B GIO DC V O TOB Y T
TRNG I HC Y H NI
****
NGUYN O UYấN
ĐáNH GIá MộT Số CHỉ TIÊU NHÂN TRắC ở NGƯờI
TRÊN 16 TUổI QUậN ĐốNG ĐA, Hà NộI
KHểA LUN TT NGHIP BC S Y KHOA
KHểA 2007-2013
H Ni - 2013
B GIO DC V O TOB Y T
TRNG I HC Y H NI
****
NGUYN O UYấN
ĐáNH GIá MộT Số CHỉ TIÊU NHÂN TRắC ở NGƯờI
TRÊN 16 TUổI QUậN ĐốNG ĐA, Hà NộI
KHểA LUN TT NGHIP BC S Y KHOA
KHểA 2007-2013
Ngi hng dn: PGS.TS. TRN SINH VNG
H Ni - 2013
LI CM N
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:
∗ Ban giám hiệu trường Đại Học Y Hà Nội.
∗ Bộ môn Giải Phẫu trường Đại Học Y Hà Nội.
∗ Phòng Đào Tạo Đại Học trường Đại Học Y Hà Nội.
Đã cho phép, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình
học tập.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
PGS-TS. Trần Sinh Vương - là người thầy đã kỳ công hướng dẫn,
truyền đạt cho tôi nhiều ý kiến quý giá để tôi hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cám ơn tới:
∗ PGS-TS. Nguyễn Văn Huy - trưởng Bộ môn Giải Phẫu trường Đại Học Y Hà
Nội.
∗ Các thầy cô và nhân viên Bộ môn Giải Phẫu trường Đại Học Y Hà Nội.
Đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận.
Lời cám ơn sau cùng:
Tôi xin gửi lời cám ơn tới các thầy, cô, bạn bè… đã dành cho tôi mọi tình
cảm chân thành cũng như sự giúp đỡ quý báu cho tôi trong quá trình học tập. Và
cuối cùng tôi xin được gửi đến những người thân trong gia đình đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi để tôi có niềm tin và nghị lực trong học tập và cuộc sống.
Hà Nội, ngày……… tháng……. Năm 2013
Nguyễn Đạo Uyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả trong
khóa luận là hoàn toàn trung thực.
Nguyễn Đạo Uyên
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN
BMI : Chỉ số khối cơ thể (Body mass index)
CED : Thiếu năng lượng trường diễn
FAO : Tổ chức Nông Lương Thế Giới
HSSH : Hằng số sinh học
TĐTDD : Tổng điều tra dinh dưỡng
DAĐTCB : Dự án điều tra cơ bản
WHO : Tổ chức Y Tế Thế Giới
MỤC LỤC
ẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
9
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các chỉ tiêu nhân trắc có vai trò quan trọng trong phục vụ thực tiễn
hàng ngày như:
Làm cơ sở đánh giá hình thái, thể lực và dinh dưỡng của các đối tượng
nghiên cứu trong quần thể, từ đó có hướng quan tâm và lập kế hoạch sát thực
để cải thiện tình trạng dinh dưỡng, nâng cao thể lực, chăm sóc sức khỏe cho
cộng đồng được nghiên cứu. Chẩn đoán các bệnh làm thay đổi hình thái cơ
thể; Ứng dụng trong hầu hết các nghành kinh tế quốc dân khác như: Xây dựng
các tiêu chuẩn kích thước người để thiết kế máy móc, phương tiện sản xuất,
phương tiện sinh hoạt và trong khám tuyển quân, tuyển sinh, tuyển vận động
viên thể dục thể thao và tuyển nhân lực trong một số nghành nghề đăc biệt
khác… Các chỉ tiêu nhân trắc của một quần thể ngoài quy luật do di truyền
quyết định còn ảnh hưởng của đời sống kinh tế xã hội và môi trường, vì vậy
việc xác định các chỉ tiêu nhân trắc cần đươc tiến hành thường quy khoảng 10
năm một lần [3], [11], [20]…Xác định một số chỉ tiêu nhân trắc ở người
trưởng thành là mục tiêu đầu tiên của khóa luận này.
Chiều cao nói lên tầm vóc của một người, việc nâng cao tầm vóc, thể
lực con người là một đòi hỏi thực tiễn của đất nước ta hiện nay, nhằm nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, từng bước cải thiện giống nòi. Ngoài sự chi phối một phần bởi
yếu tố di truyền, thì chiều cao còn chịu sự chi phối rất lớn bởi chế độ dinh
dưỡng và luyện tập thể lực. Việc nghiên cứu chiều cao đến tuổi nào là ngừng
phát triển và tuổi nào là suy giảm là rất cần thiết để từ đó góp phần lập ra
chiến lược chăm sóc sức khỏe về dinh dưỡng và luyện tập thể lực một cách cụ
thể, phù hợp với từng giai đoạn phát triển, nhằm đạt được chiều cao tối đa
10
[21]. Việc nghiên cứu sự biến đổi chiều cao theo thời gian là mục tiêu tiếp
theo của khóa luận.
Trong nghiên cứu nhân trắc ở một cộng đồng thì việc đánh giá tình
trạng dinh dưỡng luôn là một đòi hỏi không thể thiếu [20], hơn nữa đánh giá
tình trạng dinh dưỡng bằng nhân trắc học là phương pháp đơn giản nhất, ít tốn
kém nhất, và được áp dụng phổ biến trên toàn thế giới [1]. Qua nghiên cứu
nhiều quần thể người mà chủ yếu ở người châu Âu, châu Mỹ, tổ chức y tế thế
giới (WHO), tổ chức nông lương thế giới (FAO) đã công nhận chỉ số khối cơ
thể (Body Mass Index = BMI) là một chỉ số lý tưởng để đánh giá dinh dưỡng
ở người trưởng thành [26], [28]. Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của tác giả
Trần Sinh Vương, Trịnh Văn Minh thì BMI là một chỉ số lý tưởng để đánh
giá tình trạng tình trạng dinh dưỡng cộng đồng ở người Việt Nam trưởng
thành [19], [20]. Việc đánh giá tình trạng dinh dưỡng ở người trưởng thành
dựa trên BMI cũng là một mục tiêu của khóa luận này.
Tóm lại: Trên cơ sở phân tích các số liệu nhân trắc thu thập được ở
người trưởng thành quận Đống Đa, khóa luận này nhằm ba mục tiêu:
1. Xác định giá trị của một số chỉ tiêu nhân trắc cơ bản theo tuổi và giới ở
người trên 16 tuổi quận Đống Đa, Hà Nội.
2. Đánh giá về sự tăng trưởng, suy giảm chiều cao theo tuổi và giới.
3. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng ở người trưởng thành quận Đống Đa theo
tuổi và giới dựa trên BMI.
11
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. MỘT VÀI NÉT VỀ NHÂN TRẮC HỌC
Nhân trắc học được con người biết đến từ rất lâu, có thể nói là từ khi
người ta biết đo chiều cao, cân nặng mình. Tuy nhiên phải đến đầu thế kỷ 20,
với sự phát triển của toán thống kê được ứng dụng trong nghiên cứu nhân trắc
thì nhân trắc học mới trở thành một môn khoa học thực sự - khoa học dùng
các phương pháp toán học và thống kê để nhận định và phân tích sự đo đạc
của các kích thước cơ thể con người nhằm rút ra các kết luận phục vụ cuộc
sống hàng ngày [11].
Vào năm 1914, R. Martin được xem là người đặt nền móng cho nhân
trắc học hiện đại với tác phẩm “Giáo trình về nhân trắc học “trong đó ông đã
đề xuất và hoàn chỉnh một hệ thống dụng cụ đo đạc, các phương pháp nghiên
cứu trong nhân trắc học, đặc biệt là sự ứng dụng toán thống kê sinh học (trích
theo Atlat nhân trắc học người Việt Nam trong lứa tuổi lao động [18]).
Nhân trắc học ngày càng phát triển mạnh mẽ và phong phú, tùy theo
mục đích nghiên cứu, người ta chia ra: Nhân trắc nhân chủng học, chuyên
nghiên hình thái các các chủng tộc loài người; Nhân trắc học đường, nghiên
cứu hình thể và các tiêu chuẩn kiểm tra sức khỏe học sinh; Nhân trắc thể dục
thể thao, nghiên cứu các tiêu chuẩn kiểm tra sức khỏe vận động viên hoặc xác
định thiên hướng cũng như lựa chọn vận động viên vào môn thể thao thích
hợp nhất; Nhân trắc nghề nghiệp nhằm xác định thiên hướng nghề nghiệp
thích hợp cho từng đối tượng ; Nhân trắc y học, nghiên cứu sự phát triển cơ
thể trẻ em theo từng lứa tuổi, phân loại tình trạng dinh dưỡng và thể lực, xác
định các thay đổi hình thái do bệnh lý và đánh giá tình trạng bình thường hay
bệnh tật của một người… [11].
12
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NHÂN TRẮC Ở NGƯỜI VIỆT NAM
TRƯỞNG THÀNH
Tình hình nghiên cứu trước năm 1975
Ở nước ta, nhân trắc học đã được quan tâm khá sớm, từ những năm 30
của thế kỷ XX tại viện Giải Phẫu học Hà Nội và Ban Nhân học thuộc Viện
Viễn Đông Bác Cổ, với những công trình nghiên cứu của Đỗ Xuân Hợp,
Bigot, Huard P được công bố chủ yếu trong nội san “Các công trình nghiên
cứu của Viện Giải Phẫu học, Đại học y khoa Đông Dương”từ 1936 đến 1944.
Tuy nhiên các công trình này vẫn còn ít nhiều hạn chế, vì chưa vận dụng được
toán thống kê vào việc trình bày và nhận định kết quả, đồng thời các phương
tiện nghiên cứu cũng không được nói tới (dẫn theo Trần Sinh Vương [20] ).
Việc nghiên cứu bị đứt đoạn qua chín năm kháng chiến chống Pháp và
bắt đầu khôi phục trở lại từ khi hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954. Trong
giai đoạn này do nhu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, các công tác
cơ bản về điều tra y tế đã được đẩy mạnh, trong đó điều tra nhân trắc đã có
bước tiến đáng kể, toán học thống kê đã được vận dụng để nhận định kết quả
chính xác hơn (dẫn theo Nguyễn Trường An [1] ).
Vào các năm 1967, 1972 hai hội nghị toàn miền Bắc về hằng số sinh học
người Việt Nam đã được tổ chức, qua đó rất nhiều công trình nghiên cứu đươc
tổng kết và cuấn sách “Hằng số sinh học người Việt Nam”đã được xuất bản
[15]. Theo Nguyễn Tấn Gi Trọng thì đây là cuốn sách đầu tiên về hằng số sinh
học ở người Việt Nam, nó sẽ góp phần rất lớn giúp nâng cao chất lượng cho
công tác chẩn đoán, điều trị và theo dõi sức khỏe hàng ngày của người dân
nước ta trong giai đoạn này, vì trước kia các bác sĩ phải sử dụng các chỉ số sinh
học được nghiên cứu ở người châu Âu [15]. Đây được xem như là chuẩn mẫu
tham khảo đầu tiên của người Việt Nam ở hai thập kỷ 60 và 70.
13
Tuy nhiên đây là giai đoạn đất nước đang có triến tranh, các phương
tiện nghiên cứu, xử lý số liệu còn thiếu thốn nhiều và không đồng bộ, hơn nữa
các đối tượng đươc nghiên cứu lại chỉ là người miền Bắc nên tính đại diện của
hằng số sinh học chưa cao [14].
Tình hình nghiên cứu từ năm 1975 đến nay
Trên phạm vi toàn quốc đã có hai công trình lớn nghiên cứu về hình
thái, thể lực người trưởng thành, đó là:
Cuốn “Atlat nhân trắc học người Việt Nam trong lứa tuổi lao động”do
Viện Khoa Học Kỹ Thuật Bảo Hộ Lao Động đã xuất bản (Võ Hưng làm chủ
biên) [18]. Đây là một nghiên cứu có quy mô lớn, tiến hành trong 4 năm từ
1981 đến 1984, trên 13.223 người trưởng thành, (6493 nam và 6730 nữ), ở cả
ba miền Bắc, Trung, Nam; 5 nhóm tuổi được nghiên cứu là: 17-19; 20-29; 30-
39; 40-49; 50-55. Vì các đối tương được nghiên cứu hầu hết là công nhân
thuộc các nghành công nghiệp phổ biến trong cả nước nên các đối tượng
nghiên cứu vẫn phần nào mang tính chọn lọc, chưa thể đại diện một cách đầy
đủ cho người Việt Nam trưởng thành và cũng do mục tiêu ứng dụng vào thiết
kế dụng cụ và nơi làm việc nên các nghiên cứu trong công trình chủ yếu là về
tầm vóc cơ thể, ít đề cập đến các chỉ tiêu sinh học khác liên quan tới sức khỏe,
bệnh tật [20]. Tuy nhiên kết quả của công trình này được xem như là chuẩn
mẫu tham khảo thứ hai và là đại diện cho thập kỷ 80, kết quả cũng đã nêu lên
nhận định là có quy luật về gia tăng tầm vóc cơ thể theo thời gian so với thập
kỷ trước.
Công trình tiếp thứ hai được tiến hành trong thập kỷ 90, đây là một dự
án cấp nhà nước mang tên “Điều tra cơ bản một số chỉ tiêu sinh học người
Việt Nam bình thường ở thập kỷ 90”. Trong đó đề tài nghiên cứu về các chỉ
tiêu hình thái-thể lực, dinh dưỡng là một phần của dự án này. So với các
14
nghiên cứu về nhân trắc mang tầm cỡ quốc gia của thời kỳ trước thì đây là đề
tài nghiên cứu đầy đủ hơn cả, với số liệu nhân trắc lên tới hàng vạn, thu thập
ở 19 tỉnh thành phố trải khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Đề tài này gồm 12 đề
mục nghiên cứu và do GS-TS Trịnh Văn Minh làm chủ nhiệm. Trong đó tất
cả các đề mục nghiên cứu đều tuân thủ thống nhất về nội dung, kỹ thuật cũng
như phương pháp nghiên cứu, được đề ra trong “Mô hình nghiên cứu một số
chỉ tiêu nhân trắc cơ bản người Việt nam bình thường ở thập kỷ 90” do GS.
Trịnh Văn Minh thiết kế và đã đươc hội đồng cấp bộ thống nhất thông qua
vào năm 1993 [6]. Số liệu nghiên cứu được thống kê và đánh giá theo từng đề
mục ở từng vùng nghiên cứu [9]. Các kết quả nghiên cứu trên toàn quốc đã
được Trịnh Văn Minh chủ trì thực hiện, trong nhóm chỉ tiêu nhân trắc người
lớn đã nghiên cứu trên 43.991 người (21.443 nam; 22.548 nữ), mỗi đối tượng
được đo 10 kích thước nhân trắc cơ bản và 4 chỉ số hình thái thể lực được tính
toán. So với hai cuộc tổng điều tra ở thập kỷ 70 và 80 thì dự án điều tra cơ
bản nói chung và đề tài nhánh về “Các chỉ tiêu nhân trắc người Việt Nam
bình thường ở thập kỷ 90” nói riêng, đã có những đóng góp rất có giá trị cho
nghiên cứu nhân trắc như:
Đưa ra được cách phân chia nhóm tuổi rất thiết thực, giúp đánh giá được
chính xác hơn diễn biến các kích thước nhân trắc theo tuổi và đình điểm của
sự phát triển của các đối tượng được nghiên cứu, đó là phân chia tuổi nghiên
cứu từ 16-25 tuổi, mỗi năm là một nhóm tuổi [7]. Trong khi đó, cách phân
chia nhóm tuổi để nghiên cứu của cuốn Hằng số sinh học là gộp các tuổi giai
đoạn sau dậy thì làm một nhóm [15]; còn cuốn Atlat nhân trắc học thì phân
các đối tượng dưới 20 tuổi thành môt nhóm, những tuổi sau đó là 10 năm một
nhóm [18].
Đề tài đã đi sâu vào nghiên cứu các chỉ tiêu dinh dưỡng như: BMI, bề dày lớp
mỡ dưới da… mà các cuộc điều tra trước còn ít quan tâm.
15
Các kết quả nghiên cứu là một chuẩn tham khảo có gia trị cập nhật, làm cơ sở
tham khảo cho các nghiên cứu chuyên sâu và được xem như là chuẩn mẫu
tham khảo đại diện cho thập kỷ 90.
Ngoài hai cuộc tổng điều tra trên thì còn rất nhiều các công trình
nghiên cứu của rất nhiều tác giả khác nhau, dưới đây sẽ điểm qua một số công
trình giúp cho việc hoàn thành bản khóa luận.
Ở miền Nam, nhóm nghiên cứu gồm Nguyễn Thị Đoàn Hương, Lê
Tuyết Lan và cộng sự đã nghiên cứu trên 767 sinh viên (476 nam và 300 nữ)
của hai trường đại học ở Thành Phố Hồ Chí Minh là Đại học Y Dược và Đại
học Sư phạm kỹ thuật Thủ Đức (1979) [4]. Các tác giả đã rút ra một số kết
luận có ý nghĩa về sự phát triển tầm vóc và thể lực như:
Đỉnh cao về sự phát triển tầm vóc của nữ là ở tuổi 19-21, ở nam giới thì đỉnh
điểm của sự phát triển là ở tuổi 22-23.
So với kết quả của hằng số sinh học (1975), tất cả các kích thước nghiên cứu
của tác giả đều cao hơn và có xuất hiện quy luật gia tăng về chiều cao ở cả 2
giới từ 3-5cm.
Năm 1991, trong luận án Phó tiến sỹ Y học về “Đặc điểm hình thái thể
lực các nhóm dân tộc Ê-Đê, Xơ-Đăng, Ba-Na, Mơ-Nông ở Tây Nguyên” của
Mai Văn Thìn (1991). Tác giả đã rút ra những nhận định có giá trị về sự khác
biệt hình thái, thể lực giữa người Việt với các dân tộc và giữa các dân tộc với
nhau: Thể lực của nam Ê-Đê và nữ Mơ-Nông là lớn nhất so với các dân tộ
khác, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với P< 0,001; so với người Việt thì hầu
hết các kích thước của nam, nữ Tây Nguyên đều lớn hơn.
Ở miền Trung, năm 2004 Nguyễn Trường An đã nghiên cứu trên 8258
đối tượng (3950 nam và 4308 nữ), tuổi từ 15 trở lên, là cư dân của tỉnh Thừa
Thiên Huế và sinh viên của Đại học Huế (đến từ các tỉnh miền trung) [1].
Cách phân chia nhóm tuổi của các đối tượng được nghiên cứu tuân theo đề
16
nghị của GS. Trịnh Văn Minh [7]. Qua phân tích các kết quả thu thập được,
tác giả đưa nhận xét:
Thể lực của người trưởng thành miền Trung tương đương với miền Bắc, thấp
hơn người miền Nam và Tây Nguyên. Có sự khác biệt rõ rệt về thể lực giữa 2
khu vực nông thôn và thành thị của người miền Trung.
Xét về diễn biến chiều cao theo tuổi; ở nam giới, chiều cao tăng nhanh từ 15
đến 18 tuổi, tăng chậm lại cho đến 20 tuổi và ít nhiều dao động ở các tuổi từ
21 đến 24, sau đó chiều cao có xu hướng giảm dần nhẹ kéo dài từ 25 đến 59
tuổi và suy giảm mạnh rõ rệt ở tuổi ≥ 60. Ở nữ giới, chiều cao cũng tăng
nhanh từ tuổi 15 đến 18 nhưng tốc độ tăng nhỏ hơn nam, tương đối ổn định từ
18 đến 21 tuổi, sau đó có xu hướng giảm dần, có sự suy giảm rõ nét từ nhóm
tuổi 30-39 và giảm mạnh ở nhóm tuổi ≥ 60.
Ở miền Bắc, trong những năm đầu của thập kỷ 90, Nguyễn Hữu Chỉnh,
Nguyễn Thế Hùng… đã nghiên cứu về hình thái - thể lực của sinh viên của
đại học Y Hải Phòng, 495 sinh viên (264 nam và 231 nữ) đã được nghiên cứu
trong vòng 3 năm từ 1992-1994[2]. Qua đó tác giả đưa ra nhận xét là: Hình
thái, thể lực của các sinh viên đều cao hơn ít nhiều so với số liệu của hằng số
sinh học năm 1975.
Trong số rất nhiều các nghiên cứu ở miền Bắc thì nổi bật hơn cả là các
công trình nghiên cứu của nhóm tác giả Trịnh Văn Minh, Trần Sinh Vương,
…đã nghiên cứu hình thái thể lực của người trưởng thành ở các tỉnh đồng
bằng miền Bắc từ năm (1992-1997) [8], [9]. Qua cuộc điều tra thí điểm ở xã
Liên Ninh thuộc ngoại thành Hà Nội, Trịnh Văn Minh đã xây dựng mô hình
nghiên cứu được đưa ra trong “Nghiên cứu điều tra một số chỉ tiêu nhân trắc
cơ bản, để đánh giá tình trạng thể lực, dinh dưỡng và sự tăng trưởng người
Việt Nam bình thường trong giai đoạn hiện nay” [7], mô hình sau đó đã được
thống nhất sử dụng trong các nghiên cứu nhân trắc trên toàn quốc.
17
Năm 1994, Trịnh Văn Minh, Trần Sinh Vương và cộng sự đã điều tra
về một số chỉ tiêu nhân trắc cơ bản của cư dân trưởng thành phường Thượng
Đình và xã Định Công - Hà Nội [8]. Qua các kết quả thu được các tác giả đã
đưa ra nhận xét:
Sự phát triển chiều cao của nam giới đạt đỉnh điểm ở lớp tuổi 20-24, nữ giới
là ở tuổi 19-24. Ở cả hai giới chiều cao đều bắt đầu giảm từ lứa tuổi 30-39 (nữ
giảm nhanh hơn nam).
So với hằng số sinh học năm 1975 và Atlat nhân trắc năm 1986 thì các chỉ số
thể lực và dinh dưỡng của các đối tượng được nghiên cứu đều cao hơn hẳn.
Năm 2005, Trần Sinh Vương đã bảo vệ luận án tiến sĩ Y học về
“Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, thể lực, dinh dưỡng người Việt Nam
trưởng thành ở một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ”, tác giả đã nghiên cứu 7.968
đối tượng (3.769 nam và 4.199 nữ) là cư dân của các tỉnh đại diện cho vùng
đồng bằng Bắc Bộ, tuổi từ 16 trở lên, thuộc đủ mọi thành phần xã hội và
nghề nghiệp [20]. Công trình của tác giả đã nghiên cứu về nhiều chỉ số nhân
trắc khác nhau, giải quyết được những vấn đề quan trọng gây nhiều thắc mắc
mà trước đó chưa được lý giải. Trong phần nghiên cứu về đặc điểm hình thái,
tác giả có đưa ra nhận xét:
Thể lực của người trưởng thành khu vực đồng bằng Bắc Bộ thấp hơn so với người
trưởng thành ở các khu vực miền Trung, miền Nam và Tây Nguyên.
Chiều cao cơ thể của cả hai giới vẫn tiếp tục tăng trong giai đoạn sau dậy thì,
đạt đỉnh điểm vào độ tuổi 20-21 đối với nữ và 21-22 đối với nam. Sau 16 tuổi,
chiều cao cơ thể tăng chủ yếu là do tăng chiều cao ngồi. Từ tuổi 49 trở đi,
chiều cao cơ thể của cả hai giới đều giảm xuống.
Xuất hiện quy luật gia tăng chiều cao theo thời gian ở cả 2 giới trong độ tuổi từ
20-29 so với HSSH (1975) và Atlat nhân trắc (1986), chiều cao ở cả hai giới lần
lượt cao hơn khoảng 4 và 2 cm đối với nữ, 5 và 2cm đối với nam.
18
Những năm gần đây, Trần Sinh Vương đã có những nghiên cứu trên cư
dân địa bàn Hà Nội như:
Ở huyện Mỹ Đức, 3.027 đối tượng (nam 1.227 và nữ 1800) đã được
nghiên cứu [22], tác giả đã đưa ra kết quả bước đầu: Sau 16 tuổi, chiều cao
của cả nam và nữ tiếp tục tăng, đạt cao nhất ở tuổi 19 đối với nam (trung
bình: 165,51cm) và nữ là ở những tuổi 21-22 (trung bình: 154,82cm).
Ở huyện Ba Vì, nghiên cứu 3.004 người (1.429 nam và 1.575 nữ) [23],
kết quả bước đầu cho thấy: Sau dậy thì, chiều cao tiếp tục tăng dần theo tuổi ở
cả hai giới, đạt mức cao nhất đối với nam là ở tuổi 23-24 (trung
bình:165,31cm), ở nữ là tuổi 21 (trung bình: 154,45 cm).
Nhằm mục đích đánh giá sự biến đổi chiều cao ở người trưởng thành
sống tại Hà Nội, tác giả đã nghiên cứu trên 8.780 người (3728 nam và 5052
nữ) từ tuổi 16 trở lên [21], qua phân tích các kết quả thu được cho thấy: Sau
16 tuổi chiều cao của cả hai giới đều tiếp tục tăng dần và đạt cao nhất ở nam
giới tuổi 24 (167,31 ± 5.69 cm); với nữ là ở tuổi 21 (156,04 ± 4.38 cm). Sau
giai đoạn này, chiều cao khá ổn định và sau tuổi 39 thì chiều cao của cả hai
giới giảm đi rõ rệt.
Như vậy nhìn qua về các công trình nghiên cứu về nhân trắc của người
Việt Nam trưởng thành qua các giai đoạn có thể thấy tầm vóc, thể lực của
người dân nước ta đã tăng lên qua các giai đoạn. Nhìn chung, tầm vóc và thể
lực của người trưởng thành tăng dần từmiền Trung đến đồng bằng Bắc Bộ,
tiếp theo là miền Nam và cao nhất ở Tây Nguyên. Riêng về chiều cao, các
nghiên cứu đều cho thấy có quy luật gia tăng chiều cao cơ thể theo thời gian.
1.3. GIÁ TRỊ CỦA BMI VÀ TÌNH HÌNH ĐÁNH GIÁ DINH DƯỠNG Ở
NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH VIỆT NAM DỰA TRÊN BMI
1.3.1. Giá trị của BMI
BMI = cân nặng (kg) / chiều cao
2
(m) hay BMI = W / H
2
19
Trong đó: Weight (W) là cân nặng, height (H) là chiều cao.
1.3.1.1. BMI - chỉ số lý tưởng để đánh giá dinh dưỡng ở người trưởng thành
Trên thế giới, BMI là một chỉ số cơ bản đã được Tổ Chức Y Tế Thế Giới
(WHO) và Tổ Chức Nông Lương Thế Giới (FAO) công nhận là chỉ số lý tưởng
để đánh giá tình tạng dinh dưỡng ở cộng đồng người trưởng thành [26], [28].
WHO và FAO đã đưa ra hai tiêu chuẩn của một chỉ số lý tưởng (dẫn
theo Shetty và James [28]) là:
− Thứ nhất: phải tương tương quan tối đa với cân nặng.
− Thứ hai: phải tương quan tối thiểu với chiều cao (nghĩa là ít bị ảnh hưởng bởi
tầm vóc).
Ngoài ra, chỉ số đó phải dựa trên số đo đơn giản, có độ chính xác cao,
dễ thực hiện ở cộng đồng, đồng thời nó phải phản ánh tốt các chỉ tiêu dinh
dưỡng khác như: khối mỡ cơ thể, bề dày lớp mỡ dưới da… (dẫn theo Trần
Sinh Vương [20].)
Đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra được BMI thỏa mãn các yêu cầu trên:
BMI và mối tương quan với chiều cao, cân nặng:
Qua nhiều nghiên cứu khác nhau ở người trưởng thành thuộc các cộng
đồng dân cư khác nhau trên thế giới cho thấy: BMI có tương quan cao và ổn
định với cân nặng (r từ 0,83-0,95), không có tương quan với chiều cao (r thay
đổi từ -0,20-0,08) → Điều đó chứng tỏ BMI tương quan chặt chẽ với cân
nặng và tương đối độc lập với chiều cao (bảng 1.1). Do vậy BMI đã đáp ứng
được 2 tiêu chuẩn cơ bản cần phải có của một chỉ số lý tưởng.
Bảng 1.1 Tương quan của BMI với cân nặng và chiều cao qua một số
nghiên cứu (dẫn theo Shetty và James [28])
Chiều cao
-0,1-0,08
20
0,02 / 0,05
-0,20
-0,08
-0,03
-0,01/-0,12
-0,02/-0,12
-0,20
-0,17
-0,23/-0,09
-0,15
Chú thích:* 5 nhóm sắc tộc khác nhau
BMI liên quan với khối mỡ cơ thể và bề dày lớp mỡ dưới da:
Bằng cách so sánh giữa BMI và lượng mỡ cơ thể (được ước tính bằng
phương pháp đáng tin cậy là đo tỷ trọng), nhiều nghiên cứu khác nhau trên
các quần thể khác nhau đã chỉ ra rằng BMI có tương quan chặt chẽ với khối
mỡ cơ thể với r = 0,70-0,95. Đồng thời BMI cũng cho thấy BMI tương quan
chặt chẽ với tổng các nếp gấp da r = 0,61-0,95 theo số liệu của Keys và cộng
sự năm 1972 (dẫn theo Shetty và James [20]).
21
BMI liên quan với tình trạng kinh tế:
Fracois (1989), Gracia và Alderman (1991), Ferro - Luzzi và cộng sự
(1992) cho biết có sự liên quan khá rõ rệt giữa BMI và mức thu nhập của các
đối tượng được nghiên cứu. Kết quả nghiên tại Brazil cho thấy: tỷ lệ % người
béo phì (BMI > 27) của những người có thu nhập cao (> 2500 USD/năm) cao
hơn hẳn so với người có thu nhập thấp (< 160 USD/năm); ngược lại tỷ lệ %
người thiếu cân (BMI< 18,5) ở những người thu nhập thấp cao hơn hẳn những
người có thu nhập cao.
Tuy nhiên việc sử dụng BMI là chỉ báo về tình trạng kinh tế là khó
khăn, đặc biệt là ở các nước công nghiệp phát triển vì : mô hình ăn uống, hoạt
động thể lực, kiến thức, thái độ và sự quan tâm của người dân với kích thước
và vóc dáng cơ thể của họ là rất khác nhau. Đối với các nước đang phát triển
thì việc diễn giải kinh tế dựa vào BMI có dễ dàng hơn so với các nước công
nghiệp phát triển (dẫn theo Trần Sinh Vương [20]).
BMI liên quan với một số chỉ số sinh hóa:
Một số chỉ số sinh hóa mà chủ yếu là lipid máu, đường máu có liên
quan chặt chẽ với BMI. Các chỉ số này là chỉ báo nguy cơ của một số bệnh
mạn tính như: bệnh béo phì, đái tháo đường, bệnh lý mạch vành,… Căn cứ
vào sự liên quan giữa BMI và các yếu tố nguy cơ để xác lập thang phân loại:
béo phì, thừa cân hay thiếu năng lượng trường diễn của BMI [24], [26], [27].
Ở Việt Nam, Trần Sinh Vương qua các nghiên cứu [19], [20], đã đưa ra
kết quả về mối tương quan giữa BMI với cân nặng và chiều cao và khối mỡ
cơ thể như sau:
− BMI tương quan chặt chẽ với cân nặng ở tất cả các nhóm tuổi, ở cả hai giới
(với nam, r trong khoảng từ 0,77-0,88 và với nữ là từ 0,79-0,89).
− BMI độc lập với chiều cao ở cả hai giới trong tất cả các nhóm tuổi nghiên
cứu, hệ số tương quan (r) giữa BMI với chiều cao ở tất cả các nhóm tuổi của
22
cả hai giới đều nhỏ hơn 0,3. Giá trị tuyệt đối của hệ số tương quan cao nhất ở
lứa tuổi ≥ 60, nam chỉ là 0,09 và nữ là 0,18.
− BMI phản ánh tốt khối mỡ cơ thể, BMI tương quan chặt chẽ với khối mỡ cơ
thể ở cả hai giới, ở tất cả các nhóm tuổi, chỉ trừ nhóm tuổi 20-29 là tương
quan BMI với khối mỡ cơ thể ở mức trung bình (r = 0,58) nhưng cũng gần
với ngưỡng tương quan chặt (r ≥ 0,60).
Qua đó tác giả đã đưa ra kết luận: BMI là một chỉ số lý tưởng để đánh
giá dinh dưỡng ở cộng đồng người Việt Nam trưởng thành.
1.3.1.2. Một số thang phân loại béo gầy dựa trên BMI:
Năm 1986 WHO đã đưa ra thang phân loại BMI - Bảng 1.2 (dẫn theo
Hà Huy Khôi [5]).
Bảng 1.2. Thang phân loại BMI của WHO năm 1986
Bình thường
18,1-18,6
20,1-25
18,7-23,8
Tiếp sau đó, năm 1988 nhóm chuyên gia về nhu cầu năng lượng (James
W.P.T, Ferro - Luzzi và Waterlow J.C) đã đề nghị thang phân loại BMI -
Bảng 1.3 (dẫn theo Trần Đình Toán [13]).
23
Bảng 1.3. Thang phân loại BMI của James, Ferro - Luzzi và Waterlow
năm 1988
Khoảng BMI Độ béo gầy
< 16
16-16,9
17-18,4
18,5-24,9
25-29,9
30-39,9
≥ 40
CED độ 3
CED độ 2
CED độ 1
bình thường
béo phì độ 1
béo phì độ 2
béo phì độ 3
CED = Chronic Energy Defficiency = Thiếu năng lượng trường diễn
Năm 2000, Hội Đái Tháo Đường Châu Á đưa ra thang phân loại BMI
của người Châu Á - Bảng 1.4
Bảng 1.4. Thang phân loại BMI của Hội Đái Tháo Đường Châu Á năm
2000 (dẫn theo Viện Dinh Dưỡng [16])
Khoảng BMI Độ béo gầy
< 16
16-16,9
17-18,4
18,5-22,9
23-24,9
25-29,9
30-34,9
≥ 35
CED độ 3
CED độ 2
CED độ 1
bình thường
thừa cân
béo phì độ 1
béo phì độ 2
béo phì độ 3
24
1.3.2. Tình hình đánh giá dinh dưỡng ở người trưởng thành Việt Nam
dựa trên BMI
Sau khi WHO đưa ra thang phân loại để đánh giá dinh dưỡng, thì ở hầu
hết các công trình nghiên cứu đều sử dụng BMI là một chỉ tiêu để đánh giá
dinh dưỡng, ngoài ra cũng có một số công trình nghiên cứu mối liên quan
giữa BMI với một số chỉ số hóa sinh dinh dưỡng, với tình trạng kinh tế, với
khẩu phần ăn.
Về đánh gía dinh dưỡng, rất nhiều các công trình nghiên cứu đã sử dụng
BMI để đánh giá đối với cộng đồng người trưởng thành như Trịnh Văn Minh,
Trần Sinh Vương và cộng sự nghiên cứu tình trạng dinh dưỡng ở người trưởng
thành khu vực đồng bằng Bắc Bộ [9], [20]; Nguyễn Trường An nghiên cứu tình
trạng dinh dưỡng của người miền trung [1]; Hà Huy Khôi, Từ Giấy nghiên cứu
tình trạng dinh dưỡng ở người trưởng thành [25]; Viện Dinh Dưỡng đánh giá
tình trạng dinh dưỡng của người Việt Nam qua cuộc tổng diều tra dinh dưỡng
năm 2000 [16]… Các nghiên cứu trước đây đều sử dụng thang phân loại BMI
chung của WHO để đánh giá dinh dưỡng, những nghiên cứu gần đây có sử
dụng thang phân loại BMI của người Châu Á như nghiên cứu của Viện Dinh
Dưỡng [16], các nghiên cứu của Trần Sinh Vương [20], [22],…
Ngoài ra có còn một số công trình nghiên cứu mối liên quan giữa BMI
với tình trạng kinh tế, khẩu phần ăn, với một số chỉ số sinh hóa cơ bản như:
công trình của Viện Dinh Dưỡng trong cuộc tổng điều tra dinh dưỡng năm
2000 [16], công trình của Hà Huy Khôi, Tứ Giấy [25], Trần Đình Toán
nghiên cứu về mối liên quan của BMI với một số chỉ tiêu sinh hóa như đường
máu, lipid máu…[16].
Như vậy có thể thấy: BMI là một chỉ số lý tưởng để đánh giá dinh
dưỡng cộng đồng ở người trưởng thành. Việc sử dụng BMI là một chỉ tiêu để
đánh giá dinh dưỡng đều có mặt trong hầu hết các nghiên cứu về nhân trắc
cũng như các nghiên cứu về dinh dưỡng và sức khỏe, bệnh tật có liên quan
đến tình trạng dinh dưỡng.
25
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn mẫu
− Đối tượng nghiên cứu là người Việt Nam bình thường về mặt nhân trắc [7],
[11], [14], cụ thể như sau:
o Không có những dị dạng, dị tật bẩm sinh hay mắc phải mà gây ảnh hưởng tới
các kích thước nhân trắc như: (gù, vẹo , thọt, teo cơ,…)
o Không có các bệnh cấp hay mãn tính hoặc ở trong tình trạng làm ảnh hưởng
tới các kích thước cần đo, như: (hen, lao, phù, phụ nữ có thai…)
o Hợp tác tốt khi đo
− Địa điểm nghiên cứu: Quận Đống Đa - Hà Nội
− Tuổi và nghề nghiệp:
o Tuổi từ 16 trở lên, với đủ mọi thành phần xã hội và nghề ngiệp, như: công
nhân, công chức, học sinh, sinh viên, hưu trí, doanh nhân…
o Tuổi đươc tính và phân chia theo mô hình nghiên cứu của dự án điều tra cơ
bản [7] (xem ở phần phương pháp nghiên cứu).
2.1.2. Số lượng đối tượng nghiên cứu
Sau khi loại bỏ những trường hợp sai sót, bất thường, nhầm lẫn, tổng số
đối tượng nghiên cứu gồm: 2927 người (1.217 nam và 1710 nữ), được phân
chia theo tuổi và giới như sau