độc trong một số trường hợp đặc biệt [29]. Các chất
gây độc này được các nhà nghiên cứu đặt tên là các chất hóa ứng động bạch
cầu giống như lipid (lipid-like leukocyte activator – LILA). Và điều này giải
thích vì sao tiến triển của VDD thường không dự đoán trước được. Ngoài đáp
ứng viêm do LILA, các acid béo kích ứng và acid arachidonic do Malassezia
sản xuất ra cũng góp phần gây phản ứng viêm ở bệnh nhân VDD.
Các nghiên cứu về Malassezia ở bệnh nhân VDD đều cho thấy vai trò
đặc biệt của nấm men trong cơ chế bệnh sinh của VDD. Bằng chứng các
nghiên cứu thấy rằng, điều trị VDD bằng thuốc chống nấm làm giảm số lượng
Malassezia do đó làm cải thiện các triệu chứng lâm sàng của bệnh [30], [42].
Zaidi Z và Cs (2002) cho thấy ở người bình thường Malassezia chiếm
40%, trong khi tỷ lệ này ở bệnh nhân viêm da dầu là 82%. Đặc biệt nghiên cứu
của Zaidi Z cho thấy ở những người bình thường mật độ Malassezia có chỉ số
1+, trong khi bệnh nhân viêm da dầu ở mức 2+, 3+ hoặc 4+ và các mức độ này
tương đương với mức độ trầm trọng của bệnh là nhẹ, trung bình và nặng [15].
* Triệu chứng lâm sàng
Biểu hiện dát đỏ, ngứa và vảy da bóng mỡ xuất hiện ở vùng da có nhiều
tuyến bã hoạt động nhiều như da đầu, trán, rãnh mũi má, mi mắt, cung mày,
sau tai, ống tai ngoài, vùng trước xương ức, vùng liên bả vai… Trong nghiên
cứu Nguyễn Thị Phượng (2009) vị trí tổn thương thường gặp nhất là rãnh mũi
má 93%. Các vị trí ít gặp hơn là kẽ nách, nếp lằn vú, rốn, vùng bẹn sinh dục và
kẽ liên mông. Tuy nhiên, khi bệnh nặng tổn thương có thể lan toả khắp cơ thể.
Từ sự phân bố tổn thương trong bệnh VDD có thể thấy rằng có sự liên quan rất
mật thiết giữa vị trí da dầu với bệnh [33]
14
* Chẩn đoán xác định
- Chủ yếu dựa vào lâm sàng
- Để xác định căn nguyên có nhiễm nấm Malassezia ssp cần thiết phải

xét nghiệm tìm nấm. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng M.
furfur là loài gây bệnh chính. Tuy nhiên, gần đây người ta đã khẳng định vai
trò chủ yếu do loài M. restricta, kế đến M.globosa, sau đó mới đến các loài
khác trong đó có M.furfur [45], [42].
1.6.3. Viêm da cơ địa
Viêm da cơ địa (VDCĐ = Atopic Dermatitis) trước đây gọi là chàm thể
tạng hay chàm cơ địa là một bệnh da thường gặp. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa
tuổi, nhưng hay gặp nhất là trẻ em, đặc biệt là trẻ dưới 2 tuổi.
Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của VDCĐ chưa rõ ràng nhưng đa số
các tác giả cho rằng VDCĐ là sự kết hợp của một cơ địa dị ứng (Atopy) với
những tác nhân gây kích thích từ bên trong hay bên ngoài cơ thể là nguyên
nhân chính gây ra bệnh. Để chẩn đoán VDCĐ dựa theo tiêu chuẩn chẩn đoán
của Hanifin và Rajka Chẩn đoán bệnh VDCĐ phải có ít nhất 3 tiêu chuẩn
chính và ít nhất 3 tiêu chuẩn phụ. [8], [9], [11], [72].
Trong đó, căn nguyên do vi sinh vật thường được nhắc đến trong nhiều
nghiên cứu cho thấy vai trò của tụ cầu vàng trong VDCĐ. Khi có mặt của tụ
cầu vàng trên da thì các kháng nguyên và độc tố của tụ cầu sẽ kích thích đáp
ứng miễn dịch tại chỗ cũng như toàn thân. Nhưng chưa có nghiên cứu nào đề
cập vai trò vi nấm làm trầm trọng tình trạng bệnh lý ở Việt Nam.
Trên thế giới có nhiều nghiên cứu khác nhau đã ghi nhận vai trò vi nấm
trong cơ chế bệnh sinh VDCĐ. Một nghiên cứu chỉ ra có hơn 90% VDCĐ
(vùng đầu và cổ) có hàm là lượng kháng thể IgE trong huyết thanh kháng lại
15
kháng nguyên của Malassezia. Trong đó khoảng 83% VDCĐ ở người lớn liên
quan đến Malassezia [22]. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng chính việc lạm dụng
thuốc điều trị taị chỗ Corticoit cũng như các chất dưỡng ẩm và kết hợp một
số yếu tố liên quan khác đã vô hình chung tạo môi trường thuận lợi cho sự gia
tăng số lượng cũng như sự sinh sản và phát triển của vi nấm Malassezia.
1.6.4. Gầu da đầu
Các biểu hiện trên da đầu mà thường được gọi là "gàu" gây ra bởi nhiều

yếu tố của cơ thể kết hợp với hệ vi nấm Malassezia ssp. Thật vậy, các nghiên
cứu lâm sàng đã chỉ ra rằng chính tác dụng của thuốc kháng nấm tương quan
với một tình trạng lâm sàng được cải thiện, khi da khô gặp không khí lạnh
trong suốt mùa đông là nguyên nhân phổ biến nhất của ngứa, bong vẩy gàu ở
đầu. Theo Flakes những người da khô thường tiết ít dầu hơn so với những
người da bình thường nên dễ bị kích thích tăng tiết nhiều bã nhờn trên da. Khi da
tăng tiết bã là tức là bệnh ảnh hưởng không chỉ đến da đầu mà còn xuất hiện trên
các bộ phận khác của cơ thể, chẳng hạn như lông mày của bạn, hai bên mũi và
lưng, xương ức, vùng nách, vùng háng đôi khi gặp ở cánh tay và chân. Nếu bạn
không gội đầu thường xuyên thì dầu và các tế bào da từ da đầu của bạn có thể
phát triển ở các vùng da khác của cơ thể [42], [29], [21].
1.6.5. Viêm nang lông
Vi nấm Malassezia ssp viêm nang lông với biểu hiện thương tổn thường
lành tính thường gặp như ngứa, mụn mủ, sẩn đỏ nang lông phân bố chủ yếu ở
thân mình, lứa tuổi hay gặp là người trung niên. Năm 1969 một nghiên cứu đã
lần đầu tiên mô tả vi nấm Pityrosporum gây tình trạng viêm nang lông. Sau
đó, vào năm 1973, Potter đã nhận thấy viêm nang lông có căn nguyên do vi
nấm Malssezia spp khi ông tiến hành nhiều phương pháp riêng biệt cùng lúc
như: dấu hiệu lâm sàng, nấm học và mô bệnh học đều cho kết quả phù hợp.
16
Bên cạnh đó, những người có thói quen dùng các sản phẩm dưỡng da,
chăm sóc tóc cùng với nhiều loại mỹ phẩm, sữa, kem chống nắng, chất làm
mềm, dầu ôliu. Ngay cả chất liệu của trang phục, quần áo cũng tạo điều kiện
thuận lợi cho vi nấm Malassezia viêm nang lông, Một số yếu tố liên quan
thuận lợi tạo điều kiện cho vi nấm gây viêm nang lông bao gồm: đái tháo
đường, suy giảm miễn dịch, và nhiễm Candida hệ thống [48]. Khi quan sát vi
thể Malassezia trong nang lông qua các phương pháp soi tươi hay nhuộm
PAS và nhuộm Grocott-Gomori methenamine, đa phần chỉ quan sát hình thái
nấm men, không có hình thái sợi nấm. Thông thường khi phát hiện có vi nấm
thì tiên lượng và điều trị không khó khăn. Nhưng nếu không điều trị, vi nấm

xâm nhập sâu nang lông có thể là viêm mạn tính và hoại tử nang lông [49]. .
1.6.6. Nấm móng do Malassezia.spp
Mặc dù hầu hết các trường hợp của nấm móng gây ra bởi các chủng nấm
da. Tuy nhiên, gần đây có nhiều báo cáo trong y văn đã phân lập được
Malassezia.sp là căn nguyên gây bệnh nấm móng . Tuy móng không phải là
một nguồn thức ăn lý tưởng của vi nấm nhưng do nấm men thiếu khả năng
sừng hóa (keratolytic) đồng thời xuất hiện những biến đổi không bình thường
trong quá trình sinh trưởng nên chúng xâm chiếm và phá hủy móng, chủ yếu
móng tay. Tuy nhiên, vẫn có những báo cáo trái ngược nhau xoay quanh vấn
đề vi nấm Malassezia là một tác nhân gây bệnh thực sự ở móng hay không
[38].
Chowdhary đã cô lập Malassezia furfur từ vẩy móng tay thu được ở tổn
thương nấm móng tăng sừng trên bàn tay và bàn chân của nam bệnh nhân 13
tuổi [39]. Crespo-Erchiga đã khẳng định rằng họ đã từng gặp phải Malassezia
spp và Candida spp gây bệnh ở móng.
1.6.7. Một số biểu hiện khác do nhiễm nấm Malassezia.spp
- Malassezia thuộc vi hệ nên vi nấm này có mặt khắp nơi và gây bệnh
nhiều vị trí với các biểu hiện triệu chứng đa dạng trong rất nhiều bệnh cảnh
17
lâm sàng. Malassezia có thể gặp trong viêm da cơ địa và thông thường
Malassezia làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh. Ngoài ra, trong một số bệnh
lý khác: Trứng cá thông thường, U nhú thể mảng, Gaiden, Bạch biến
- Xâm nhập cơ quan, hệ thống: Người ta phát hiện bệnh nhân nằm điều
trị hồi sức tích cực nhiễm Malassezia.spp huyết. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu
cùng nhận định Malassezia.spp là tác nhân gây bệnh phổi, viêm màng bụng,
nhiễm khuẩn huyết qua đặt Catheter [51],[29],[48]. Sau khi tiến hành nuôi
cấy, định loại nấm và thực hiện kỹ thuật PCR đã xác định có hai loài gây bệnh
hệ thống hay gặp: M.pachydermatis (46%) và M.furfur (63%) [40].
- Theo nghiên cứu CDC (1984) nhận thấy vi nấm Malassezia.spp gây bệnh
nhiều nơi. Khi người ta tiến hành lấy các mẫu từ bệnh phẩm: máu, nước tiểu,

đờm, phân đều có thể phân lập được Malassezia.spp với tỷ lệ khá cao [52],[42].
1.7. Chẩn đoán bệnh do nấm Malassezia.spp
1.7.1. Triệu chứng lâm sàng
Thông thường các triệu chứng biểu hiện rất đa dạng và không đặc hiệu.
- Dát đỏ, dát tăng, giảm sắc tố, bong vẩy da, tiết bã nhờn.
- Triệu chứng cơ năng: chủ yếu là ngứa
- Vị trí chủ yếu: Da đầu, vùng mặt (rãnh mũi má, vùng trán, cằm, giữa
hai cung mày), lưng ngực, Một số vị trí khác ít gặp hơn như: móng tay, chân,
các nếp kẽ (kẽ cổ, kẽ bẹn, kẽ nách, kẽ tai,).
1.7.2. Cận lâm sàng
Có nhiều phương pháp phát hiện nấm Malassezia.spp như: xét nghiệm trực
tiếp bằng kỹ thuật KOH + Parker ink, nuôi cấy và phân loại, PCR…
Tại phòng xét nghiệm vi Nấm Bệnh viện Da liễu TW số lượt bệnh nhân
làm xét nghiệm nấm trong một vài năm gần đây gia tăng một cách đáng kể.
18
Và để làm tốt công tác xét nghiệm Nấm nhằm phục vụ bệnh nhân cũng như
giúp các bác sỹ lâm sàng chẩn đoán và điều trị hiệu quả hơn. Chúng tôi luôn
chú trọng nâng cao năng lực chẩn đoán trên kính hiển vi thông qua các xét
nghiệm trực tiếp, đặc biệt nhận định chính xác nhóm nấm men gây bệnh. Khi
quan sát các mẫu bệnh phẩm trên kính hiển vi có thể gặp hình ảnh điển hình
của Malassezia như: sợi nấm + tế bào men, hoặc sợi nấm thô ngắn như sợi
miến vụn, đặc biệt nhiều khi chỉ gặp hình thái tế bào nấm men. Các tế bào
nấm men này thường có kích thước nhỏ và ẩn trong chất bã, vẩy da đồng thời
đa hình thái như hình cầu (P.Orbicculair) và/ hoặc hình bầu dục ( P.Oval). Vì
vậy, khi cạo vẩy da và soi trong KOH 10% hoặc 30% đơn thuần sẽ rất khó
nhận định hình thái nên dễ dàng bỏ sót. Do đó, trước hết chúng tôi tìm
thương tổn điển hinh và lựa chon cach lấy bệnh phẩm phù hợp ( có thể cạo
vẩy ra hoặc dung băng dinh). Sau đó, thay đổi nông độ KOH 20% có kết hợp
với Parker ink tỷ lệ phù hợp (2: 1).
Các xé

Các xét nghiệm soi trực tiếp có tầm quan
trọng trong việc nhận định hình thái và số lượng Malassezia nhưng chỉ mang
tính tương đối.
Tuy nhiên phần nào đã chứng tỏ sự hiện diện vi nấm Malassezia tồn tại
vi hệ đã trở thành tác nhân gây bệnh cơ hội trên một số bệnh da. Điều đó
chứng tỏ mặc dù trên da người khỏe mạnh vi nấm có thể tồn tại hay chỉ xuất
hiện thoáng qua nên đôi khi ta có thể quan sát được trên kính hiển vi nhưng
khi tiến hành nuôi cấy trên môi trường nhân tạo thì chúng không phát triển.
Có lẽ do vi nấm thuộc vi hệ nên chỉ có thể sinh sản và phát triển cùng cơ thể
vật chủ. Do vậy vi nấm này chưa đủ số lượng, độc lực và không thắng được
hàng rào miễn dịch bảo vệ da nên chưa gây bệnh. Điều này càng rõ hơn khi
15 SV có thương tổn dạng dat khi soi tưoi đều dương tính và nuôi cấy mọc tỷ
lệ 33,33%. Nghiên cứu này phù hợp với thực tế khi phát hiện tỷ lệ giữa Lâm
sàng, soi tươi và nuôi cấy với tỷ lệ (3:2:1)
19
Theo một số tác giả vấn đề nuôi cấy không cần thiêt đối với các bệnh
phẩm lâm sàng không chỉ bởi thời gian mọc chậm mà vi nấm khó mọc và đòi
hỏi môi trường đăc biệt. Quan điểm này phù hợp với nghiên cứu V.Silva và
cộng sự cho biết tầm quan trong của xét nghiệm trực tiếp tìm nấm cho kết quả
chẩn đoán sơ bộ nhanh, chính xác nhưng cũng đòi hỏi kinh nghiệm. Kete quả
trong nghiên cứu của V.Silva đaBên cạnh đó, trong y văn cũng đề cập tới một
số phương pháp xét nghiệm khác có độ nhậy và đặc hiệu cao như: miễn dịch
học, PCR…
Tuy nhiên, so sánh giữa các nghiên cứu không nhằm mục đích nêu ra
sự khác biệt giữa các phương pháp nghiên cứu cũng như các kỹ thuật áp dụng
để phát hiện nấm. Mà xa hơn mỗi nghiên cứu góp phần vào sự hiểu biết ngày
càng sâu rộng về vi nấm Malassezia nói chung. Qua đó làm sáng tỏ hơn vấn
đề vi hệ Malassezia và cơ chế bệnh sinh trong bệnh cảnh lâm sàng, đặc biệt
một số bệnh ngoài da thường gặp.
Gần đây, tại phòng nấm khoa Xét nghiệm Bệnh viện Da liễu TW, được sự

giúp đỡ các chuyên gia CDC/Hoa Kỳ chúng tôi đã cập nhật phương pháp soi tìm
Malassezia.spp bằng kỹ thuật KOH kết hợp Parker Ink với tỷ lệ là 2:1. Đây là kỹ
thuật giúp ích nhiều cho chẩn đoán cận lâm sàng bởi ưu điểm:
- Thời gian cho kết quả nhanh
- Nhận định hình thái vi nấm rõ nét và dễ dàng hơn.
- Tránh bỏ sót vi nấm khi soi trực tiếp
- Đánh giá mật độ tập trung của vi nấm chính xác.
* Nội dung kỹ thuật
- Hóa chất:KOH+Parker Ink (2:1)
- Phương pháp:
20
+ Cạo vẩy da bằng dao cùn
+ Phương pháp Scott: Dùng băng dính
• Vẩy da quá ít không cạo
• Trẻ em vùng mặt, nếp kẽ
- Nhận định kết quả: Sơ bộ soi tìm nấm KHV vật kính 10 và khẳng định
hình thái cũng như mật độ tập trung ở KHV vật kính 40,
* Đánh giá vai trò gây bệnh của Malassezia.spp
Để đánh giá vai trò gây bệnh của Malassezia.spp chủ yếu dựa vào kết quả
xét nghiệm trực tiếp và nuôi cấy định loại. Tuy nhiên, theo khuyến cáo các chuyên
gia nấm học đến từ CDC/ASM Hoa Kỳ rằng việc nuôi cấy định loại Malassezia.
spp là không cần thiết mà chủ yếu nên làm kỹ thuật xét nghiêm trực tiếp tìm nấm
bằng kỹ thuật KOH kết hợp Parker. Theo nghiên cứu V.Silva và cộng sự đã cho
thấy vai trò của xét nghiệm trực tiếp tìm Malassezia.spp rất quan trọng và cần
thiết. Năm 1996 tại bệnh viện Sao Paolo - Brazil, V.Silva nghiên cứu trên các
đối tượng người bệnh và người khỏe mạnh thông qua kỹ thuật soi trực tiếp
bằng Parker Ink kết hợp KOH và kỹ thuật nuôi cấy định loại nấm. Nghiên cứu
thực hiên ở 76 người, trong đó 30 khỏe mạnh kết quả: người khỏe mạnh < 10
TB/VT trong đó 90% <3 TB/VT. Còn 46 BN lang ben kết quả chủ yếu >10
TB/VT trong đó 93% >= 20 TB/VT. Từ đó V. Silva lấy định tính bán định

lượng số lượng Malassezia liên quan đến cơ chế sinh bệnh LB và một số bệnh
da khác nói chung là từ 20 TB/VT [32].
Qua nghiên cứu này V.Silva đã đưa ra tiêu chuẩn đánh giá sơ bộ vai trò gây
bệnh của Malassezia.spp trên kính hiển vi dựa vào quan sát mật độ tập trung vi
nấm như sau
● Nếu - : 0-3 tế bào nấm/VT
● Mức độ 1+: 4-10 tế bào nấm/VT
21
● Mức độ 2+: 11-20 tế bào nấm/VT
● Mức độ 3+: 21- 40 tế bào nấm/VT
● Mức độ 4+: ≥ 40 tế bào nấm/VT
* Nuôi cấy định loại
Đây là vi nấm khó nuôi cấy ở môi trường Sabouraud thông thường mà
đòi hỏi những điều kiện đặc biệt.
- Môi trường: Sabouraud phủ dầu oliu với tỷ lệ đặc biệt
- Nhiệt độ: 37ºC. Độ ẩm và pH phù hợp. Thời gian mọc chậm 7-10
ngày: M.furfur dễ phân loại nhất. M.restricta & M.obtusa khó phân loại nhất
22
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Đối tương nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng
- Tất cả các bệnh nhân có chẩn đoán LB, VDD, VDCĐ, không phân biệt
tuổi, giới, đến khám khám và xét nghiệm có sự hiện diện của Malassezia.spp
- Địa điểm: Khoa Khám bệnh và khoa Xét nghiệm BVDLTW
- Thời gian: Từ tháng 01 đến tháng 12 năm 2012
2.1.2. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
* Một số nhóm bệnh da thông thường có nghi nhiễm nấm Malassezia.spp
- Nhóm 1: Lang ben
- Nhóm 2: Viêm da dầu,

- Nhóm 3: Viêm da cơ địa
* Với các biểu hiện lâm sàng:
- Dát đỏ, bong vẩy, dát tăng giảm sắc tố, da tiết bã nhờn. Sẩn đỏ, ngứa .
- Vị trí chủ yếu: Da đầu, vùng mặt (rãnh mũi má, vùng trán, cằm, giữa
hai cung mày), lưng ngực. Một số vị trí khác ít gặp hơn như: móng tay, chân,
các nếp kẽ (kẽ cổ, kẽ bẹn, kẽ nách, kẽ tai,).
- Triệu chứng cơ năng: ngứa hoặc dát đỏ
* Cận lâm sàng:
- Soi tươi vẩy da (chất bã) tại thương tổn nghi nhiễm nấm và vùng da lành
- Quan sát hình thái và số lượng vi nấm Malassezia spp ( V.Silva & et al).
* Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu
23
2.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân mắc một số bệnh toàn thân nặng hoặc bị suy giảm miễn
dịch như: HIV/AIDS, tim mạch.
- Bệnh nhân bôi thuốc điều trị nấm hoặc thuốc bong sừng bạt vẩy trước
đó 3-5 ngày
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu
2.2. Vật liệu, dụng cụ nghiên cứu
2.2.1. Dụng cụ thăm khám
- Kính lúp và đèn Wood
2.2.2. Vật liệu để lấy bệnh phẩm
- Kính hiển vi
- Dao cùn, băng dính trong
- KOH 20% + Parker Ink (2:1)
- Giá để lam, lá kính
- Hộp đựng dụng cụ khử khuẩn
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu.
2.3.2. Mẫu nghiên cứu

Cỡ mẫu: Lấy mẫu thuận tiện bao gồm tất cả bệnh nhân đến khám với
chẩn đoán LB, VDD, VDCĐ và xét nghiệm có nhiễm vi nấm Malassezia.spp
2.3.2.1. Biến số nghiên cứu
 Khảo sát tỷ lệ nhiễm Malassezia spp
- Khám và làm xét nghiệm
+ Số BN: LB, VDD, VDCĐ đến làm xét nghiệm
24
+ Số BN có các biểu hiên lâm sàng như trên và xét nghiệm có nấm
Malassezia spp gây bệnh (theo tiêu chuẩn V.Silva và cộng sự)
+ Các tỷ lệ khác: Tuổi, Giới, Nghề nghiệp, Địa dư, Các mùa trong năm.
 Xác định mức độ nhiễm Malassezia spp bằng KOH 20% + PI (2:1)
+ Chúng tôi tiến hành lấy mẫu bệnh phẩm ở các vị trí được chỉ định có
nghi nhiễm Malassezia spp. Đồng thời, lấy vẩy da tại một số vị trí ở vùng da
khỏe mạnh bình thường của cùng một bệnh nhân.
2.3.2.2. Quy trình thu thập số liệu
- Khảo sát tỷ lệ nhiễm nấm Malassezia spp ở: LB, VDD, VDCĐ
- Xác định tỷ lệ về độ tâp trung của vi nấm: Xét nghiệm trực tiếp bằng
phương pháp KOH 20% + Parker ink (2:1)
Bệnh nhân viêm da
Khám lâm sàng
Xét nghiệm
(-) (+)

Tỷ lệ nấm gây bệnh
Loại nghiên cứu
Tỷ lệ nhiễm Malassezia spp
Sơ đồ 2.2: Quy trình thu thập số liệu
25
Mật độ tập trung vi nấm

×