Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

xác định tỷ lệ nhiễm nấm malassezia spp ở bệnh lang ben, viêm da dầu, viêm da cơ địa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.67 KB, 52 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm nấm là một trong những bệnh khá phổ biến trên thế giới. Nấm tồn
tại ở khắp mọi nơi: môi trường đất, nước, không khí, ở thực vật, động vật và trên
cả cơ thể người. Khi gặp điều kiện thuận lợi như nóng ẩm, sang chấn, sức đề
kháng suy giảm…nấm sẽ phát triển và gây bệnh. Bệnh do nấm gây ra gặp nhiều
ở các nước nhiệt đới và ôn đới. Bệnh có thể gặp ở cả người lớn và trẻ em [45].
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa có nhiệt độ và độ ẩm cao là điều
kiện thuận lợi cho vi nấm phát triển và dễ dàng gây nhiễm nấm ở người. Những
năm gần đây, tỷ lệ nhiễm nấm thông thường do ý thức kém và điều kiện vệ sinh
thiếu thốn đã giảm nhiều. Tuy nhiên, do sự xuất hiện đại dịch HIV/AIDS cùng với
việc ứng dụng những thành tựu mới của y học hiện đại như: Ghép tạng, dùng thuốc
ức chế miễn dịch, hoá trị, xạ trị điều trị ung thư, sử dụng kháng sinh hoạt phổ rộng,
corticoid kéo dài, các bệnh rối loạn chuyển hoá Thực tế nghiên cứu cho thấy tỷ lệ
nhiễm nấm da trong các bệnh ngoài da trong cộng đồng chiếm tỷ lệ khá cao. Ở
Đông Nam Á bệnh da do nấm chiếm 40-60% tổng số bệnh da [41]. Ở Việt Nam,
bệnh nấm da đứng hàng thứ 2 trong các bệnh da sau chàm [25]. Trong đó, nhóm
nấm men gây bệnh ở da chiếm tỷ lệ khá cao, đặc biệt trong thời gian gần đây người
ta đề cập nhiều đến chủng nấm men Malassezia ssp. Nghiên cứu năm 2003 tại Iran,
tỷ lệ nhiễm nấm Malassezia ssp chiếm 6% trong số các bệnh da nói chung và 30%
bệnh da do vi nấm nói riêng [ ? ].
Tại bệnh viện Da liễu TW số bệnh nhân đến khám và làm xét nghiệm tìm nấm
rất đông và đa dạng. Trong đó, vi nấm Malassezia ssp gây bệnh ngoài da chiếm tỷ
lệ khá cao. Bệnh do rất nhiều loài Malassezia khác nhau gây nên, vì vậy lâm sàng
cũng rất đa dạng. Bệnh biểu hiện các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu như:
Ngứa, đỏ da, bong vẩy,…Thương tổn có thể gặp bất kỳ vùng nào trên cơ thể nhưng
thông thường khu trú vùng tiết nhiều bã nhờn như: da đầu, lưng, ngực, mặt. Ngoài
ra, có thể gặp ở nếp kẽ, nang lông, vùng móng…thậm chí vi nấm xâm nhập các cơ
quan, bộ phận gây nhiễm nấm nội tạng, khuẩn nấm huyết…Nhiều khi Malassezia
1
ssp là căn nguyên gây bệnh, nhưng đôi khi chỉ phối hợp làm nặng thêm tình trạng
bệnh. Do đó, những trường hợp điển hình thường thuận lợi cho chẩn đoán. Còn


những trường hợp không điển hình, nếu thiếu điều kiện xét nghiệm dễ dẫn đến chẩn
đoán nhầm hoặc bỏ qua. Bệnh da do nhiễm Malassezia.sp không tử vong, nhưng
gây nhiều phiền toái ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, đặc biệt
nếu không điều trị đúng và kịp thời sẽ diễn biến dai dẳng, tiến triển nặng nề. Ở Việt
Nam còn rất ít nghiên cứu đầy đủ và hệ thống về đặc tính vi nấm, đặc điểm lâm
sàng các bệnh biểu hiện ngoài da do nấm Malassezia.sp gây nên. Chính vì lý do trên
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với hai mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ nhiễm nấm Malassezia spp ở bệnh lang ben, viêm da dầu,
viêm da cơ địa.
2. Bước đầu đánh giá mức độ nhiễm Malassezia spp ở một số bệnh da nêu
trên bằng kỹ thuật KOH kết hợp Parker ink.
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Một số đặc điểm nấm gây bệnh người
1.1.1 Đặc điểm chung
- Nấm (Fungi, Mycetes), là những sinh vật dị dưỡng, thuộc Giới nấm, có
cấu tạo đơn bào hoặc đa bào. Nấm không có diệp lục tố nên không tự tổng hợp
được chất dinh dưỡng từ ánh sáng mặt trời. Nấm sống hoại sinh trên những cá thể
đã chết hoặc ký sinh trên những phần cá thể sống khác. Một số loài có thể sống theo
cả hai cách trên. [4, 8].
- Đặc điểm sinh thái
+ Nấm phát triển cần hai điều kiên không thể thiếu là nhiệt độ và độ ẩm thích
hợp. Với nhiệt độ tối ưu để nấm phát triển là 28- 37ºC và độ ẩm môi trường cao,
khoảng >70%.
+ Nấm có thể phát triển môi trường nghèo dinh dưỡng, vì vậy việc phòng
tránh nấm gặp nhiều khóa khăn
+ Nấm sinh sản nhanh, nhiều và dễ dàng nên việc điều trị nấm phải tận gốc
+ pH: nấm phát triển dải pH rộng (3-10), nhưng thường ưa môi trường kiềm
hơn. Tốt nhất là môi trường có pH= 6-6,5. Ở môi trường trung tính hoặc kiềm nhẹ,

vi khuẩn phát triển mạnh hơn nấm.
Đăc điểm dinh dưỡng
+ Nấm đòi hỏi chất hữu cơ sẵn có từ môi trường, chúng tiết các men đặc biệt giúp
phân giải các chất hữu cơ đó thành những hợp chất đơn giản để hấp thu.
+ Phần lớn phát triển môi trường đơn giản không cần vitamin, nhưng một số
cần thiamine, biotin… để phát triển.
3
Nấm có khả năng gây bệnh cho người và động vật. Đặc biệt ở người nấm gây
nhiều bệnh rất nguy hiểm và khó điều trị. Nấm có thể gây bệnh bất kỳ vị trí nào trên cơ
thể từ da, lông tóc, móng, thậm chí xâm nhập vào các cơ quan, các mô trong cơ thể
(1,2,3,5,6)
1.1.2 Đặc điểm cấu trúc và sinh sản nấm
1.1.2.1 Bộ phận sinh dưỡng
- Nấm men: cấu tạo đơn bào, sinh sản hình thức nảy chồi, hình tròn hoặc bầu
dục, kích thước 3-15mn
- Nấm sợi: cấu tạo đa bào, có vách ngăn hoặc không. Chúng chia nhánh và
xen kẽ với nhau thành từng khúm nấm. Đối với nấm Malassezia spp khi ký sinh
cũng có thể tạo sợi nấm thô ngắn.
1.1.2.2 Bộ phận sinh sản
- Lớp Actinomycetes không có bộ phận sinh sản. Các lớp nấm khác có bộ
phân sinh sản vô tính hoặc hữu tính.
+ Phương thức sinh sản vô tính: phân chia không có sự phối hợp nhân, đó là
loại bào tử vô tính, thường do sợi nấm sinh ra, có nhiệm vụ phát triển hoặc/và dự trữ.
+ Phương thức sinh sản hữu tính: phân chia có sự phối hợp nhân, đó là bào
tử nang, bào tử tiếp hợp, bào tử noãn, bào tử đảm.
- Nấm men sinh sản theo phương thức nảy chồi. Từ một cực của tế bào nấm
mọc một chồi nhỏ, phát triển lớn dần và tách khỏi tế bào mẹ. Một số loài nấm men có
thể hình thành sợi giả. Nấm Malassezia spp là một chi nấm men và sinh sản theo
phương thức vô tính.
1.1.1.3 Phân loại nấm và bệnh do nấm gây ra [5, 6, ,11, 14 ]

1.1.1.3.1 Phân loại nấm
4
Nấm có khoảng trên một triệu loài, trong đó vi nấm gây bệnh ở người có
khoảng trên ba trăm loài. Thông thường vi nấm gây bệnh được chia làm ba loài là
nấm sợi, nấm men và nấm lưỡng hình.
Bảng phân loại vi nấm Tg 9 H
1.1.1.3.2 Phân loại bệnh do nấm gây ra
- Nấm có thể gây ra 4 loại bệnh
+ Dị ứng với nấm (Hypersensitivity): là phản ứng quá mẫn đối với nấm mốc
và bào tử nấm.
+ Nhiễm độc nấm (Mycotoxicoses): người hoặc động vật ăn phải thức ăn
nhiễm nấm sinh ra các độc tố gây nhiễm độc.
+ Ngộ độc nấm ( Mycetismus): ăn phải nấm độc gây ngộ độc cấp, có thể dẫn
tới tử vong.
+ Nhiễm nấm (Infection): Hầu hết các loại nấm gây ra nhiễm nấm không
sinh ra các độc tố nhưng chúng có khả năng gây ra các rối loạn sinh lý như làm tăng
chuyển hóa biến đổi cấu trúc màng.
- Trong thực tế việc phân lập nấm còn nhiều tranh cãi, nhưng có một số
phương pháp thường được áp dụng trong thực tiễn lâm sàng [11]
+ Bệnh nấm nông (superficial mycose) gây bệnh ngoài da
+ Bệnh nấm dưới da (subcuntaneous mycoses) gây các bệnh khu trú vùng dưới
da thường chỉ liên quan đến chi dưới, rất ít lan rông…
- Ngoài ra dựa và vị trí gây bệnh chia làm hai loại [6]
+ Nhiễm nấm nông: gồm các loại nấm da và dưới da 1-2 mm
+ Nhiễm nấm sâu: nấm xâm nhập vào các mô của cơ thể như các loại nấm nội
tạng, nấm não, nhiễm nấm máu
- Nhiễm nấm phân chia theo căn nguyên
5
+ Căn nguyên nội sinh: Một số chủng nấm thường sống ký sinh trên da, đường
tiêu hóa và âm đạo, khi sức đề kháng giảm sút hoặc điều kiện sống tại chỗ thay đổi

như: mất cân bằng vi hệ, thay đổi pH da…thì chúng gây bệnh cơ hội ở vùng này.
+ Căn nguyên ngoại sinh: khi hít phải các bào tử nấm trong không khí hoặc ăn
phải các thức ăn có nhiễm nấm, gây ra các bệnh nấm đường hô hấp, tiêu hóa…
1.2 Lịch sử vi nấm Malassezia
Bệnh nấm da nói chung mô tả rất sớm trong lịch sử loài người. Năm 1800,
Gruby đã nuôi cấy nấm gây bệnh thực nghiệm trên vùng da ẩm ướt. Năm 1910,
Sabouraud là người đầu tiên đưa ra bảng định danh các loài nấm, đặc điểm lâm
sàng và phương pháp điều trị bệnh nấm. Với công sức này ông được coi là cha
đẻ nghành nấm y học hiện đại. [47, 58,]. Bệnh do nấm Malassezia nói riêng
cũng đã được mô tả từ lâu trong y văn thế giới. Năm 1846, Eichstedt ghi nhận
vai trò nấm gây bệnh da với tên gọi Pityrosporum. Cùng trong thời gian đó,
Raymond Sabouraud đã xác định vi sinh vật gây hiện tương gầu da đầu cũng có
tên gọi là: Pityrosporum. a. Nhưng đến giữa thế kỷ 20 một số nhà khoa học tìm
được 3 loài nấm là: P. oval, P.orbiculair, P.pachydermatis. Trong đó, có hai loài
nấm men ưa lipid gây bệnh ở người là P. oval & P.orbiculair. Còn một loại
không ưa Lipid thường gây bệnh cho động vật đó là P.pachydermatis.[72]. Còn
Louis- Charler lại mô tả vi nấm này dưới tên gọi Malassezia. Ban đầu một số
nhà khoa học cho rằng hình thái Malassezia là tồn tại dưới dạng sợi nấm, còn
Pityrosporum là hình thái nấm men. Nhưng sau đó không lâu, Sabouraud khẳng
định rằng thực chất đó chỉ là sự phân chia biến đổi trong vòng đời của nấm
men. Năm 1995-1996, thành tựu khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng
đã ứng dụng thành công trong việc giải mã trình tự bộ gen của vi nấm này và
đã tìm được 7 loài Malassezia.sp [62]. Năm 2004 các nhà khoa học Nhật Bản
tiếp tục tìm ra thêm 4 loài mới nữa. [30].Từ đó các nhà khoa học đã thống
nhất dưới tên gọi vi nấm là Malassezia.sp (16,18) .
6
Gần đây trên thưc tế tại bệnh viện Da liễu TW số bệnh nhân đến khám và làm
xét nghiệm tìm nấm rất đông và đa dạng. Trong đó, vi nấm Malassezia.sp gây bệnh
trên một số bệnh da thông thường chiếm tỷ lệ khá cao. Theo ICD những bệnh da
thông thường gồm rất nhiều bệnh nhưng trong khuân khổ nghiên cứu này chúng tôi

chỉ đề cập những bệnh da thường gặp liên quan đến Malassezia.sp như: Lang ben,
viêm da dầu, viêm nang lông, gầu da đầu, viêm da cơ địa, rụng tóc mảng, nấm
móng.
1.3 Đặc điểm Malassezia
Malassezia là nấm men ưa lipid, đa phần các loài gây bệnh cho người như:
M.globosa, M. furfur, M. dermatits, M.sympotheas Chúng thường biểu
hiện ở mọi lúa tuổi và trong rất nhiều bệnh lý ở nhiều vị trí khác nhau
nhưng chủ yếu là độ tuổi thanh niên có liên quan vùng da mỡ. Ngoài ra,
một số loài khác gây bệnh móng và gây bệnh cơ quan, hệ thống. Nhưng
có một số loài gây bệnh chủ yếu ở động vật như: M.pachydermatis. Đôi
khi cũng gây bệnh cho người trong một số trường hơp suy giảm miễn
dịch Với những biểu hiện lâm sàng là tình trạng bệnh cảnh lâm sàng nặng
nề, nguy kịch.
Malassezia spp có cấu tạo đơn bào và sinh sản hình thức nảy chồi. Tuy
nhiên, một số loài có cấu tạo đa bào như: M.globosa, loài này có phương thức
sinh sản hữu tính tức là chúng có khả năng giao phối kết hợp giữa giao tử đực
và giao tử cái do đó chúng thích nghi, sinh sản và phát triển hàng loạt. Đồng
thời di truyền những đặc tính của loài qua nhiều thế hệ. Vì vậy, thế hệ sau
luôn mang các đặc tính về khả năng thích nghi và đề kháng với những yếu tố
có tính chất đào thải nấm trong chính mỗi cá thể hoặc từ môi trường tự nhiên.
Do đó, loài M.globosa mang tính chọn lọc tự nhiên rất cao, mà loài nấm này
tồn tại ở vi hệ rất nhiều và là căn nguyên gây bệnh chủ yếu (16,35,41). Nấm
Malassezia.sp thuộc vi hệ trên da của người và động vật máu nóng. Nhiều
7
nghiên cứu cho thấy, có khoảng 70-90% vi nấm Malassezia.sp có mặt trên da
người khỏe mạnh [16,26]. Tuy nhiên, những vi nấm tồn tại ở vi hệ này không
bền vững đôi khi cũng thay đổi. Ngay từ khi mới sinh, vi nấm đã xuất hiện và
có mặt ở nhiều vị trí trên cơ thể. Nhưng đa phần chúng phát triển nhiều ở tuổi
vị thành niên, bởi lứa tuổi này tuyến bã hoạt động mạnh nên chế tiết nhiều
chất bã… Bên cạnh đó, vi nấm cũng có thể đồng nhiễm với một số vi khuẩn

và vi nấm khác cũng thuộc vi hệ gây bệnh. Do đó, chúng có thể là căn nguyên
gây bệnh hoặc bội nhiễm thứ phát làm nặng thêm tình trạng bệnh. Ngoài ra,
chúng còn gây bệnh cơ hội khi có điều kiện thuận lợi (16,18,36, 58)
1.4 Cơ chế gây bệnh [27, 53, 72]
Hầu hết các loại nấm thường sống hoại sinh, chúng phát triển ở thực vật hoặc
trong đất, ít khi thích ứng trên cơ thể người. Do đó, người khỏe mạnh ít khi bị mắc
nấm.
Sự xâm nhập diễn ra khi một bào tử nấm nhiễm vào cơ thể ở trạng thái nghỉ
không hoạt động, sau đó chuyển hóa trong cơ thể vật chủ, nẩy mầm và sinh sản rồi
xâm nhập vào mô. Mỗi hình thái nấm như: Sợi nấm, bào tử nấm hoặc tế bào nấm
men có tính kháng nguyên đặc trưng khác nhau. Khi xâm nhập vào cơ thể, nấm gây
ra sự đáp ứng với cơ thể vật chủ và sẽ có hai cơ chế bảo vệ: Miễn dịch dịch thể và
Miễn dịch qua trung gian tế bào (34)
Trong quá trình trao đổi chất vì lý do nào đó è thiếu hụt gen mã hóa Enzym
tổng hợp axit béoè vi nấm không tự tổng hợp axit béo è sử dụng nguồn axit béo
từ bên ngoài.
- Xu hướng tìm vùng giàu chất bã nhờn: da đầu, mặt, lưng, ngực…
Malassezia.sp tiết 8 loại Lipase và 3 loại Photpholipase
è
Thủy phân axit béo
trung tính
è
axit béo tự do
è
phản ứng trung gian tế bào
è
kích hoạt con đường
gây viêm(16)
- Khả năng né tránh và chống lại quá trình thực bào do:
8

+ Lớp lipid dày bao quanh tế bào nấm
+ Tính đa kháng nguyên và thay đổi thành phần tế bào.
1.5 Một số yếu tố thuận lợi [38, 59, 63, 72]
Bệnh do nấm Malassezia thường có nguồn gốc nội sinh do các loài Malassezia
phát triển quá mức gây bệnh, đặc biệt khi có điều kiện thuận lợi. Các yếu tố thuận
lợi hay gặp là:
* Yếu tố bên trong:
- Sinh lý: phụ nữ có thai, trẻ sơ sinh
- Bệnh lý toàn thân: Nhiễm trùng cấp và mạn tính, bệnh chuyển hóa, béo
phì…Các bệnh lý như bỏng, ung thư, Hodking, nhiễm HIV/AIDS…
- Bệnh lý tại chỗ làm thay đổi tính chất da: VDCD, Rụng tóc, Bạch biến…
- Sử dụng hóa chất: Dùng kháng sinh phổ rộng, kéo dài làm thay đổi sự cân
bằng vi hệ…
* Yếu tố bên ngoài:
- Người già sức đề kháng suy giảm
- Loét do bỏng
- Điều kiện vệ sinh kém, không ý thức bệnh tật hoặc thiếu kiến thức
- Môi trường vi khí hậu thay đổi…
- Ngoài ra thói quen dùng dầu dưỡng tóc, kem chống nắng, môi trường nóng
ẩm… là những yếu tố rất thuận lợi cho vi nấm Malassezia ssp phát triển và gây bệnh.
1.6 Tình hình nhiễm vi nấm Malassezia ssp
1.6.1 Trên thế giới
Các loài Malassezia đóng vai trò rất quan trọng trong căn nguyên sinh
bệnh của: lang ben, viêm da tiết bã, viêm da cơ địa, viêm nang lông… [43], [49].
Trong các báo cáo ở vùng Mexico, Trung và Nam Mỹ gặp tỷ lệ bệnh là 50%.
Ở Thái Lan lang ben chiếm 4% trong tổng số bệnh nhân khám Da liễu tại bệnh viện
Ramathibodi. Ở Ý chiếm 45% trong số các bệnh nấm nông. Nhiễm vi nấm
9
Malassezia có thể gặp ở các vùng địa lý, khí hậu khác nhau và mọi lứa tuổi. Một
nghiên cứu ở bệnh viện nhi khoa Sal-PaoLo (Brasil) cho biết tỷ lệ trẻ nhiễm

Malassezia.sp chiếm 23% (độ tuổi 0-18 tháng tuổi), 28% ( 11-15 tuổi). Tại Tây Ban
Nha, Martinez - Roig và cộng sự nghiên cứu trên 1000 bệnh nhi ở độ tuổi từ 2 tháng
đến 7 tuổi thấy tỷ lệ nhiễm Malassezia chiếm khoảng 34,5% trong số bệnh da. Một
nghiên cứu khác ở Thụy Sỹ cho biết tỷ lệ nhiễm Malassezia chiếm 87% ở nhóm trẻ
em độ tuổi 2 tháng đến 15 tuổi. Nhưng cũng có một nghiên cứu ở Israell lại kết luận
là không tìm thấy vi nấm Malassezia ở nhóm trẻ em độ tuổi 2 tháng đến 15 tuổi
[68]
Trên thế giới, tuỳ theo số liệu nghiên cứu của từng tác giả cho thấy viêm da
dầu chiếm khoảng 1-5% dân số [10], [41]. Tajima và cs (2008) nghiên cứu trên 31
bệnh nhân VDD cho thấy ở vùng da bị tổn thương 93,5% có số lượng Malassezia
và cao gấp 3 lần so với ở vùng da lành 61,3%. Ở người nhiễm HIV/AIDS, tỷ lệ
mắc bệnh viêm da dầu rất cao. Theo Betty Anne Johnson tỷ lệ này là 85% [60].
Cũng theo Betty Anne Johnson, ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch, bệnh
thường nặng, dai dẳng và kém đáp ứng với các phương pháp điều trị. Gần đây
các nhà khoa học phát hiện ra rằng M. globosa là nguyên nhân của hầu hết các
trường hợp của gàuGầu da đầu không chỉ ảnh hưởng tới người bệnh ở góc độ
bệnh lý như bong vẩy gầu nhiều, ngứa ngáy, khó chịu mà còn ảnh hưởng tâm lý,
không tự tin trong giao tiếp sinh hoạt, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc
sống.
Một báo cáo năm 2008 từ Trung Quốc trích dẫn có khoảng 1,5% các bệnh
nhân Da liễu đã được chẩn đoán viêm nang lông do vi nấm Malassezia. Trong số
đó, hầu hết họ đều là nam giới khỏe mạnh và đang ở độ tuổi trung niên [21]. Một
nghiên cứu khác ở Philippines cho biết có khoảng 16% bệnh nhân viêm nang lông
do Malassezia trong tổng số bệnh lý nang lông [45].
Từ tháng 7 năm 1996 đến tháng 12 năm 1999, một nghiên cứu trên 588 bệnh
nhân có thương tổn móng tay với chẩn đoán nấm móng tại các Phòng khám Da liễu
và vi khuẩn học EPM \ UNIFESP, Brazil. Cùng thời gian đó ở Chile, V.Silva cũng
10
có báo cáo về các trường hợp nhiễm nấm móng do Malassezia spp. Bên cạnh đó,
bằng các xét nghiệm soi tươi, nuôi cấy định loại và sinh học phân tử, một số nghiên

cứu đã khẳng định M.furfur là căn nguyên gây nấm móng ( 33, 56, 65)
Ngoài ra vi nấm Malassezia còn gây viêm tai giữa, nấm móng, đôi khi phối
hợp với các viêm nhiễm do virus ở dạng u nhú. Có nhiều báo cáo về tình trạng
nhiễm Malassezia spp ở máu ngoại vi và nội tạng; năm 1996 tại Iran báo cáo trường
hợp nhiễm Malassezia spp trong máu trẻ sơ sinh khi đang truyền máu [54]. Năm
1987, Gueaho E và cộng sự đã báo cáo trường hợp nhiễm nấm hệ thống do một loài
vi nấm rất đặc biệt thương gây bệnh cho động vật Malassezia pachydermatis gây
nên.
1.6.2 Việt Nam
Việt Nam là nước có nguy cơ mắc các bệnh do nấm rất cao. Bởi nơi đây có
những đặc điểm tự nhiên, địa lý nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nên có nhiệt độ
và độ ẩm cao. Đồng thời, cùng với sự phát triển của nền văn minh lúa nước chủ yếu
làm nông nghiệp nên đa phần ý thức còn kém trong việc thực hiện đúng nguyên tắc
vệ sinh và phòng bệnh. Bên cạnh đó, việc sử dụng thuốc một cách bừa bãi và thiếu
kiểm soát, kèm theo một số bệnh lý gây suy giảm miễn dịch như: nhiễm HIV/AIDS,
ung thư, nhóm bệnh chuyển hóa… [27, 38 ]
Một số nghiên cứu liên quan đến biểu hiện bệnh da do Malassezia tại Việt
Nam; theo số liệu Trần Lan Anh và cs điều tra ở một xã thuộc ngoại thành Hà Nội
thì Lang ben chiếm 3,1% trong số 513 người được khám […TL T.Mai]. Nghiên
cứu của Lê Anh Tuấn năm 2006 cho thấy viêm da dầu chiếm 1,5% số bệnh nhân
đến khám tại Bệnh viện Da liễu TW [13]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Phượng năm
2009 khoảng 2,13%[10]. Tại một phòng khám ở Việt Nam ghi nhận có khoảng 16%
bệnh nhân nhiễm vi nấm Malassezia ở nang lông [TL?]. Sự tham gia của vi nấm
Malassezia ssp vào quá trình gây bệnh trứng cá đã được Lê Kinh Duệ đề cập đến.
Nhưng theo tác giả vai trò của vi nấm là rất nhỏ so với vi khuẩn Propioni bacterium
acnes trong sinh bệnh học của trứng cá [59].
1.7 Một số biểu hiện bênh lý do nhiễm nấm Malassezia ssp
11
1.7.1 Lang ben
Lang ben ( Pityriasis versicolor) là một bệnh mạn tính của lớp sừng, gây ra

bởi một nhóm nấm men trước đây có tên là Pityrosporium, nay thống nhất dưới tên
gọi là Malassezia.spp.
Bệnh gặp bất kỳ tuổi nào nhưng thông thường từ 20 - 45 còn trẻ em và người
già ít bị. Có một số quan điểm khác nhau về bệnh lang ben có lây hay không? Theo
Eduado Silva bình thường bệnh không lây vì nó thuộc vi hệ. Nhưng dưới ảnh hưởng
một số yếu tố thuận lợi: khí hậu nóng ẩm, tính chất da thay đổi, sức đề kháng suy
giảm…tạo điều kiện vi nấm tăng sinh và gây bệnh [20]. Nhưng Jose Latoni thì cho
rằng bệnh có thể lây do dùng chung ga giường, quần áo (TL Tuyet Mai)
* Triệu chứng lâm sàng
Bệnh biểu hiên thể điển hình với các triệu chứng rất dễ nhận biết. Đó là đám
màu hồng nâu, hình tròn, ranh giới rõ, đôi khi là những đám thuơng tổn mất sắc tố.
Thường khu trú vùng cổ, ngực, lưng, vai, cánh tay. Hiếm khi ở cẳng tay, chân cũng
như lòng bàn tay và bàn chân [ TL PHg].
● Chẩn đoán của lang ben nói chung là đơn giản
- Triệu chứng lâm sàng điển hình
- Xét nghiệm: Kết quả soi trực tiếp cho kết quả dương tính 80 - 90%, trong đó
đa phần (89%) cho hình ảnh điển hình là “mì ống và thịt viên”. Theo dữ liệu của
một số nghiên cứu gần đây về nuôi cấy, định loại và kỹ thuật ADN đã khẳng định
M. globosa là loài gây bệnh phổ biến nhất trong bệnh lang ben; một nghiên cứu năm
2000 do F.Sanchez F thực hiện đã chỉ ra rằng căn nguyên gây lang ben là
M.globosa [32]. Nghiên cứu …. M.globosa chiếm khoảng 53,3%, tiếp theo M.
furfur 25,3%, M. sympodialis 9,3%, còn M. obtusa 8,1% và M. slooffiae 4,0%
[…?]. Bên cạnh đó, Gupta et al cũng tìm thấy M. sympodialis là tác nhân chủ yếu
trong lang ben đối với vùng khí hậu ôn đới, còn M. globosa là tác nhân chính ở các
vùng nhiệt đới [41].
1.7.2.Viêm da dầu
12
Viêm da dầu (seborrheic dermatitis) là bệnh da mạn tính thường gặp. Bệnh
chủ yếu ở trẻ sơ sinh, tuổi dậy thì và độ tuổi ngoài 50, nam gặp nhiều hơn nữ [31].
Tác nhân gây bệnh viêm da dầu còn đang tiếp tục được làm rõ, tuy nhiên

nhiều nghiên cứu cho thấy viêm da dầu thường xảy ra trên cơ địa những người tăng
tiết chất nhờn kết hợp nhiễm nấm Malassezia ssp [], [35], [37].
Các nghiên cứu về Malassezia ở bệnh nhân VDD đều cho thấy vai trò đặc biệt
của nấm men trong cơ chế bệnh sinh của VDD. Giả thuyết này càng mạnh mẽ khi
thấy hiệu quả của các thuốc chống nấm trong điều trị bệnh, sự giảm số lượng
Malassezia sau khi điều trị và trong mỗi đợt bệnh tái phát có sự tái nhiễm của
Malassezia. Các nghiên cứu trên thế giới thấy rằng, điều trị VDD bằng thuốc chống
nấm làm giảm số lượng Malassezia do đó làm cải thiện các triệu chứng lâm sàng của
bệnh [10- Trích dẫn cụ thể hơn].
Zaidi Z và Cs (2002) cho thấy ở người bình thường Malassezia chiếm 40%,
trong khi tỷ lệ này ở bệnh nhân viêm da dầu là 82%. Đặc biệt nghiên cứu của Zaidi Z
cho thấy ở những người bình thường mật độ Malassezia có chỉ số 1+, trong khi bệnh
nhân viêm da dầu ở mức 2+, 3+ hoặc 4+ và các mức độ này tương đương với mức độ
trầm trọng của bệnh là nhẹ, trung bình và nặng [72].
Đa số các nghiên cứu trên cho thấy mật độ Malassezia có liên quan đến mức
độ nặng, nhẹ của bệnh viêm da dầu và nhiều tác giả đều kết luận Malassezia có mối
quan hệ đặc biệt với tổn thương ở bệnh nhân VDD, nhưng vai trò cụ thể của loài
nấm này trong cơ chế bệnh sinh của VDD như thế nào thì vẫn chưa được rõ ràng.
Tuy nhiên, ban đầu đã có vài giả thiết dần dần làm sáng tỏ vấn đề trên. Theo
Parry và Sharpe, Malassezia có thể gây phản ứng viêm do sản xuất ra các chất gây
độc trong một số trường hợp đặc biệt [63]. Các chất gây độc này được các nhà
nghiên cứu đặt tên là các chất hóa ứng động bạch cầu giống như lipid (lipid-like
leukocyte activator – LILA). Và điều này giải thích vì sao tiến triển của VDD
thường không dự đoán trước được. Ngoài đáp ứng viêm do LILA, các acid béo kích
13
ứng và acid arachidonic do Malassezia sản xuất ra cũng góp phần gây phản ứng
viêm ở bệnh nhân VDD.
* Triệu chứng lâm sàng
Biểu hiện dát đỏ, ngứa và vảy da bóng mỡ xuất hiện ở vùng da có nhiều tuyến
bã hoạt động. Theo các y văn trên thế giới các vị trí tổn thương thường gặp trong

bệnh VDD là những nơi tiết bã nhiều như da đầu, trán, rãnh mũi má, mi mắt, cung
mày, sau tai, ống tai ngoài, vùng trước xương ức, vùng liên bả vai. Trong nghiên
cứu Nguyễn Thị Phượng (2009) vị trí tổn thương thường gặp nhất là rãnh mũi má
93%. Các vị trí ít gặp hơn là kẽ nách, nếp lằn vú, rốn, vùng bẹn sinh dục và kẽ liên
mông. Tuy nhiên, khi bệnh nặng tổn thương có thể lan toả khắp cơ thể. Từ sự phân bố
tổn thương trong bệnh VDD có thể thấy rằng có sự liên quan rất mật thiết giữa vị trí da
dầu với bệnh [20]
* Chẩn đoán xác định
- Chủ yếu dựa vào lâm sàng
- Để xác định căn nguyên có nhiễm nấm Malassezia ssp cần thiết phải xét
nghiệm soi tươi tìm nấm. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng M.
furfur là loài gây bệnh chính. Tuy nhiên, gần đây người ta đã khẳng định vai trò chủ
yếu do loài M. restricta, kế đến M.globosa, sau đó mới đến các loài khác trong đó
có M.furfur. [Tìm tai lieuj cụ the- Anh Tuấn, 32]
1.7.3. Gầu da đầu
Các biểu hiện trên da đầu mà thường được gọi là "gàu" gây ra bởi nhiều yếu tố
của cơ thể kết hợp với hệ vi nấm Malassezia ssp. Thật vậy, các nghiên cứu lâm sàng
đã chỉ ra rằng chính tác dụng của thuốc kháng nấm tương quan với một tình trạng
lâm sàng được cải thiện, khi da khô gặp không khí lạnh trong suốt mùa đông là
nguyên nhân phổ biến nhất của ngứa, bong vẩy gàu ở đầu. Đó là một trong những
nguyên nhân thường gặp nhất của gàu. Theo Flakes những người da khô thường tiết
ít dầu hơn so với những người da bình thường nên dễ bị kích thích tăng tiết nhiều bã
14
nhờn trên da. Khi da tăng tiết bã là tức là bệnh ảnh hưởng không chỉ đến da đầu mà
còn xuất hiện trên các bộ phận khác của cơ thể, chẳng hạn như lông mày của bạn, hai
bên mũi và lưng, xương ức, vùng nách, vùng háng đôi khi gặp ở cánh tay và chân. Nếu
bạn không gội đầu thường xuyên thì dầu và các tế bào da từ da đầu của bạn có thể phát
triển ở các vùng da khác của cơ thể.(13, 35, 63)
Một loại nấm men Malassezia spp ký sinh trên da đầu của hầu hết người
trưởng thành khỏe mạnh mà không gây ra vấn đề gì. Nhưng đôi khi nó phát triển

vượt ra khỏi tầm kiểm soát và sử dụng các loại dầu tiết ra từ nang tóc là nguồn thức
ăn lý tưởng cho chúng. Điều này có thể gây kích ứng trên da đầu và gia tăng sự phát
triển các tế bào vẩy da nhiều hơn. Các tế bào da chết và bong đi sau đó kết tụ lại
cùng với dầu tiết ra từ nang tóc và da đầu làm cho chúng tạo thành mảng vẩy màu
trắng. Chúng bám dính trên mái tóc hoặc trên quần áo. Bên cạnh đó, sự phát triển
quá mức của Malassezia trong một số trường hợp: nội tiết tố thay đổi, hệ thống
miễn dịch bị ức chế, mắc bệnh lý như bệnh Parkinson. Ngoài ra, tình trạng căng
thẳng, có những rối loạn về thần kinh, không gội đầu thường xuyên và đặc biệt sự
nhạy cảm với vi nấm Malassezia có thể đóng vai trò quan trọng vào sự phát triển của
gàu da đầu [72]. Trong nhiều nghiên cứu đã tiết lộ rằng nấm gây gàu bằng cách sản
xuất các enzym được gọi là lipases. Đầu tiên, vi nấm sử dụng lipases để phá vỡ các bã
nhờn, tạo ra một hợp chất gọi là axit oleic. Sau đó, thâm nhập vào lớp trên cùng của da
và gây ra phát triển rất nhanh hàng loạt các tế bào biểu mô da ở những người mẫn cảm
dẫn đến tăng sinh gàu da đầu ( 2, 38, 40?)
1.7.4 Viêm nang lông
Vi nấm Malassezia ssp viêm nang lông với biểu hiện thương tổn thường lành
tính thường gặp như ngứa, mụn mủ, sẩn đỏ nang lông phân bố chủ yếu ở thân mình,
lứa tuổi hay gặp là người trung niên và trẻ tuổi. Bệnh tuy không nguy hiểm nhưng
gây nên tình trạng rất khó chịu cho người bệnh. Năm 1969 một nghiên cứu đã lần
đầu tiên mô tả vi nấm Pityrosporum gây tình trạng viêm nang lông. Sau đó, vào
năm 1973, Potter đã nhận thấy viêm nang lông có căn nguyên do vi nấm Malssezia
15
spp khi ông tiến hành nhiều phương pháp riêng biệt cùng lúc như: dấu hiệu lâm
sàng, nấm học và mô bệnh học đều cho kết quả phù hợp.
Bệnh thường xuất hiện tổn thương mãn tính, ban đỏ, sẩn ngứa và mụn mủ.
Những tổn thương thường biểu hiện vị trí ở lưng và ngực đôi khi trên cổ, vai, cánh
tay hiếm khi hiện diện trên khuôn mặt. Thông thường rất ngứa, có mụn mủ nhỏ ở da
kèm theo ban đỏ. Một số vùng có yếu tố khí hậu ảnh hưởng đến tỷ lệ những người
nhiễm vi nấm Malssezia gây viêm nang lông. Những người sống ở vùng khí hậu
ấm và ẩm ướt có tỷ lệ nhiễm cao hơn và ngày càng gia tăng ở vùng này. Vi nấm này

chủ yếu gặp ở tuổi vị thành niên [12], phổ biến nhất ở những người khoảng 13-45
tuổi với tỷ lệ nữ / nam là 1,5:1
Ngoài ra, những người có thói quen dùng các sản phẩm dưỡng da, chăm sóc
tóc cùng với nhiều loại mỹ phẩm, sữa, kem chống nắng, chất làm mềm, dầu ôliu.
Ngay cả chất liệu của trang phục, quần áo cũng tạo điều kiện thuận lợi cho vi nấm
Malssezia viêm nang lông, Một số yếu tố liên quan thuận lợi tạo điều kiện cho vi
nấm gây viêm nang lông bao gồm: đái tháo đường, suy giảm miễn dịch, và nhiễm
Candida hệ thống [50]. Khi quan sát vi thể Malassezia trong nang lông qua các
phương pháp nhuộm PAS và nhuộm Grocott-Gomori methenamine, đa phần chỉ
quan sát hình thái nấm men, không có hình thái sợi nấm. Thông thường khi phát
hiện có vi nấm thì tiên lượng và điều trị không khó khăn. Nhưng nếu không điều trị,
vi nấm xâm nhập sâu nang lông có thể là viêm mạn tính và hoại tử nang lông [15]. .
1.7.5. Nấm móng do Malassezia.sp
Mặc dù hầu hết các trường hợp của nấm móng gây ra bởi các chủng nấm da.
Tuy nhiên, gần đây có nhiều báo cáo trong y văn đã phân lập được Malassezia.sp là
căn nguyên gây bệnh nấm móng . Tuy móng không phải là một nguồn thức ăn lý
tưởng của vi nấm nhưng do nấm men thiếu khả năng sừng hóa (keratolytic) đồng thời
xuất hiện những biến đổi không bình thường trong quá trình sinh trưởng nên chúng
xâm chiếm và phá hủy móng, chủ yếu móng tay. Tuy nhiên, vẫn có những báo cáo
16
trái ngược nhau xoay quanh vấn đề vi nấm Malassezia là một tác nhân gây bệnh thực
sự ở móng hay không [56].
Chowdhary đã cô lập Malassezia furfur từ vẩy móng tay thu được ở tổn thương
nấm móng tăng sừng trên bàn tay và bàn chân của nam bệnh nhân 13 tuổi [65]. Crespo-
Erchiga đã khẳng định rằng họ đã từng gặp phải Malassezia spp và Candida spp gây
bệnh ở móng. Nhưng bởi vì tỉ lệ nhiễm Malassezia ssp rất thấp trong các mẫu
bệnh phẩm, nên họ đã tranh luận và tìm hiểu rất nhiều. Nhưng bằng chứng rõ
ràng nhất là khi điều trị bệnh nấm ở móng đã thuyên giảm cả về lâm sàng và
xét nghiệm. Sau đó, họ đã đi đến việc tuyên bố rằng Malassezia là một tác
nhân gây bệnh thực sự trong nấm móng [15, 61]

Sự tồn tại của Malassezia trong các mẫu bệnh móng là rất quan trọng, nó như
là một nguồn lây nhiễm vi nấm bởi nó tồn tại dai dẳng trong móng và rất khó phát
hiện cũng như điều trị kéo dài hơn các thương tổn do các chủng nấm khác gây ra.
Do đó, có thể là nguồn lây nhiễm ra môi trường cũng như chính trong cơ thế người
bệnh. Người ta đã phát hiện bệnh nhân nằm điều trị hồi sức tích cực bị nhiễm
Malassezia ssp huyết. Trong khi đi tìm nguồn lây người ta đã phát hiện ở móng tay
của người chăm sóc y tế bị nhiễm Malassezia ssp và họ cho rằng tất cả bệnh nhân
điều trị ức chế miễn dịch cần được đánh giá cẩn thận để phát hiện ngay từ ban đầu
những viêm nhiễm ở móng tay của bệnh nhân bằng các xét nghiệm soi tươi và nuôi
cấy nấm. [36], [48].
Vai trò bệnh nguyên của Malassezia ssp trong nấm móng là một vấn đề gây
nhiều tranh cãi vì khả năng li giải keratin (keratinolytic) chưa từng được xác minh
một cách thuyết phục. Gần đây, một số minh chứng cận lâm sàng đã khẳng định
bằng các kỹ thuật như: quy trình KOH+Parker Ink, nhuộm hematoxylin, eosin
(H&E) và nhuộm axit Schiff (PAS). Qua đó, phần nào cho thấy sự thâm nhập của
tác nhân nấm các lớp sâu hơn của keratin. Sau đó, người ta đã tiến hành xác định
căn nguyên của ba trường hợp nghi nhiễm nấm móng do Malassezia spp đầu tiên.
Họ đã thực hiện liên tiếp nhiều lần định loại chủng nấm được lấy từ mẫu bệnh phẩm
17
ở móng tay và xác định chủng nấm gây bệnh là M. furfur. Sau đó, người ta đã tiến
hành điều trị bằng ketoconazole và sau 12 tuần điều trị tiếp tục làm xét nghiệm
nhưng không thấy nấm và móng tay đã trở lại bình thường. Nấm móng chủ yếu ở
móng tay chiếm khoảng 18-40% trong số các viêm móng và 39% trong số các bệnh
nhiễm nấm bề mặt [56].
18
1.7.6. Một số biểu hiện khác do nhiễm nấm Malassezia
- Malassezia thuộc vi hệ nên vi nấm này có mặt khắp nơi và gây bệnh nhiều vị
trí với các biểu hiện triệu chứng đa dạng trong rất nhiều bệnh cảnh lâm sàng.
Malassezia có thể gặp trong viêm da cơ địa và thông thường Malassezia làm trầm
trọng thêm tình trạng bệnh. Ngoài ra, trong một số bệnh lý khác: Trứng cá thông

thường, U nhú thể mảng, Gaiden, Bạch biến
- Xâm nhập cơ quan, hệ thống: Người ta đã phát hiện bệnh nhân nằm điều trị
hồi sức tích cực bị nhiễm Malassezia.sp huyết. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu khác đã
cùng nhận định Malassezia.sp là tác nhân gây bệnh ở phổi, viêm màng bụng, nhiễm
khuẩn huyết qua đặt Catheter [23, 63,50]. Sau đó, các nhà khoa học thuộc đại học
Amsterdam đã tiến hành nuôi cấy, định loại nấm và thực hiện kỹ thuật sinh học
phân tử đã xác định có hai loài gây bệnh hệ thống hay gặp: M.pachydermatis chiếm
khoảng 46% và M.furfur chiếm 63% [54].
- Theo nghiên cứu CDC (1984) nhận thấy vi nấm Malassezia.sp gây bệnh
nhiều nơi. Khi người ta tiến hành lấy các mẫu từ bệnh phẩm: máu, nước tiểu, đờm,
phân đều có thể phân lập được Malassezia.sp với tỷ lệ khá cao [29, 13 ?].
1.8 Chẩn đoán bệnh do nấm Malassezia
1.8.1 Triệu chứng lâm sàng
Thông thường các triệu chứng biểu hiện rất đa dạng và không đặc hiệu.
- Dát đỏ, bong vẩy da
- Da tăng tiết bã nhờn
- Gầu da đầu
- Dát tăng, giảm sắc tố
- Sẩn đỏ kèm ngứa vùng lông, tóc
19
- Vị trí chủ yếu: Da đầu, vùng mặt (rãnh mũi má, vùng trán, cằm, giữa hai
cung mày), lưng ngực, Một số vị trí khác ít gặp hơn như: móng tay, chân, các nếp
kẽ (kẽ cổ, kẽ bẹn, kẽ nách, kẽ tai,).
- Triệu chứng cơ năng: chủ yếu là ngứa
1.8.2 Cận lâm sàng
Có nhiều phương pháp phát hiện nấm Malassezia.sp như: xét nghiệm trực tiếp
bằng kỹ thuật KOH + Parker ink, nuôi cấy phân loại, PCR…
Gần đây, tại phòng nấm khoa Xét nghiệm Bệnh viện Da liễu TW, được sự giúp đỡ các
chuyên gia CDC/Hoa Kỳ chúng tôi đã cập nhật phương pháp soi tìm Malassezia.sp bằng
kỹ thuật KOH kết hợp Parker Ink với tỷ lệ là 2:1. Đây là kỹ thuật giúp ích nhiều cho

chẩn đoán cận lâm sàng bởi ưu điểm:
- Thời gian cho kết quả nhanh
- Nhận định hình thái vi nấm rõ nét và dễ dàng hơn.
- Tránh bỏ sót vi nấm khi soi trực tiếp
- Đánh giá mật độ tập trung của vi nấm chính xác.
* Nội dung kỹ thuật
- Hóa chất: KOH 20% hoặc KOH+Parker Ink
- Phương pháp:
+ Cạo vẩy da bằng dao cùn
+ Phương pháp Scott: Dùng băng dính
• Vẩy da quá ít không cạo
• Trẻ em vùng mặt, nếp kẽ
- Nhận định kết quả: Sơ bộ soi tìm nấm KHV vật kính 10 và khẳng định hình
thái cũng như mật độ tập trung ở KHV vật kính 40,
* Đánh giá vai trò gây bệnh của Malassezia.sp
20
Để đánh giá vai trò gây bệnh của Malassezia.spp chủ yếu dựa vào kết quả xét
nghiệm trực tiếp và nuôi cấy định loại. Tuy nhiên, theo khuyến cáo các chuyên gia nấm
học đến từ CDC/ASM Hoa Kỳ rằng việc nuôi cấy định loại Malassezia. spp là không
cần thiết mà chủ yếu nên làm kỹ thuật xét nghiêm trực tiếp tìm nấm bằng kỹ thuật KOH
kết hợp Parker. Theo nghiên cứu V.Silva và cộng sự đã cho thấy vai trò của xét nghiệm
trực tiếp tìm Malassezia.spp rất quan trọng và cần thiết. Qua nghiên cứu này V.Silva đã
đưa ra tiêu chuẩn đánh giá sơ bộ vai trò gây bệnh của Malassezia.spp trên kính hiển vi
dựa vào quan sát mật độ tập trung vi nấm như sau (58):
● Nếu - : 0-3 tế bào nấm/VT
● Mức độ 1+ : 4-10 tế bào nấm/VT
● Mức độ 2+ : 11-20 tế bào nấm/VT
● Mức độ 3+ : 21- 40 tế bào nấm/VT
● Mức độ 4+ : ≥ 40 tế bào nấm/VT
Theo Zaidi và cộng sự nghiên cứu mật độ tập trung vi nấm trên KHV vật kính 40

(72).
● Mức độ 1+ : < 5 tế bào nấm/VT
● Mức độ 2+ : 5 - 9 tế bào nấm/VT
● Mức độ 3+ : 10 - 19 tế bào nấm/VT
● Mức độ 4+ : ≥ 20 tế bào nấm/VT
* Nuôi cấy định loại
Đây là vi nấm khó nuôi cấy ở môi trường Sabouraud thông thường mà đòi hỏi
những điều kiện đặc biệt.
Ngoài ra, trên thực tế chúng tôi có tiến hành kỹ thuật nuôi cấy và định loại
Malassezia.spp nhiều lần theo những công thức pha chế môi trường đặc biệt ưu tiên
vi nấm phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay chúng tôi chưa thành công và trong thời
gian tới chúng tôi tiếp tục tiến hành thử nghiệm nhằm định loại vi nấm này. Bởi
thực tế khi nuôi cấy phải đòi hỏi nhiều điều kiện:
21
- Môi trường: Sabouraud phủ dầu oliu với tỷ lệ đặc biệt
- Nhiệt độ: 37ºC
- Độ ẩm và pH phù hợp
- Thời gian mọc chậm 7-10 ngày
+ M.furfur dễ phân loại hơn các loài khác
+ M.restricta & M.obtusa khó phân loại nhất
22
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1 Đối tương nghiên cứu
2.1.1 Đối tượng
- Tất cả các bệnh nhân, không phân biệt tuổi, giới trên lâm sàng nghi nhiễm
nấm Malassezia.spp đến khám tại phòng khám bệnh viện Da liễu TW.
- Địa điểm: Khoa Khám bệnh và khoa Xét nghiệm BVDLTW
- Thời gian: Từ tháng 01 đến tháng 12 năm 2012
2.1.2 Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân

* Một số nhóm bệnh da thông thường có nghi nhiễm nấm Malassezia.spp
- Nhóm 1: Lang ben
- Nhóm 2: Viêm da dầu, Viêm nang lông, Viêm da cơ địa
- Nhóm 3: Rụng tóc mảng
* Với các biểu hiện lâm sàng:
- Dát đỏ, bong vẩy, da tăng tiết bã nhờn
- Sẩn đỏ kèm ngứa vùng lông, tóc
- Vị trí chủ yếu: Da đầu, vùng mặt (rãnh mũi má, vùng trán, cằm, giữa hai
cung mày), lưng ngực. Một số vị trí khác ít gặp hơn như: móng tay, chân, các nếp
kẽ (kẽ cổ, kẽ bẹn, kẽ nách, kẽ tai,).
- Triệu chứng cơ năng: ngứa hoặc dát đỏ
* Cận lâm sàng:
- Soi tươi vẩy da (chất bã) tại thương tổn nghi nhiễm nấm.
- Quan sát hình thái và số lượng vi nấm Malassezia spp
- Nhận định kết quả: theo tiêu chuẩn chẩn đoán trên kính hiển vi của V.Silva và
cộng sự.
* Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu
23
2.1.3 Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân mắc một số bệnh toàn thân nặng hoặc bị suy giảm miễn dịch như:
HIV/AIDS, tim mạch.
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu
2.2 Vật liệu, dụng cụ nghiên cứu
2.3.1 Dụng cụ thăm khám:
- Kính lúp
- Đèn Wood
2.3.2 Vật liệu để lấy bệnh phẩm
- Kính hiển vi
- Dao cùn
- Băng dính

- KOH 20%
- Parker Ink + KOH 20%
- Giá để lam
- Lá kính
- Hộp đựng dụng cụ khử khuẩn
2.3 Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu.
2.3.2 Kỹ thuật thu thập số liệu
Thu thập số liệu theo mẫu bệnh án thống nhất (phụ lục kèm theo)
2.3.3 Mẫu nghiên cứu
Cỡ mẫu: Lấy mẫu thuận tiện; tất cả bệnh nhân đến khám với các biểu hiên
như trên nghi nhiễm vi nấm Malassezia.sp
-Công thức tính:
24
n = Z
2
1-α/2

( )
2
)(
1
ε
p
pp

n: cỡ mẫu cho nghiên cứu tỷ lệ nhiễm nấm Malassezia.sp
p: tỷ lệ bệnh nhân nhiễm nấm Malassezia.sp ở da và có xét nghiệm dương tính (p=0,50
theo các báo cáo đã công bố).
ε: độ chính xác tương đối (0,1)

Kết quả ước tính cỡ mẫu tối thiểu là n=385 bệnh nhân
2.3.3.3 Biến số nghiên cứu
 Khảo sát tỷ lệ nhiễm Malassezia spp
- Khám và làm bệnh án theo mẫu
+ Tổng số BN đến khám
+ Số BN nhiễm nấm da
+ Số BN có các biểu hiên lâm sàng như trên mà xét nghiệm có nấm
Malassezia spp gây bệnh (theo tiêu chuẩn V.Silva và CS)
+ Tuổi
+ Giới
+ Nghề nghiệp
+ Địa dư
+ Các mùa trong năm
 Xác định mức độ nhiễm vi nấm Malassezia spp bằng kỹ thuật: KOH +
Parker ink.
+ Chúng tôi tiến hành lấy mẫu bệnh phẩm ở các vị trí được chỉ định có nghi
ngờ nhiễm nấm Malassezia spp. Đồng thời, lấy vẩy da tại một vị trí ở vùng da khỏe
mạnh bình thường không có biểu hiện một trong các triệu chứng trên của chính
bệnh nhân đó.
25

×